Đề Xuất 3/2023 # Vấn Đề “Sống Thử” Của Giới Trẻ Ngày Nay # Top 10 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Vấn Đề “Sống Thử” Của Giới Trẻ Ngày Nay # Top 10 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Vấn Đề “Sống Thử” Của Giới Trẻ Ngày Nay mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI, một kỷ nguyên đánh dấu bước ngoặt về kinh tế, khoa học và nhất là sự phát triển vượt bậc của ngành công nghệ thông tin đã làm cho cuộc sống con người ngày càng được nâng cao. Tiếc thay, những giá trị đạo đức đang bị xói mòn bởi chủ nghĩa thực dụng, duy vật chất, kéo theo đó là cả một hệ lụy. Hơn nữa, giới trẻ ngày nay quá lạm dụng tự do để chạy theo lối sống hưởng thụ, mà họ cho là hợp thời, sành điệu; họ bỏ qua những giá trị đạo đức là nền tảng cốt yếu của con người. Một trong những lạm dụng tự do, đó là “sống thử”. Vấn đề này không chỉ là sự lo lắng của các bậc làm cha mẹ mà còn là thách đố của các nhà giáo dục cũng như những người có trách nhiệm. 1. Tình trạng “sống thử” của giới trẻ Trong những năm gần đây, ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp, đã xuất hiện một lối sống mới của giới trẻ: Những đôi nam nữ sống chung như vợ chồng không có đăng ký kết hôn. Sau một thời gian, nếu thấy phù hợp thì họ tiến tới hôn nhân chính thức, sẽ đăng ký kết hôn theo pháp luật. Còn nếu thấy không phù hợp, họ sẽ chia tay nhau, không cần đến pháp luật. Người ta gọi đó là “sống thử”. Hiện tượng “sống thử” hay còn gọi là “góp gạo thổi cơm chung” đã và đang trở thành một thứ “mốt” trong lối sống của giới trẻ hiện nay, không chỉ trong giới công nhân sống xa nhà mà còn cả ở những sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường. Theo thống kê của khoa xã hội học Đại học Mở TPHCM, năm 2010, có khoảng 1/3 các bạn trẻ sống thử trước hôn nhân: Lan, sinh viên năm thứ 2 trường Đại học Nông Lâm TPHCM, cho biết: “Ở xóm trọ của em, gần một nửa các bạn sống thử trước hôn nhân”. Tôi được một bạn công nhân chia sẻ, dãy phòng trọ của em có 10 phòng thì có đến sáu phòng “góp gạo thổi cơm chung”. Mặt khác, “sống thử” đa phần là học đòi theo mốt chứ chưa có định hướng tương lai là có lấy nhau hay không. Xét theo truyền thống đạo đức, thuần phong mỹ tục của Việt Nam thì “sống thử” là một lối sống không phù hợp, không nên khuyến khích, nó có tác động xấu đến đời sống và mang lại nhiều hậu quả đáng tiếc cho bản thân và xã hội. Đồng thời, “sống thử” khó được toàn xã hội chấp nhận, đó là lối sống sai lầm, buông thả, phóng túng, làm băng hoại các giá trị đạo đức truyền thống, là một biểu hiện của sự xuống cấp về đạo đức trong lối sống thực dụng ngày nay. Hơn nữa, “sống thử” còn là một trong những thực trạng của xã hội, nó đang có nguy cơ lan rộng như một “dịch bệnh”. Đối tượng được nói đến cách phổ biến, lại rơi vào các học sinh, sinh viên, công nhân, viên chức, hay người trẻ vốn phải sống xa nhà, thiếu thốn tình cảm, khó khăn trong cuộc sống nhưng lại chưa đủ bản lĩnh để bươn trải vào đời. Chuyện “sống thử” trước khi quyết định tiến tới hôn nhân có thực sự là một giải pháp tốt để tiến tới một cuộc hôn nhân hoàn hảo hay nó chỉ là “cái bẫy của một quan niệm suy đồi trong lãnh vực hôn nhân”? 2. Nguyên nhân “sống thử” của giới trẻ Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng “sống thử”, nhưng vì giới hạn của bài viết, tôi chỉ xin nêu ra một vài nguyên nhân sau: Do sống xa nhà, thiếu thốn tình cảm, thiếu vật chất, hoặc có thể vì đua đòi và đi theo não trạng sai lạc do chủ thuyết “duy thế tục” được tự do quảng bá dưới mọi hình thức trong đời sống xã hội. Một số bạn không thích kết hôn khi sự nghiệp chưa vững vàng và càng không thể để “Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”. Tư tưởng mạnh mẽ giúp họ cởi mở hơn trong quan niệm tình dục và không còn e dè dư luận xã hội trước kia. Theo tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn, trưởng khoa tâm lý Đại học sư phạm TPHCM cho rằng: “Một trong những nguyên nhân dẫn đến giới trẻ sống trước hôn nhân là các bạn sống quá tự do, sống xa nhà, thiếu thốn tình cảm, sống buông thả”.

Hơn nữa, nhiều bạn đã tự nguyện sống thử, đặc biệt là các bạn nữ sinh viên và công nhân. Các bạn thích một cuộc sống hưởng thụ, phóng đãng, không tôn trọng chuẩn mực đạo đức của cộng đồng hay luật lệ của tôn giáo. Rất nhiều bạn không những coi thường luật pháp và giáo luật mà còn tự hạ thấp nhân phẩm của mình, không coi trọng giá trị của đời sống gia đình, cho dù biết hành động mình đang làm là sai trái với chuẩn mực cuộc sống nhưng vẫn cố tình bước vào.

2.2 Nguyên nhân từ gia đình

Do cha mẹ sống không hạnh phúc, những cảnh xào xáo, chửi bới và cãi vã thường ngày trong gia đình chính là yếu tố làm cho giới trẻ không muốn nghĩ đến hôn nhân; ngược lại, coi hôn nhân như một sự ràng buộc, cùm kẹp, hoặc chỉ như cơ hội để người ta lợi dụng nhau. Đồng thời, do cha mẹ bồ bịch, mèo chuột, muốn “tìm của lạ” hoặc “ông ăn chả, bà ăn nem” nên không thể khuyên bảo con cái được. Cha mẹ lăng nhăng mà cấm con cái bồ bịch mới là chuyện lạ! Hơn nữa, cha mẹ không quan tâm đến đời sống và tình cảm của con mình, không động viên con cái sống lành mạnh, chỉ biết phó mặc cho nhà trường, thì làm sao chúng không hư hỏng? Theo thạc sĩ tâm lý nữ tu Hồ Thị Hạnh cho biết: “Do cha mẹ chỉ biết kiếm tiền, không quan tâm đến đời sống của con cái. Mà thực ra, cha mẹ đâu chỉ có kiếm tiền cho con là đủ mà còn phải biết đồng hành với con cái, nhất là ở lứa tuổi đang chập chững biết yêu”. Còn theo tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn, trưởng khoa tâm lý Đại học sư phạm TPHCM thì cho rằng: “Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng “sống thử” ở giới trẻ là do sự giáo dục của gia đình còn quá lỏng lẻo, ít quan tâm tới các em, nhất là lúc các em đang tuổi cặp kè yêu đương, các em muốn có người đồng hành để chia sẻ” . Do ảnh hưởng văn hóa Phương Tây tràn vào, nên tình trạng quan hệ tình dục và “sống thử” trước hôn nhân ở giới trẻ đang ở mức báo động. Nhiều bạn trẻ thật dễ dãi, cho rằng “việc đó” là bình thường, không ảnh hưởng gì. Theo tiến sĩ tâm lý Vũ Gia Hiền: “Việc các bạn trẻ “sống thử” trước hôn nhân không chỉ ảnh hưởng của văn hóa Phương Tây mà còn do lối sống quá dễ dãi của các bạn. Đồng thời, do ảnh hưởng của nền văn hóa “tốc độ”, một số bạn trẻ quan niệm về tình yêu “rất hiện đại” hay còn gọi tình yêu tốc độ”. Cách đây không lâu, tôi có dịp đến thăm các bạn sinh viên sống ở khu nhà trọ, tôi thật bất ngờ trong một dãy phòng trọ, có khoảng một phần ba các bạn “sống thử” trước hôn nhân, hay còn gọi là “góp gạo thổi cơm chung”. Hơn nữa, do ảnh hưởng của truyền thông, các bạn nghe nhạc, đọc tiểu thuyết, xem phim ảnh, tạp chí về yêu đương và cả những trang web về tình dục là điều không thể tránh khỏi. “Tai nghe không bằng mắt thấy”, có nhiều bạn trẻ vì tò mò “sống thử để biết”, và “sống thử vì thấy bạn bè mình có nhiều cặp cũng đang sống chung đấy thôi”. Tôi được một bạn sinh viên chia sẻ: “Phòng em có ba người ở, hai bạn của em có người yêu, em cảm thấy rất buồn và quyết định kiếm đại một người yêu để vơi đi nỗi buồn. Nhưng sau thời gian khi chiếm được thân xác em, anh ta đã cao chạy xa bay rồi”. Cách suy nghĩ mang tính trào lưu này khiến các bạn trẻ dễ thả mình theo sống thử, không thấy hợp thì chia tay, không còn xem trọng việc hệ trọng cả đời là hôn nhân và gia đình. Theo TS tâm lý học Trương Thị Bích Hà: “Do đến với nhau chỉ vì tò mò, vì tiết kiệm, vì người khác sống thử thì mình cũng sống thử và chỉ để thỏa mãn dục vọng nhất thời. Mặt khác, do hội nhập văn hoá làm cho giới trẻ sống “tây hoá” không còn biết đến nền tảng đạo đức của con người”.

