Top 7 # Xem Nhiều Nhất Yêu Cầu Biện Pháp Xây Dựng Tình Đồng Chí Đồng Đội Mới Nhất 4/2023 # Top Like | Photomarathonasia.com

Xây Dựng Tình Đồng Chí, Đồng Đội

Tình đồng chí, đồng đội là tình cảm đặc biệt, gắn bó những người tuy có hoàn cảnh khác nhau, nhưng có cùng lý tưởng, mục tiêu, giai cấp, đến bên nhau bằng tình yêu thương, sự sẻ chia, để phấn đấu, hi sinh, chiến đấu vì lý tưởng chung. Và đương nhiên, sức mạnh của tập thể sẽ tăng gấp bội nếu tình đồng chí, đồng đội được thắt chặt và ngược lại, sẽ rất nguy hiểm nếu mối quan hệ ấy bị xem nhẹ, áp đặt tiêu cực theo lối “bằng mặt nhưng không bằng lòng”.

Cán bộ Trạm Ra đa 50, Trung đoàn 294 (Sư đoàn 367) nắm tư tưởng chiến sĩ khi người thân lên thăm.

Chuyện từ thực tiễn

Từ khi ngồi trên ghế nhà trường, ai trong mỗi chúng ta đều được học tập, thấu hiểu về tình đồng chí, đồng đội qua bài thơ “Đồng chí” của Nhà thơ Chính Hữu. Bài thơ là sự đúc kết từ thực tế sinh động của tình đồng chí, đồng đội nói chung, tình đồng chí, đồng đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng. Trong thực tiễn sinh động ấy, những người có chung chí hướng, mục đích, lý tưởng cùng kề vai sát cánh; tuy không cùng quê quán, khác xa nhau về tập quán, vùng, miền, nhưng coi nhau như ruột thịt, sẵn sàng chia sẻ buồn vui, gian khổ, thậm chí hi sinh cả mạng sống để bảo vệ nhau. Chính điều đó đã góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh vô địch của dân tộc ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước; để người người một lòng sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì sự phát triển phồn vinh của Đảng, Nhà nước, nhân dân ta.

Bên cạnh tình đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó mà không áng thơ văn, thước phim nào có thể diễn tả hết, chúng ta lại chợt buồn và đau xót, vì ngày nay, vẫn có tập thể, cá nhân cán bộ, chiến sĩ ta, nhất là cán bộ trẻ, hạ sĩ quan, binh sĩ vì một lý do nào đó đã xem nhẹ tình đồng chí, đồng đội, để rồi không gìn giữ trọn vẹn lời thề “Đoàn kết chặt chẽ với nhau như ruột thịt, trên tình thương yêu giai cấp, hết lòng giúp đỡ lẫn nhau lúc thường cũng như lúc ra trận…”. Mà câu chuyện lẻ tẻ của sự mất đoàn kết; sự xô sát từ lời nói đến hành động đã gây ra những tổn thương về tâm hồn, thể xác vẫn còn xảy ra.

Tại sao lại có những trường hợp đơn lẻ như vậy?

Cũng có yếu tố khách quan như tác động của mặt trái đời sống xã hội, cơ chế thị trường. Tuy nhiên, để xảy ra sự mất đoàn kết dẫn đến chính những người “thề sống chết có nhau” có lời nói, hành động làm phai nhạt, sứt mẻ tình đồng chí, đồng đội, ở một số tập thể, cá nhân đơn lẻ thì nhân tố chủ quan là chủ yếu.

Bởi lẽ, nguyên nhân sâu xa của sự mất đoàn kết, dẫn đến làm phai nhạt tình đồng chí, đồng đội là do vẫn còn tình trạng cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quân phiệt, bè phái, cục bộ địa phương, thậm chí có tư tưởng thực dụng, toan tính cá nhân, thiếu trung thực, gây bè kéo cánh, phá vỡ sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ đơn vị. Bên cạnh đó, cũng không ít trường hợp cán bộ trẻ, hạ sĩ quan, binh sĩ vì thiếu tu dưỡng, rèn luyện, tự tách mình ra khỏi tập thể; coi trọng cái tôi dẫn tới những hậu quả đáng tiếc.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy cán bộ các cấp trong Quân đội: “Đối với binh sĩ, thì lời ăn tiếng nói, niềm vui, nỗi buồn, quần áo, nhất nhất phải biết rõ và hết sức chăm nom. Có đồng cam cộng khổ với binh sĩ thì khi dẫn họ đi đâu, dù nguy hiểm mấy họ cũng vui lòng đi, khi bảo họ đánh, họ sẽ hăng hái đánh”. Và Người khẳng định: “Cán bộ có coi đội viên như chân tay, đội viên mới coi cán bộ như đầu như óc”. Người chỉ rõ: “Từ tiểu đội trưởng trở lên, từ Tổng Tư lệnh trở xuống, phải săn sóc đời sống vật chất và tinh thần của đội viên, phải xem đội viên ăn uống như thế nào, phải hiểu nguyện vọng và thắc mắc của đội viên. Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu mình đói. Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt. Thế mới dân chủ, mới đoàn kết, mới tất thắng”. Nói như vậy để chúng ta thấy rằng, vai trò của lãnh đạo, chỉ huy, hay nói chung là cán bộ là rất quan trọng trong xây dựng mối đoàn kết thống nhất và xây dựng mỗi gắn bó keo sơn của đồng chí, đồng đội với nhau.

