Cập nhật nội dung chi tiết về Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hóa, Con Người Vì Sự Phát Triển Bền Vững Ở Lai Châu mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
S au khi Nghị quyết số 33-NQ/TW của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI về(Nghị quyết 33) được ban hành, Tỉnh ủy Lai Châu đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng quán triệt và thực hiện nghiêm, tích cực. Cùng với việc chỉ đạo “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” UBND tỉnh xây dựng kế hoạch, chương trình hành động thực hiện, Tỉnh ủy đã khẩn trương lãnh đạo Hội đồng nhân dân ban hành Nghị quyết cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp, chương trình, kế hoạch về xây dựng và triển văn hóa, con người Lai Châu.
C ấp ủy đảng và chính quyền các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, cụ thể hóa các chỉ tiêu phát triển văn hóa, con người trong kế hoạch thực hiện nhiệm vụ chính trị hằng năm đảm bảo phù hợp với tình hình, điều kiện của địa phương, đơn vị.
Công t ác tuyên truyền được triển khai toàn diện thông qua nhiều hình thức như: lồng ghép trong hội nghị báo cáo viên các cấp, hội nghị giao ban; sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt đoàn thể; tổ chức tập huấn, hội thảo; thông qua các hội thi, hoạt động văn hóa, văn nghệ; tuyên truyền lưu động, tuyên truyền qua hệ thống truyền thanh không dây, tuyên truyền trực quan… Qua đó đã nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong tỉnh về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Lai Châu vì mục tiêu phát toàn diện, bền vững.
Đảng bộ tỉnh tập trung đẩy mạnh giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lý tưởng cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, đơn vị gắn với các phong trào thi đua yêu nước và cuộc vận động do các ngành, các cấp phát động. Coi trọng thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành công tác thường xuyên gắn với nhiệm vụ chính trị, nhất là gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với công tác y tế, dân số, gia đình, thể dục, thể thao, giảm nghèo bền vững…
Bên cạnh đó, Đảng bộ tỉnh chú trọng xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong cộng đồng dân cư, cơ quan, trường học, tạo môi trường văn hóa trong giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, lối sống. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được các cấp ủy gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
Cùng với chú trọng xây dựng nếp sống văn minh, tiến bộ, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội, tỉnh đã tăng cường sưu tầm, phục dựng, tổ chức các lễ hội, bảo tồn tư liệu lịch sử, giá trị văn hóa các dân tộc gắn với phát triển du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng; bảo tồn và phát huy bản sắc, di sản văn hóa các dân tộc; quan tâm đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa ở cơ sở.
Các cấp ủy, chính quyền, cơ quan chức năng trên địa bàn tích cực thực hiện việc quản lý có chất lượng, hiệu quả các loại hình thông tin, mạng xã hội; kịp thời định hướng tư tưởng, dư luận xã hội, nhất là trong thanh thiếu nhi; tăng cường tuyên truyền, vận động, giáo dục nhân cách, lối sống trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, gắn với xây dựng, phát triển văn hóa, con người Lai Châu.
Đến hết năm 2019, Lai Châu có 17/98 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; 777/1.140 bản, khu phố được công nhận danh hiệu văn hóa; 74.778/94.328 hộ gia đình được công nhận danh hiệu gia đình văn hóa; 954/1.007 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp được công nhận văn hóa; 94,7% số bản, khu phố, tổ dân phố xây dựng, ban hành và thực hiện hương ước, quy ước theo đúng quy định. Tỉnh đã quy hoạch 80ha quỹ đất phục vụ xây dựng các thiết chế văn hóa, thể dục thể thao ở xã phường, thị trấn. Toàn tỉnh có 31.000 hiện vật được lưu giữ, 26 di tích được xếp hạng và 1 bảo vật quốc gia.
Các hoạt động giao lưu văn hóa trên địa bàn tỉnh được quan tâm lãnh đạo, thực hiện có hiệu quả, tạo điều kiện cho nhân dân được giao lưu, tiếp xúc, tiếp thu những giá trị văn truyền thống, đặc sắc của các vùng miền trong nước và các nước láng giềng; góp phần làm phong phú thêm văn hóa các dân tộc trong tỉnh, đồng thời tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu về miền đất, văn hóa, con người Lai Châu tới bạn bè quốc tế và các địa phương trong cả nước. Tiêu biểu là các hoạt động: Giao lưu văn hóa giữa Lai Châu với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) và 3 tỉnh Bắc Lào; Ngày hội văn hóa, thể thao, du lịch các dân tộc Tây Bắc; Ngày hội Văn hóa dân tộc Mông, dân tộc Dao, dân tộc Thái toàn quốc; Làng văn hóa – du lịch các dân tộc Việt Nam; Ngày hội “Sắc xuân trên mọi miền Tổ quốc”; “Tuần văn hóa du lịch di sản xanh – nơi gặp gỡ con người và thiên nhiên”; Sắc màu văn hóa các dân tộc…
Bên cạnh những kết quả, thành tích đạt được, việc triển khai thực hiện Nghị quyết 33 của Đảng bộ tỉnh Lai Châu vẫn còn những hạn chế, bất cập, thể hiện trên một số nội dung, như: việc tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết của một số cấp ủy đảng, chính quyền còn chưa thường xuyên, thiếu toàn diện; việc cụ thể hóa chủ trương của Đảng còn chậm, thiếu cụ thể, chưa sát với điều kiện thực tiễn. Việc xây dựng các các tiêu chí về phẩm chất đặc trưng, cơ bản của con người Lai Châu trong thời kỳ mới để tuyên truyền, giáo dục trong cán bộ, đảng viên và nhân dân của cơ quan chuyên môn chưa kịp thời.
Công tác bảo tồn và phát huy các di sản lịch sử, văn hóa, nhất là đối với các di sản văn hóa phi vật thể, các loại hình nghệ thuật truyền thống gặp nhiều khó khăn. Việc tôn tạo, phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch, dịch vụ thực hiện chưa hiệu quả. Chất lượng các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa còn hạn chế, chưa khai thác được các giá trị về bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số mà có chiều hướng đang làm mất dần đi các bản sắc đó, là cho nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân bị mai một.
Hệ thống các thiết chế văn hóa mới được xây dựng từ tỉnh đến cơ sở bộc lộ nhiều bất cập, thiếu phù hợp với nhu cầu và truyền thống văn hóa của địa phương, nhất là ở các thôn, bản thuộc dân tộc ít người.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở một số địa phương, đơn vị còn mang tính hình thức, thiếu bền vững. Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang có nơi còn hạn chế do một số hủ tục lạc hậu chưa được khắc phục. Tình trạng tảo hôn, tệ nạn xã hội ở một số nơi, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số vẫn còn; khoảng cách chênh lệch về điều kiện hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các bộ phận dân cư, các dân tộc thiểu số của tỉnh vẫn còn khá phổ biến.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế, yếu kém trên là do nhận thức của cấp ủy các cấp chưa đồng đều; một bộ phận người dân trong tỉnh chưa nhận thức rõ các giá trị văn hóa để đổi mới và phát triển, trong khi sự quan tâm đầu tư cho văn hóa chưa đảm bảo đáp ứng với yêu cầu đề ra. Công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa còn nhiều hạn chế, chủ yếu vẫn còn mang nặng tính bao cấp, ỷ lại cho nhà nước. Công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa từ tỉnh đến cơ sở chưa được quan tâm đúng mức; còn thiếu các trí thức, văn nghệ sĩ có trình độ cao, tài năng trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Sự phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành, địa phương trong thực hiện Nghị quyết 33 có lúc chưa thường xuyên, thiếu kịp thời, hiệu quả chưa cao; công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc, nắm tình hình có thời điểm chưa sâu sát.
TIẾP TỤC THỰC HIỆN NHỮNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM
Trong thời gian tới, Đảng bộ tỉnh Lai Châu tiếp tục kiên trì thực hiện và đổi mới sáng tạo một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của Nghị quyết 33 trong công cuộc đổi mới hiện nay. Rà soát, bổ sung và điều chỉnh các quy hoạch, kế hoạch phát triển văn hóa phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương. Mở rộng và phát triển các dịch vụ văn hóa, khai thác các giá trị bản sắc văn hóa để phát triển du lịch, dịch vụ, tương xứng là ngành kinh tế mũi nhọ của tỉnh. Đa dạng hóa các sản phẩm văn hóa gắn với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc.
