Đề Xuất 3/2023 # Xây Dựng Lòng Tin – Bài Toán Khó Của Ngành Bảo Hiểm # Top 5 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Xây Dựng Lòng Tin – Bài Toán Khó Của Ngành Bảo Hiểm # Top 5 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Xây Dựng Lòng Tin – Bài Toán Khó Của Ngành Bảo Hiểm mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Hoạt động của ngành bảo hiểm Việt Nam trên social media

Cụ thể, hoạt động marketing của 3 thương hiệu hàng đầu Prudential, Manulife, AIA.Prudential: Trong hàng loạt các hoạt động marketing của công ty diễn ra từ tháng 5/2016 đến tháng 10/2016, nổi bật nhất là chiến dịch “Gia đình là vô giá” với đoạn phim “4 phút kì diệu” và cuộc thi ảnh trên fanpage. Đoạn clip nhắc người xem nhớ đến tình cảm ấm áp từ những người thân yêu hiện đã có hơn 5 triệu lượt view trên YouTube. Qua chiến dịch này, Prudential đã thể hiện đẳng cấp nghệ thuật lắng nghe và thấu hiểu của mình và càng khẳng định rõ sứ mệnh của thương hiệu: “Giúp mọi người tận hưởng một tương lai đảm bảo”.

Khủng hoảng của ngành bảo hiểm tại Việt Nam

Xét về tổng thể, vấn đề cốt lõi trong ngành bảo hiểm là xung đột lợi ích giữa khách hàng và nhà cung cấp bảo hiểm. Việc trao đổi, truyền đạt và tiếp nhận thông tin của đôi bên không hiệu quả dẫn đến tình trạng các công ty không đáp ứng, hỗ trợ như mong muốn của khách hàng. Từ đó, người mua bảo hiểm có những cảm nhận tiêu cực về thương hiệu, nghiêm trọng hơn là về ngành, cho rằng bảo hiểm là dịch vụ mang tính lừa đảo, đa cấp. Điều này càng dễ xảy ra đối với các doanh nghiệp đầu ngành, sở hữu số lượng khách hàng vô cùng lớn nhưng chưa hoàn thiện khâu chăm sóc và hỗ trợ kịp thời.

Diễn biến khủng hoảng xảy ra đối với Manulife, AIA và Prudential trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2016.  

Hầu hết khủng hoảng trong ngành bảo hiểm đều bắt nguồn từ việc một số khách hàng không nắm rõ các điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm, khi gặp sự cố bất ngờ không nhận được bồi thường từ phía bảo hiểm tạo tâm lý tiêu cực và cho rằng bảo hiểm lừa đảo. Do đó, các công ty bảo hiểm ngoài việc cần tư vấn cho khách hàng hiểu rõ hơn về đặc thù sản phẩm, điều kiện điều khoản chính xác mà còn cần phát hiện ra các bài viết tiêu cực kịp thời để ngăn chặn những thông tin không chính xác, gây hoang mang cho khách hàng.

Nhận định của cộng đồng về ngành bảo hiểm

Nhìn chung, ngành bảo hiểm tại Việt Nam đang từng bước tạo dựng niềm tin đối với cộng đồng và chứng minh được những lợi ích đối với cuộc sống của khách hàng sau khi sở hữu bảo hiểm. Bên cạnh đó, người tiêu dùng tại Việt Nam vẫn chưa thực sự hiểu rõ cách thức hoạt động và áp dụng bảo hiểm trong các trường hợp cụ thể, dẫn đến tâm lý thất vọng, tức giận, đánh giá tiêu cực cả về doanh nghiệp lẫn ngành bảo hiểm khi không nhận được chi phí hỗ trợ như mong muốn.

Ngành bảo hiểm vẫn được 14% người tiêu dùng đánh giá tích cực dựa trên những lợi ích mà nó đem lại như Tiết kiệm tài chính (13%) và là giải pháp Đầu tư tài chính an toàn (1%). Tuy nhiên, có đến 86% phản hồi tiêu cực nhìn nhận bảo hiểm là hình thức lừa đảo, đa cấp và không đáng tin. Đây thực sự là một tình trạng đáng báo động đối với các thương hiệu trong ngành.