Trách nhiệm của chúng ta

Để xây dựng mối đoàn kết thống nhất trên tình thương yêu giai cấp, tình đồng chí, đồng đội, cấp ủy, chỉ huy các cấp phải có những biện pháp tích cực, phù hợp, hiệu quả trong giáo dục, bồi đắp lý tưởng cách mạng, lý tưởng sống cho cán bộ, chiến sĩ, thông qua giáo dục truyền thống, kết hợp với tập trung xây dựng môi trường sống nhân văn, lành mạnh, có tính kỷ luật cao trong đơn vị. Trong đó, việc thực hiện hiệu quả “3 cùng, 5 nắm” trong quản lý bộ đội và “5 chủ động” trong quản lý tư tưởng bộ đội; duy trì nghiêm chế độ ngày, tuần là biện pháp căn cốt, hàng đầu.

Đối với cán bộ các cấp, ở trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải thực sự là hạt nhân đoàn kết; phải thực sự là tấm gương trong phát huy truyền thống, sống có tình thương, giữ vững kỷ cương, đề cao trách nhiệm để xây dựng tình đồng chí, đồng đội. Song song với đó, cần giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tôn trọng quyền và nghĩa vụ của quân nhân; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, chống mọi biểu hiện độc đoán, gia trưởng, quy chụp, áp đặt ý kiến cá nhân, thành kiến, trù dập hoặc e dè nể nang, thiếu trung thực, không dám đấu tranh với những nhận thức và hành động sai trái không chỉ trong sinh hoạt đảng, đoàn và các tổ chức quần chúng khác mà cả trong đời sống thường nhật.

Bên cạnh việc không ngừng tăng cường các biện pháp dự báo, phân tích, đánh giá, giải quyết để quản lý chặt chẽ tình hình tư tưởng của bộ đội, cũng cần phải thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, nhạy bén phát hiện và kịp thời báo cáo theo phân cấp, xử lý thỏa đáng, triệt để những nảy sinh về tư tưởng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ ở từng đơn vị.

Tình đồng chí, đồng đội không tự nhiên sinh ra, chẳng tự nhiên mất đi; vậy nên, để xây dựng mối tình cảm thiêng liêng ngày càng keo sơn, gắn bó, mỗi cá nhân cần xác định rõ, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của mình để ứng xử, giải quyết các mối quan hệ cho thấu đáo, có lý, hợp tình, góp phần tạo thành lũy tư tưởng, mối đoàn kết thống nhất vững chắc; cùng nhau vượt qua khó khăn, gian khổ, thách thức, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Phẩm Chất Yêu Thương Đồng Chí, Đồng Đội Của “Bộ Đội Cụ Hồ”

Lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước vô cùng khó khăn, gian khổ, song cũng rất oanh liệt, vẻ vang của dân tộc ta đã luôn diễn ra trong điều kiện phải thường xuyên khắc phục, vượt qua những khó khăn của điều kiện địa lý, thời tiết, khí hậu khắc nghiệt – “sáng chống bão giông, chiều ngăn nắng lửa”; đồng thời, phải thường xuyên đấu tranh chống lại những thế lực xâm lược thường có tiềm lực kinh tế, quân sự, vũ khí trang bị kỹ thuật lớn hơn ta nhiều lần.

Trong những điều kiện đó, dân tộc ta đã sớm hình thành nên những nét văn hóa tốt đẹp: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”; “Bầu ơi thương lấy bí cùng”; “Thương người như thể thương thân”; “Tắt lửa tối đèn có nhau”; “Lá lành đùm lá rách”… Đó còn là những nét đặc sắc trong hoạt động quân sự, thể hiện những giá trị văn hóa quân sự Việt Nam trong quan hệ tướng – sĩ như: “Phụ tử chi binh”; “Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”.

Những nét văn hóa tốt đẹp đó trong quan hệ giữa những con người trong “cùng chung một bọc” – “đồng bào” với nhau đã trở thành những giá trị văn hóa tốt đẹp góp phần tạo nên sức mạnh to lớn trong công cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

Giá trị văn hóa tốt đẹp đó đã được các thế hệ người Việt Nam truyền lại từ đời này qua đời khác; được Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu nâng lên một tầm cao mới trong thời đại mới – thời đại Hồ Chí Minh; được nhân dân ta nuôi dưỡng, bồi đắp và đã được truyền vào trong các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội ta, hình thành nên một giá trị văn hóa quân sự tốt đẹp trong đời sống tinh thần của quân đội ta – phẩm chất tốt đẹp: Yêu thương đồng chí, đồng đội.

Yêu thương đồng chí, đồng đội là phẩm chất cơ bản trong các phẩm chất của “Bộ đội Cụ Hồ”. Yêu thương đồng chí, đồng đội là sự phản ánh các mối quan hệ trong nội bộ quân đội ta. Phản ảnh mối quan hệ của những người cùng chung mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Yêu thương đồng chí, đồng đội phản ánh các mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới, giữa những người đồng cấp, giữa cán bộ với chiến sĩ, giữa chiến sĩ với chiến sĩ, thể hiện sâu sắc tình đồng chí, đồng đội giữa các quân nhân trong quân đội cách mạng, quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Nội dung cơ bản của phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội là tình cảm yêu thương giữa các quân nhân trong một quân đội cách mạng, quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện, hoàn toàn khác với quân đội của các giai cấp bóc lột. Phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội trong quân đội ta được thể hiện ở tinh thần thương yêu giai cấp, cùng chung mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cho ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân; cùng chung hệ tư tưởng cách mạng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội trong quân đội ta được thể hiện ở tình cảm thương yêu gắn bó với nhau như anh em ruột thịt, “đồng cam, cộng khổ”, “chia ngọt, sẻ bùi”, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, trưởng thành. Phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội trong quân đội ta được thể hiện ở tinh thần cùng nhau khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh, trong hòa bình xây dựng cũng như trong chiến tranh, lúc thường cũng như lúc ra trận.