3. Hậu quả của việc “sống thử”

“Sống thử” mang lại nhiều khó khăn hơn những gì người ta tưởng tượng về nó, và thực sự, trong cuộc sống “thử” người ta cũng ít có trách nhiệm với nhau hơn. “Sống thử” là một cuộc sống không lâu bền vì hầu hết sau một thời gian sống chung tạm bợ, những va chạm trong cuộc sống hằng ngày dễ làm cho người ta chán nhau, nhất là những cặp sinh viên “sống thử” còn phải mang theo nỗi lo học hành, nỗi lo “cơm áo gạo tiền” thì càng bức bối. “Sống thử” rất bấp bênh, thiếu một mục đích cụ thể, do vậy khi gặp khó khăn, mâu thuẫn đáng ra có thể giải quyết được, thì hai người lại dễ buông xuôi và tan vỡ. Tâm lý “không hợp thì bỏ” khiến nhiều bạn trẻ thiếu trách nhiệm với bản thân, người yêu và tình yêu của mình, “cả thèm chóng chán” và mối quan hệ trở nên nhạt dần. Cuộc sống vợ chồng sẽ trở nên nhàm chán nhanh chóng nếu cả hai không nhận thấy trách nhiệm phải vun đắp cho mối quan hệ thì tất yếu là không vững bền. Hơn nữa, vì chỉ có hai người coi nhau là vợ chồng, còn xã hội và gia đình thì không, nên chẳng có ai giúp đỡ cho “vợ chồng” này khi gặp những khó khăn, trục trặc nhỏ trong tình cảm để nó không bùng phát thành mâu thuẫn lớn; chẳng có ai bảo vệ “gia đình” này khi có kẻ thứ ba dòm ngó. Và nỗi lo chẳng may có thai trước khi kết thúc giai đoạn “sống thử” sẽ khiến cho cuộc sống tình dục “vợ chồng thử” của các bạn trẻ không bao giờ có được niềm hạnh phúc tự nhiên như trong một cuộc hôn nhân hợp pháp. Rồi nhiều chuyện không mong muốn xảy ra như nạo phá thai, con cái sinh ra chưa được pháp luật công nhận và đặc biệt nó có thể kéo theo nhiều căn bệnh nguy hiểm và có thể gây ảnh hưởng xấu đến cuộc sống hôn nhân thực sự của các bạn sau này. “Sống thử” làm cho hai người biết quá rõ về nhau, nhàm chán và đơn điệu, chưa kể đến vấn đề “cơm áo gạo tiền”, những mâu thuẫn trong cuộc sống hằng ngày là điều không thể tránh khỏi. Khi các bạn chưa thực sự là của nhau thì việc chia tay là hoàn toàn có thể xảy ra. Tất nhiên, đám cưới chỉ là hình thức nhưng giấy tờ hôn thú là sự ràng buộc về giáo luật và pháp luật, đó là kết quả của một tình yêu chín muồi. Khi sống thật, các bạn trẻ sẽ sống có trách nhiệm hơn, yêu và tôn trọng nhau hơn. Chẳng hạn, một cuộc nghiên cứu của Trung tâm Hôn nhân và Gia đình tại trường Đại học Crieghton (Mỹ) cho biết, những đôi bạn sống chung trước khi thành hôn thường phải chịu đau buồn khôn khổ nhiều hơn bởi cách sống ấy, và cuối cùng dẫn tới tình trạng không ổn định trong đời sống vợ chồng. Điều đáng ngạc nhiên hơn nữa là những người đã chung sống trước hôn nhân như thế lại có khuynh hướng “cãi nhau liên miên” ngay sau ngày cưới. Một khi “sống thử” tan vỡ, bạn nữ chịu thiệt thòi đã đành, bạn nam cũng không phải không bị ảnh hưởng, mất mát về thời gian, sức khoẻ, tiền bạc, mất mát nhiều cơ hội trong cuộc sống… chia đều cho cả hai bên. Nhiều bạn gái gặp bế tắc sau khi “sống thử” đã tự tử. Tỷ lệ nạo phá thai ở Việt Nam gia tăng rất nhanh và hiện là một nước có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới, đóng góp không nhỏ là việc “sống thử” của các bạn trẻ. Họ còn chưa đủ tiềm lực về kinh tế, nhận thức về trách nhiệm và hậu quả còn nông cạn, thường cho rằng hiện đại là phải “sống thử”. “Sống thử” nhưng chia tay là thật, theo thống kê từ Bộ tư pháp Mỹ cho thấy trong vòng 15 năm qua, 86% các cuộc “sống thử” đã kết thúc bằng chia tay. Tiếp tục theo dõi 14% tiến đến hôn nhân thì tỷ lệ ly dị của những đôi này lại cao hơn những cặp trước đó đã ra sống riêng. Vì thế, có thể khẳng định “sống thử” không thể là bước đệm cho một cuộc hôn nhân bền vững. Giáo sư xã hội học, bà Linda Waite, sau nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy đã cho biết: Những cặp chung sống gần như vợ chồng đã trải qua kinh nghiệm đau khổ như bị ngược đãi hay phản bội nhau mà hoàn toàn không nhận được sự trợ giúp nào từ gia đình đôi bên. Bà cho biết tiếp, 16% phụ nữ sống chung với bạn trai hay bị đánh đập vào những lần cãi vã, trong lúc chỉ có 5% phụ nữ bị đánh đập khi chung sống với chồng của họ. Những cặp khác, có con chung, không giáo dục nổi con họ vì họ không cảm nhận được ràng buộc thiêng liêng của vợ chồng thực thụ. Đặc biệt, người cha rất vô trách nhiệm, và sống bê tha, không chu cấp cho con mình, mà tự cho mình chỉ là “bạn trai” của mẹ đứa bé, và vô hình chung, người đàn ông đó đã chuyển trách nhiệm nuôi và dạy đứa nhỏ cho bà mẹ. Hơn nữa, bà còn cho biết, đời sống sinh lý của những người không phải là vợ chồng cũng không điều hòa như đời sống vợ chồng. Một phút vui chơi bên người mình yêu, bên tình nhân tưởng như đang ở thiên đường; những tháng ngày vắn vỏi bên nhau tưởng giúp con người thoải mái về tinh thần và thể xác, hay đáp ứng cách trọn vẹn khao khát sống cho nhau. Nhưng hậu quả của nó mang lại rất lớn mà người trong cuộc thường không lường hết được. Đó là việc gia đình sau này lục đục, bất hòa… gây hoang mang tinh thần cho những người thân trong gia đình. Bên cạnh nỗi đau về tinh thần còn có nỗi đau về thể xác, hậu quả của người trong cuộc khó tiên liệu trong hiện tại, vì câu trả lời chỉ có trong tương lai. Có lẽ chỉ với những người đang và sẽ làm mẹ mới hiểu nỗi đau không thể sinh con mà hậu quả của những lần phá thai để lại; hiện tại họ không có lựa chọn nào khác hơn là phá bỏ cái thai, nhẫn tâm trở nên “thú dữ” với chính mầm sống đang từng ngày lớn lên trong bụng. Đó là giải pháp cuối cùng và tất yếu của cuộc ngoại tình, hôn nhân ngoài giá thú, hay “sống thử”, vội vàng “cho” để chứng minh tình yêu của cô gái, hay của những cuộc ăn chơi thác loạn… Một khi cuộc sống chung không xây dựng trên nền tảng vững chắc của gia đình, thì tất yếu sẽ dễ dàng đi đến chỗ rạn nứt và đổ vỡ với những lý do rất đời thường như: ghen tuông, không còn yêu nhau, hay không có trách nhiệm… Và đó cũng là nguyên nhân xảy ra những cuộc ẩu đả, bạo hành giữa vợ chồng với nhau… trước khi chia tay. Phần lớn người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi . Một khi “trao thân gửi phận” cho nhau nhưng không thành vợ thành chồng, cũng để lại nhiều vết thương lòng và tâm lý trong tương lai. Nhiều phụ nữ lỡ “trải nghiệm” trong quá khứ, thì tương lai phải đối diện câu trả lời về trinh tiết với người bạn đời hay khi yên bề gia thất, người cũ quấy rối, tống tiền; hoặc mặc cảm tự ty với gia đình… Tất cả điều đó, thường cản lối đến với cuộc sống tốt đẹp phía trước, và sự chọn lựa vì đó không được trọn vẹn. Và chắc chắn, không có cơ hội tận hưởng hạnh phúc, dù chỉ là những giây phút ngắn ngủi trong cuộc đời dương thế. Tất cả những hậu quả đó, hơn ai hết, chính bản thân người trong cuộc sẽ phải gánh chịu, không chỉ ở thời gian hiện tại mà còn ảnh hưởng dài tới tương lai sau này. Hậu quả của việc “sống thử”, quan hệ trước hôn nhân sẽ dễ sinh nhàm chán và nếu có hôn nhân thì cuộc sống của họ thường không hạnh phúc và tiếp theo là một “lộ trình buồn”. Thật đáng tiếc cho giới trẻ ngày nay. Cái tai hại hơn và không đáng có, lại là nỗi bất hạnh của những đứa trẻ, có thể chúng sẽ không được thấy ánh dương mặt trời của sự “nhẫn tâm và tàn nhẫn” của cha mẹ; hay nếu được sinh ra thì cũng sẽ èo uột vì “thiếu vắng sự ấm áp” từ tình thương của cha hoặc mẹ. Và như thế, chúng sẽ là những đứa trẻ phát triển không bình thường về thể lý và tâm lý .

4. Để hạn chế việc “sống thử”

Theo giáo luật, hai tín hữu Công giáo mặc dù đã làm hôn thú dân sự với nhau, nhưng họ chưa thực hiện bí tích Hôn Phối trước mặt Giáo hội, hôn thú của họ vẫn không phải là bí tích, và do đó họ không thể ăn ở với nhau như vợ chồng thật sự. Đối với những vợ chồng không Công giáo, hôn thú dân sự của họ là hôn phối tự nhiên. Giáo hội vẫn tôn trọng hôn phối đó. Nhưng đối với người Công giáo, họ có nghĩa vụ của các tín hữu, đó là hôn phối của họ phải được kết ước theo thể thức của Giáo hội đã quy định (GL 1108) để có thể là bí tích Hôn Phối. Hôn phối của các người Công giáo, cho dù chỉ một bên là người Công giáo, họ bị chi phối không những bởi luật Thiên Chúa, mà còn bởi luật Giáo hội nữa, tuy vẫn tôn trọng thẩm quyền của luật dân sự về hiệu quả thuần túy dân sự của hôn nhân. Đồng thời, có những người nghĩ rằng vì đã tốn kém nhiều mới lấy được vợ, nên phải ăn ở với nhau càng sớm càng tốt dù chưa làm phép cưới theo luật đạo; cách ứng xử như thế, bộc lộ một thái độ thiếu tôn trọng người bạn đời của mình, coi người bạn đời như món hàng mình đã tốn kém nhiều mới kiếm được nên phải tận hưởng càng sớm càng tốt. Quan niệm đó cũng không phù hợp với giáo lý Công giáo về hôn nhân. Đối với Giáo hội, hôn phối không phải chỉ là chuyện riêng tư thuần túy giữa hai người nam nữ, nhưng còn liên hệ tới tính hiệp thông trong toàn thể cộng đoàn Giáo hội. Thật vậy, từ đôi hôn phối Kitô giáo này sẽ đem đến một gia đình Kitô với tất cả sự phong phú của cuộc sống, khả năng giáo dục tri thức và đức tin, trở nên một tế bào sống động của Giáo hội. Gia đình là tế bào đầu tiên của Giáo hội và được Công Đồng Vaticanô II gọi là “Giáo hội tại gia”. Khi cử hành hôn phối theo nghi thức của Giáo hội, đôi vợ chồng Công giáo bày tỏ quyết tâm dấn thân sống đời hôn nhân theo giới luật của Chúa và những mong đợi của Giáo hội” . “Sống thử” trước hôn nhân là một lối sống đáng phê phán và phải ngăn chặn vì nó để lại nhiều tác hại đối với gia đình và xã hội. Nó làm băng hoại lối sống lành mạnh của giới trẻ và gây nhiều hậu quả đáng tiếc cho chính tương lai của lớp trẻ. Hơn nữa, Giáo hội kêu gọi mọi thành phần dân Chúa hướng đến một đời sống hôn nhân đặt trọng tâm trên giao ước với Thiên Chúa – Đấng là nguồn sự sống đích thực; đồng thời, qua đó, khám phá và đề cao những giá trị Tin Mừng về tình yêu, về sự hiệp thông và những ân ban nhưng không của Thiên Chúa, qua Đức Giêsu, trong Đức Giêsu và nhờ Đức Giêsu. Nơi Ngài, sự sống của Thiên Chúa ban cho con người được cụ thể hóa một cách sống động qua cung cách sống, cung cách ứng xử, cung cách trao tặng Tình yêu – Một tình yêu đích thực “hy sinh mạng sống cho người mình yêu” (x.Ga 15, 13).

#1 Vấn Đề Thất Nghiệp

Trong những năm gần đây chúng ta đã đạt được một số thành tựu phát triển rực rỡ trên nhiều lĩnh vực về mặt kinh tế, chính trị, xã hội…. Tuy nhiên,đằng sau những thành tựu chúng ta đã đạt được, thì cũng có không ít vấn đề mà Đảng và nhà nước ta cần quan tâm như: Tệ nạn xã hội, lạm phát, thất nghiệp… Nhưng có lẽ vấn đề được quan tâm hàng đầu ở đây là thất nghiệp. Thất nghiệp, đó là vấn đề cả thế giới cần quan tâm. Bất kỳ một quốc gia nào dù nền kinh tế có phát triển đến đâu đi chăng nữa thì vẫn tồn tại thất nghiệp. Đó là vấn đề không tránh khỏi chỉ có điều là thất nghiệp đó ở mức độ thấp hay cao mà thôi. Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: “Vấn đề thất nghiệp, lý thuyết và thực tiễn ở Việt Nam”.

Bộ giáo dục và đào tạo, Kinh tế học vĩ mô (giáo trình dùng cho các trường đại học, cao đẳng khối kinh tế), Nxb. Giáo dục Việt Nam, 1997 – 2009.