Kiên quyết ngăn chặn hành vi lợi dụng phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội để du nhập các sản phẩm, loại hình văn hóa thiếu lành mạnh, trái thuần phong mỹ tục, các thông tin xấu, độc ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội của nhân dân trong tỉnh.
gắn kết chặt chẽ phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” với “Phong trào xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” đi vào chiều sâu, thực chất. Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện xây dựng nếp sống văn minh, đời sống văn hóa; phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của đội ngũ già làng, trưởng dòng họ, người có uy tín trong nhân dân.
tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hóa, nhất là việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền thống gắn với phát triển các loại hình du lịch, dịch vụ, không để xảy ra tình trạng thương mại hóa hoạt động văn hóa. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa từ tỉnh đến cơ sở. Quan tâm bố trí kinh phí phục vụ sự nghiệp văn hóa, thể thao. Ưu tiên đầu tư xây dựng thiết chế văn hóa ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Đẩy mạnh xã hội hóa huy động mọi nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và tổ chức các hoạt động văn hóa. Ưu tiên dành quỹ đất quy hoạch các thiết chế văn hóa, khu vui chơi giải trí cho trẻ em, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của người dân.
tiếp tục quan tâm bảo tồn và phát huy các di tích lịch sử văn hóa, các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Nâng cao chất lượng hoạt động sáng tác các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Tăng cường giao lưu, hợp tác văn hóa trong nước, khu vực và trên thế giới. Tăng cường công tác kiểm tra, khảo sát, nắm tình hình; tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nêu gương người tốt, việc tốt; kịp thời khen thưởng các tập thể, cá nhân điển hình trong thực hiện các phong trào văn hóa và xã hội hóa các hoạt động văn hóa./.
Xây Dựng, Phát Triển Văn Hóa Con Người Đáp Ứng Yêu Cầu Phát Triển Bền Vững Đất Nước
(Thanhuytphcm.vn) – “TPHCM nên có chương trình đối thoại văn hóa định kỳ trên báo đài, các phương tiện truyền thông đại chúng, hàng quý hoặc hàng tháng, giữa lãnh đạo TP với những người làm văn hóa, giữa mọi ngành, mọi giới, mọi đối tượng…” – đó là ý kiến chỉ đạo của Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TPHCM Nguyễn Thiện Nhân tại Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” vào chiều 9/9.
Dự Hội nghị còn có các đồng chí: Trần Lưu Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy TPHCM; Nguyễn Thị Lệ, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch HĐND TPHCM; Võ Thị Dung, Phó Bí thư Thành ủy TPHCM; Lê Thanh Liêm, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND TPHCM; Đặng Mạnh Trung, Vụ trưởng, Trưởng Cơ quan thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương khu vực phía Nam, cùng lãnh đạo các sở ngành, quận huyện, đoàn thể TP…
Luôn xem trọng nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hoá
Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết 33 của TP, Phó Chủ tịch Thường trực UBND TPHCM Lê Thanh Liêm cho biết, với vị trí, vai trò và thành tựu một đô thị đặc biệt qua 300 năm hình thành và phát triển, có vị trí chính trị quan trọng, trung tâm về nhiều mặt của đất nước, là đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế, có sức thu hút và lan toả, đồng thời quán triệt quan điểm văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển bền vững đất nước, TPHCM luôn xem trọng nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hoá, xác định: “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội”.
Cụ thể, Thành ủy TPHCM đã ban hành Chương trình hành động động số 45-Ctr/TU và UBND TP đã triển khai thành 8 chương trình cụ thể: “Phát động phong trào xây dựng Gia đình văn hóa gắn liền với xây dựng con người văn hóa”, “Xây dựng tiêu chí – phẩm chất đặc trưng công dân TPHCM: Văn minh – Lịch sự – Nhân ái – Nghĩa tình”, “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”, “Xây dựng văn hóa trong chính trị”, “Xây dựng văn hóa kinh tế – doanh nghiệp”, “Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa”, “Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa”, và “Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại”.
Qua 5 năm đã đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận. Việc xây dựng con người TP với tư tưởng đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá lành mạnh trong xã hội đồng thời mang những nét đặc trưng nhân ái, nghĩa tình là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, cơ bản, lâu dài của Đảng bộ và chính quyền TP; trước hết là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự gương mẫu về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thực hành tiết kiệm, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
TP cũng đã xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nề nếp, ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau góp phần phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội được quan tâm, tạo dư luận đồng tình và hưởng ứng; từng bước phát triển công nghiệp văn hóa, gắn hoạt động du lịch với quảng bá hình ảnh, văn hóa, con người TP.
Ngoài ra, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, lễ hội diễn ra phong phú, đa dạng với nhiều chương trình nghệ thuật quy mô, chất lượng, vừa thực hiện nhiệm vụ chính trị, vừa đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của công chúng, thu hút sự quan tâm của du khách đến TP (như: Hội Sách TPHCM, Đường hoa – Đường sách Nguyễn Huệ, Lễ hội Nghinh Ông Cần Giờ, Lễ hội Nguyên tiêu Quận 5…).
Xây dựng hoạt động nuôi dưỡng đời sống văn hóa mang dấu ấn TP
Ghi nhận những kết quả TP đạt được sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 33, Bí thư Thành ủy TPHCM Nguyễn Thiện Nhân cũng chỉ ra hạn chế – đặc biệt từ sự suy thoái về đạo đức khi những hành vi suy thoái đã không bị lên án và chế tài đủ mức để đủ sức răn đe – khiến thành quả trên lĩnh vực văn hóa của TP vẫn chưa tương xứng, chưa bắt kịp với thành tựu trên nhiều lĩnh vực khác, chưa đúng với tiềm lực và kỳ vọng của chính TP.
Kiến nghị một kênh đối thoại văn hóa định kỳ, Bí thư Thành ủy TPHCM Nguyễn Thiện Nhân cũng đề xuất các nội dung để các ngành, các cấp có thể đưa ra đối thoại, cùng tìm giải pháp căn cơ. Đó là: giáo dục và văn hóa, giáo dục để phát triển toàn diện con người từ trong nhà trường; điều kiện phát triển văn học nghệ thuật TP; xây dựng hoạt động nuôi dưỡng đời sống văn hóa TP lâu dài, mang dấu ấn TP; gia đình trong cuộc sống người Việt Nam; phê phán tình trạng suy thoái đạo đức; vấn đề văn hóa dân tộc và hội nhập; phát huy, bồi dưỡng nhân tài cho TP; cuộc sống đồng bào người Hoa, người Khmer… tại TP – nhằm khẳng định sự hiện diện, đóng góp của đồng bào người Hoa, người Khmer và các cộng đồng dân tộc ít người ở TP, khẳng định thế mạnh đa văn hóa, đa tôn giáo trong quá trình phát triển của TP…
Về mặt xây dựng và phát triển con người, Bí thư Thành ủy TPHCM Nguyễn Thiện Nhân cho rằng đất nước sẽ phát triển bền vững, sánh vai với các cường quốc 5 châu khi người Việt Nam xây dựng và phát huy các thuộc tính từ truyền thống dân tộc, là: “yêu nước, trung thực, nghĩa tình, cần cù, dũng cảm, đoàn kết, nam nữ bình quyền, gia đình là nền tảng xã hội, truyền thống sáng tạo” và bổ sung được tinh thần “thượng tôn pháp luật”.
Dịp này, UBND TPHCM cũng tặng Bằng khen cho 86 tập thể thực hiện tốt Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” trong 5 năm qua.