Phẩm chất yêu thương đồng chí đồng đội của quân đội ta không phải tự nhiên mà có, mà nó phải được trải qua một quá trình giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện của Đảng ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh – người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân ta, của nhân dân các dân tộc Việt Nam và quá trình tự giáo dục, tự bồi dưỡng, rèn luyện của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội ta trong 70 năm xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng.

Là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo giáo dục, bồi dưỡng tình yêu thương đồng chí, đồng đội cho cán bộ, chiến sĩ quân đội ta. Theo Hồ Chí Minh, tình yêu thương đồng chí, đồng đội phải được thể hiện ở việc nhận thức đúng đắn về vai trò của con người, của người chiến sĩ trong quân đội: “Cán bộ không có đội viên, lãnh tụ không có quần chúng thì không làm gì được. Bởi vậy, cần phải thương yêu đội viên. Từ tiểu đội trưởng trở lên, từ tổng tư lệnh trở xuống, phải săn sóc đời sống vật chất, tinh thần của đội viên, phải xem đội viên ăn uống như thế nào, phải hiểu nguyện vọng và thắc mắc của đội viên. Bộ đội chưa ăn no, cán bộ không được kêu mình đói. Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt. Thế mới là dân chủ, là đoàn kết, là tất thắng”[1].

Đồng thời, Người luôn căn dặn: “Cán bộ phải thương yêu săn sóc đội viên. Cán bộ phải chăm lo cho đội viên đủ ăn, đủ mặc. Cán bộ phải coi đội viên như chân tay, thì đội viên mới coi cán bộ như đầu, như óc”[2]. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã luôn khẳng định vai trò của cán bộ chính trị, của chính trị viên trong giáo dục, bồi dưỡng, chăm sóc bộ đội, thể hiện sâu sắc tinh thần “Đối với bộ đội, chính trị viên phải thân thiết như một người chị, công bình như một người anh, hiểu biết như một người bạn”. Vì thế, ” Đối với bộ đội, chính trị viên phải săn sóc luôn luôn đến sinh hoạt vật chất của họ: ăn, mặc, ở, nghỉ, luyện tập, công tác, sức chiến đấu. Về mặt tinh thần, phải săn sóc đến nâng cao kỷ luật, bài trừ hủ hóa, phát triển văn hóa, và đường lối chính trị trong bộ đội”[3].

Phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của “Bộ đội Cụ Hồ” được thể hiện phong phú, sinh động trong những năm đất nước ta phải tiến hành những cuộc chiến tranh chính nghĩa chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, cũng như trong những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu đất nước. Trong điều kiện khó khăn, gian khổ, ác liệt của chiến tranh, phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của “Bộ đội Cụ Hồ” đã được tỏa sáng. Biết bao hình ảnh cao đẹp về những tấm gương sáng ngời thể hiện tình cảm đồng chí, đồng đội trong huấn luyện, trong những cuộc hành quân, chiến đấu đã đi vào truyền thống lịch sử của dân tộc ta, của quân đội ta như những biểu tượng cao đẹp của giá trị văn hóa Việt Nam, giá trị văn hóa quân sự Việt Nam trong thời đại mới – thời đại Hồ Chí Minh.

Phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của “Bộ đội Cụ Hồ” còn được thể hiện phong phú, sinh động trong những năm đất nước ta tiến hành công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau đại thắng mùa xuân năm 1975 lịch sử. Một lần nữa phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của “Bộ đội Cụ Hồ” lại được tiếp tục tỏa sáng trong quá trình quân đội ta thực hiện chức năng, nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chống “diễn biến hòa bình”; trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ đội quân công tác vận động quần chúng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trên mọi miền của đất nước, phòng chống thiên tai, dịch họa, cứu hộ, cứu nạn… và trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ đội quân lao động sản xuất trực tiếp nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội và góp phần xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Trong điều kiện hiện nay, đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực, trong nước, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi cơ bản, thì chúng ta cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ, khó khăn, thách thức mới của điều kiện kinh tế, xã hội và sự chống phá của các thế lực thù địch bằng “diễn biến hòa bình”. Quân đội ta thực hiện phương hướng xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trong bối cảnh, điều kiện mới trước sự tác động của tình hình thế giới, khu vực và trong nước với cả những thuận lợi và khó khăn mới, thời cơ và nguy cơ, thách thức mới.

Trong những điều kiện đó, hơn lúc nào hết, chúng ta phải tiếp tục phát huy phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới. Tiếp tục phát huy phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của “Bộ đội Cụ Hồ” – giá trị văn hóa quân sự Việt Nam tiêu biểu của quân đội cách mạng, quân đội kiểu mới vào quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội trong thời kỳ mới. Chuyển chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta, của quân đội ta, mà yêu thương đồng chí, đồng đội là một trong những phẩm chất tiêu biểu của quân đội ta, trong những cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc trước đây thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong công cuộc xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày nay.