Trường ĐHKTQD, Giáo trình nguyên lí kinh tế vĩ mô, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2008.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình kinh tế học đại cương, Nxb. CAND, Hà Nội, 2002.

Trần Đình Hoan và Lê Mạnh Khoa, “Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt nam” Nhà xuất bản – Hà nội 1999

Lí thuyết về thất nghiệp

Những người trong độ tuổi lao động là những người ở trong độ tuổi có nghĩa vụ và quyền lợi lao động ghi trong Hiến pháp.

Lực lượng lao động là số người trong độ tuổi lao động đang có việc làm hoặc chưa có việc làm nhưng đang tìm việc làm.

Người có việc là những người đang làm cho những cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hôi,…

Người thất nghiệp là người hiện đang chưa có việc làm nhưng mong muốn và đang tìm việc làm.

Ngoài những người có việc và thất nghiệp, những người còn lại trong độ tuổi lao động được coi là những người không nằm trong lực lượng lao động, bao gồm người đi học, nội trợ gia đình, những người không có khả năng lao động do ốm đau bệnh tật,… và một bộ phận không muốn tìm kiếm việc làm với những lí do khác nhau.

Ảnh hưởng của thất nghiệp

Lợi ích của thất nghiệp

Thất nghiệp ngắn hạn giúp người lao động tìm công việc ưng ý và phù hợp với nguyện vọng và năng lực làm tăng hiệu quả xã hội.

Lợi ích xã hội: Làm cho việc phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả hơn và góp phần làm tăng tổng sản lượng của nền kinh tế trong dài hạn.

Thất nghiệp mang lại thời gian nghỉ ngơi và sức khỏe.

Thất nghiệp mang lại thời gian cho học hành và trau dồi thêm kỹ năng.

Thất nghiệp tạo sự cạnh tranh và tăng hiệu quả.

Tác hại

Hao phí nguồn lực xã hội: con người và máy móc. Quy luật Okun áp dụng cho nền kinh tế Mỹ nói rằng 1% thất nghiệp chu kỳ làm sản lượng giảm 2,5% so với mức sản lượng tiềm năng (xuống dưới mức tự nhiên).

Công nhân tuyệt vọng khi không thể có việc làm sau một thời gian dài.

Khủng hoảng gia đình do không có thu nhập.

Cá nhân thất nghiệp bị mất tiền lương và nhận trợ cấp thất nghiệp.

Chính phủ mất thu nhập từ thuế và phải trả thêm trợ cấp.

Tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp – các nguồn lực con người không được sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản phẩm và dịch vụ.

Thất nghiệp còn có nghĩa là sản xuất ít hơn. Giảm tính hiệu quả của sản xuất theo quy mô.

Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa và dịch vụ không có người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá cả tụt giảm. Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao đưa đến nhu cầu tiêu dùng ít đi so với khi nhiều việc làm, do đó mà cơ hội đầu tư cũng ít hơn. Các doanh nghiệp bị giảm lợi nhuận.

Phân loại thất nghiệp

Theo nguồn gốc thất nghiệp

Thất nghiệp tạm thời: xảy ra khi có một số người lao động trong thời gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm việc tốt hơn, phù hợp với ý muốn riêng, hoặc những người mới bước vào thị trường lao động đang tìm kiếm việc làm hoặc chờ đợi đi làm… Một xã hội trong bất kỳ thời điểm nào đều tồn tại loại thất nghiệp này. Chỉ có sự khác nhau về quy mô số lượng và thời gian thất nghiệp.

Thất nghiệp cơ cấu xảy ra: khi có sự mất cân đối cung cầu giữa các thị trường lao động (giữa các ngành nghề, khu vực,. . . ) loại này gắn liền với sự biến động cơ cấu kinh tế và khả năng điều chỉnh cung của các thị trường lao động. Khi sự lao động này là mạnh và kéo dài, nạn thất nghiệp trở nên trầm trọng và chuyển sang thất nghiệp dài hạn.

Thất nghiệp do thiếu cầu. Do sự suy giảm tổng cầu. Loại này còn được gọi là thất nghiệp chu kỳ bởi ở các nền kinh tế thị trường nó gắn liền với thơì kỳ suy thoái của chu kỳ kinh doanh, xảy ra ở khắp mọi nơi mọi ngành mọi nghề.

Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường. Nó xảy ra khi tiền lương được ấn định không bởi các lực lượng thị trường và cao hơn mức cân bằng thực tế của thị trường lao động.

Theo sự tự nguyện

Thất nghiệp tự nguyện là 1 bộ phận người lao động không làm việc do việc làm và mức lương không phù hợp với mong muốn của họ.

Thất nghiệp không tự nguyện là bộ phận người không có việc làm mặc dù đã chấp nhận làm việc với mức lương hiện tại.

Tỉ lệ thất nghiệp

Tỉ lệ thất nghiệp là tỉ lệ phần trăm số người thất nghiệp so với tổng số người trong lực lượng lao động. Tỉ lệ thất nghiệp là một chỉ tiêu phản ánh khái quát tình trạng thất nghiệp của một quốc gia.

Thực tiễn tình hình thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam những năm gần đây

a. Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam năm 2014

Q1/2014, cả nước có 1.045,5 nghìn người trong độ tuổi lao động bị thất nghiệp, tăng 145,8 nghìn người so với Q4/2013, tuy nhiên đã giảm 22,2 nghìn người so với Q1/2013. Trong số người thất nghiệp, có là 493,0 nghìn người là nữ (chiếm 47,2%), 546,7 nghìn người ở thành thị (chiếm 52,3%).Về tỷ lệ, Q1/2014 tỷ lệ thất nghiệp chung là 2,21%, tăng so với Q4/2013 (1,9%),tuy nhiên giảm nhẹ so với Q1/2013 (2,27%) . Tỷ lệ thất nghiệp của nữ là 2,25%, cao hơn nam (2,17%). Tỷ lệ thất nghiệp thành thị là3,72%, cao gấp 2,4 lần nông thôn (1,53%).

Nhóm lao động trình độ cao tiếp tục khó khăn khi tìm việc làm. Trong Q1/2014,có 162,4 nghìn người có trình độ từ đại học trở lên bị thất nghiệp, chiếm 4,14% tổng số người có trình độ này (mặc dù tỷ lệ này không cao), tăng 4,3 nghìn người so với Q4/2013; có 79,1 nghìn người có trình độ cao đẳng (chiếm 6,81%), tăng 7,5 nghìn người so với Q4/2013.

Thất nghiệp thanh niên tiếp tục làvấn đề cần quan tâm. Trong Q1/2014, cả nước có 504,7 nghìn thanh niên (nhóm từ 15-24 tuổi) bị thất nghiệp (chiếm 6,66%), tăng 54,4 nghìn người so với Q4/2013 và tăng17,0 nghìn người so với Q1/2013. Đặc biệt,có 21,2% thanh niên độ tuổi 20-24 có trình độ từ đại học trở lên bị thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp thanh niên của khu vực thành thị tiếptục ở mức cao (12,3%); của nữ (7,86%), cao hơn hẳn so với của nam (5,66%), cho thấy nữ thanh niên gặp khó khăn hơn khi tìm việclàm.

b. Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam năm 2015

Theo đánh giá của Tổng cục thống kê, nền kinh tế khởi sắc với sự phát triển mạnh của khu vực công nghiệp và dịch vụ là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị.

Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi giảm dần theo quý (quý I là 2,43%; quý II là 2,42%; quý III là 2,35%; quý IV là 2,12%) và giảm chủ yếu ở khu vực thành thị (quý I là 3,43%; quý II là 3,53%; quý III là 3,38%, quý IV là 2,91%).

Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) năm 2015 là 6,85% (năm 2013 là 6,17%; năm 2014 là 6,26%), trong đó khu vực thành thị là 11,20% (năm 2013 là 11,12%; năm 2014 là 11,06%); khu vực nông thôn là 5,20% (Năm 2013 là 4,62%; năm 2014 là 4,63%).

Tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 25 tuổi trở lên năm 2015 là 1,27% (năm 2013 là 1,21%; năm 2014 là 1,15%), trong đó khu vực thành thị là 1,83% (năm 2013 là 2,29%; năm 2014 là 2,08%); khu vực nông thôn là 0,99% (năm 2013 là 0,72%; năm 2014 là 0,71%).

Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi lao động năm 2015 là 1,82% (năm 2013 là 2,75%; năm 2014 là 2,40%), trong đó khu vực thành thị là 0,82% (năm 2013 là 1,48%; năm 2014 là 1,20%); khu vực nông thôn là 2,32% (năm 2013 là 3,31%; năm 2014 là 2,96%).

Tỷ lệ thiếu việc làm có xu hướng giảm dần vào cuối năm (quý I là 2,43%; quý II là 1,80%; quý III là 1,62%; quý IV là 1,66%) và giảm chủ yếu ở khu vực nông thôn (quý I là 3,05%; quý II là 2,23%; quý III là 2,05%; quý IV là 2,11%).

Theo Tổng cục thống kê, ước tính trong năm 2015 cả nước có 56% lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản có việc làm phi chính thức(năm 2013 là 59,3%; năm 2014 là 56,6%), trong đó thành thị là 47,1% (năm 2013 là 49,8%; năm 2014 là 46,7%) và nông thôn là 64,3% (năm 2013 là 67,9%; năm 2014 là 66,0%).

Nguyên nhân thất nghiệp ở Việt Nam

Thất nghiệp gia tăng do suy giảm kinh tế toàn cầu: Suy giảm kinh tế toàn cầu khiến cho nhiều xí nghiệp nhà máy phải thu hẹp sản xuất, thậm chí phải đóng cửa do sản phẩm làm ra không tiêu thụ được. Chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu còn thấp không sánh kịp với các sản phẩm chất lượng cao của các quốc gia có trình độ phát triển cao. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp phải cắt giảm nguồn lao động dẫn đến lao động mất việc làm. Đây là nguyên nhân chủ yếu, kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào đầu tư và xuất khẩu nên khi kinh tế toàn cầu bị suy giảm thì nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng rất lớn và hậu quả là nạn thất nghiệp sẽ tăng cao.

Nếp nghĩ có lâu trong thanh niên: với thói quen học để ” làm thầy ” chứ không ai muốn mình ” làm thợ “, hay thích làm việc cho nhà nước mà không thích làm việc cho tư nhân. Với lý do này , nhu cầu xã hội không thể đáp ứng hết yêu cầu của lao động, điều này là thiếu thực tế bởi không dựa trên khả năng của bản thân và nhu cầu của xã hội. Một bộ phận lao động trẻ lại muốn tìm đúng công việc mình yêu thích mặc dù các công việc khác tốt hơn nhiều, dẫn đến tình trạng những ngành cần lao động thì lại thiếu lao động, trong khi đó lại thừa lao động ở các ngành không cần nhiều lao động.

Lao động Việt Nam có trình độ tay nghề thấp: chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất ngày.Kinh tế Việt Nam từng bước áp dụng nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới nên đòi hỏi một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao, thành thạo tay nghề. Trong khi đó đội ngũ lao động ở nước ta chỉ một số ít lao động có trình độ, tay nghề. Tác phong công nghiệp của lực lượng lao động nước ta còn non yếu,thiếu tính chuyên nghiệp; trong khi nền kinh tế đòi hỏi một đội ngũ lao động năng động.

Phương hướng giải quyết và giải pháp khắc phục

Tăng nguồn vốn đầu tư (chủ yếu lấy từ dự trữ quốc gia,vay nước ngoài) đẩy nhanh tiến bộ xây dựng cơ sở hạ tầng,làm thuỷ lợi,thuỷ điện,giao thông…nhằm tạo việc làm mới cho lao động mất việc làm ở khu vực sản xuất kinh doanh,nới lỏng các chính sách tài chính,cải cách thủ tục hành chính nhằm thu hút vốn đầu tư của nước ngoài tạo việc làm mới cho người lao động. Bên cạnh đó chúng ta phải khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho các doanh nghiệp vay vốn để mua sắm trang thiết bị sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất.

Sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả của hệ thống dịch vụ việc làm. Xã hội hoá và nâng cao chất lượng đào tạo hệ thống đào tạo dạy nghề

Khuyến khích sử dụng lao động nữ. Khuyến khích sử lao động là người tàn tật. Hỗ trợ các cơ sở sản xuất của thương binh và người tàn tật.

Chính sách bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội. Hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo cho lao động thuộc diện chính sách ưu đãi, lao động thuộc đối tượng yếu thế.

Tập chung phần vốn tín dụng từ quỹ quốc gia về việc làm với lãi xuất ưu đãi do các đối tượng trọng điểm vay theo dự án nhỏ để tự tạo việc làm cho bản thân gia đình và công cộng.

Thất nghiệp là một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan và gây ra những hậu quả xấu ngăn cản sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.Vì vậy,vấn đề giải quyết thất nghiệp là vấn đề cấp bách hơn bao giờ hết,giảm bớt thất nghiệp không những tạo điều kiện để phát triển kinh tế mà còn thúc đẩy ổn định xã hội .Một xã hội có nền kinh tế phát triển,tỷ lệ thất nghiệp thấp thì tệ nạn xã hội sẽ bị đẩy lùi,đời sống nhân dân được nâng cao.

Trân trọng./.

Tư Vấn Về Vấn Đề Đi Đăng Ký Bảo Hộ Website

Đi đăng ký bảo hộ website có thể được hiểu là việc được pháp luật, xã hội, quần chúng công nhận cho cá nhân, tổ chức đối với website do mình sáng tạo ra. Trong thời đại công nghệ số hiện nay, để thiết kế, tạo ra một website là vô cùng nhanh chóng và dễ dàng.

Điều này vô hình chung dẫn đến vô vàn những vấn đề cho các công ty, doanh nghiệp trong việc bảo vệ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với website thuộc sở hữu của mình.

Website được hiểu như thế nào?

Tại Khoản 8 Điều 3 Nghị định 52/2013/NĐ-CP có định nghĩa thuật ngữ này.Theo đó, Website là một trang thông tin điện tử. Được thiết lập để phục vụ một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ, từ trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ đến giao kết hợp đồng, cung ứng dịch vụ, thanh toán và dịch vụ sau bán hàng.

Trình tự đăng ký bảo hộ website như thế nào?

Thương nhân, tổ chức tiến hành đăng ký trực tuyến tại địa chỉ online.gov.vn

Các bước thực hiện thủ tục đăng ký như sau:

Bước 1: Thương nhân, tổ chức đăng ký tài khoản đăng nhập hệ thống online.gov.vn bằng việc cung cấp thông tin theo mẫu.

Bước 2: Trong thời hạn 3 ngày làm việc, thương nhân, tổ chức nhận kết quả từ Bộ Công Thương qua địa chỉ thư điện tử đã đăng ký về một trong các nội dung sau:

Nếu thông tin đăng ký tài khoản đầy đủ. Thương nhân, tổ chức được cấp một tài khoản đăng nhập hệ thống và tiến hành tiếp Bước 3;

Nếu đăng ký tài khoản bị từ chối hoặc yêu cầu bổ sung thông tin. Thương nhân, tổ chức phải tiến hành đăng ký lại hoặc bổ sung thông tin theo yêu cầu.

Bước 3: Sau khi được cấp tài khoản đăng nhập hệ thống. Thương nhân, tổ chức tiến hành đăng nhập, chọn chức năng Đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử, tiến hành khai báo thông tin theo quy định.

Bước 4: Trong thời hạn 7 ngày làm việc, thương nhân, tổ chức nhận thông tin phản hồi của Bộ Công Thương qua địa chỉ thư điện tử đã đăng ký về một trong các nội dung sau:

Xác nhận hồ sơ đăng ký đầy đủ, hợp lệ và yêu cầu thương nhân, tổ chức thực hiện tiếp Bước 5.

Thông báo hồ sơ đăng ký không hợp lệ hoặc yêu cầu bổ sung thông tin. Khi đó thương nhân, tổ chức quay về Bước 3 để khai báo lại hoặc bổ sung các thông tin, hồ sơ theo yêu cầu.

Bước 5: Sau khi nhận được thông báo xác nhận hồ sơ đầy đủ và hợp lệ. Thương nhân, tổ chức gửi về Bộ Công Thương (Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số) bộ hồ sơ đăng ký hoàn chỉnh (bản giấy) theo quy định.

Lưu ý: Thương nhân, tổ chức có trách nhiệm theo dõi tình trạng xử lý hồ sơ qua thư điện tử hoặc tài khoản truy cập hệ thống đã được cấp để tiến hành cập nhật và chỉnh sửa thông tin theo yêu cầu. Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ khi nhận được thông báo yêu cầu bổ sung thông tin ở Bước 4. Nếu thương nhân, tổ chức không có phản hồi thì hồ sơ đăng ký trên hệ thống sẽ bị chấm dứt và thương nhân, tổ chức phải tiến hành đăng ký lại từ đầu.

Lợi ích của việc đăng ký bảo hộ website ra sao?

Việc đi đăng ký bảo hộ website đem lại những thuận lợi sau:

Thứ nhất, thu hút và củng cố lòng tin đối với các đối tác và khách hàng. Bên cạnh việc chứng minh cho sự tuân thủ pháp luật chặt chẽ, việc sở hữu website với các thông tin, nội dung được xác thực sẽ tạo ra sự thuận lợi cho các đối tác, khách hàng tiềm năng có nhu cầu hợp tác, sử dụng dịch vụ của công ty, doanh nghiệp chủ quản website. Đây là 1 lợi ích khi đăng ký bản quyền website rất được đối với doanh nghiệp

Thứ hai, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, tổ chức. Chứng nhận đăng ký là bằng chứng tốt nhất chứng minh quyền sở hữu của tác giả đối với tác phẩm. Nó hỗ trợ doanh nghiệp, tổ chức phòng tránh tối đa khỏi việc bị xâm hại, hoặc giúp cho bên thứ 3 phòng tránh việc xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như là một công cụ hữu ích có thể sử dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Mong rằng bài viết trên của chúng tôi đã giúp bạn có thêm thông tin về đăng ký bảo hộ website. Nếu cần thêm thông tin chi tiết hoặc có bất kỳ thắc mắc nào thì liên hệ với chúng tôi.