Giải Pháp Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hóa, Con Người Đồng Nai Phát Triển Toàn Diện, Đáp Ứng Yêu Cầu Phát Triển Bền Vững
Đồng Nai là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có diện tích 5.903,940 km 2. Dân số toàn tỉnh trên 2,7 triệu người, là tỉnh đa dân tộc, đa tôn giáo (31 thành phần dân tộc, 62% đồng bào có đạo), là địa phương giàu truyền thống đấu tranh cách mạng, ghi nhận nhiều sự kiện lịch sử quan trọng như: Nơi ra đời tổ chức Cộng sản đầu tiên ở miền Đông Nam bộ (Chi bộ Đông Dương Cộng sản đảng ở Phú Riềng tháng 10/1929), nơi ra đời Trung ương Cục miền Nam (Chiến khu Đ tháng 01/1961), nơi diễn ra trận đánh Mỹ đầu tiên ở miền Nam (trận Nhà Xanh ngày 07/7/1959) và nhiều chiến thắng vang dội khác đã trở thành giá trị truyền thống lịch sử, nền tảng tinh thần để cán bộ, đảng viên và nhân dân Đồng Nai vượt khó vươn lên trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Giám đốc Sở Văn hóa, thể thao – du lịch Lê Kim Bằng trình bày tham luận tại đại hội.
Vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai là nơi bảo tồn, phát huy và tôn vinh nhiều giá trị văn hóa với sự hình thành Văn miếu Trấn Biên – Văn miếu đầu tiên của xứ Đàng Trong. Đây là nơi hội tụ nhiều nét đặc sắc của văn hóa các tộc người được phát triển qua các lễ hội truyền thống, tín ngưỡng dân gian như: Lễ hội Kỳ Yên ở các đình miếu của người Việt, lễ đâm trâu của người Mạ, lễ cúng Thần lúa của người Chơro, Tả tài phán của người Hoa…, phản ảnh đa dạng đời sống văn hóa của cư dân Đồng Nai. Với trên 1.800 di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc, mỹ thuật, trong đó có 50 di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh được xếp hạng (1 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 28 di tích cấp quốc gia, 21 di tích cấp tỉnh). Đặc biệt, các di tích khảo cổ học thời tiền sử – sơ sử ở Đồng Nai được khai quật và hệ thống các giá trị văn hóa phi vật thể đã được điều tra nghiên cứu đã chứng tỏ bản sắc văn hóa phong phú, đa dạng của cộng đồng các dân tộc đang sinh sống trên địa bàn tỉnh.
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Đồng Nai đã đạt được những thành tựu đáng kể, đó là:
– Nhận thức của hầu hết cấp ủy, cơ quan và cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vai trò, vị trí của văn hóa được nâng lên; từng cấp, từng ngành xác định rõ nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa nên đã đưa nội dung này vào chỉ tiêu, nghị quyết, kế hoạch công tác hàng năm để triển khai thực hiện.
– Công tác chỉ đạo kịp thời của các cấp ủy và cụ thể hóa bằng các quy định của UBND tỉnh đã tác động mạnh mẽ đến quá trình xây dựng con người mới ở Đồng Nai với những đức tính tốt đẹp, tư tưởng đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, đã thúc đẩy phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, gắn với xây dựng nông thôn mới ngày càng chuyển biến tích cực, góp phần hạn chế, đẩy lùi tiêu cực, tệ nạn xã hội.
– Công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa được tăng cường các chính sách, quy định, quy hoạch, định hướng, giúp cho các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa đi đúng hướng và chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật. Các hành vi vi phạm được xử lý kịp thời.
– Sự quan tâm của Tỉnh ủy, UBND tỉnh đầu tư ngân sách cho hoạt động văn hóa, thể thao, văn học nghệ thuật đã từng bước hình thành hệ thống thiết chế văn hóa thể thao từ tỉnh đến cơ sở, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng nông thôn khó khăn. Nhiều đề án, công trình văn hóa, đề tài nghiên cứu về văn hóa vật thể, phi vật thể, bảo tồn các giá trị văn hóa nghệ thuật trên địa bàn tỉnh được triển khai thực hiện.
– Thực hiện tốt quy hoạch phát triển sự nghiệp văn hóa gắn với đề án phát triển văn hóa nông thôn và các chương trình mục tiêu về văn hóa đã phát huy thế mạnh từng chương trình và là tiền đề cơ bản cho kế họach đầu tư ngân sách phát triển các cơ sở hạ tầng, công trình văn hóa, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng, số lượng và hiệu quả của các hoạt động văn hóa.
– Việc trùng tu, tôn tạo và phát huy các giá trị di tích đạt được một số kết quả khả quan, đáng kể, đã động viên được các thành phần kinh tế và nhân dân tham gia xã hội hóa, góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.
– Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tiếp tục phát triển trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, góp phần đẩy lùi các nếp sống lạc hậu, hạn chế tiêu cực, tệ nạn xã hội.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, cũng còn một số tồn tại, hạn chế, đó là:
– Một bộ phận công chức, viên chức, cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống. Một bộ phận thanh niên, học sinh thiếu rèn luyện, ít tìm hiểu về lịch sử dân tộc, phai nhạt lý tưởng, chạy theo lợi ích trước mắt, thiếu niềm tin vào chủ nghĩa xã hội.
– Việc xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa của tỉnh vẫn còn hạn chế, chưa đồng bộ với phát triển kinh tế, chưa thật sự tương xứng với yêu cầu phát triển chung ở một tỉnh có tiềm năng phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Chưa giới thiệu nhiều nét đặc sắc của văn hóa địa phương trong quá trình tham gia hội nhập khu vực và quốc tế. Việc cưới văn minh, tiết kiệm chưa được thực hiện sâu rộng; tình trạng rải vàng mã làm ô nhiễm môi trường và mất mỹ quan đô thị chưa được khắc phục triệt để.
– Bảo tồn, khai thác vốn di sản văn hóa truyền thống đang gặp nhiều khó khăn, hạn chế về thiết chế, nhân lực, việc gắn kết các di tích với hoạt động du lịch nhằm phát huy giá trị văn hóa truyền thống chưa đạt hiệu quả cao; một số bản sắc văn hóa dân tộc (nếp sống sinh hoạt, trang phục, ngôn ngữ,…) có nguy cơ bị mai một, lai căng. Vai trò của văn hóa trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo chưa được đề cao; một số người lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng của Nhà nước tổ chức kinh doanh văn hóa vụ lợi và truyền bá mê tín dị đoan tại một số cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo. Việc phát huy giá trị của di sản, trong đó có việc cưới, việc tang, lễ hội, có biểu hiện lệch lạc và bị lợi dụng để “thương mại hóa”, biến tướng thành hoạt động mê tín dị đoan.
– Đầu tư cho phát triển văn hóa chưa đồng bộ với phát triển kinh tế và chưa tương xứng với yêu cầu phát triển của xã hội. Hoạt động xã hội hóa văn hóa chưa được đẩy mạnh, chính sách khuyến khích nguồn lực trong và ngoài tỉnh chưa đủ mạnh để thu hút các nhà đầu tư phát triển những khu văn hóa quy mô, hiện đại hoặc tổ chức những hoạt động văn hóa tầm cỡ khu vực. Việc đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa lớn ở cấp tỉnh còn chậm, thiết chế văn hóa cấp huyện chưa đa dạng, cấp xã, cấp ấp cũng còn khó khăn.
– Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đã phát triển trên diện rộng, nhưng vẫn còn hiện tượng chạy theo thành tích; số lượng gia đình văn hóa đạt tỷ lệ cao nhưng tệ nạn xã hội như cờ bạc, số đề, buôn bán, sử dụng ma túy,… vẫn còn tồn tại và có nơi có chiều hướng gia tăng. Nhiều ấp, khu phố không giữ vững được danh hiệu ấp, khu phố văn hóa liên tục nhiều năm liền.
– Việc triển khai thực hiện và chấp hành các quy định về hoạt động văn hóa còn lỏng lẻo, nhất là ở cơ sở. Việc kiểm tra, xử lý sai phạm chưa thường xuyên, kịp thời. Việc triển khai thực hiện các chính sách kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, xã hội hóa hoạt động văn hóa,.. còn hạn chế, vẫn còn doanh nghiệp chưa quan tâm đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa phục vụ đời sống tinh thần của công nhân lao động, chưa khai thác nhiều các nguồn lực xã hội hóa, chưa có nhiều công trình văn hóa quy mô lớn, hiện đại.