Để tiếp tục phát huy phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới cần quan tâmtăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nhất là sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trong quân đội; tăng cường vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước, của các cấp, các ngành đối với quân đội; phát huy vai trò của nhân dân các dân tộc Việt Nam, của các tổ chức chính trị xã hộinhư:Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong phát huy phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới. Đặc biệt, cần phát huy vai trò trực tiếpcủa mọi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội, tiến hành tốt công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội nhằm phát huy phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, nhiệm vụ của quân đội trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, để phát huy phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của “Bộ đội Cụ Hồ” đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ phải nỗ lực rèn luyện, phấn đấu triển khai thực hiện tốt Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, tiếp tục phát huy phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của “Bộ đội Cụ Hồ” – giá trị văn hóa quân sự tiêu biểu trong thời kỳ mới./.

Tác giả: Thiếu tướng, PGS. TS. Nguyễn Vĩnh Thắng – Nguyên Viện trưởng Viện KHXH&NVQS Nguồn: Viện KHXH&NVQS

Giá Trị Văn Hóa Việt Nam: Yêu Thương Đồng Chí, Đồng Đội

Lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước vô cùng khó khăn, gian khổ, song cũng rất oanh liệt, vẻ vang của dân tộc ta đã luôn diễn ra trong điều kiện phải thường xuyên khắc phục, vượt qua những khó khăn của điều kiện địa lý, thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, “Sáng chống bão giông, chiều ngăn nắng lửa”; đồng thời, phải thường xuyên đấu tranh chống lại những thế lực xâm lược thường có tiềm lực kinh tế, quân sự, vũ khí trang bị kỹ thuật lớn hơn ta nhiều lần.

Trong điều kiện đó, dân tộc ta đã sớm hình thành nên những nét văn hóa tốt đẹp: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”; “Bầu ơi thương lấy bí cùng”; “Thương người như thể thương thân”; “Tắt lửa tối đèn có nhau”; “Lá lành đùm lá rách”… Đó còn là những nét đặc sắc trong hoạt động quân sự, thể hiện các giá trị văn hóa quân sự Việt Nam trong quan hệ tướng – sĩ như: “Phụ tử chi binh”; “Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”… Các nét văn hóa tốt đẹp đó trong quan hệ giữa những con người trong “cùng chung một bọc” – “đồng bào” – với nhau đã trở thành những giá trị văn hóa tốt đẹp góp phần tạo nên sức mạnh to lớn trong công cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

Huấn luyện chiến thuật ở Trung đoàn 102, Sư đoàn 308, Quân đoàn 1. Ảnh: Minh Trường.

Giá trị văn hóa tốt đẹp đó đã được các thế hệ người Việt Nam truyền lại từ đời này qua đời khác; được Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu nâng lên một tầm cao mới trong thời đại mới – thời đại Hồ Chí Minh; được nhân dân ta nuôi dưỡng, bồi đắp và đã được truyền vào trong các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội ta, hình thành nên một giá trị văn hóa quân sự tốt đẹp trong đời sống tinh thần của quân đội ta – phẩm chất tốt đẹp yêu thương đồng chí, đồng đội.

Yêu thương đồng chí, đồng đội là phẩm chất cơ bản trong các phẩm chất của Bộ đội Cụ Hồ. Yêu thương đồng chí, đồng đội là sự phản ánh các mối quan hệ trong nội bộ quân đội ta. Phản ảnh mối quan hệ của những người cùng chung mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Yêu thương đồng chí, đồng đội phản ánh các mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới, giữa những người đồng cấp, giữa cán bộ với chiến sĩ, giữa chiến sĩ với chiến sĩ, thể hiện sâu sắc tình đồng chí, đồng đội giữa các quân nhân trong quân đội cách mạng, quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Nội dung cơ bản của phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội là tình cảm yêu thương giữa các quân nhân trong một quân đội cách mạng, quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện, hoàn toàn khác với quân đội của các giai cấp bóc lột. Phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội trong quân đội ta được thể hiện ở tinh thần thương yêu giai cấp, cùng chung mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cho ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân; cùng chung hệ tư tưởng cách mạng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội trong quân đội ta được thể hiện ở tình cảm thương yêu gắn bó với nhau như anh em ruột thịt, “đồng cam, cộng khổ”, “chia ngọt, sẻ bùi”, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, trưởng thành. Phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội trong quân đội ta được thể hiện ở tinh thần cùng nhau khắc phục khó khăn, gian khổ, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong điều kiện hòa bình xây dựng cũng như trong điều kiện chiến tranh, lúc thường cũng như lúc ra trận.

Phẩm chất yêu thương đồng chí đồng đội của quân đội ta không phải tự nhiên mà có, mà nó phải được trải qua một quá trình giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện của Đảng ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh – người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân ta, của nhân dân các dân tộc Việt Nam và quá trình tự giáo dục, tự bồi dưỡng, rèn luyện của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội ta trong gần 70 năm xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng.

Là Người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo giáo dục, bồi dưỡng tình yêu thương đồng chí, đồng đội cho cán bộ, chiến sĩ quân đội ta. Theo Hồ Chí Minh, tình yêu thương đồng chí, đồng đội phải được thể hiện ở việc nhận thức đúng đắn về vai trò của con người, của người chiến sĩ trong quân đội: “Cán bộ không có đội viên, lãnh tụ không có quần chúng thì không làm gì được. Bởi vậy, cần phải thương yêu đội viên. Từ tiểu đội trưởng trở lên, từ tổng tư lệnh trở xuống, phải săn sóc đời sống vật chất, tinh thần của đội viên, phải xem đội viên ăn uống như thế nào, phải hiểu nguyện vọng và thắc mắc của đội viên. Bộ đội chưa ăn no, cán bộ không được kêu mình đói. Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt. Thế mới là dân chủ, là đoàn kết, là tất thắng”(1).