Đề Tài Một Số Giải Pháp Về Vấn Đề Dân Số

LỜI MỞ ĐẦU. Cho đến nay, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp chậm phát triển quy mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số cao. Thời kỳ Hùng Vương dựng nước, dân số Việt Nam mới khoảng một triệu người. Nhưng trong thế kỷ 20, dân số nước ta tăng rất nhanh. Năm 1945 mới có 23 triệu người; 1960: 30 triệu người; 1979: gân 53 triệu; 1989: trên 64 triệu; 1999: trên 76 triệu và đến nay đã trên 80 triệu. “Sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế – xã hội, gây khó khăn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hoá và thể lực của giống nòi. Nếu xu thế này cứ tiếp tục diễn ra thì tương lai không xa đất nước ta sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí gây ra những nguy cơ về nhiều mặt”. Các quan điểm trên thế giới hầu hết đều cho rằng giữa dân số và kinh tế luôn có mối quan hệ tương tác theo cả hai chiều. Trong hoàn cảnh này thì dân số tăng sẽ có lợi về kinh tế những trong hoàn cảnh khác thì ngược lại vì phát triển kinh tế không chỉ đơn thuần dựa vào nguồn nhân lực. Dân số vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng tiêu dùng. Bởi vậy, quy mô, cơ cấu dân số có ảnh hưởng lớn đến quy mô, cơ cấu sản xuất tiêu dùng và tích luỹ của xã hội. PHẦN I : THỰC TRẠNG DÂN SỐ VIỆT NAM Ngày dân số thế giởi năm nay đến với nước ta trong niềm tự hào và phấn khởi bởi những thành tựu của sự nghiệp đổi mới. Đúng vào lúc dân số thế giới đạt tới con số 3 tỷ người và dân số Việt Nam vừa vượt qua con số 30 triệu người thì Chính phủ Việt Nam ban hành quyết định số 216/CP ngày 26/12/1961 về việc sinh đẻ có hướng dấn với mục đích: “Vì sức khoẻ của bà mẹ, vì hạnh phúc và hoà thuận trong gia đình và để nuôi dạy con cái được chu đáo, việc sinh đẻ của nhân dân cần được hướng dẫn chu đáo”. Ngày 26/12/1961 trở thành một mốc lịch sử quan trọng của chương trình dân số Việt Nam, ngày Việt Nam chính thức tuyên bố tham gia chương trình dân số toàn cầu, đánh dấu sự khởi đầu về nhận thức được ý nghĩa của mối quan hệ giữa dân số và phát triển trong tiếng chuông báo động về tình hình gia tăng dân số quá nhanh trên thế giới. Sau nhiều năm phán đấu kiên trì và gian khổ, công tác dân số kế hoạch hoá gia đình ( DS – KHHGĐ) ở nước ta đã có chuyển biến đáng kể và đạt kết quả đáng khích lệ. Nhiều mục tiêu nêu ra trong chiến lược DS – KHHG đến năm 2000 về mặt giảm mức sinh, về quy mô dân số và thực hiện kế hoạch hoá gia đình đã được thực hiện vượt mức. Số con trung bình của một phụ nữ Việt Nam ở tuổi sinh đẻ (từ 15 đến 49) ngày càng giảm. Lấy năm 1960 làm mốc, lúc đó số con trung bình của họ và 6,39 con (tương đương với mức sinh tiềm năng) đến năm 1975, tức sau 14 năm thực hiện sinh đẻ có kế hoạch là 5,25 con; năm 1985 là 3,95 con; năm 1994 là 3,1 con, năm 1999 là 2,3 con và năm 2002 là 2,28 con. Tỷ lệ sinh con cũng ngày càng giảm. Năm 1960, tỷ lệ sinh ở miền Bắc là 43,9%, đến năm 1975 giảm xuống còn 33,2%. Sau khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, tỷ lệ sinh giảm rất nhanh, năm 1994 giảm còn 2,53%; năm 2000 còn 1,90%. Tỷ lệ sinh con thứ 3 cũng giảm dần nhưng chưa ổn định. Như vậy, thực hiện cuộc vận động kế hoạch hoá gia đình, chúng ta đã giảm được mức sinh đáng kể. Tuy nhiên, quy mô dân số của nước ta vân lớn và có chiều hướng ngày càng lớn. Năm 1921 dân số Việt Nam mới có 15,58 triệu người, sau 40 năm là 30,17 triệu và hiện nay khoảng 80,5 triệu người. Dân số tăng nhanh, trong khi diện tích đất đai của Việt Nam không tăng, chỉ có 33,1 triệu KM2, do đó, mật độ dân số tăng rất nhanh. Đến nay, mật độ dân số nước ta là 243 ngươi/km2 và gấp 6 lần mật độ dân số chuẩn của quốc tế. Do quy mô dân số lớn, mật độ dân số cao, kinh tế còn nghèo, nên chất lượng dân số của Việt Nam còn thấp. Các tổ chất về thể lực của người Việt Nam hiện nay còn hạn chế, đặc biêt là chiều cao, cân nặng, sức bền. Năm 1998, tỷ lệ trẻ em sơ sinh cân nặng dưới 2500 gam chiếm 8%. Năm 1999, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng cao chiếm 36,7%. Đáng lưu ý là vẫn còn 1,5% số dân bị thiểu năng về trí lực và thể lực. Tính đến ngày 1/4/1999 cả nước vẫn còn 6,8 triệu người từ 10 tuổi trở lên chưa bao giờ đến trường, trong đó có 5,3 triệu người không hoàn toàn biết chữ. Tỷ lệ số người đã qua đào tạo nghề nghiệp và chuyên môn kỹ thuật chiếm 7,6% dân số từ 13 tuổi trở lên, trong đó có 2,3% là công nhân kỷ thuật và nhân viên nghiệp vụ có bằng cấp, 2,8% có trình độ trung học chuyên nghiệp; 0,7% cao đẳng; 1,7% đại học và 0,1% có trình độ trên đại học. Tuy nhiện, cũng cần thấy rằng những kết quả đạt được của công tác dân số kế hoạch hoá gia đình còn chưa thực sự vững chắc, thể hiện ở việc giảm chẩm tỷ lệ sinh con thứ 3, cơ cấu sử dụng các biện pháp tránh thai còn chưa hợp lý, chất lượng dịch vụ kế hoạch hoá gia đình còn chưa cao, do đó dẫn đến tỷ lệ nạo phá thai còn cao, tỷ lệ tai biến và thất bại còn ở mức đáng lo ngại. Từ đó, chúng ta có thể rút ra đặc điểm cơ bản của dân số nước ta là: Quy mô dân số quá lớn với 87 triệu dân, nước ta xếp thứ 13 trên thế giới về quy mô dân số. Mật độ dân số thì nước ta còn gấp đôi thế giới, gấp 6 lần mật độ mà các nhà khoa học thế giới cho là hợp lý. Dân số nước ta lại phát triển nhanh, từ năm 1921 đến 1975, dân số nước ta tăng gấp 5 lần, trong khi thế giới tăng khoảng 3 lần. Cơ cấu dân số trẻ: hiện nay tỷ lệ trẻ em 14 tuổi trở xuống của nước ta chiếm 33% trong khi Nhật Bản khoảng 16%. Dân số phân bố không đều và chủ yếu tập trung ở nông thôn, chỉ có 23% dân số sông ở đô thị. Quy mô dân số lớn nên lực lượng lao động dồi dào, Việt Nam vừa có khả năng phát triển toàn diện các ngành kinh tế, vừa có thể chuyên môn hoá lao đông sâu sắc, tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy xã hội phát triển. Lực lượng lao động của nước ta vào loại trẻ, dễ chuyển dịch và tạo ra tính năng động cao trong hoạt động kinh tế. Với 80,5 triệu dân cũng là 80,5 triệu người tiêu dùng. Đây là một thị trường rộng lớn, hấp dẫn đầu tư, kích thích sản xuất, phát triển kinh tế. Tuy nhiên, những đặc điểm dân số nói trên cũng có tác động tiêu cực đến sự nghiệp phát triển kinh tế. Điều này có thể tập trung xem xét trên các khía cạnh, tác động của dân số đến nguồn lao động, việc làm tăng trưởng kinh tế, tiêu dùng và tích luỹ. 1. Dân số với lao động và việc làm: a/ Đặc điểm dân số với lao động, việc làm: Dân số và phát triển nguồn nhân lực tạo việc làm có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động lẫn nhau trong các quá trình phát triển. Quá trình tăng, giảm dân số có quan hệ vơi sự phát triển quy mô và chất lượng nguồn nhân lực xã hội, tác động đến quan hệ cung – cầu lao động trên thị trường lao động Quan hệ dân số – lao động và việc làm ở nước ta có những đặc trưng sau: Một là, Việt Nam có quy mô dân số lớn và phát triển nhanh nên quy mô của nguồn lao động cũng rất lớn và thường phát triển nhanh hơn so vơi tổng dân số. Luật pháp nước CHXHCN Việt Nam quy định tuổi lao động của nam từ 15 đến 60, còn đối với nữ là 15 đến 65 tuổi. Tỷ lệ dân số trong tuổi lao động Việt Nam năm 1997 là gần 58% vơi khoảng 44 triệu người. Nguồn lao động ở nước ta có quy mô lớn và tăng rất nhanh. Số người bước vào tuổi lao động hàng năm không ngừng tăng lên. Năm 1990: 1,448 nghìn người; 1995: 1,651 nghìn người; dự báo năm 2000: 1,76 nghìn người; 2010: 1,830 nghìn người và tổng số người trong độ tuổi lao động lên tới gần 58 triệu. Từ nay đên năm 2010, mặc dù dân số có thể tăng chậm lại nhưng nguồn lao động của nước ta vẫn tăng nhanh liên tục. Biểu đồ cho thấy dân số nam có việc nhiều hơn dân số nữ. So với nam (khoảng 77%) số phần trăm nữ có việc làm cao hơn ở khu vực nông thôn (gần bằng 80% tổng số), phản ánh tỷ lệ tham gia lao động của phụ nữ ở khu vực thành thị tương đối thấp. Biểu đồ 1.1: Phân bổ dân cư có việc làm từ 15 tuổi trở lên theo khu vực thành thị/nông thôn và theo giới tính ở Việt Nam năm 1999. Đơn vị: 1000 người. Thành thị/ Nông thôn Nam Nữ Tổng số Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng tỷ lệ (%) Số lượng tỷ lệ (%) Nông thôn 14.330 77,4 13.796 79,6 28.126 78,5 Thành thị 4.178 22,6 3.543 20,4 7.721 21,5 Tổng số 18.508 100.0 17.339 100.0 35.847 100.0 Sự già hoá rõ nét của lực lượng lao động trong 10 năm qua được thể hiện qua biểu 1.2: Phân bố phần trăm dân số có việc làm chia theo nhóm tuổi trong năm 1989 và 1999 Đơn vị: Tỷ lệ % Nhóm tuổi 1989 1999 Nam Nữ Tổng 15 – 24 30,5 24,2 27,1 25,6 25 – 34 32,6 31,9 29,6 30,8 35 – 44 17,4 24,8 24,9 24,9 45 -54 10,8 11,4 11,5 11,4 Trên 55 8,7 7,7 6,9 7,3 Tổng số 100.0 100.0 100.0 100.0 Về mức tăng tuyệt đối, nêu trong 5 năm từ 1976 đến 1986, bình quân mỗi năm tăng thêm 75 – 80 vạn lao động, trong 5 năm gần đây, mỗi năm thêm 1,06 triệu và giữ nguyên mức tăng trên 1 triệu người/ năm kéo dài đến suốt năm 2005. Từ năm 2005 mức tăng dân số trong tuổi lao động mới có thê giảm dần và ngừng tăng vào những năm 30 của thế kỷ 21. Biểu 1.3: Mức tăng số lượng tuyệt đối nguồn lao động. Năm Số lượng 1989 1990 1995 2000 2005 Tổng dân số ở độ tuổi lao động (triệu người) 30,3 35,6 40,7 46,2 51,5 Tỷ lệ so với tổng dân số (%) 50,2 53,5 55,5 57,8 59,8 Mức tăng bình quân hàng năm qua các thời kỳ (trăm nghìn người) 900 1.060 1.023 1.090 1.055 Nguồn lao động nước ta hiện nay đông đảo và tăng nhanh, một mặt do sự bùng nổ dân số ở các thời kỳ trước, mặt khác, do sự vận động tự nhiên của dân số cơ cấu dân số đang chuyển dần từ loại hình cơ cấu dân số trẻ sang loại hình dân số ngày càng hợp lý hơn. Sự biến đổi này làm cho nguồn lao động tiếp tục tăng và tiếp tục trẻ hoá. Số lượng lao động trẻ (từ 16 đến 35 tuổi) tăng lên không ngừng suốt từ nay đến năm 2005; từ 25 triệu tăng năm 1990 lên 26,8 triệu năm 1995 và 30,4 triệu năm 2005. Đây rõ ràng là một thế mạnh của nguồn lao động nước ta trong công cuộc xây dựng đất nước trong thời gian tới, trong điều kiện đất nước có nguồn vốn đầu tư it, trang bị kỹ thuật thấp. Số thanh niên trẻ trong tổng số nguồn lao động là những người trẻ, khoẻ, nhanh nhạy, dễ tiếp thu và nắm bắt kỹ thuật mới, công nghệ mới, nếu được đào tạo và bồi dưỡng một cách chu đáo chắc chắn sẽ là một nguồn lực mạnh để xây dựng đất nước. Nhưng chỉ riêng về măt số lượng, chúng ta thấy nguồn lao động của nước ta tăng mạnh trong thập kỷ 90 và tiếp tục tăng với tỷ lệ cao trong nhiều năm sắp tới. Điều đó đã gây ra sức ép rất lớn về giải quyết việc làm, làm phát sinh mâu thuẩn căng thẳng giữa khả năng tạo việc làm còn hạn chế với nhu cầu giải quyết việc làm ngày càng tăng. Hai là, xét về mặt cơ cấu ngành nghề, trong quá trình CNH – HĐH, lao động nông nghiệp có xu hướng giảm dần, còn lao động trong khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đang tăng lên, song cho đến nay Việt Nam vẫn con có một cơ cấu lao động theo ngành hết sức lạc hậu, lao động chủ yếu làm việc trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp. Việc cải thiện cơ cấu lạc hậu này diễn ra rất chậm chạp. Điều này phụ thuộc nhiều nguyên nhân, trong đó có yếu tố mức sinh ở nông thôn luôn luôn cao khoảng gấp đôi ở thành phố. Do vây, lao động tích tụ ở đây cũng ngày một nhiều và tỷ trọng giảm chậm, mặc dù đã diễn ra luồng di dân mạnh mẽ từ nông thôn ra đô thị, kèm theo sự chuyển đổi ngành nghề. Trong nông nghiêp, trong khi số dân và lao động khu vực tăng lên nhanh chóng thì quỹ đất canh tác lại có hạn. Hơn nữa, quá trình CNH đất nước càng diễn ra mạnh mẽ thì đất nông nghiệp ngày càng phải chuyển giao cho công nghiệp, dịch vụ, các công trình công cộng khác. Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người không ngừng giảm xuống trong thời gian qua. Năm 1921 bình quân 0,4 ha/người, năm 1993 còn 0,098 ha/người. Bình quân hộ giàu ở nông thôn Việt Nam mới có 1,2 ha đất canh tác trong khi ở Mỹ là 80 ha, ở châu Âu là 9 ha. Sức ép của dân số, lao động trên đất đai hạn hẹp gây ra tình trạng thiếu việc làm phổ biến. Lao động nông nghiệp làm việc theo mùa vụ, mà ruộng đất là tư liệu sản xuất chính có ít nên số ngày công của lao động trong năm thường rất thấp (187 ngày/ năm). Hiện tại hình thức kinh tế trang trại đang được Nhà nước khuyến khích phát triển cũng gặp nhiều khó khăn khi diện tích đất đai bình quân của các hộ gia đình ngày càng bị thu hẹp. Thêm nữa là tình trạng khó khăn trong tạo việc làm ở các ngành khác đã dẫn tới hiện tượng tồn đọng thêm lao động nông thôn vào khu vực nông nghiệp. Năm 1997, có tới 7.358,199 người từ 15 tuổi trở lên, chiếm 25% tổng số lao động hoạt động kinh tế thường xuyên ở khu vực nông thôn thiếu việc làm. Tình trạng khan hiếm đất dẫn tới đồng ruộng manh muốn, phân tán, khó thúc đẩy việc áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật như cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, tổ chức lao động khoa học. Tình trạng di dân tự do từ nông thôn lên thành thị hoặc từ đồng bằng sông Hồng lên miền núi phía Bắc và Tây nguyên đã phát sinh và ngày càng tăng mạnh, dẫn đến nạn phá rừng trầm trọng. Diện tích rừng suy giảm theo tốc độ tăng của dân số, dân số năm 1981 so với năm 1943 tăng 2,5 lần, diện tích rừng chỉ còn lại 40%. Công nghiệp và dịch vụ là những ngành cần tập trung vốn đầu tư lớn, nhưng do quy mô dân số tăng nhanh, cơ cấu dân số trẻ đòi hỏi phải sử dụng nhiều thu nhập quốc dân (GDP) cho giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, … dẫn đến tình trạng thiếu trầm trọng vốn tích luỹ đầu tư cho công nghiệp, dịch vụ. Cơ cấu lao động theo ngành nghề của Việt Nam thể hiện tình trạng lạc hậu của nền kinh tế, cho đến năm 1998, lao động công nghiệp mới chỉ chiếm 13%, dịch vụ 21%, còn chủ yếu 66% vẫn làm việc trong ngành nông nghiệp. ở khu vực kinh tế có sự khác biệt rõ rệt về cơ cấu lao động làm việc theo nhóm ngành kinh tế. ở khu vực kinh tế Nhà nước lao động chủ yếu làm vịêc trong nhóm ngành dịch vụ, ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thành phần kinh tế hỗn hợp và ở thành phần kinh tế tư nhân, lao động chủ yếu làm việc trong nhóm ngành công nghiệp và xây dựng, ở khu vực kinh tế tập thể, cá thể, lao động chủ yếu làm việc trong nhóm ngành nông lâm, ngư nghiệp … Đến năm 1999 số người làm việc trong khu vực tập thể giảm xuống một nửa so với năm 1989, hiện còn chiếm 27% lực lao động. Lao động làm việc trong thành phần kinh tế Nhà nước giảm xuông tương tự đến năm 1999 chỉ còn 10%. Số lao động giảm xuống trong hai thành phần kinh tế nói trên dẫn đến sự mở rộng các thành phần kinh tế khác lên gần gấp đôi (tăng 63%). Các thành phần kinh tế (%) Nhà nước Tập thể Tư nhân Cá thể Hỗn hợp 100% vốn nước ngoài Tổng số Thành thị 27,0 5,8 1,9 60,7 3,3 1,3 100,0 Nông thôn 9,8 32,8 0,4 61,1 0,3 0,3 100,0 Tổng số 9,8 27,0 0,7 61,0 1,0 0,5 100,0 Dân số có việc làm: Hiện tại, chất lượng lao động thấp, cơ cấu đào tạo nghề không hợp lý, phân bố không phù hợp là những nhân tố quan trọng cùng với yếu tố thiếu vốn, khủng hoảng tài chính, tiền tệ gây khó khăn trong quá trình tạo thêm việc làm trong khu vực công nghiệp, dịch vụ. Tỷ lệ công nhân kỹ thuật được đào tạo ở nước ta còn thấp, chỉ chiếm 4,37% lực lượng lao động và một nửa trong số đó tuy đã được đào tạo nhung không có bằng. So với các nước trên thế giới và trong khu vực, tỷ lệ thất nghiêp của Việt Nam hiện nay tương đối cao và không ổn định (năm 1996: 5,62%, năm 1997:5,81%) và tập chung ở những vùng đông dân hay các đô thị lớn Bảng 1.4: Tỷ lệ thất nghiệp của lao động Việt Nam phân theo vùng. Đơn vị: Tỷ lệ %. Năm Vùng 1996 1997 1998 Miền núi và trung du phía Bắc 6,13 6,01 6,25 Đồng bằng sông Hồng 7,31 7,56 8,25 Bắc Trung bộ 6,67 6,69 7,62 Duyên hải miền trung 5,3 5,2 6,67 Đông Nam bộ 5,3 5,79 6,44 Tây Nguyên 4,08 4,48 5,88 Đồng bằng sông Cửu Long 4,59 4,56 6,44 Bình quân cả nước 5,62 5,81 6,85 Ba là, tuy số lượng lao động lớn nhưng chât lượng lao động lại thấp: Về mặt sức khoẻ: Các chỉ tiêu quan trọng nhất là thể lực, tầm vóc, tuổi thọ trung bình, … của lực lượng lao động đều đang ở mức báo động. Do tình trạng thiếu dinh dưỡng nên thể chất, sức khoẻ của người lao động ngày càng sa sút. Đặc biệt báo động là vấn đề trẻ em suy dinh dưỡng, số trẻ em suy dinh dưỡng ở độ tuổi dưới 5 tuổi. Điều này rõ ràng ảnh hưởng trực tiếp đến các thế hệ lao động trong các thập kỷ sau này. Về trình độ văn hoá: Theo thống kê của cuộc tổng điều tra dân số năm 1999, số lượng dân số từ 10 tuổi trở lên chưa bao giờ đến trường chiếm 12,6%. Do công tác xoá nạm mù chữ đã được triển khai nên bước đầu tỷ lệ người biết chữ tăng từ 85% năm 1979 lên 88% năm 1989. Đặc biệt là ở nông thôn, nơi chiếm hơn 80% dân số và 25 triệu lao động, chỉ có 1,5 triệu người có trình độ PTTH, 0,67 triệu có trình độ Trung cấp và 0,25 triệu có trình độ đại học, cao đẳng trở lên. Từ những con số nói trên có thể rút ra kết luận rằng trình độ văn hoá hay dân trì nói chung của người lao động nước ta hiện nay còn quá thấp so với yêu cầu để phát triển đất nước và so với trình độ chung của thế giới. Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tay nghề của người lao động nước ta hiện nay cũng đang ở mức rất thấp. Hiện nay, chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta còn thấp. Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam xếp thứ 108/174 nước. Tỷ lệ lao động qua đào tạo mới đạt khoảng 21,9% lực lượng lao động xã hội, phần lớn lao động dư thừa, cung cầu lao động bất cân đối, phản ứng của cung với cầu lao động rất thấp, tiền lương, tiền công của đại bộ phận lao động làm công ăn lương mới chỉ đảm bảo mức sống tổi thiểu. Đến đây, chúng ta đã có một bức tranh khá đầy đủ về nguồn lao động nước ta. Nguồn lao động nước ta có đặc điểm trí, khoẻ trong những điều kiện và môi trường thuận lợi đã tỏ rõ sự nhanh nhạy, thông minh, tháo vát,… nhưng nhìn chung chất lượng còn thấp, nhiều mặt đang ở mức báo động. Tất cả những điều trên đã gây ra những khó khăn lớn trong việc đáp ứng những nhu cầu để phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt trong việc giải quyết sắp xêp việc làm cho người lao động. Thực tế cho thấy, ở các địa phương có tỷ lệ tăng dân số cao kinh tế – xã hội cũng thường chậm phát triển, chất lượng nguồn nhân lực thấp. Đời sống của người lao động và dân cư tại các địa phương này chậm được cải thiện, thể hiện ở thu nhập bình quân/người/ năm thấp so với mức bình quân chung cả nước (năm 2000 cả nước thu nhập bình quân đầu người là 651,5 nghìn đồng thì Hoà Bình: 383,7 nghìnđồng; Gia Lai: 499,2 nghìn đồng, …), số hộ có thu nhập thấp không có điều kiện để đầu tư phát triển vốn nhân lực. Quá trình CNH – HĐH sẽ tạo thêm nhiều việc làm trong các ngành nghề mới với công nghệ và quản lý hiện đại (đặc biệt là khu công nghệ cao), đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực phải đổi mới, nâng cao để thoã mãn nhu cầu phát triển. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập, tính cạnh tranh kinh tế, nâng cấp công nghệ và nhu cầu đào tạo lại người lao động ngày càng tăng, dẫn đến sự biến động và tình trạng thất nghiệp thường xuyên. Do đó, chất lượng dân số, suy cho cùng là chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định đối với khả năng tìm việc làm và tạo việc làm. Cơ hội việc làm đối với lao động có kỹ năng cao hơn rất nhiều so với lao động không có kỹ năng. Các mối quan hệ dân số, việc làm đã được các nhà kinh tế nước ngoài tổng kết với tính quy luật như sau: Tăng dân số kéo theo tăng nhu cầu việc làm để thoã mãn sự tăng thu nhập và tiêu dùng của số lượng người phải nuôi có quy mô và tăng nhanh trong dân số, trong khi khả năng tạo thêm việc làm lại có hạn tại các nước có nền kinh tế chậm phát triển. Mâu thuẫn này tạo nên vấn đề việc làm một cách gay gắt. Dân số tăng nhanh sau 10 đến 20 năm nữa sẽ kéo theo sự gia tăng lực lượng lao động xã hội. Rõ ràng, nhu cầu việc làm không chỉ là đối với quy mô và lao động hiện có mà còn là đòi hỏi cấp bách để thoã mãn nhu cầu của số lao động mới hàng năm. Tình trạng thiếu lao động lành nghề, thừa lao động giản đơn, thiếu vốn để mở rộng việc làm, sự lạc hậu về cơ cấu và phân bổ nguồn lao động, thiếu khả năng chi trả cho người lao động tự doanh nghiệp và Chinh phủ … là những vấn đề nam giải đối với các nước đang phát triển cả về kinh tế cũng như xã hội. Quá trình CNH đô thị hoá và tỷ lệ tăng dân số, nguồn lao động cao ở nông thôn đồng thời là quá trình di dân nông thôn tới các thành phố lớn và khu công nghiệp tâp trung, khu chế xuất. Di dân trực tiếp tác động tới vấn đề lao động việc làm ở cả hai đầu đi và đến. Đối với một số th