– Công tác đào tạo cán bộ văn hóa còn thiếu tính chiến lược, tính hệ thống nên chưa đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa thời hội nhập. Bộ máy quản lý văn hóa thiếu ổn định, nhất là cấp huyện và cơ sở.
Đánh giá đúng thực trạng đời sống văn hóa trên địa bàn tỉnh Đồng Nai là cơ sở để đề ra những giải pháp cụ thể nhằm xây dựng và phát triển văn hoá, con người Đồng Nai phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu bền vững trong thời gian tới, trong đó cần tập trung thực hiện những giải pháp sau đây:
1. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa
– Nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Đồng Nai, xác định đây là nhiệm vụ quan trọng trong suốt thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng tỉnh Đồng Nai phát triển toàn diện và bền vững.
+ Các cơ quan truyền thông đại chúng, trang web, bản tin, tăng cường công tác quản lý nhà nước để báo chí, xuất bản hoạt động đúng pháp luật, đúng định hướng, có hiệu quả. Thường xuyên tuyên truyền, tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm về vị trí, vai trò, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nông thôn mới.
+ Đưa các chỉ tiêu cụ thể về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Đồng Nai vào kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa xã hội hàng năm, từng nhiệm kỳ Đại hội Đảng các cấp, chính quyền, đoàn thể chính trị.
– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa, văn học – nghệ thuật. Tăng cường định hướng chính trị, tư tưởng cho văn hóa, báo chí, văn học – nghệ thuật. Phát huy tính tự giác, ý thức, trách nhiệm công dân của văn nghệ sỹ trên cơ sở mục đích đúng đắn, hướng tới chân – thiện – mỹ. Phát huy vai trò của tổ chức Đảng trong cơ quan văn hóa, Đảng đoàn văn học nghệ thuật tỉnh.
– Xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong các cơ quan Đảng, Nhà nước. Giữ gìn đạo đức, lối sống lành mạnh trong cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên, hội viên.
– Thường xuyên đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa
– Các cấp chính quyền phải tổ chức thực hiện nghiêm các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa trên địa bàn tỉnh.
– Xử lý hài hòa mối quan hệ giữa kinh tế với văn hóa. Trong phát triển kinh tế phải đảm bảo yếu tố văn hóa, trong phát triển văn hóa phải tính đến yếu tố kinh tế. Thực hiện tốt các chính sách đặc thù đối với văn nghệ sỹ, cán bộ văn hóa và đối với các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh, nhất là các dân tộc bản địa.
– Nâng cao hoạt động quản lý nhà nước nhằm khai thác tốt công năng và hiệu quả các thiết chế văn hóa thể thao từ cấp tỉnh đến cơ sở. Đặc biệt là các Trung tâm Văn hóa thể thao – Học tập cộng đồng xã, phường, thị trấn; Nhà văn hóa – Khu thể thao ấp, khu phố nhằm xây dựng và phát triển đa dạng đời sống văn hóa cơ sở; làm cho văn hóa ngày càng thấm sâu và lan tỏa trong cộng đồng dân cư, thu hút ngày càng cao số lượng người dân đến sinh hoạt tại các thiết chế văn hoá thể thao.
– Xây dựng đề án và triển khai thực hiện từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 chuyển các đơn vị sự nghiệp văn hóa, các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực văn hóa theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật; thúc đẩy cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực văn hóa trên địa bàn tỉnh.
3. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa
– Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra văn hóa, kiên quyết xử lý nghiêm minh những tổ chức, cá nhân cán bộ, công chức để xảy ra sai phạm. Phát huy vai trò giám sát, phản biện của mặt trận, các thành viên mặt trận và công dân đối với tổ chức, quản lý hoạt động văn hóa.
– Chủ động đấu tranh phòng và chống các biểu hiện suy thoái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa. Ngăn chặn kịp thời trình trạng báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích, chạy theo xu hướng thương mại hóa, thị hiếu tầm thường.
4. Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa
– Sớm nghiên cứu và xây dựng trung tâm thuộc tỉnh dạy tiếng Việt cho người nước ngoài và quảng bá văn hóa Việt Nam cho người nước ngoài đến làm việc tại tỉnh Đồng Nai và khu vực Đông Nam bộ.
– Xây dựng đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trên lĩnh vực văn hóa ở địa phương. Tiếp tục bổ sung quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ chuyên môn trên lĩnh vực văn hóa theo phân cấp quản lý.
– Nghiên cứu để sớm triển khai xây dựng trường đào tạo nguồn nhân lực cho ngành văn hóa, nghệ thuật của tỉnh. Tiếp tục thực hiện liên kết với các trường đại học, học viện, các trung tâm đào tạo chuyên ngành văn hóa, nghệ thuật ở trong nước và ngoài nước đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho tỉnh.
– Tổ chức đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng kiến thức quản lý chuyên ngành văn hóa cho toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hiện đang làm công tác quản lý ngành văn hóa, nghệ thuật trong tỉnh, cán bộ thư viện trường học…
– Lựa chọn những cán bộ, công chức, viên chức làm công tác văn hóa đủ tiêu chuẩn cho đi đào tạo nâng cao trình độ ở các cơ sở đào tạo chất lượng trong và ngoài nước. Có chính sách ưu đãi để thu hút các nghệ nhân, các chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật về địa phương sinh sống, làm việc. Chú ý xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ trong các dân tộc thiểu số trên địa bàn và có chính sách khuyến khích họ trở về phục vụ quê hương.
– Điều chỉnh chế độ cho những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, văn học nghệ thuật, cán bộ thư viện, bảo tàng phù hợp với tình hình kinh tế của địa phương. Trọng dụng những người thật sự có tài, có đức trong lĩnh vực văn hóa, văn học – nghệ thuật.
– Đầu tư cho văn hóa phải tương xứng với mức tăng trưởng kinh tế của địa phương. Nguồn ngân sách đầu tư cho văn hóa phải sử dụng có hiệu quả, công khai, minh bạch, tránh dàn trải, gây lãng phí, không hiệu quả, không đáp ứng được mục tiêu phát triển chung của tỉnh. Ưu tiên đầu tư cho vùng nông thôn, vùng căn cứ kháng chiến cũ, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có đạo; các loại hình nghệ thuật truyền thống, di sản văn hoá phi vật thể và các di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia, cấp tỉnh đang xuống cấp.
– Quy hoạch quỹ đất tương xứng với nhu cầu phát triển văn hóa của tỉnh. Thực hiện đúng và đầy đủ chính sách của Nhà nước ưu đãi về đất đai, thuế, phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do tổ chức, cá nhân ngoài công lập đầu tư. Khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá văn học nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản…
– Đầu tư xây dựng, nâng cấp toàn bộ hệ thống các thiết chế văn hóa thể thao từ tỉnh đến cơ sở theo quy định của Trung ương và phù hợp cho vùng nông thôn, thành thị, cơ quan, công sở, trường học, doanh nghiệp, khu công nghiệp, nông, lâm trường…
– Đầu tư cho hoạt động khoa học để nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, dự báo và định hướng phát triển văn hóa, xây dựng con người ở Đồng Nai.
Quá trình chỉ đạo thực hiện những giải pháp xây dựng và phát triển văn hoá, con người Đồng Nai phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu bền vững, cấp ủy các cấp phải gắn việc tiếp tục đẩy mạnh việc học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng nông thôn mới và phát triển văn hóa nông thôn, các chương trình mục tiêu quốc gia về văn học – nghệ thuật, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ nhằm tăng cường nguồn lực cho phát triển sự nghiệp văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh và nâng cao hiệu quả ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ đảng viên.
Thực hiện tốt các giải pháp nêu trên, hy vọng rằng chúng ta sẽ xây dựng được văn hóa và con người Đồng Nai phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, truyền thống văn hóa, lịch sử trên 300 năm, truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ Biên Hòa – Đồng Nai, tạo động lực mạnh mẽ đảm bảo phát triển bền vững sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới đóng góp tích cực vào sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
Bảo Tồn Và Phát Huy Giá Trị Di Sản Văn Hóa Vì Sự Phát Triển Bền Vững
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vì sự phát triển bền vững
1. Những thành tựu nổi bật trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
Trong sự nghiệp bảo vệ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu. Xin được lựa chọn 7 thành tựu tiêu biểu nhất bởi giá trị về tầm nhìn, ý nghĩa xã hội và quốc tế.