Đồng thời, Người luôn căn dặn: “Cán bộ phải thương yêu săn sóc đội viên. Cán bộ phải chăm lo cho đội viên đủ ăn, đủ mặc. Cán bộ phải coi đội viên như chân tay, thì đội viên mới coi cán bộ như đầu, như óc”(2). Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã luôn khẳng định vai trò của cán bộ chính trị, của chính trị viên trong giáo dục, bồi dưỡng, chăm sóc bộ đội, thể hiện sâu sắc tinh thần “Đối với bộ đội, chính trị viên phải thân thiết như một người chị, công bình như một người anh, hiểu biết như một người bạn”. Vì thế, “Đối với bộ đội, chính trị viên phải săn sóc luôn luôn đến sinh hoạt vật chất của họ: Ăn, mặc, ở, nghỉ, luyện tập, công tác, sức chiến đấu. Về mặt tinh thần, phải săn sóc đến nâng cao kỷ luật, bài trừ hủ hóa, phát triển văn hóa, và đường lối chính trị trong bộ đội”(3).

Phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của Bộ đội Cụ Hồ được thể hiện phong phú, sinh động trong những năm đất nước ta phải tiến hành các cuộc chiến tranh chính nghĩa chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, cũng như trong những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu đất nước. Trong điều kiện khó khăn, gian khổ, ác liệt của chiến tranh, phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của Bộ đội Cụ Hồ đã được tỏa sáng. Biết bao hình ảnh cao đẹp về những tấm gương sáng ngời thể hiện tình cảm đồng chí, đồng đội trong huấn luyện, trong các cuộc hành quân, chiến đấu đã đi vào truyền thống lịch sử của dân tộc ta, của quân đội ta như những biểu tượng cao đẹp của giá trị văn hóa Việt Nam, giá trị văn hóa quân sự Việt Nam trong thời đại mới – thời đại Hồ Chí Minh.

Phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của Bộ đội Cụ Hồ còn được thể hiện phong phú, sinh động trong những năm đất nước ta tiến hành công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau đại thắng Mùa Xuân 1975 lịch sử. Một lần nữa phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của Bộ đội Cụ Hồ lại tiếp tục tỏa sáng trong quá trình quân đội ta thực hiện chức năng, nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu cả vũ trang và phi vũ trang, chống “diễn biến hòa bình”; trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ đội quân công tác vận động quần chúng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trên mọi miền của đất nước, phòng chống thiên tai, dịch họa, cứu hộ, cứu nạn… và trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ đội quân lao động sản xuất trực tiếp nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội và góp phần xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Để tiếp tục phát huy phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới cần quan tâm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nhất là sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trong quân đội; tăng cường vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước, của các cấp, các ngành đối với quân đội; phát huy vai trò của nhân dân các dân tộc Việt Nam, của các tổ chức chính trị xã hội như: Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong phát huy phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới. Đặc biệt, cần phát huy vai trò trực tiếp của mọi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội, tiến hành tốt công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội nhằm phát huy phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, nhiệm vụ của quân đội trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, để phát huy phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của Bộ đội Cụ Hồ đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ phải nỗ lực rèn luyện, phấn đấu triển khai thực hiện tốt Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, tiếp tục phát huy phẩm chất yêu thương đồng chí, đồng đội của Bộ đội Cụ Hồ – giá trị văn hóa quân sự tiêu biểu trong thời kỳ mới./.

(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 72

(2) Hồ Chí Minh “Về đấu tranh vũ trang và lực lượng vũ trang nhân dân”. Nxb QĐND. HN. 1970, tr. 255

(3) Hồ Chí Minh “Về đấu tranh vũ trang và lực lượng vũ trang nhân dân”. Nxb QĐND. HN. 1970, tr. 205

Thiếu tướng, PGS. TS NGUYỄN VĨNH THẮNG

Theo Báo Quân đội nhân  dân

Thanh Huyền (st)

Nhớ Lời Người Dặn: Phải Có Tình Đồng Chí Thương Yêu Lẫn Nhau

Đăng ký tham quan

Các bạn có thể đăng ký tham quan trực tuyến bằng cách điền vào các thông tin sau và gửi cho chúng tôi:

Tính năng này Bảo tàng đang triển khai và hoàn thiện trong thời gian sắp tới. Để mua vé tham quan Bảo tàng, Quý khách vui lòng liên hệ đến số điện thoại: 024.38463757/

Trân trọng cảm ơn

Nhớ lời Người dặn: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”

Ngày đăng: 08:49 17/03/2019

Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc, là quy luật phát triển Đảng; là một trong những nội dung cơ bản của văn hóa đạo đức – văn hóa Đảng. Tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc này, Đảng mới thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là một Đảng cách mạng, chân chính. Vì vậy, trong Di chúc, Hồ Chí Minh căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”[1].

Sinh thời, Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh rằng, tự phê bình và phê bình là việc phải làm thường xuyên, liên tục của mỗi cán bộ, đảng viên, của mỗi tổ chức Đảng.

“PHẢI CÓ TINH THẦN TỰ CHỈ TRÍCH”

Người cách mạng theo Hồ Chí Minh muốn toàn tâm, toàn ý hành động và phấn đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân thì nhất định phải có đạo đức cách mạng; phải thấm nhuần 23 điều răn về “Tư cách một người cách mệnh” được chỉ rõ trong tác phẩm Đường Cách mệnh, xuất bản năm 1927. Những yêu cầu về phẩm chất đạo đức cách mạng đó phải được thường xuyên, liên tục rèn luyện; được quy về 3 mối quan hệ chủ yếu, đó là: Đối với người, đối với việc và đối với mình.