Vấn Đề Quản Lý Chất Lượng Sản Phẩm

Như đã trình bày, chất lượng sản phẩm mang ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp, hiểu rõ, hiểu sâu về chất lượng sản phẩm không chưa đủ nói lên điều gì vì không phải cứ sản xuất sản phẩm ra là đã có chất lượng mà điều tối quan trọng là chúng ta phải tác động vào nó, quản lý nó theo đúng mục tiêu đã định. Vậy quản lý chất lượng là gì ? Và quản lý như thế nào cho có hiệu quả lại la vấn đề rất phức tạp và cũng có không ít các quan điểm, các trường phái khác nhau nhìn nhận về cùng một vấn đề này. Mà chính lý do đó mà quản lý chất lượng ngày một hoàn thiện hơn tương xứng với tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm. Ta hãy nghiên cứu vấn đề này qua các nội dung sau.

Quản lý chất lượng sản phẩm.

Cũng như chất lượng sản phẩm, quản lý chất lượng sản phẩm cũng có nhiều cách nhìn khác nhau do nó phụ thuộc vào đặc điểm của đối tượng quản lý, và vị trí của chủ thể quản lý đối với đối tượng vật chất.

Ta đều nhất trí với nhau rằng mục tiêu then chốt của quản lý chất lượng sản phẩm là tạo ra những sản phẩm thoả mãn nhu cầu xã hội. Thoả mãn thị trường với chi phí xã hội thấp nhất nhờ các hoạt động bảo đảm chất lượng của đồ án thiết kế sản phẩm, tuân thủ đồ án ấy trong quá trình sản xuất cũng như sử dụng sản phẩm. Một mục tiêu có thể có nhiều phương pháp khác nhau để cùng đạt được mục tiêu đó. Do vậy ta cũng có thể tìm hiểu một số khái niệm.

– AG.Robertson nhà quản lý người Anh nêu khái niệm: ” Quản lý chất lượng sản phẩm là ứng dụng các biện pháp, thủ tục, kiến thức khoa học kỹ thuật đảm bảo cho các sản phẩm đang hoặc sẽ phù hợp với thiết kế, với yêu cầu trong hợp đồng kinh tế bằng con đường hiệu quả nhất, kinh tế nhất”.

– A.Faygenbaum- Giáo sư mỹ lại nói rằng: ” Quản lý chất lượng sản phẩm- đó là một hệ thống hoạt động thống nhất có hiệu quả nhất của các đơn vị khác nhau trong một đơn vị kinh tế, chịu trách hiệm triển khai các thông số chất lượng, duy trì mức chất lượng đã đạt được và nâng cao nó để đảm bảo sản xuất và sản xuất một cách kinh tế nhất, thoả mãn nhu cầu thị trường.”

– K.Ishikawa- Giáo sư người Nhật cho rằng: “Quản lý chất lượng sản phẩm có nghĩa là nghiên cứu triển khai, thiết kế, sản xuất và bảo dưỡng một sản phẩm có chất lượng kinh tế nhất, có ích nhất cho người tiêu dùng và bao giờ cũng thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng”. Cũng theo ông, để giải quyết được nhiệm vụ này, tất cả cán bộ của hãng, những người lãnh đạo cao nhất, cán bộ tất cả các bộ phận và tất cả công nhân đều phải tham gia vào hoạt động quản lý chất lượng và bằng mọi cách tạo điều kiện cho nó phát triển.