Phản hồi của cộng đồng đối với các thương hiệu trong ngành bảo hiểm

Cụ thể, phản hồi của cộng đồng về 3 thương hiệu dẫn đầu ngànhCụ thể, phản hồi của cộng đồng về 3 thương hiệu dẫn đầu ngành

Bất lợi lớn nhất mà các công ty trong ngành đang gặp phải là việc bị nhìn nhận là lừa đảo, ít quyền lợi so với các điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm. Không chỉ vậy, đội ngũ nhân viên là yếu tố khiến người mua bảo hiểm không hài lòng vì chăm sóc khách hàng không tốt như cung cấp thông tin không rõ ràng hay thái độ làm việc chưa chuyên nghiệp, chu đáo.

Tạm kết 

Chặng đường phát triển của ngành bảo hiểm tại Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức, nhất là việc thay đổi cách nhìn của người tiêu dùng về ngành hiện tại. Với những chiến dịch gắn liền với cộng đồng và thể hiện trách nhiệm xã hội, các công ty đang đi đúng hướng tiếp cận và xây dựng thiện cảm đối với khách hàng. Bên cạnh đó, việc xử lý khủng hoảng truyền thông cần được thương hiệu chú trọng và tiến hành nhanh chóng hơn, bằng nhiều phương pháp kết hợp như sử dụng công cụ lắng nghe mạng xã hội để kịp thời hỗ trợ, giải đáp thắc mắc, tiếp nhận phản hồi của khách hàng và thực sự thấu hiểu nhu cầu, mong muốn họ khi lựa chọn dịch vụ bảo hiểm nhân thọ.

Nguồn: YouNet Media 

Xây Dựng “Thế Trận Lòng Dân” Trong Sự Nghiệp Xây Dựng Và Bảo Vệ Tổ Quốc

Yếu tố “lòng dân” và “thế trận lòng dân” là hai mặt của một vấn đề có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ với nhau; trong đó, “lòng dân” bao giờ cũng tồn tại một cách khách quan và là cơ sở, nền tảng chủ yếu để tạo nên “thế trận lòng dân”. “Thế trận lòng dân” được xây dựng vững chắc sẽ có tác động tích cực, làm cho yếu tố “lòng dân” phát triển hài hòa, lành mạnh và hướng tới thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Song, trên thực tế, yếu tố “lòng dân” không tự nhiên trở thành “thế trận lòng dân” và “thế trận lòng dân” có thể vững ở thời điểm này, giai đoạn này nhưng cũng có thể không vững ở thời điểm khác, giai đoạn khác và không phải cứ xây dựng vững mạnh rồi là xong, mà phải thường xuyên được củng cố trong hoạt động thực tiễn thông qua đường lối, chủ trương, chính sách hợp lòng dân, phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Đồng thời, thế trận này phải được đặt vào trạng thái được triển khai thống nhất trong các tầng lớp dân cư, trong mọi lứa tuổi, mọi giai tầng xã hội. Ngoài ra, môi trường chính trị – xã hội cũng là một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm cho sự hình thành và phát triển của “thế trận lòng dân”.

Xuyên suốt chiều dài lịch sử đất nước, không khó để nhận thấy việc “quy tụ lòng người” là bài học kinh nghiệm quý báu đóng vai trò quyết định đến thắng lợi trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc.

“Thế trận lòng dân” là loại hình thế trận đặc biệt, là một trong những mạch nguồn sức mạnh nội sinh của quốc gia – dân tộc và được biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau. Đó là nền tảng, tạo nên sức mạnh tổng hợp, quyết định sự hưng thịnh hay suy vong của quốc gia, dân tộc, là thành lũy kiên cố nhất, vững chắc nhất để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó còn là cội nguồn sức mạnh sâu xa xuất phát từ bản sắc văn hóa Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc.

Ngay từ buổi đầu của lịch sử, lòng yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc luôn là chất kết dính muôn người và trở thành nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam. Đây chính là cơ sở, nền tảng và cội nguồn sâu xa để dân tộc ta huy động sức mạnh tiềm tàng, giành độc lập tự chủ sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc. Dưới thời nhà Trần, tư tưởng “chúng chí thành thành” và chủ trương “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước” là nhân tố quyết định trong 3 lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, là nét nổi bật về nghệ thuật đánh giặc giữ nước mang đậm tính minh triết của dân tộc ta.