Thấm nhuần lời dạy của Người, trong tiến trình đấu tranh cách mạng, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đã không chỉ luôn sẵn sàng tận tâm, tận lực phấn đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân mà còn luôn quán triệt thực hiện tự phê bình và phê bình: Đối với mình thì phải “cả quyết sửa lỗi”, đối với người thì “có lòng bày vẽ” để trở thành những người luôn gương mẫu đi đầu, làm mực thước cho nhân dân noi theo. Trong gian lao kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và cả trong cuộc sống đời thường, vì Đảng, vì dân, trên cơ sở của tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, đã có biết bao tấm gương cán bộ, đảng viên bất chấp mọi hiểm nguy, nguyện hy sinh lợi ích cá nhân, sẵn sàng đem tính mạng của mình bảo vệ, che chở cho đồng đội, đồng bào. Những tấm gương sáng về sự nỗ lực phấn đấu, gương mẫu hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, nêu gương trong khi tiến hành tự phê bình và phê bình trên tinh thần đồng chí ở trong Đảng, thể hiện sinh động qua các thời kỳ cách mạng là một trong những nhân tố quan trọng làm nên sức mạnh đoàn kết, thống nhất của Đảng, giúp Đảng làm tròn nhiệm vụ mà giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc giao phó trong gần 90 năm xây dựng và trưởng thành.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn có những người “tưởng vào Đảng thì dễ tìm công ăn việc làm. Có người vào Đảng mong làm chức này, tước nọ. Có người vì anh em bạn hữu kéo vào,v.v..”[2], nên khi có chức, có quyền đã sa vào chủ nghĩa cá nhân, độc đoán, chuyên quyền, tham ô, tham nhũng, xu nịnh cán bộ cấp trên nhưng lại ức hiếp cán bộ cấp dưới và quần chúng… Họ và những người thoái hóa, biến chất như họ đã mắc bệnh tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ và nhiều bệnh khác như: hữu danh vô thực, kéo bè kéo cánh, cận thị, v.v.. khiến quần chúng không tin, không phục, không yêu. Do thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, giảm sút ý chí chiến đấu, họ không nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống mà chạy theo danh lợi, tiền tài, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc… Vì thế, đã không quy tụ và lãnh đạo được quần chúng, dẫn đến rời xa quần chúng, phá vỡ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân.

Vì vậy, để mỗi cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo sáng suốt, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân, thì chữa chạy những sai lầm, khuyết điểm không chỉ là yêu cầu tất yếu, nội tại mà còn phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Năm 1951, Hồ Chí Minh đã viết bài “Tự phê bình” (đăng báo Nhân dân, 20/5/1951); trong đó nhấn mạnh: “Tự phê bình là gì? Là thật thà nhận, công khai nhận trước mặt mọi người những khuyết điểm của mình để tìm cách sửa chữa”, bởi “ai cũng cần tắm rửa cho mình mẩy sạch sẽ. Thì ai cũng cần tự phê bình cho tư tưởng và hành động đúng đắn”. Chỉ ra rằng, tự phê bình và phê bình là “thang thuốc đặc trị” để phát huy ưu điểm và sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, song Hồ Chí Minh cẩn trọng nhắc nhở: dùng thuốc phải dùng đúng, dùng sai hiệu quả sẽ khôn lường. Theo Người, “mục đích của tự phê bình và phê bình để giúp nhau tiến bộ, sửa chữa sai lầm”, chứ không phải là để “bới lông tìm vết”, để trả thù, nên cách thức tiến hành phải có lý, có tình, có nghĩa. Trong mọi mối quan hệ, khi công tác hay ứng xử đời thường, Hồ Chí Minh cũng đều chú trọng chữ “tình”, vì theo Người “nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như thế”.

Hồ Chí Minh hiểu rất rõ rằng, người đời không phải thánh thần, mỗi con người đều có cá tính, sở trường, đời sống riêng, hơn nữa trong lòng mỗi người đều có cả điều thiện và điều ác, cho nên, nếu biết làm cho những điều thiện nảy mầm, điều ác thui chột dần đi, thì mỗi con người sẽ tốt hơn lên, xã hội vì thế mà phát triển. Cán bộ, đảng viên cũng vậy, trong công tác hay cuộc sống thường ngày cũng không tránh khỏi khuyết điểm cần phải khắc phục, vì thế: “Muốn thành cán bộ tốt, phải có tinh thần tự chỉ trích”, nghĩa là phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, vì “không chịu tự phê bình, tự chỉ trích thì không bao giờ tấn tới được”[3].

Học và làm theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình ở hai điều chính cốt nhất: mục đích và phương pháp, vì nếu cả hai điều này được tiến hành đúng và kịp thời thì hiệu quả của tự phê bình và phê bình sẽ cao, góp phần hoàn thiện bản thân mỗi người, của tất cả mọi người và đó cũng chính là một trong những phương thức cơ bản giải phóng mọi tiềm năng của mỗi người, để con người đạt tới tự do. Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc quan trọng của Đảng, là việc làm cần thiết, vừa để chỉ ra ưu điểm và khuyết điểm để rút kinh nghiệm vừa qua đó tìm được biện pháp, học được cách thức để khắc phục hạn chế, chứ không phải là đấu tố, hạ bệ nhau. Hồ Chí Minh quan niệm, “tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình”, “phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình” cho nên “tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau”. Theo đó, mục đích của tự phê bình và phê bình là “cho mọi người học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau sửa chữa khuyết điểm”, làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, cốt để giúp nhau tiến bộ; cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn; cốt để đoàn kết và thống nhất nội bộ. Do đó, phương pháp tự phê bình và phê bình là phải được tiến hành thường xuyên như “rửa mặt hằng ngày” với tâm và động cơ trong sáng; phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt; phải vạch rõ cả ưu điểm và những khuyết điểm để cùng tiến bộ; lời nói phải hợp tình, hợp lý, chớ dùng lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc… Tuy nhiên, sai lầm và khuyết điểm của mỗi con người khác nhau thì hình thức phê bình, xử lý cũng phải khác nhau, mới đảm bảo được tính nghiêm túc, nếu không sẽ sinh ra thói “thậm thà thậm thụt” mà “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng to mồm”.