– Jonhs Oakland- Giáo sư về quản lý chất lượng của trường đại học Bradfoce vương quốc Anh đưa ra khái niệm: ” Quản lý chất lượng sản phẩm về cơ bản là những hoạt động và kỹ thuật được sử dụng nhằm đạt được và duy trì chất lượng của một sản phẩm, quy trình hoặc dịch vụ. Việc đó không chỉ bao gồm việc theo dõi, mà cả việc tìm hiểu và loại trừ các nguyên nhân gây ra những trục trặc về chất lượng để các yêu cầu của khách hàng có thể được liên tục đáp ứng”.

Theo định nghĩa này thì mục tiêu của quản lý chất lượng nằm trên toàn bộ chu kỳ sống của sản phẩm và đưa ra các biện pháp khá phổ biến để đạt được mục tiêu.

Ta có thể dẽ dàng nhận thấy, các khái niệm trên mặc dù có cách trình bày khác nhau song về cơ bản đều trả lời ba câu hỏi:

– Quản lý chất lượng nhằm mục đích gì ?

– Quản lý chất lượng thực hiện ở những biện pháp nào ?

– Quản lý chất lượng bằng những biện pháp nào ?

theo TCVN 5814- 94: ” Quản lý chất lượng là tập hợp những hoạt động của chức năng quản lý chung, xác định chính sách chất lượng, mục đích, trách nhiệm và thực hiện thông qua các biện pháp như: Lập kế hoạch chất lượng, điều hiển kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ hệ chất lượng”.

Ta sử dụng khái niệm quản lý chất lượng theo ISO 8402- 94 để làm phương pháp luận cho công tác quản lý chất lượng, tạo sự phù hợp cho công tác quản lý chất lượng nước ta với tiêu chuẩn hoá của thế giới trong giai đoạn mở cửa, hội nhập kinh tế.

” Quản lý chất lượng là một hoạt động của chức năng quản lý chung nhằm đề ra các chính sách, mục tiêu và trách nhiệm và thự hiện chúng bằng các biện pháp như hoạch định chất lượng, kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ hệ thống chất lượng”.

Sự cần thiết phải quản lý chất lượng sản phẩm.

Vấn đê chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm là sự sống còn của doanh nghiệp:

Quản lý chất lượng sản phẩm sẽ cho chúng ta một cách sử dụng hợp lý nhất, tiết kiệm nhất các nguồn lực của doanh nghiệp. Quản lý tốt các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm sẽ làm giảm hàng kém phẩm chất làm ra hàng có chất lượng tốt hơn, làm giảm giá thành sản phẩm.

Ta có thể nhận thấy giữa vấn đề giảm giá thành sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm là không mâu thuẫn và hoàn toàn có thể thực hiện được nhờ công tác quản lý chất lượng.

Ta hãy xét đến việc sản xuất ra một sản phẩm có chất lượng kém thì tất phải loại bỏ, sữa chữa dẫn đến tiêu hao nguyên vật liệu, năng lượng nhân công… và làm cho chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm tăng cao. Vậy nên ta phải đưa các biện pháp quản lý vào từ khâu đầu đến khâu cuối của quá trình tạo ra chất lượng sản phẩm làm giảm được tỷ lệ hàng hỏng, giá thành sản phẩm sẽ hạ xuống và chất lượng sản phẩm nhờ đó mà tăng lên.

Quy luật cạnh tranh vừa là đòn bẩy để các doanh nghiệp tiến lên đà phát triển, hoà nhập với thị trường khu vực và thế giới song nó cũng gây sức ép lớn cho các doanh nghiệp. Trong kinh doanh nếu như đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu thì tất về lâu dài doanh nghiệp sẽ nằm ra ngoài quỹ đạo của thị trường. Đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp ta có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau song chỉ tiêu chất lượng sản phẩm là quan trọng nhất. Vậy nên, quản lý chất lượng chính là phương thức mà doanh nghiệp cần tiếp cận và hoàn thiện hệ thống của mình. Có như vậy doanh nghiệp mới có khả năng thắng lợi trên thương trường.

Quản lý chất lượng sản phẩm là yêu cầu của xã hội.

– Nhu cầu con người ngày một cao nên những đòi hỏi của họ về sản phẩm ngày càng đa dạng và phong phú. Trong khi hàng hoá không chỉ sản xuất ra ở một quốc gia mà nó có sự giao thoa nhau mà sản phẩm nào có chất lượng cao sẽ thắng thế.

Đáp ứng yêu cầu đó, các nhà sản xuất kinh doanh phải có các biện pháp quản lý chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ một cách hợp lý để sản phẩm có uy tín với người tiêu dùng, phù hợp quy định quốc gia và quốc tế.

– Yêu cầu về tiết kiệm đòi hỏi ta phải quản lý chất lượng sản phẩm.

Các nguồn lực cho sản xuất sản phẩm đều có giới hạn nếu như chúng ta không khai thác hợp lý thì sẽ gây lãng phí và những hậu qủa xấu về kinh tế- xã hội, môi trường. Tiết kiệm trong sản xuất là một giải pháp đạt hiệu quả kinh tế cao vừa giảm tối đa chi phí sản xuất mà chất lượng vẫn đảm bảo, nhờ đó mà người sản xuất tìm ra các phương pháp tối ưu trong quản lý.

Quản lý chất lượng đúng ngay từ đầu (do right the first time) đang được các nhà quản trị doanh nghiệp hết sức quan tâm. Đây là con đường tiết kiệm nhất trong kinh doanh và nó cũng là mục tiêu của quản lý chất lượng sản phẩm trong doanh nghiệp nói riêng và quản lý của các đơn vị tổ chức nói chung.

Cần nói thêm rằng quản lý chất lượng sản phẩm là phải bảo vệ môi trường, đây không chỉ là vấn đề mang tính pháp lý mà còn chứa đựng đạo đức kinh doanh trong tinh thần nghiệp chủ. Quản lý chất lượng phải được xây dựng trên cơ sở phát triển bền vững cân bằng trong mối quan hệ hữu cơ con người- sản xuất-môi trường.

Công tác quản lý chất lượng phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây:

Thứ nhất, tập trung chú ý vào người tiêu dùng sản phẩm.Theo Ixikawa: ” Ta phải coi sản phẩm cho thị trường”. Nhà sản xuất trước khi tiến hành sản xuất cái gì, như thế nào phải nghiên cứu nhu cầu sau đó mới có kế hoạch sản xuất, xác định rõ mức chất lượng khách hàng yêu cầu, có như vậy sản phẩm mới tiêu thụ được.

Thứ hai, quản lý chất lượng sản phẩm phải bao trùm lên mọi hoạt động tổ chức, không chỉ ở doanh nghiệp mà ở cả các đơn vị hành chính sự nghiệp.

Vậy, ta phải tiếp cận quản lý chất lượng trong mọi biểu hiện của nó tức là quản lý các kết quả, các quá trình, công việc của các bộ phận, công việc của công nhân viên ,…

Thứ ba, các quyết định về chất lượng phải đặt trên cơ sở khả năng thanh toán của nhu cầu. Một mức chất lượng cao với giá quá cao thì sản phẩm cũng khó tiêu thụ và ngược lại.

Quản lý chất lượng sản phẩm đòi hỏi sự đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp, sự tham gia của tất cả các thành viên. Do vậy, mỗi cán bộ công nhân viên phải có những đổi mới về tư duy, nhận thức. Ta có thể nhận thấy một số đặc điểm cơ bản sau:

Chất lượng là số một sau đó mới là lợi nhuận.

Thực tế cho thấy, sự thành công của các doanh nghiệp trên thương trường đặc biệt là các doanh nghiệp ở Nhật đều bắt nguồn từ một nguyên nhân quan trọng đó là họ khởi nguồn mọi hành động là chất lượng, phương châm là chất lượng. Điều đó giải thích tại sao sản phẩm của Nhật luôn được người tiêu dùng tín nhiệm,nó mang lại sức cạnh tranh to lớn bên cạnh những sản phẩm được sản xuất ở một số ước Tây Âu, Bắc Mỹ…

Muốn tăng chất lượng sản phẩm thì phải tăng chi phí một mức (C1) và khi đó sản phẩm của doanh nghiệp mới có khả năng cạnh tranh cao. Đến lượt tăng chất lượng sản phẩm tác động trở lại sẽ làm giảm đáng kể các chi phí ẩn của sản xuất hay chi phí không chất lượng (Unquality costs). Chi phí ẩn của sản xuất gồm 3 nhóm lớn.

– Chi phí phòng ngừa

– Chi phí đánh giá, kiểm soát.

– Chi phí cho sai sót lỗi lầm.

Ta có thể nói chi phí ẩn của sản xuất( SCP- Shadow costs of production) thể hiện dưới hai dạng hữu hình và vô hình.

– Loại hữu hình gồm: sản phẩm bị loại bỏ, sửa chữa, khách trả lại; chi phí cho kiểm tra chất lượng sản phẩm, tồn kho, thất thoát, lãng phí nguyên vật liệu, năng lượng, nhân công, những trục trặc, sửa chữa thiết bị do kém bảo dưỡng.

– Loại vô hình gồm: Tai nạn lao động, mâu thuẫn nội bộ, vắng mặt của công nhân do không thích làm việc, hiệu quả, hiệu lực quản lý kém, môi trường công tác xấu sẽ làm giảm năng suất lao động; hệ thống thông tin liên lạc trục trặc, chi phí cho việc theo đuổi các vụ kiện tụng, tranh chấp…

Khi tăng chất lượng thì chi phí ẩn sản xuất giảm:

+ Số khuyết tật giảm, tỷ lệ sản phẩm chấp nhận tăng(C2)

+ Tỷ lệ phế phẩm giảm đi rõ rệt(C3)

+ Chi phí cho sữa chữa, bảo dưỡng giảm(C4).

+ Chi phí cho kiểm tra giảm(C5).

Như ta đã biết SCP có thể không nhỏ hơn 50% doanh số, nhất là ở nước ta do vậy một sự tăng lên chi phí để nâng cao chất lượng sản phẩm chắc chắn sẽ nhỏ hơn lợi ích mà nó mang lại cho ta tức là C1< C2+ C3+ C4+ C5.

Định hướng sản xuất vào người tiêu dùng.

Trong kinh doanh nếu không vì người tiêu dùng thì nắm chắc thất bại. Kinh doanh phải xuất phát từ thị trường sau đó phải quay trở lại thị trường. Do đó phải nghiên cứu kỹ lưỡng nhu cầu, hành vi của người tiêu dùng. Khi cung cấp các sản phẩm ra thị trường các doanh nghiệp phải làm bổn phận của mình ngay cả lúc người tiêu dùng sử dụng sản phẩm. Để thực hiện được quan điểm này ta phải thực hiện chu trình Deming. M- P- P- C.

Sơ đồ 7: Chu trình Deming_ MPPC.

Đảm bảo thông tin và áp dụng SQC.

Quản trị chất lượng là công việc, trách nhiệm của tất cả mọi thành viên trong doanh nghiệp. Quản trị chất lượng phải được thực hiện ở cấp lãnh đạo cao nhất của công ty với ý nghĩa chiến lược, đồng thời phải quán triệt quản lý tác nghiệp ở từng phân xưởng, tổ đội sản xuất vì thế có các nguồn thông tin hai chiều. Quản trị nói chung và quản lý chất lượng nói riêng không có thông tin thì không thể thực hiện quản ý và thông tin trong mối quan hệ tương tác đòi hỏi phải chính xác, kịp thời, đầy đủ, có như thế cán bộ lãnh đạo quản lý chất lượng mới có các quyết định đúng đắn.