Một là, Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo tồn cổ tích.
Cũng ngày này cách đây 73 năm, ngày 23/11/1945, chỉ hơn 2 tháng sau khi nước nhà giành được độc lập, còn bộn bề biết bao nhiêu công việc cấp bách cần giải quyết, nhưng với tầm nhìn minh triết của một vĩ nhân – danh nhân văn hoá kiệt suất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SLvề bảo tồn cổ tích trong toàn cõi Việt Nam, trong đó xác định: Bảo tồn cổ tích là việc rất cần cho công cuộc kiến thiết nước Việt Nam. Tại Điều 4 của Sắc lệnh nêu rõ: Cấm phá hủy đình chùa, đền miếu, hoặc những nơi thờ tự khác như cung điện, thành quách cùng lăng mộ chưa được bảo tồn. Cấm phá hủy những bia ký, đồ vật, chiếu sắc, văn bằng, giấy má, sách vở có tính cách tôn giáo nhưng có ích cho lịch sử.
Với ý nghĩa lịch sử to lớn của Sắc lệnh này, ngày 24/02/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 36/QĐ-TTg lấy ngày 23 tháng 11 hàng năm là Ngày Di sản văn hoá Việt Nam nhằm phát huy truyền thống và ý thức trách nhiệm của tổ chức, cá nhân hoạt động trên lĩnh vực di sản văn hoá, động viên và thu hút mọi tầng lớp xã hội tham gia tích cực vào sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá dân tộc.
Hai là, Luật Di sản văn hoá năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 điều chỉnh cả di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thể.
Xét thấy di sản văn hoá và thiên nhiên ngày càng bị đe dọa hủy hoại, sự xuống cấp hoặc biến mất của di sản cũng làm nghèo đi di sản của mọi dân tộc, đồng thời việc bảo vệ di sản ở cấp quốc gia còn những bất cập do hạn chế về tiềm năng kinh tế, khoa học và công nghệ, nên tại Kỳ họp lần thứ 17 năm 1972, Đại hội đồng UNESCO đã thông qua Công ước về Bảo vệ di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới (di sản vật thể). 31 năm sau, năm 2003, xét thấy tầm quan trọng của di sản văn hoá phi vật thể như là động lực chính của đa dạng văn hoá và là một đảm bảo cho phát triển bền vững, đồng thời nhận thấy chưa có một văn kiện ràng buộc đa phương nào cho công tác bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể, tại Phiên họp ngày 17/10/2003, Đại hội đồng UNESCO đã thông qua Công ước về Bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể.
Trên thực tế, các di tích lịch sử – văn hoá (di sản vật thể) ở nước ta đều hàm chứa những giá trị tinh thần (di sản phi vật thể) to lớn và sâu sắc, gắn kết với nhau. Việc phân định giá trị di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chỉ là tương đối. Đồng thời, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) năm 1998, khi đề ra nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đã nhấn mạnh cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Bởi vậy, việc đưa di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh và di sản văn hoá phi vật thể vào Luật Di sản văn hoá được nhiều chuyên gia quốc tế cho là hợp lý mà không phải nước nào cũng có được một bộ luật chung như vậy.
Ba là, Nghi định của Chính phủ số 62/2014/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2014 Quy định về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể và Nghi định số 109/2017/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2017 Quy định về bảo vệ và quản lý di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới có ý nghĩa đối với cộng đồng xã hội và quốc tế.
Việc xét tặng danh hiệu nghệ nhân thể hiện sự quan tâm và ghi nhận của Đảng và Nhà nước ta đối với những nghệ nhân có đóng góp xuất sắc, nắm giữ và có công truyền dạy, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, góp phần làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc.
Nghị định về Bảo vệ và quản lý di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam nhằm bảo vệ Giá trị Nổi bật Toàn cầu, tính xác thực và toàn vẹn của di sản thế giới, thực hiện những cam kết của Việt Nam đối với UNESCO. Văn bản pháp lý này được sự quan tâm của quốc tế, bởi vì nhiều nước chưa có một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao riêng cho việc quản lý di sản thế giới ở nước mình.
Bốn là, Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO ghi danh 5 danh hiệu.
Không có ở các di sản khác của Việt Nam và cũng hiếm thấy ở các nước trên thế giới, trong một khu di sản lại được UNESCO ghi danh tới 5 danh hiệu cao quý: Quần thể di tích Cố đô Huế là Di sản văn hoá thế giới (1993), Nhã nhạc – Âm nhạc cung đình Việt Nam là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại (2003) và 3 di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới: Mộc bản triều Nguyễn (2009), Châu bản triều Nguyễn (2017) là Di sản tư liệu thế giới và Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế (2016) là Di sản tư liệu khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Năm là, Quần thể danh thắng Tràng An – Di sản hỗn hợp đầu tiên của Việt Nam và Đông Nam Á, được UNESCO ghi danh là di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới.
Ngày 23/6/2014, tại Phiên họp lần thứ 38 của Ủy ban Di sản thế giới, Quần thể danh thắng Tràng An, tỉnh Ninh Bình đã được UNESCO ghi danh là Di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới. Quần thể danh thắng Tràng An có tính phức hợp về Giá trị Nổi bất Toàn cầu, bao gồm cả giá trị về địa chất địa mạo – cảnh quan, giá trị rừng nguyên sinh đặc dụng Hoa Lư và giá trị lịch sử – văn hóa (di tích khảo cổ học minh chứng cho quá trình thích ứng của con người thời tiền sử với biến đổi khí hậu, nước biển dâng) và Khu di tích Cố đô Hoa Lư – Kinh đô đầu tiên của nhà nước Đại Việt có chủ quyền.
Sáu là, Hát Xoan Phú Thọ là di sản đầu tiên trong các nước thành viên được UNESCO chuyển từ Danh sách Di sản văn hoá phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp sang Danh sách Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại.
Tháng 11 năm 2011, Ủy ban Liên Chính phủ về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO (sau đây gọi tắt là Ủy ban Liên Chính phủ) đã ghi danh Hát Xoan Phú Thọ là Di sản văn hoá phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Sau khi được ghi danh, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Phú Thọ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng thực hiện nhiều giải pháp và cơ chế, chính sách phục hồi và mở rộng số lượng các phường Xoan, các câu lạc bộ Hát Xoan; tổ chức truyền dạy, thu hút đông đảo thế hệ trẻ tham gia học và trình diễn Hát Xoan, đưa Hát Xoan vào chương trình giáo dục cho học sinh các trường phổ thông; thực hiện chế độ đãi ngộ đối với những nghệ nhân có công truyền dạy, bảo tồn Hát Xoan. Trên cơ sở đó, năm 2015 tỉnh Phú Thọ đã có báo cáo định kỳ về Hát Xoan sau 4 năm bảo tồn và phát huy giá trị đạt chất lượng cao, nên đề nghị được chuyển Hát Xoan sang Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Ban Thư ký của Ủy ban Liên Chính phủ đánh giá cao Báo cáo Hát Xoan của tỉnh Phú Thọ. Tuy nhiên, do Ủy ban Liên Chính phủ chưa có văn bản hướng dẫn cho các quốc gia thành viên về điều kiện, quy trình, thủ tục được chuyển từ Danh sách Di sản cần bảo vệ khẩn cấp sang Danh sách Di sản đại diện của nhân loại, nên Ủy ban Liên Chính phủ đã đồng ý đặc cách cho Việt Nam xây dựng Hồ sơ trình UNESCO đưa Hát Xoan vào Danh sách Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại. Tỉnh Phú Thọ đã khẩn trương xây dựng Hồ sơ. Đầu năm 2016, Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia đã thẩm định. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ cho phép trình Hồ sơ cho UNESCO. Tại Kỳ họp lần thứ 12 tháng 12/2017 vừa qua, Ủy ban Liên Chính phủ về Bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể đã quyết định đưa Hát Xoan Phú Thọ, Việt Nam ra khỏi Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, để đưa vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Bảy là, Di sản văn hóa không chỉ có giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa và khoa học, mà còn là một nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững.
Trong nhiều năm qua, với kết quả nổi bật trong công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản, bằng việc đa dạng hóa các sản phẩm du lịch và tăng cường hoạt động quảng bá, di sản văn hóa ở nước ta trở thành điểm đến hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước, số lượt khách và nguồn thu từ phí tham quan năm sau đều cao hơn năm trước. Chỉ riêng 8 Di sản Thế giới, năm 2017 đã thu hút gần 16 triệu lượt khách trong nước và quốc tế, thu từ phí tham quan được hơn 2.500 tỷ đồng. Tuyệt đại đa số các khu di sản này đều tăng khoảng 13% – 22% số lượt khách và tăng khoảng 14%-27% tiền thu phí tham quan, trong đó có 2 di sản tăng 53% – 61% so với năm 2016 (Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng và Vịnh Hạ Long). Có những di tích phạm vi không lớn ở Hà Nội như Di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám, năm 2017 thu từ phí tham quan cũng đạt 46 tỷ, Di tích Đền Ngọc Sơn hơn 27 tỷ, Di tích Nhà tù Hỏa Lò 9,8 tỷ đồng. Nếu tính cả nguồn thu từ vé tham quan của hơn 13.500 di tích đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh – thành phố, cấp quốc gia và cấp quốc gia đặc biệt, cùng với hơn 160 bảo tàng công lập và ngoài công lập thì nguồn thu từ kết quả hoạt động phát huy giá trị di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh và các bảo tàng cả nước không hề nhỏ, góp phần có ý nghĩa vào sự phát triển bền vững kinh tế – xã hội.
2. Nhận thức về giá trị di sản văn hóa trong phát triển bền vững
Trên thế giới hiện đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về phát triển, trong đó có xu hướng coi kinh tế, khoa học và công nghệ là nền tảng của phát triển. Đúng là ba lĩnh vực nêu trên rất quan trọng, nhưng phát triển là một phức hợp đa chiều, tác động qua lại lẫn nhau, gắn bó hữu cơ với rất nhiều thành tố tạo nên sự phát triển; và, suy cho cùng, hạt nhân cơ bản của phát triển là phẩm chất, trí tuệ và giá trị sáng tạo của con người – con người văn hóa.
Khái niệm “phát triển bền vững”, lần đầu tiên xuất hiện, có lẽ là trong văn bản “Chiến lược Bảo tồn thế giới” do Hiệp hội Bảo tồn thế giới, là tiền thân của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) ban hành năm 1980, được xác định lại trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” của Ủy ban quốc tế về môi trường và phát triển (WCED) năm 1987, được khẳng định tại Hội nghị về Môi trường và phát triển của Liên hợp quốc, họp tại Rio de Janero năm 1992 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới ở Johannesburg năm 2002. Từ nhiều năm trở lại đây, trên diễn đàn và văn kiện của cộng đồng quốc tế, cũng như trong Chiến lược phát triển, Chương trình hành động của các quốc gia, vấn đề phát triển bền vững đang nổi lên như một trong những mối quan tâm hàng đầu của nhân loại. Liên Hợp Quốc đã đưa ra Chương trình nghị sự 2030 gồm 17 mục tiêu chung và 169 mục tiêu cụ thể về phát triển bền vững.
Cho đến nay, cách diễn giải khái niệm phát triển bền vững còn có phần khác nhau. Tuy nhiên, có thể nói tổng quát: Phát triển bền vững là sự phát triển đảm bảo nhu cầu phát triển của xã hội hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng phát triển của thế hệ tương lai; là sự gắn kết chặt chẽ và hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; sử dụng tài nguyên, mọi nguồn lực hiện có của xã hội một cách căn cơ, hợp lý, hiệu quả, có trách nhiệm không chỉ cho sự phát triển hiện tại mà còn cho các thế hệ mai sau.
Lịch sử và văn hoá của nước ta không chỉ được lưu lại trong sử sách, mà còn hiện diện trên mọi miền đất nước bởi hàng vạn di tích lịch sử – văn hoá, và cùng với nó là một kho tàng đồ sộ về di sản văn hoá phi vật thể với những giá trị vật chất, tinh thần, văn hoá – nghệ thuật, khoa học to lớn. Di tích lịch sử – văn hoá hiện diện trước chúng ta như là một dấu mốc, ẩn chứa dưới cái vỏ vật chất là giá trị tinh thần to lớn mà ở đó, thế hệ ngày hôm nay có thể nhận biết và học hỏi được từ trong đó những chỉ dẫn về chặng đường phát triển của lịch sử, của đất nước, những truyền thống quý báu, những kinh nghiệm thành công và hạn chế của lịch sử, sự hy sinh, những tấm gương về lòng yêu nước, chống ngoại xâm, giàu nghĩa khí, tận trung với nước với dân, những bậc hiền tài,… Chúng ta có thể học hỏi được từ trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể đồ sộ những giá trị về lịch sử, những bài học quý giá về cách ứng xử, những truyền thống tốt đẹp (truyền thống yêu quê hương, đất nước, “uống nước nhớ nguồn”, chống áp bức, chống ngoại xâm, giàu nghĩa khí, tôn vinh việc học hành, truyền thống khéo tay hay nghề, nếp sống thanh lịch…); những tri thức sâu sắc và phong phú về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa nghệ thuật; những tập tục, sự phong phú về đời sống tâm linh đậm tính nhân văn và bản sắc dân tộc… Đó chính là những chất liệu sống động, có tính kết dính ở tầm sâu, có tính lan tỏa và hội tụ để tạo thành một nguồn lực cho mỗi người, cho phát triển bền vững. Như Luật Di sản văn hoá đã xác định: Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) đã chỉ rõ: Di sản văn hoá là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị nới và giao lưu văn hoá. Tại Hướng dẫn thực hiện Công ước Di sản thế giới, UNESCO cũng xác định: Di sản văn hoá và thiên nhiên là những tài sản vô giá và không thể thay thế được, không chỉ của một dân tộc, mà còn là của nhân loại nói chung. Bất kỳ di sản nào trong số đó nếu biến mất, do xuống cấp hoặc bị huỷ hoại, cũng sẽ làm nghèo đi kho tàng di sản của tất cả các dân tộc trên thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển bền vững trong thời kỳ hội nhập, toàn cầu hoá và thách thức của biến đổi khí hậu, tại Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12 tháng 4 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020”.
Mặc dù, trong các văn kiện quốc tế về phát triển bền vững cũng như trong Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam không trực tiếp đề cập đến lĩnh vực di sản văn hoá; tuy nhiên, thông qua quan điểm, mục tiêu, định hướng ưu tiên và giải pháp nêu trong Chiến lược, chúng ta có thể nghiên cứu cụ thể hoá những tư tưởng sau đây của Chiến lược vào trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá vì sự phát triển bền vững:
Một là, Con người là trung tâm, là mục tiêu của phát triển bền vững.
Xu hướng chung của thế giới ngày nay là hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá, cả vật thể và phi vật thể, phải hướng tới cộng đồng hiện đang sống trong khu vực di sản và cộng đồng là du khách đến tham quan di sản.
Trong cái vỏ vật chất của di tích lịch sử – văn hoá đều hàm chứa những giá trị to lớn về di sản văn hoá phi vật thể, mà cộng đồng chính là người sở hữu, bảo tồn, trao truyền và thực hành di sản. Trong Công ước UNESCO 2003 về Bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể đã ghi nhận rằng, Các cộng đồng, đặc biệt là các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ, duy trì, thực hành và tái tạo di sản văn hoá phi vật thể, từ đó làm giàu thêm sự đa dạng văn hoá và tính sáng tạo của con người.
Di tích lịch sử – văn hoá đến từ quá khứ, nhưng không đơn thuần chỉ là quá khứ mà phải mang hơi thở của thời đại, phải thực sự trở thành một bộ phận hữu cơ của đời sống đương đại. Việc bảo tồn và phát huy giá trị kho tàng di sản này chính là sự đóng góp cho phát triển bền vững. Trong quá trình triển khai các dự án bảo tồn di sản, cần đặt ra nhiệm vụ nâng cao nhận thức và sự hiểu biết về giá trị của di tích cho cộng đồng sở tại để cộng đồng tham gia có trách nhiệm vào công tác bảo vệ; đào tạo tại chỗ những người dân có tay nghề, có kiến thức hiểu biết về di tích trực tiếp tham gia vào hoạt động bảo tồn hoặc hướng dẫn du khách tham quan di tích, thực hành các trải nghiệm du lịch sinh thái; đồng thời khuyến khích cộng đồng tạo ra những sản phẩm đặc thù, riêng có của địa phương để phục vụ du khách, thông qua đó góp phần nâng cao đời sống người dân sở tại.
Đối với cộng đồng sống trong khu vực di sản thiên nhiên, bên cạnh việc tạo điều kiện, khuyến khích cộng đồng vận dụng những kinh nghiệm, tri thức truyền thống mà họ tích lũy được trong việc bảo vệ, khai thác nguồn lợi từ rừng, cần có cơ chế chia sẻ lợi ích với cộng đồng từ hoạt động bảo tồn và khai thác các nguồn tài nguyên, tạo điều kiện cho người dân tham gia vào các hoạt động phát triển đa dạng sinh học, tạo công ăn việc làm cho cộng đồng sống trong khu vực di sản;
Hai là. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không thể tái tạo.
Di tích lịch sử – văn hoá cũng là một loại “tài nguyên” không thể tái tạo. Điều cốt lõi trong hoạt động bảo tồn di tích là bằng nhiều giải pháp kỹ thuật cổ truyền và khoa học-công nghệ hiện đại giữ cho được “yếu tố gốc cấu thành di tích” (theo từ ngữ của Luật Di sản văn hoá Việt Nam), hay “tính xác thực”, “tính toàn vẹn”, “Giá trị Nổi bật Toàn” cầu của di sản (theo từ ngữ của Công ước UNESCO 1972 về Bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới) nhằm bảo tồn và khai thác giá trị di tích một cách căn cơ, có trách nhiệm vì sự phát triển bền vững kinh tế – xã hội, không chỉ cho ngày hôm nay, mà còn gìn giữ được loại “tài nguyên không thể tái tạo” này để chuyển giao cho các thế hệ mai sau. Tuy nhiên, ở nơi này, nơi kia vẫn còn để xảy ra hiện tượng tu bổ, tôn tạo làm sai lệch giá trị di tích, thậm chí bỏ di tích cũ để xây công trình mới “hoành tráng” hơn, mà nguyên nhân chủ yếu là chưa nhận thức được giá trị đích thực của di tích, chưa tuân thủ một cách nghiêm túc Luật Di sản văn hóa về việc bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; Nghị định của Chính phủ quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh. Những sai phạm này làm phương hại đến giá trị di tích, làm ảnh hưởng đến phát triển bền vững. Tuyên bố toàn cầu về đa dạng văn hóa của UNESCO nêu rõ: Di sản ở mọi hình thức của nó phải được bảo tồn, phát huy và truyền thụ cho các thế hệ tương lai như là cơ sở dữ liệu lưu lại kinh nghiệm và những khát vọng của con người, nhằm tăng cường tính sáng tạo với tất cả sự đa dạng của nó và truyền cảm hứng cho cuộc đối thoại giữa các nền văn hóa.
Mỗi loại hình di sản văn hoá cần có cách tiếp cận và phương pháp bảo tồn đặc thù, nhưng chắc chắn không thể thiếu phương pháp nghiên cứu liên ngành, thậm chí xuyên ngành. Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá không chỉ được hưởng lợi từ kết quả nghiên cứu về khoa học xã hội (sử học, khảo cổ học, dân tộc học, Hán Nôm, văn hoá dân gian, mỹ thuật, kiến trúc,…), mà nhiều ngành khoa học tự nhiên (vật lý, hoá học, sinh học, địa chất, xây dựng,…) cũng góp phần không nhỏ. Bởi vậy, để bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá dưới tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu, những tổ chức trực tiếp quản lý di sản cần chủ động xây dựng các chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học có tính liên ngành, tìm ra các giải pháp khoa học nhằm hạn chế tác hại của thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu một cách có hiệu quả để bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá vì sự phát triển bền vững.
Đối với di sản văn hóa phi vật thể, mặc dù đã đạt được nhiều kết quả to lớn và có ý nghĩa, đã có cách tiếp cận mới trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị loại tài sản dễ bị tổn thương này; tuy nhiên, trên thực tế cũng còn một số loại hình di sản văn hoá phi vật thể đang đứng trước nhiều thách thức và sự mai một, như di sản truyền khẩu, tri thức dân gian, tập quán xã hội… Không gian văn hóa thay đổi làm biến đổi thực hành di sản, số lượng người thực hành di sản ngày một ít, nguồn tài chính hỗ trợ cộng đồng bảo tồn và trao truyền di sản rất ít và không thường xuyên… Ngày xưa cũng vậy và ngày nay cũng vậy, cộng đồng làng xã là người trực tiếp bảo vệ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá. Hội làng ngày xưa sao mà hay thế, đẹp thế! – “tả tơi” nhưng đầy tính văn hoá, nhân văn. Quy mô lễ hội cổ truyền ngày nay ngày càng lớn (liên xã, liên huyện, liên tỉnh, quốc gia), dù sao, cộng đồng cũng phải được coi là chủ thể chính cùng với sự tư vấn của các chuyên gia về lễ hội, sự phối hợp của tổ chức trực tiếp quản lý di sản, sự quan tâm chỉ đạo của chính quyền, đoàn thể các cấp trong việc giữ gìn an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường… thì lễ hội sẽ trở thành một nguồn lực lớn cho phát triển bền vững.
Ba là, Hạn chế tác hại của thiên tai, chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng.
Một đặc điểm nổi bật của di tích lịch sử – văn hóa ở nước ta là rất đa dạng, phong phú về mặt loại hình (đình, đền, chùa, miếu, thành quách, lăng tẩm, đền tháp, cung điện, nhà cổ, di tích cách mạng, kháng chiến,…) và về chất liệu (gạch, đá, gỗ, tre, nứa, lá,…), trong đó, tuyệt đại đa số là chất liệu hữu cơ, rất dễ bị biến dạng, nấm mốc, mối mọt, hư hỏng, xuống cấp, sụp đổ do thời tiết nhiệt ẩm, mưa bão, lũ lụt, đặc biệt là sự biến đổi khí hậu trong nhiều năm gần đây. Việt Nam là quốc gia có chiều dài bờ biển khoảng gần 3.500 km cùng với hơn 2.773 hòn đảo lớn, nhỏ. Dọc bờ biển và trên một số hòn đảo có rất nhiều nền văn hoá khảo cổ học nổi tiếng và những con tàu cổ đã và chưa được khai quật ở vùng biển nước ta,… là minh chứng sống động cho sự phát triển của hoạt động giao thương kinh tế, văn hoá của nước ta với nhiều nước Á – Âu từ rất sớm; những di tích lịch sử về sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc; nhiều danh lam thắng cảnh và khu dự trữ sinh quyển nổi tiếng được UNESCO ghi danh,… cũng đang đặt ra nhiệm vụ bảo tồn trước sự biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Nhiệm vụ bảo tồn, kéo dài “tuổi thọ” di tích lịch sử-văn hóa – một loại “tài nguyên không thể tái tạo” trong điều kiện biến đổi khí hậu khó lường như hiện nay là một thách thức to lớn đối với thể hệ chúng ta ngày hôm nay. Bên cạnh việc áp dụng những kinh nghiệm, phương pháp bảo tồn truyền thống và ứng dụng phương pháp khoa học – công nghệ hiện đại, cần nghiên cứu triển khai số hóa dữ liệu về di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh để có thể khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu mở phục vụ công tác quản lý, nghiên cứu và trao đổi kinh nghiệm trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản.
Bốn là, Bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học.
Việt Nam được xếp vào loại có tính đa dạng sinh học cao. Trong số các di sản thiên nhiên có 3 di sản được UNESCO ghi danh là Di sản thiên nhiên thế giới: Vịnh Hạ Long được ghi danh 2 lần (lần thứ nhất – năm 1994 về vẻ đẹp, lần thứ hai – năm 2000 về địa chất địa mạo, và hiện nay Thành phố Hải Phòng đang cùng với Tỉnh Quảng Ninh xây dựng hồ sơ trình UNESCO ghi danh Vịnh Hạ Long – Quần đảo Cát Bà là Di sản thế giới về đa dạng sinh học). Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng cũng được UNESCO ghi danh 2 lần (lần thứ nhất – năm 2003 về địa chất địa mạo, lần thứ hai – năm 2015 về đa dạng sinh học). Quần thể danh thắng Tràng An gồm 3 bộ phận hợp thành Giá trị Nổi bật Toàn cầu là giá trị về địa chất địa mạo – cảnh quan, giá trị rừng nguyên sinh đặc dụng Hoa Lư và giá trị lịch sử – văn hóa. Việt Nam còn có các khu dự trữ sinh quyển quốc gia được UNESCO ghi danh, các khu di sản thiên nhiên của Asean,…
Năm là. Tăng cường năng lực quản lý và phát triển nguồn nhân lực phát triển bền vững.
Do đặc điểm và tính đặc thù của nguồn nhân lực tham gia hoạt động quản lý, bảo tồn di sản là tính đa nguồn về các lĩnh vực mà người học đã được đào tạo tại các trường đại học (kiến trúc, xây dựng, vật lý, hóa học, tin học, sử học, văn hóa học, mỹ thuật, nhân học, khảo cổ học, sinh học, văn hóa dân gian,…), nghệ nhân, thợ lành nghề, nên chương trình học, cách học, thời gian học phải được thiết kế một cách khoa học. Hết sức chú ý đào tạo thợ lành nghề truyền thống phục vụ công tác bảo tồn di tích, kỹ năng thực hành, hướng dẫn và trao đổi trực tiếp với người học tại di tích (“hội thảo đầu bờ”); sử dụng hiệu quả các trang thiết bị hiện đại vào công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Đối với các khu di tích và danh lam thắng cảnh hiện có dân cư sinh sống, thì phải coi cộng đồng dân cư là đối tượng cần được đào tạo, là nguồn nhân lực cho phát triển bền vững thông qua việc hướng dẫn cho họ nhận biết được giá trị của di sản; đào tạo người có tay nghề, có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn tham gia vào công tác bảo tồn, hướng dẫn viên du lịch, nhất là du lịch trải nghiệm,…, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống cộng đồng để cộng đồng gắn bó, tham gia có trách nhiệm vào công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản.
3. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn di sản văn hóa với phát triển kinh tế – xã hội
Không phải ở đâu và cũng không phải lúc nào người ta cũng giải quyết được một cách hài hòa giữa bảo tồn di tích lịch sử – văn hóa với phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là trong không gian đô thị. Không phải chỉ ở nước nghèo mà ngay cả ở nước phát triển thì sự “xung đột” đó vẫn thường xảy ra. Và, trên thực tế, vì những lý do khác nhau, trong khá nhiều trường hợp, sự “xung đột” thường kết thúc với lợi thế về phía phát triển kinh tế – xã hội.
Hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa và phát triển kinh tế – xã hội không phải là hai mặt đối lập mà là một thể thống nhất, đều hướng tới mục tiêu chung là vì sự phát triển bền vững. Ở nước ta, sự “xung đột” giữa bảo tồn và phát triển như nêu trên không phải hiếm gặp ở nơi này, nơi kia.
Di tích lịch sử – văn hoá là một loại tài nguyên không thể tái sinh, không thể thay thế, nên về mặt nguyên tắc, không được huỷ hoại, không được làm ảnh hưởng đến giá trị, tính xác thực, yếu tố gốc cấu thành di tích, tính toàn vẹn của di sản; cần thực hiện nghiêm túc quy định của Luật Di sản văn hoá về các khu vực bảo vệ của di tích. Đối với di tích còn nằm trong lòng đất (di tích khảo cổ học) được phát hiện khi xây dựng các công trình kinh tế – xã hội thì phải báo cho cơ quan quản lý di sản để phối hợp tìm các giải pháp giải quyết hài hòa giữa bảo tồn và phát triển.
Ở nhiều nước trên thế giới và cả ở Việt Nam, để giải quyết hài hòa giữa bảo tồn di tích thuộc loại hình khảo cổ học và xây dựng các công trình phát triển kinh tế – xã hội, thường được áp dụng một trong 3 giải pháp:
Một là, di tích được xác định có giá trị đặc biệt, có điều kiện kinh tế – kỹ thuật – công nghệ bảo tồn, bảo vệ và phát huy giá trị di tích thì xây dựng dự án bảo tồn tại chỗ như là một “bảo tàng ngoài trời” phục vụ công tác nghiên cứu, tham quan du lịch.
Hai là, di tích được xác định có giá trị quan trọng, nhưng trước mắt chưa có điều kiện bảo tồn tại chỗ thì đưa hiện vật khai quật được về bảo quản và trưng bày trong bảo tàng; tiến hành phủ lớp vải địa kỹ thuật lên toàn bộ bề mặt hố khai quật, rồi lấp cát và bàn giao mặt bằng cho chủ dự án, khi có điều kiện thì khai quật trở lại. Phía trên bề mặt hố khai quật được cắm mốc giới và biển giới thiệu về di tích.
Ba là, di tích có giá trị, nhưng không có điều kiện bảo tồn tại chỗ, trong khi yêu cầu xây dựng công trình phát triển kinh tế – xã hội thấy cần được ưu tiên (như làm đường giao thông,…), sau khi hoàn thành công tác khai quật khảo cổ học thì chuyển toàn bộ tài liệu, hiện vật về lưu trữ, bảo quản tại bảo tàng phục vụ công tác nghiên cứu, trưng bày, phát huy giá trị di tích; đồng thời, lấp hố khai quật, bàn giao mặt bằng cho chủ dự án tiếp tục thi công công trình xây dựng.
Kho tàng di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh và di sản văn hóa phi vật thể mà tiền nhân để lại là một loại tài sản to lớn và quý giá, một nguồn lực cho phát triển bền vững. Thế hệ chúng ta ngày hôm nay có trách nhiệm bảo tồn và phát huy hiệu quả những giá trị di sản vào sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội ngày hôm nay và chuyển giao tài sản đó cho các thế hệ mai sau. Đó chính là phát triển bền vững./.
2 Trương Quang Học, 2012: Việt Nam – Phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi toàn cầu. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ IV, Hà Nội, 2012.
3. Hoàng Đạo Kính, 2002: Di sản văn hóa – Bảo tồn và trùng tu. Nxb Văn hóa Thông tin. Hà Nội, 2002.
4. Luật Di sản văn hóa năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2009.
5. Lưu Trần Tiêu, 2011: Mấy vấn đề về hoạt động tu bổ, phục hồi di tích lịch sử – văn hoá. Tạp chí Di sản văn hoá, số 3 (36) – 2011.
6. Lưu Trần Tiêu, 2012: Mấy vấn đề về nguồn nhân lực trong hoạt động bảo tồn di tích lịch sử – văn hóa. Tạp chí Di sản văn hóa, số 3(40)-2012.
7. Lưu Trần Tiêu, 2013: Di sản văn hoá phi vật thể – Bảo tồn và phát huy, kế thừa và phát triển. Hội thảo quốc tế 10 năm Công ước UNESCO về di sản văn hoá phi vật thể. Hội An, 2013.
– Lưu Trần Tiêu, 2015: Tổng kết Hội thảo khoa học Văn hoá biển đảo – bảo vệ và phát huy giá trị. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Văn hoá biển đảo – Bảo vệ và phát huy giá trị. Nxb Thế giới. Hà Nội, 2015.
– Lưu Trần Tiêu, 2017: Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vì sự phát triển bền vững. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Di sản văn hóa với Chiến lược phát triển bền vững. Hà Nội, 2017.
– Lưu Trần Tiêu, 2018: Di sản văn hóa Hà Nội – Một nguồn lực cho phát triển bền vững. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử – văn hóa Thủ đô Hà Nội. Hà Nội, 2018.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hóa, Con Người Vì Sự Phát Triển Bền Vững Ở Lai Châu trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!