Vì vậy, để tự phê bình và phê bình đúng và hiệu quả, nguyên tắc này phải được tiến hành trên cơ sở tình thương yêu, khoan dung của mỗi người. Mỗi người đều có một trái tim, trái tinh chân thành, nhân hậu; trái tim đó khi tự phê bình mình cũng như phê bình người là “phê bình việc làm chứ không phê bình người”[4]. Bởi, phê bình cũng như chữa bệnh cứu người, để giúp họ vui lòng nhận ra lỗi lầm mà sửa chữa, để khỏe mạnh trở lại trong cả suy nghĩ và hành động thì trước hết phải thương yêu, phải kịp thời, đúng lúc và đúng chỗ, công khai và thẳng thắn. Nếu làm trái những điều đó, tính giáo dục của thang thuốc tự phê bình và phê bình sẽ không còn tác dụng. Còn người bị phê bình phải thật thà nhận, công khai nhận và “vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán ghét”. Tự phê bình và phê bình chỉ thực sự phát huy tác dụng, góp phần củng cố và tăng cường khối đoàn kết thống nhất trong mỗi tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị khi “người có ưu điểm thì phải cố gắng thêm, và người khác phải cố gắng bắt chước. Mọi người phải tích cực sửa chữa khuyết điểm của mình và giúp anh em sửa chữa khuyết điểm của họ”[5]; “phải thực hành khẩu hiệu chí công vô tư; cần, kiệm, liêm, chính”.

Đồng thời, tự phê bình và phê bình phải được thực hiện nghiêm túc theo phương châm “trên trước, dưới sau”, “từ trong ra, từ ngoài vào”, “từ trên xuống, từ dưới lên” để phê bình và tự phê bình bảo đảm dân chủ, khách quan, trung thực, đầy đủ, có chất lượng gắn với khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh. Không phải ngẫu nhiên chỉ hơn một tháng sau ngày đọc Tuyên ngôn độc lập, trong thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (17/10/1945), Hồ Chí Minh đã nêu rõ sáu căn bệnh cần đề phòng của một bộ phận “quan cách mạng”, đó là “trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo”, để sau đó, Người ký Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ (27/11/1945); Quốc lệnh khép tội tham ô, trộm cắp của công vào tội tử hình (26/1/1946) và khẳng định: “Chính phủ đã hết sức làm gương và nếu làm gương không xong thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ. Đã trị, đang trị và sẽ trị cho kỳ hết”[6].

“PHẢI CÓ TÌNH ĐỒNG CHÍ THƯƠNG YÊU LẪN NHAU”

Vì người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm, cho nên chúng ta không sợ khuyết điểm, chỉ sợ có lỗi mà không sửa, có lỗi mà giấu giếm, lừa cấp trên, chèn ép cấp dưới dẫn đến tự phê bình và phê bình hình thức, chung chung, vì sợ “mất uy tín”, “mất thể diện”. Tự phê bình và phê bình đúng sẽ “chẳng những không làm giảm thể diện và uy tín của cán bộ, của Đảng. Trái lại, còn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn, thiết thực hơn, do đó mà uy tín và thể diện càng tăng thêm”… Do đó, để thực hiện lời căn dặn của Hồ Chí Minh về “thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình” và phải được tiến hành trên tinh thần “có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, trong mọi hoàn cảnh, ở mọi cấp, mỗi tổ chức Đảng phải thường xuyên nhìn thẳng vào sự thật, phải “có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó”[7] và “mỗi cán bộ, mỗi đảng viên hằng ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng”[8].