Quản lý chất lượng bằng thống kê- SQC là mmột phương pháp sử dụng khá phổ biến và mang lại những kết quả to lớn không thể phủ nhận. Đặc trưng thống kê chất lượng sản phẩm là đầu mối cho chúng ta cải tiến. Song ở nước ta rất nhiều doanh nghiệp còn chưa sử dụng hiệu quả các công cụ này. SQC bao gồm: Biểu đồ pareto, biểu đồ quá trình, sơ đồ nhân quả, phiếu kiểm tra, biểu đồ phân bố mật độ, biêu đồ kiểm soát, biểu đồ phân tán…

Khi sử dụng 7 công cụ trên ta sẽ tìm ra nguyên nhân những sai sót và đề ra cách giải quyết. Đặc biệt hiện nay tiến trình cơ giới hóa, tự động hoá diễn ra khá phổ biến. Vì vậy, việc sử dụng các công cụ kiểm tra, kiểm soát là không thể thiếu- con số thường có tính thuyết phục cao hơn lời nói suông.

Con người được coi là yếu tố quyết định trong quản lý chất lượng sản phẩm.

Để phát huy nhân tố con người trong quản lý chúng ta phải thực hiện một số công việc sau:

– Đổi mới tư duy và triết lý quản trị chất lượng.

– Đào tạo bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài.

– Đẩy mạnh ý thức tự quản trị công việc của mình cho mỗi thành viên.

– Phối hợp, kích thích tinh thần hợp tác nhóm.

Quản lý chất lượng phải được các cấp trong doanh nghiệp thấm nhuần các mục đích,vai trò, ý nghĩa của nó đối với hãng và chính bản thân các nhân viên. Các doanh nghiệp phải tổ chức các chương trình đào tạo, có thể đào tạo trong hoặc ngoài công việc cho ban giám đốc hãng, các thành viên của ban quản lý, trưởng phòng, đốc công, công nhân, thiết lập lên nhu cầu các nhóm hoạt động vì chất lượng.

Một điều bất cập trong quản trị doanh nghiệp, quản trị chất lượng sản phẩm ở các doanh nghiệp nước ta là tinh thần hợp tác nhóm là chưa cao hoặc chưa thực hiện. Trong khi, để tạo ra chất lượng sản phẩm là một quá trình nhiều mắt xích, để tạo ra một chủng loại sản phẩm lại bao gồm nhiều sản phẩm riêng lẻ hợp thành. Do vậy để giảm sản phẩm sai hỏng, khuyết tật một cách thức rất hiệu quả là các doanh nghiệp phải triển khai thực hiện công việc trên.

Quản trị theo chức năng- Quản tri chéo.

Quản trị theo chức năng được xây dựng bằng quy tắc PPM.

P- Plan: Hoạch định thiết kế.

P- Production: Sản xuất, bán

P- Prevention: Phòng ngừa.

M- Market: Thị trường.

Quản lý theo chức năng gắn chặt theo các ban chức năng là cơ chế đảm bảo cho hoạt động của hãng. Cơ cấu chiều dọc chỉ đảm bảo khả năng hoạt động của tổ chức khi có sự phối hợp của những chức năng khác nhau trong việc đảm bảo chất lượng.

Quản trị theo chức năng được thực hiện qua các ban chức năng. Trong mỗi ban đều có ban thư ký và chỉ định thư ký để điều hành công việc. Sự phối hợp hoạt động của các ban chức năng phải nhịp nhàng, mềm dẻo. Mỗi ban có thể chia ra những nhóm nghiên cứu những vấn đề khác nhau, định ra quyền hạn và trách nhiệm của các phòng. Chịu trách nhiệm trực tiếp về chất lượng sản phẩm kông phải là ban chức năng mà là các phòng theo cơ cấu dọc. Ban chức năng nghiên cứu cơ cấu dọc và cơ cấu ngang để hoàn thiện hoạt động của toàn bộ tổ chức.

Phương pháp quản lý theo chức năng có một số ưu điểm sau:

Thứ nhất, lãnh đạo hãng không cần tham gia vào giải quyết các vấn đề giữa các phòng.

Thứ hai, là cơ chế bảo đảm cho hoạt động có hiệu quả của hãng.

Thứ ba, phát huy được sáng kiến và sáng tạo của cấp dưới.

Thứ tư, thực hiện tốt việc quản lý đồng bộ chất lượng và hoàn thiện công nghệ.

Thứ năm, góp phần vào việc mối quan hệ giữa công nhân và cán bộ phòng ban.

Tóm lại, sơ đồ quản lý dọc và ngang( quản lý theo chức năng và theo phòng ban) do giáo sư Ixikawa Kaoru nêu ra đã được các doanh nghiệp sử dụng rất hiệu quả . Nó là kiểu kết hợp hài hoà quản lý dọc và quản lý ngang.

Chất lượng sản phẩm phải nằm ở vị trí trung tâm trong các hoạt động ở doanh nghiệp, đặc biệt đội ngũ cán bộ phải có sự cam kết về chất lượng sản phẩm của mình. Mọi nhân vật cấp cao, các cán bộ quản lý và mọi công nhân phải chứng minh rằng họ có thái độ nghiêm chỉnh đối với chất lượng ” Nếu người lãnh đạo chủ chốt của một tổ chức chịu trách nhiệm và có cam kết đối với chính sách về chất lượng, thì bản thân việc đó sẽ tạo ra sự đề cập rộng lớn vượt ra ngoài những thủ tục đã được chấp nhận về những kỷ luật mà chức năng đảm bảo chất lượng đòi hỏi”.( John S.Oakland, quản lý chất lượng đồng bộ, 1994).

Quản lý chất lượng sản phẩm phải chú ý tới con người, ta đã tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm và khẳng định con người là nhân tố cơ bản nhất quyết định đến việc tạo ra chất lượng sản phẩm cao hay thấp. Từ giám đốc cho tới người công nhân đều phải thấy được trách nhiệm của mình về vấn đề chất lượng.

Tuân thủ tính đồng bộ và toàn diện trong quản lý chất lượng. Chất lượng sản phẩm được hình thành ở nhiều phân hệ, điều này yêu cầu công tác quản lý chất lượng sản phẩm thực hiện ở tất cả các phòng ban, trách nhiệm này không của riêng lẻ bộ phận nào. Để phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp, người lãnh đạo cần thiết lập mối quan hệ mật thiết, gắn liền quyền hạn với trách nhiệm thì mới cho kết quả phối hợp tốt. Các phòng ban cùng nhau nhất quán vì mục tiêu chất lượng và tạo điều kiện cho nhau để hoàn thành mục tiêu đó.

Quản lý chất lượng sản phẩm tập trung vào các quá trình, quản lý hệ thống. Nâng cao tính linh hoạt và không ngừng nâng cao chất lượng của toàn bộ hệ thống và các quá trình từ thiết kế đến sản xuất, tiêu thụ và tiêu dùng sản phẩm. Đồng thời xác định những nguyên nhân gây ra trục trặc về chất lượng sản phẩm và có biện pháp tác động nhằm ngăn chặn những nhân tố đó. Trong đó cần sử dụng vòng tròn chất lượng và các công cụ thống kê để đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá. Phát triển và tập trung ưu tiên cho những vấn đề quan trọng nhất trong công tác quản lý.

Quản lý chất lượng sản phẩm được hiểu một cách rộng rãi và toàn diện, báo quát mọi chức năng cơ bản của quá trình quản lý. Nó được tiến hành theo trình tự: Nghiên cứu nhu cầu – thiết kế – thi công- chế tạo… đến lưu thông sử dụng sản phẩm. Ta không thể xem nhẹ một khâu nào trên vòng tròn Deming( The Deming Wheel).

Sơ đồ 9: Vòng tròn Deming trong quản lý chất lượng sản phẩm.

Chức quy định (hoạch định) chất lượng sản phẩm.

Chức năng này thể hiện trong các khâu điều tra, nghiên cứu nhu cầu của thị trường cũng như thiết kế, đề xuất mức chất lượng hay quy định những điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật mà sản phẩm phải đạt được theo yêu cầu của Nhà nước, của doanh nghiệp, hợp đồng kinh tế đã ký kết, những chỉ tiêu giá cả, mức độ chất lượng sản phẩm, điều kiện và thời gian giao hàng… cũng cần được hoạch định ở chức năng này.

Chức năng hoạch định mang tính quyết định đến hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm. Hoạt động này cho phép doanh nghiệp có một mục tiêu chất lượng, và phương châm hành động vì chất lượng cũng như sử dụng hợp lý nhất các nguồn lực mà doanh nghiệp có thể khai thác. Từ đó doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất và thị trường.

Chức năng quản lý chất lượng sản phẩm.

Gồm mọi hoạt động các khâu từ sản xuất đến tiêu dùng, hay chi tiết hơn đó là từ khi chuẩn bị nguyên, nhiên vật liệu chế tạo thử sản xuất đại trà và chuyển sang mạng lưới lưu thông phân phối rồi sử dụng sản phẩm.

Thực hiện chức năng này là phòng ban quản lý sản xuất- kinh doanh, kiểm tra, điều chỉnh chất lượng dưới sự lãnh đạo của trưởng phòng và các nhân viên thực hiện.

Chức năng đánh giá chất lượng sản phẩm.

Để chất lượng sản phẩm hoàn hảo đòi hỏi việc đánh giá chất lượng sản phẩm phải thực hiện chi tiết và tổng hợp có nghĩa là đánh giá từ các yếu tố đầu vào, sản xuất cho tới chất lượng sản phẩm được chế tạo ra.

Đánh giá chi tiết, đó là chỉ tiêu của từng loại nguyên, nhiên vật liệu chế tạo ra sản phẩm, chất lượng của thiết kế, chất lượng của quy trình công nghệ sản xuất, chất lượng của bán thành phẩm, chất lượng kỹ thuật gia công, tổ chức quản lý sản xuất và việc kiểm tra chất lượng sản phẩm, bao gói vận chuyển bảo quản sản phẩm…

Nếu chúng ta có đánh giá đúng và có điều chỉnh kịp thời những yếu tố trên sẽ vô hình chung tạo cho chất lượng tổng hợp của sản phẩm được bảo đảm.

Đánh giá chất lượng sản phẩm toàn phần của sản phẩm hàng hoá thể hiện các đánh giá tổng quát chất lượng sản phẩm dựa vào các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm được Nhà nước quy định, yêu cầu của người tiêu dùng hoặc của tổ chức tiêu chuẩn hoá. Như các chỉ tiêu về độ tin cậy, độ an toàn, tuổi thọ sản phẩm…

Chức năng cải tiến và điều chỉnh.

Trong quá trình quản lý, đánh giá chất lượng sản phẩm không phải luôn diễn ra suôn sẻ mà ngược lại nó có độ bất định do có các yếu tố khách quan hay chủ quan tác động. Vì thề để đạt được các mục tiêu đề ra chúng ta cần thiết phải cải tiến và thực hiện điều chỉnh kịp thời. Làm như vậy sản phẩm làm ra sẽ tương hợp với nhu cầu khách hàng và mang lại hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.

Bằng các công cụ thống kê ta hoàn toàn có thể theo dõi và kiểm soát quá trình tìm ra nguyên nhân đột biến dễ dàng nhưng nó cũng đòi hỏi người tham gia quản lý phải có trình độ hiểu biết, nhanh nhạy, có kinh nghiệm mới có thể điều chỉnh kịp thời sự sai lệch phát sinh. Trong hoạt động cải tiến và điều chỉnh chúng ta cần tìm tận gốc nguyên nhân chứ không phải cứ chạy theo sửa chữa kết cục của nó sẽ gây lãng phí lớn.

Ta có thể theo dõi biểu đồ sau để hiểu rõ hơn vấn đề này.

Sơ đồ 10: Tiến trình cải tiến chất lượng sản phẩm tiếp cận TQM và TQC.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Vấn Đề “Sống Thử” Của Giới Trẻ Ngày Nay trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!