Trái lại, dưới thời nhà Hồ, lòng dân ly tán, trước họa xâm lăng mà trăm vạn người trăm vạn lòng thì dù có quân đông tướng giỏi, thành cao hào sâu, nhưng Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng vẫn phải thốt lên “thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”. Và đúng là “dân không theo” nên công cuộc giữ nước của nhà Hồ khi đó thất bại.

Bằng mưu lược và trí tuệ của mình, Nguyễn Trãi đã khái quát cô đọng về sức mạnh của nhân dân, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, “lật thuyền mới biết sức dân như nước”, có dân là có tất cả, không được lòng dân là mất tất cả, để rút ra vấn đề căn cốt nhất, đó là “việc nhân nghĩa cốt để yên dân”. Nhờ đó, khởi nghĩa Lam Sơn đã nhanh chóng phát triển thành biển lửa kháng chiến của cả dân tộc và giành thắng lợi.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm “lấy dân làm gốc”, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Người khẳng định: “Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa. Nhân hòa là thế nào? Nhân hòa là tất cả mọi người đều nhất trí”(1). Nhân hòa ở đây thực chất là tinh thần hòa hợp, đồng lòng của toàn dân, biểu hiện tập trung ở lòng yêu nước, sự đoàn kết toàn dân “muôn người như một”, được ví như “bức thành đồng” vững chắc, vô địch mà không có đội quân xâm lăng nào có thể công phá được. Đó cũng chính là sức mạnh của cả nước đồng lòng, toàn dân một ý chí, quyết tâm đánh giặc giữ nước. Không chỉ vậy, Đảng ta còn chú trọng giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng và trong nhân dân, sáng tạo nhiều hình thức tổ chức, tập hợp, thu hút đông đảo quần chúng tham gia sự nghiệp cách mạng, làm cho sự đoàn kết, đồng lòng ấy không ngừng được tăng cường vững chắc, được bổ sung những yếu tố mới, độc đáo, hiệu quả, góp phần quan trọng, quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đến Đại hội lần thứ X, Đảng lần đầu tiên sử dụng cụm từ “thế trận lòng dân” và xác định: Xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân làm nòng cốt. Bổ sung và phát triển quan điểm này, Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”(2). Để củng cố và tăng cường hơn nữa “thế trận lòng dân” đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới, Đại hội XII, Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”(3) trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã tiến hành đồng bộ các chủ trương, giải pháp xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”; đã ban hành nhiều chính sách sát thực tiễn, hợp lòng dân, đáp ứng nguyện vọng, quyền lợi chính đáng của nhân dân, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trên phạm vi cả nước. Đồng thời, bảo đảm kinh tế phát triển nhanh và bền vững gắn với bảo đảm tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội; thực hiện mỗi bước phát triển kinh tế là một bước cải thiện đời sống nhân dân; đẩy mạnh thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo, ưu đãi đối với địa bàn vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng; tạo việc làm cho người lao động, miễn giảm thuế nông nghiệp nhằm “an dân”, “dưỡng dân”. Nhờ đó, diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân “thay da đổi thịt”, mọi người dân “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” như ước nguyện của Bác Hồ.

Cùng với đó, Nhà nước đã ban hành, sửa đổi, đồng bộ hệ thống pháp luật, Quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; thực thi quyền con người, quyền công dân. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, cải cách hành chính… được tăng cường và có bước chuyển biến tích cực. Việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thường xuyên được chú trọng, góp phần quan trọng vào việc quy tụ, tập hợp các tầng lớp nhân dân; trong đó, người Việt Nam ở nước ngoài cũng cùng chung tay, góp sức xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, cả khách quan, chủ quan, việc xây dựng “thế trận lòng dân” còn có mặt hạn chế. Lợi dụng những yếu kém trong quản lý, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động chống phá, làm xuất hiện những sai lệch về chuẩn mực giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống, trái với truyền thống của dân tộc và giá trị con người Việt Nam, ảnh hưởng đến sự đồng thuận, gắn kết trong xã hội, làm cho một bộ phận nhân dân thiếu niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ, ảnh hưởng không nhỏ đến xây dựng “thế trận lòng dân”. Từ thực trạng và những vấn đề đặt ra cho thấy, xây dựng “thế trận lòng dân” để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách cần phải tăng cường đối với mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương.

TIẾP TỤC XÂY DỰNG “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” VỮNG MẠNH

Trong tình hình hiện nay, để xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân”, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần phải thực hiện đồng bộ hệ thống các giải pháp sau:

Một là, thường xuyên quan tâm, chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân bằng hệ thống các chính sách cụ thể, để nhân dân được ấm no, yên tâm và tin tưởng vào con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Các bộ, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương cần tham gia, phối hợp chặt chẽ để tập trung phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống để nhân dân ổn định cuộc sống, nhất là ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và vùng đặc biệt khó khăn. Quá trình thực hiện, cần có các cơ chế, chính sách phù hợp, ưu tiên những vùng đặc biệt khó khăn bằng những chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh cụ thể, với khai thác tiềm năng, thế mạnh tại chỗ; đồng thời, tạo điều kiện cho các địa phương và nhân dân tiếp cận nguồn vốn và ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ hiện đại vào hoạt động sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, thực hiện tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội vì mục tiêu phát triển con người.

Tiếp tục đẩy mạnh nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài; chăm lo sức khỏe cho nhân dân; chú trọng giải quyết các vấn đề bất bình đẳng về lợi ích, phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, miền; thường xuyên quan tâm giải quyết tốt những bức xúc, những vấn đề nổi cộm trong đời sống của nhân dân. Đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, chăm lo bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; có cơ chế phù hợp để nhân dân được tham gia bàn bạc, giám sát, phản biện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo sự đồng thuận trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức về tư tưởng và hành động của toàn dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của “thế trận lòng dân”; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có cả những thuận lợi và khó khăn, các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, càng phải tăng cường giáo dục, tuyên truyền để nhân dân thấy rõ thời cơ và thách thức đang đặt ra đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, trong củng cố “thế trận lòng dân” nói riêng. Phải làm cho “ý Đảng, lòng dân” về “thế trận lòng dân” thấm sâu vào mỗi người dân, trở thành tư tưởng chủ đạo trong xây dựng “thế trận lòng dân” thời kỳ mới.

Cấp ủy, chính quyền và cơ quan chức năng các cấp cần thường xuyên nắm chắc tình hình, đặc điểm dân cư và yêu cầu xây dựng “thế trận lòng dân” trên từng địa bàn để có biện pháp tiến hành phù hợp, hiệu quả. Quá trình thực hiện, cần chú trọng đổi mới nội dung, đa dạng hóa các hình thức, phương pháp giáo dục, tuyên truyền; kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục thường xuyên với giáo dục theo chuyên đề gắn với các sự kiện chính trị của đất nước; phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng, phương tiện thông tin, truyền thông và thiết chế văn hóa ở cơ sở. Đồng thời, cần đẩy mạnh phong trào thi đua nhằm tạo ra các điển hình tiên tiến về xây dựng “thế trận lòng dân”; từ đó, tổ chức học tập, rút kinh nghiệm và nhân rộng trên phạm vi cả nước.

Ba là, chú trọng xây dựng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị các cấp theo hướng gần dân, chăm lo cho dân, tạo sức mạnh và uy tín để củng cố niềm tin trong nhân dân. Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, gắn học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII; làm cho từng tổ chức đảng và đảng viên thực sự trong sạch, vững mạnh, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, đủ sức lãnh đạo xây dựng “thế trận lòng dân” đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Bốn là, tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, thiết thực xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì phòng, chống tham ô, tham nhũng theo hướng tích cực phòng ngừa là chủ yếu, kết hợp với xử lý nghiêm các hành vi vi phạm cũng như các biểu hiện dung túng, bao che hoặc ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí dưới mọi hình thức. Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng gắn với tự tu dưỡng, rèn luyện của đội ngũ cán bộ, đảng viên; với coi trọng công tác quản lý, giám sát cán bộ, đảng viên theo đúng quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước. Đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình thực chất kết hợp với mở rộng dân chủ, giữ vững kỷ cương, công khai minh bạch mọi vấn đề đối với từng cá nhân, tổ chức, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là trong các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao như quản lý và sử dụng đất đai, khai thác tài nguyên, ngân hàng, tài chính, xây dựng cơ bản, mua sắm công,… đảm bảo đủ sức phòng ngừa, răn đe, trừng trị để các đối tượng không thể và không dám tham nhũng.

Năm là, tăng cường hoạt động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, phòng, chống và làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đây là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của mọi tổ chức, mọi lực lượng, các cấp, các ngành, các địa phương, là giải pháp góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh. Theo đó, cần chủ động nghiên cứu, dự báo, đánh giá và nhận diện đúng về “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; đồng thời, luôn kiên quyết đấu tranh, kiên trì quán triệt, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm, phương châm, giải pháp đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của Đảng và Nhà nước.

Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, thống nhất nhận thức, tư tưởng, hành động và đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch là vấn đề mang tính nguyên tắc, giữ vai trò quyết định trong xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”. Gắn nhiệm vụ này với đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo điều kiện để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

Thiếu tướng, PGS. TS. Nguyễn Văn Thế Phó Giám đốc Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, H, 2011, t.5, tr.594.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, H, 2011, tr.224-235.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, H, 2016, tr.149.

Xây Dựng “Thế Trận Lòng Dân”

Xây dựng “thế trận lòng dân” là quan điểm xuyên suốt trong đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng. Quan điểm đó tiếp tục được quán triệt và thể hiện nhất quán trong Chiến lược Quốc phòng Việt Nam thời kỳ mới.

“Lòng dân” là thuật ngữ phản ánh trạng thái chính trị – tinh thần của xã hội, biểu hiện mức độ niềm tin, đồng thuận, sự cố kết của người dân đối với chế độ chính trị – xã hội. Đó là một yếu tố quan trọng, quyết định sức mạnh quốc phòng của một quốc gia; bắt nguồn từ vai trò của yếu tố “con người” trong chiến tranh. “Lòng dân” lúc nào cũng có, nhưng không phải lúc nào cũng đồng thuận, đồng lòng với chủ trương, đường lối của lực lượng lãnh đạo xã hội. Điều đó đòi hỏi lực lượng lãnh đạo xã hội phải có những biện pháp chủ động quy tụ “lòng dân” về một hướng, dưới sự lãnh đạo của mình để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Đó chính là việc “xây dựng thế trận lòng dân”.

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chứng minh rằng: khi “lòng dân thuận” thì nước mạnh, “lòng dân ly tán” thì nước yếu, nên bài học hàng đầu mà ông cha ta đúc kết là “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” và “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc là thượng sách giữ nước”. Kế thừa và phát huy tư tưởng đó, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn đặc biệt coi trọng yếu tố “lòng dân”, lấy việc xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc làm động lực chủ yếu để tạo nên sức mạnh tổng hợp cho công cuộc giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cho đến trước Hội nghị Trung ương 9 (khóa IX), trong các văn kiện chính thức, Đảng ta chưa sử dụng thuật ngữ “thế trận lòng dân”, nhưng tư tưởng “dựa vào dân”, lấy “dân làm gốc”, đoàn kết toàn dân để tạo sức mạnh tổng hợp” luôn nhất quán, xuyên suốt trong đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc đã khẳng định: “sức mạnh của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới chính là sức mạnh tổng hợp. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị, sự trong sạch đội ngũ cán bộ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định” 1. Đại hội X của Đảng lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “thế trận lòng dân” khi nhấn mạnh nhiệm vụ “Xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc” 2. Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta tiếp tục khẳng định phương châm giữ nước là phải chăm lo xây dựng cho “kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị – xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối thống nhất” 3; trong đó, Trung ương đặc biệt nhấn mạnh đến yêu cầu “không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc” 4. Đại hội XII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ “Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân” 5. Điều đó cho thấy quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta về xây dựng “thế trận lòng dân” trong đường lối quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc trước đây cũng như hiện nay.

Là sự cụ thể hóa đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam tiếp tục quán triệt quan điểm “xây dựng thế trận lòng dân” trong xác định mục tiêu, phương châm chỉ đạo, phương thức xây dựng nền quốc phòng toàn dân và các nhiệm vụ, giải pháp của quốc phòng trong từng tình huống chiến lược. Chiến lược Quốc phòng khẳng định: xây dựng “thế trận lòng dân” làm cơ sở, nền tảng để xây dựng các tiềm lực khác của nền quốc phòng toàn dân; sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng; khối đại đoàn kết toàn dân tộc và “thế trận lòng dân” vững chắc là nhân tố trực tiếp, quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, nhấn mạnh xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện an sinh xã hội; gắn phát triển kinh tế với tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh,… là những giải pháp để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc.

Nét mới của quan điểm “xây dựng thế trận lòng dân” trong Chiến lược Quốc phòng là đặt nhiệm vụ này trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, với những thuận lợi và thách thức đan xen. Thành tựu của hơn 30 năm đổi mới toàn diện đất nước và những kết quả bước đầu của công cuộc phòng, chống tham nhũng đã đem lại động lực mới, củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nhiều hạn chế, yếu kém nảy sinh trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế cũng ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin của các tầng lớp nhân dân vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên; sự xuống cấp của các giá trị văn hóa; tình trạng phân cực giàu nghèo trong xã hội,… đã làm suy giảm lòng tin của một bộ phận nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Bên cạnh đó, sự chống phá của các thế lực thù địch bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Chúng ra sức phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng; lợi dụng các vấn đề dân tộc, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo hòng gây mất ổn định về chính trị – xã hội, chia rẽ Đảng, Nhà nước, Quân đội và Công an với nhân dân, nhằm mục tiêu thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ chúng ta, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Tình hình đó đặt ra sự cần thiết phải thường xuyên chăm lo sự thống nhất về chính trị – tinh thần của toàn dân, xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng vững chắc cho nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân.

Xây dựng “thế trận lòng dân” trong thời kỳ mới là xây dựng, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là quá trình thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh; trọng tâm là giải quyết tốt những vấn đề cơ bản sau đây:

Tập trung xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức để Đảng ta thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc. Trong giai đoạn hiện nay, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Theo đó, cần kết hợp nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên mới với kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người vi phạm nghiêm trọng Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước; vừa tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, vừa coi trọng “Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng” 6. Để củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, mọi cán bộ, đảng viên của Đảng cần thực hiện nghiêm túc Quy định 08-QĐ/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Đó phải là việc làm tự giác, thường xuyên, gắn với việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Năm 2019 cần tổ chức nghiêm túc việc nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn công tác của mỗi cán bộ, đảng viên chuyên đề “Xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Tăng cường xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Trong giai đoạn hiện nay, cần đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước theo hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, phục vụ nhân dân; đẩy mạnh thực thi các giải pháp hiện thực hóa chủ trương xây dựng Chính phủ “kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả”, trọng dân và gần dân. Theo đó, cần bãi bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp; đề cao đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực nghiên cứu, đề xuất và ban hành các chủ trương, chính sách có tính chất “an dân”; khắc phục triệt để việc đề xuất, ban hành những chủ trương xa rời thực tiễn, gây bức xúc dư luận. Đồng thời, cần đặc biệt coi trọng xử lý nghiêm theo pháp luật các vụ tham nhũng; xây dựng cơ chế chống tham nhũng hiệu quả, đảm bảo cho người có quyền lực “không thể tham nhũng, không dám tham nhũng và không muốn tham nhũng”. Ngoài ra, người đứng đầu các địa phương phải coi trọng phát huy quyền làm chủ của người dân; nghiêm túc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở và Quy định về tiếp công dân để kịp thời giải quyết các vướng mắc, bức xúc chính đáng của người dân.

Nỗ lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Khi kinh tế phát triển, các vấn đề xã hội được giải quyết, đời sống của nhân dân được cải thiện, khoảng cách giàu – nghèo được thu hẹp, công bằng xã hội được thực hiện tốt, sẽ tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần để củng cố “lòng dân”. Muốn vậy, cần phải gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội trong mọi giai đoạn phát triển; kết hợp phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để các tầng lớp nhân dân trên mọi vùng, miền của Tổ quốc được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước.

Xây dựng “thế trận lòng dân” là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Thực hiện các giải pháp xây dựng “thế trận lòng dân” cần thường xuyên quán triệt phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu cái gì làm trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”; bởi “sức dân như nước, chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân”. Nguyên lý đó luôn luôn đúng với mọi thời đại.

1 – ĐCSVN – Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb CTQG, H. 2003, tr. 46.

2 – ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 109.

3 – ĐCSVN – Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb CTQG, H. 2013, tr. 169.

5 – ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 149.

10 Nhiệm Vụ Trọng Tâm Của Ngành Bảo Hiểm Xã Hội Trong Năm 2022

Một là, tiếp tục cụ thể hóa các mục tiêu, đề án, nhiệm vụ để triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 125/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH; kịp thời ban hành các kế hoạch để triển khai các Nghị quyết của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, dự toán NSNN năm 2020 và giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2020.

Ba là, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN; các nghị định, văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách, pháp luật BHXH, BHYT, BHTN, đặc biệt là các quy định mới có hiệu lực thực hiện từ 01/01/2020.

Bốn là, tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày 03/8/2018 của Chính phủ về việc giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH; Chỉ thị số 34/CT-TTg ngày 26/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường các nhóm giải pháp phát triển đối tượng tham gia BHXH; xây dựng các giải pháp phấn đấu thực hiện chỉ tiêu bao phủ BHYT của địa phương theo Quyết định số 1167/QĐ-TTg ngày 28/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ.

Năm là, kịp thời giao kế hoạch, dự toán thu, chi, phát triển đối tượng BHXH, BHTN, BHYT năm 2020 ngay sau khi có Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; thường xuyên kiểm tra, giám sát, đôn đốc BHXH tỉnh trong quá trình triển khai thực hiện; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra liên ngành, thanh tra chuyên ngành, thanh tra đột xuất tại các đơn vị, doanh nghiệp, nhất là các đơn vị nợ, đọng, có dấu hiệu lạm dụng, trục lợi BHXH, BHTN, BHYT; kịp thời xử lý, kiến nghị xử lý các hành vi vi phạm pháp luật BHXH, BHTN, BHYT.

Sáu là, phối hợp với các Bộ, ngành, tổ chức đoàn thể, xã hội, cơ quan thông tấn, báo chí tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền phù hợp với đặc điểm, tính chất đặc thù của từng nhóm đối tượng, vùng miền, tập trung vào các nhóm đối tượng phát triển BHXH tự nguyện.

Bảy là, phối hợp với ngành Bưu điện quản lý chặt chẽ đối tượng thụ hưởng, đổi mới phương thức phục vụ, chi trả qua các tổ chức dịch vụ công; đẩy mạnh việc chi trả không dùng tiền mặt theo chỉ đạo của Chính phủ. Quản lý chặt chẽ việc chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn, trợ cấp một lần, chi trả trợ cấp BHTN; tăng cường, chủ động kiểm soát chi phí KCB BHYT tại các cơ sở KCB, đảm bảo thực hiện đúng dự toán được Chính phủ giao năm 2020.

Tám là, tập trung quyết liệt các giải pháp để đảm bảo hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch thu, phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT năm 2019 được Chính phủ giao; tăng cường nợ đọng BHXH, BHYT; rà soát, xử lý dữ liệu thẻ BHYT cấp trùng; hoàn thiện dữ liệu hộ gia đình, cấp mã số BHXH cho người tham gia.

Chín là, tiếp tục hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm theo Quyết định số 714/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ; hoàn thiện cơ sở hạ tầng, hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung, các phần mềm nghiệp vụ của Ngành; triển khai hiệu quả hệ thống tương tác đa phương tiện với người dân và doanh nghiệp; mở rộng cung cấp các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4; đẩy mạnh việc giao dịch điện tử; quản lý, sử dụng văn bản điện tử trong hệ thống cơ quan BHXH và trên trục liên thông của Chính phủ.

Mười là, tăng cường chỉ đạo các đơn vị trực thuộc, BHXH tỉnh tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, đạo đức công vụ, quy tắc ứng xử của công chức, viên chức và người lao động ngành BHXH.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Xây Dựng Lòng Tin – Bài Toán Khó Của Ngành Bảo Hiểm trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!