Sức mạnh đoàn kết, thống nhất trong Đảng được tạo nên bởi tổ chức mà tổ chức đó là sự kết nối chặt chẽ giữa các đảng viên của Đảng, trong tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, cho nên theo Hồ Chí Minh, “hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin tức là phải sống với nhau đầy tình nghĩa như vậy. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống với nhau không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin được. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin được”[9]. Tình đồng chí ở đây, ngoài việc tuân thủ những nguyên tắc về tổ chức, Điều lệ và chế độ sinh hoạt Đảng còn cần phải xuất phát từ tấm lòng nhân ái, bao dung của mỗi con người, của tình đồng chí từng “nếm mật, nằm gai”, “chia ngọt, sẻ bùi”… Thực tế cho thấy, đã có không ít cơ quan, đơn vị mất đoàn kết từ những việc tưởng chừng nhỏ nhặt nhưng rất quan trọng trong đời thường mà xuất phát điểm chính là do suy nghĩ và hành động thiếu “tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Tại một tổ chức, nếu đội ngũ cán bộ chủ chốt mất đoàn kết, không thống nhất trong tư tưởng và hành động thì ở nơi đó sẽ có tình trạng cấp trên và cấp dưới cách biệt nhau, là đồng chí với nhau nhưng thường không nói trước mặt mà chỉ nói sau lưng, vì thế, cần phải phát huy vai trò nêu gương, thống nhất giữa nói và làm trước hết từ cấp ủy và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Bằng trái tim thương yêu rộng lớn đầy khoan dung, nhân ái và sự gương mẫu tự phê bình và phê bình của chính mình, Hồ Chí Minh căn dặn tự phê bình và phê bình trong Đảng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục; từ trên xuống và từ dưới lên; không chỉ thực hiện trong nội bộ Đảng mà cần phải mở trong nhân dân; bảo đảm dân chủ, công khai và gắn với kế hoạch sửa chữa khuyết điểm; có thưởng phạt gắn với biểu dương, nhân rộng gương điển hình. Trong đó, dân chủ là một trong những yếu tố quan trọng để việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng vừa nghiêm túc vừa đạt hiệu quả cao trên cơ sở tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Vì dân chủ đã “khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”, để nhân dân tham gia giám sát, góp ý cho cán bộ, đảng viên và thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn… Cho nên, học và làm theo Hồ Chí Minh không chỉ ở mục đích, phương pháp của tự phê bình và phê bình mà còn là xây dựng tình đồng chí thương yêu lẫn nhau để kiến tạo một môi trường công tác dân chủ, đoàn kết và thống nhất, thiết thực xây dựng cơ quan, địa phương, đơn vị trong sạch, vững mạnh. Đó cũng chính là học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, học từ Người cách ứng xử tình và lý quyện chặt vào nhau, tràn đầy tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.

Vì vậy, để thực hiện lời căn dặn của Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình, trong thời gian tới, một số nhiệm vụ trọng tâm cần phải thực hiện là:

Một là, mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén nhất để giúp mỗi người hằng ngày sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, để ngày càng tiến bộ; để Đảng luôn đoàn kết, thống nhất chặt chẽ trong tư tưởng và hành động, ngày càng thêm mạnh, ngày càng phát triển. Theo đó, tự phê bình và phê bình được thể hiện qua sinh hoạt chi bộ định kỳ; hội nghị chi bộ, đảng bộ thường kỳ; đại hội đảng các cấp; các đợt sinh hoạt chính trị tập trung; các báo cáo định kỳ và đột xuất của các tổ chức đảng các cấp.

Hai là, “các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người, mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa và giúp đồng chí mình sửa chữa”[10]. Theo đó, khi đã “tìm thấy cái nguồn gốc của những sai lầm khuyết điểm đó, và chắc chắn tìm được cách sửa chữa” thì “khéo dùng cách phê bình và tự phê bình để giúp đồng chí khác sửa đổi những sai lầm và khuyết điểm, giúp họ tiến bộ”. Thông qua việc phát hiện “nơi nào sai lầm, ai sai lầm, thì lập tức sửa chữa. Kiên quyết chống thói nể nang và che giấu, chống thói “trước mặt thì nể, kể lể sau lưng”. Phê bình thì phải rõ ràng, thiết thực, ngay thẳng, thành thật – mục đích là cốt sửa chữa, chứ không phải để công kích, cốt giúp nhau tiến bộ, chứ không phải làm cho đồng chí khó chịu, nản lòng”[11], để thiết thực xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

Ba là, đổi mới nội dung và hình thức tự phê bình và phê bình gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, với những vấn đề cụ thể, những vấn đề cấp thiết nóng bỏng của cuộc sống đang đặt ra. Trong tự phê bình và phê bình phải thấm nhuần quan điểm nhân văn, xuyên suốt của Hồ Chí Minh, đó là phê bình việc làm chứ không phải phê bình người, để “ai nấy đều phải thiết thực sửa đổi”. Trong đó, người phê bình “quyết không nên phùng mang trợn mắt, quở trách, giễu cợt” người bị phê bình; còn người bị phê bình “không nên tự tôn, tự đại” mà phải lắng nghe ý kiến của người phê bình nhằm khắc phục, phòng và chống tình trạng khi quá “tả”, khi lại quá “hữu, gây mất đoàn kết nội bộ.

Bốn là, phát huy vai trò gương mẫu tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng để khắc phục và phòng, chống tình trạng: “Nếu cán bộ không nói năng, không đề ý kiến, không phê bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không có gì nói, nhưng vì họ không dám nói, họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói ra, do uất ức mà hoá ra oán ghét, chán nản”[12], dẫn đến nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Năm là, đảm bảo dân chủ, công khai trong tự phê bình và phê bình; khắc phục tình trạng mất dân chủ hoặc áp đặt trong tự phê bình và phê bình, phê bình mang tính hình thức gắn với kịp thời khen thưởng và xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên và tổ chức có hành vi trù dập người thẳng thắn phê bình, đấu tranh với những sai lầm, khuyết điểm của cấp trên. Thường xuyên tiến hành sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và đề ra biện pháp phù hợp để thực hiện tự phê bình và phê bình sát với thực tế, bảo đảm chất lượng, đem lại hiệu quả thiết thực.

NHỮNG BIỂU HIỆN SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA”

– Trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng.

– Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình.

– Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.

– Mắc bệnh “thành tích”, háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; “chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy danh hiệu”…

(Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII)

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, H, 2011, t.15, tr.611

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.294

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.28

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.272

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.272

[6] Lâm Quang Thự: Hồi ký Bác Hồ với Quốc hội, lưu Bảo tàng Hồ Chí Minh, ký hiệu H25C15/52

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.301

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.279

[9]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.668

[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.273

[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.308

[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.319-320

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khu vực II Theo Tạp chí Tuyên giáo

Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử