Top 11 # Xem Nhiều Nhất Xét Nghiệm Đánh Giá Chức Năng Đông Máu Mới Nhất 4/2023 # Top Like | Photomarathonasia.com

Các Xét Nghiệm Giúp Đánh Giá Khả Năng Đông Máu, Cầm Máu

Xét nghiệm chức năng đông – cầm máu thường được chỉ định trong trường hợp bệnh nhân nhập viện cần tiến hành phẫu thuật hoặc cần phải cầm máu khẩn cấp khi bị chấn thương. Việc đọc kết quả xét nghiệm đông máu sẽ cho biết chính xác quá trình đông máu của người bệnh có đang hoạt động tốt hay không.

Bên cạnh thông tin thăm khám trên lâm sàng, tiền sử bệnh của bản thân và gia đình, thì kết quả từ các xét nghiệm đông – cầm máu cũng rất quan trọng trong việc chẩn đoán phát hiện những vấn đề bất thường về đông máu.

Nguyên lý của các xét nghiệm đông – cầm máu cơ bản dựa trên cơ chế của các giai đoạn trong quá trình đông – cầm máu, bao gồm: cầm máu kỳ đầu, đông máu huyết tương và tiêu sợi huyết. Hiện nay, việc thực hiện các xét nghiệm đông máu đều có sự hỗ trợ của các thiết bị tự động với sự giám sát của bác sĩ chuyên môn.

Xét nghiệm đông – cầm máu giúp bác sĩ chẩn đoán nhanh, chính xác sự tiến triển, mức độ và loại rối loạn đông máu mà bệnh nhân đang mắc phải. Qua đó, bác sĩ nhanh chóng có đầy đủ cơ sở để tiến hành điều trị kịp thời, với phác đồ phù hợp nhất.

Xét nghiệm chức năng đông máu thường được chỉ định đối với các trường hợp:

Những đối tượng không dùng thuốc chống đông nhưng lại có triệu chứng của rối loạn chảy máu, tình trạng này có thể biểu hiện qua chảy máu cam, chảy máu nướu răng, xuất hiện vết bầm tím bất thường, xuất huyết kinh nguyệt nặng, thậm chí có máu trong phân hoặc trong nước tiểu, bị viêm khớp triệu chứng (chảy máu trong khớp) và giảm thị lực.

Bệnh nhân trước khi tiến hành phẫu thuật, nhằm đánh giá tình trạng đông máu, tránh biến chứng nguy hiểm trong quá trình can thiệp.

2. Những xét nghiệm thăm dò giai đoạn cầm máu ban đầu

2.1. Đếm số lượng tiểu cầu

Số lượng tiểu cầu trong máu tuần hoàn ở người bình thường trong khoảng 140 – 400 g/L.

2.2. Thời gian chảy máu

Thời gian chảy máu có thể được xác định theo hai phương pháp:

Phương pháp Duke: Với phương pháp này, thời gian chảy máu bình thường là từ 2 – 4 phút. Khi thời gian này vượt trên 6 phút thì được coi là kéo dài.

Phương pháp Ivy: nhạy hơn, với thời gian chảy máu tiêu chuẩn là 3 – 8 phút.

Thời gian chảy máu kéo dài xảy ra trong trường hợp giảm số lượng tiểu cầu hoặc rối loạn chức năng tiểu cầu, giảm yếu tố vWF, giảm fibrinogen hoặc trong bệnh lý thành mạch.

2.3. Nghiệm pháp co cục máu

Nghiệm pháp co cục máu là kỹ thuật được ứng dụng trong theo dõi hiện tượng co cục máu trong ống nghiệm ở 37oC. Thông thường, cục máu sẽ co hoàn toàn và tách khỏi thành ống nghiệm sau khoảng thời gian là 3 giờ.

Hiện tượng co cục máu không bình thường (không co hoặc co không hoàn toàn) xảy ra trong trường hợp bệnh nhân giảm số lượng hoặc có bất thường nào đó trong chức năng của tiểu cầu, bệnh nhân bị tăng fibrinogen máu, bệnh lý đa hồng cầu.

2.4. Nghiệm pháp dây thắt

Để thực hiện Nghiệm pháp dây thắt, bác sĩ sẽ dùng huyết áp kế để duy trì áp lực 90 – 100 mmHg ở một bên cánh tay trong 5 phút, sau đó đếm số nốt xuất huyết trên tay người bệnh.

Nghiệm pháp dây thắt dương tính khi có trên 5 nốt xuất huyết xuất hiện, thường xảy ra trong những trường hợp bệnh nhân giảm số lượng tiểu cầu, chức năng tiểu cầu bất thường, hoặc cấu trúc mạch máu bị thay đổi.

2.5. Ngưng tập tiểu cầu

Ngưng tập tiểu cầu là một kỹ thuật nhằm đánh giá chức năng tiểu cầu, được thực hiện trên máy đo ngưng kết tiểu cầu, với mẫu đo là huyết tương giàu tiểu cầu (sử dụng phương pháp đo quang hay đo trở kháng) hoặc máu toàn bộ (dùng phương pháp đo trở kháng). Kỹ thuật viên sẽ cho thêm vào mẫu xét nghiệm các chất kích thích kết tập tiểu cầu như ADP, collagen, thrombin, epinephrine, arachidonic acid, ristocetin… khiến cho tiểu cầu được hoạt hoá và ngưng tập với nhau.

Hiện tượng ngưng tập tiểu cầu bị thay đổi trong các bệnh lý rối loạn chức năng tiểu cầu bẩm sinh và mắc phải, chẳng hạn như ở những bệnh nhân mắc hội chứng Bernard Soulier hoặc von Willebrand, những bệnh nhân dùng aspirin…

2.6. Định lượng yếu tố vWF

3. Các xét nghiệm đông máu cơ bản

3.1. Xét nghiệm đo thời gian Prothrombin (PT – Prothrombin Time)

Khi xuất hiện vết thương, máu sẽ thoát ra khỏi lòng mạch và bị đông lại theo con đường đông máu ngoại sinh. Khi cho thừa một lượng thromboplastin và canxi vào máu được chống đông bằng citrat thì quá trình đông máu ngoại sinh được tăng cường. Đo thời gian từ khi bổ sung canxi và thromboplastin đến lúc máu đông lại hoàn toàn để đánh giá hoạt tính của các yếu tố đông máu tạo nên Prothrombin (bao gồm yếu tố II, V, VII, X, là các yếu tố đông máu theo con đường ngoại sinh).

Thời gian Prothrombin kéo dài cho thấy sự thiếu hụt các yếu tố đông máu hoạt động theo con đường ngoại sinh. Trong 4 yếu tố đã liệt kê thì 3 yếu tố II, VII, X được sản xuất tại gan và phụ thuộc vào hàm lượng vitamin K. Vì vậy bệnh nhân suy gan hoặc đang sử dụng thuốc kháng vitamin K thì thời gian Prothrombin sẽ kéo dài. Mức độ kéo dài bao nhiêu tùy thuộc vào nồng độ giảm đi của yếu tố đông máu và liều vitamin K đã dùng.

Do vậy, ngoài vai trò là xét nghiệm chức năng đông máu, PT còn được dùng để theo dõi bệnh nhân bị kháng vitamin K. Chỉ số điều trị có hiệu quả là khi PT đạt trong khoảng 25 – 30%.

3.2. Xét nghiệm thời gian Thromboplastin từng phần được hoạt hoá (aPTT – Activated Partial Thromboplastin Time)

Xét nghiệm aPTT đo chức năng hoạt tính đông máu của các yếu tố tham gia trong con đường đông máu nội sinh (yếu tố VIII, IX, XI, XII, II, X, fibrinogen…). Xét nghiệm aPTT được chỉ định trong các trường hợp:

Làm bilan đông máu trước khi phẫu thuật.

Theo dõi tình trạng bệnh nhân khi điều trị bằng heparin.

Đánh giá mức độ nặng của bệnh lý về gan hay đông máu nội mạch lan tỏa.

3.3. Thời gian Thrombin (TT – Thrombin Time)

Thời gian Thrombin là xét nghiệm đông máu cơ bản đo thời gian đông máu khi cho thrombin vào huyết tương, nhằm đánh giá con đường đông máu chung và thăm dò tốc độ tạo thành fibrin. Thời gian Thrombin được chỉ định khi cần khảo sát con đường đông máu chung (cả nội sinh và ngoại sinh) hoặc để đánh giá số lượng và chất lượng của fibrinogen.

Thời gian Thrombin (TT) kéo dài là dấu hiệu bị thiếu fibrinogen, phân tử fibrinogen bất thường, do sự có mặt của heparin hay một số chất trung gian hóa học. TT còn kéo dài đối với các bệnh lý như xơ gan, vô niệu cấp tính, suy tủy, thiếu máu tan huyết, đa hồng cầu. Ngược lại, TT ngắn cho thấy tình trạng tăng đông do giảm hoặc không có các chất kháng thrombin.

3.4. Xét nghiệm định lượng Fibrinogen

Trong xét nghiệm này, huyết tương bệnh nhân được pha loãng ở các nồng độ khác nhau rồi cho thrombin vào, sau đó đối chiếu với đường cong chuẩn để xác định nồng độ fibrinogen. Định lượng Fibrinogen là xét nghiệm chức năng đông máu cơ bản được chỉ định trong trường hợp:

Cần xác định sự có mặt của viêm nhiễm;

Để thăm dò rối loạn đông máu khi bệnh nhân có biểu hiện chảy máu bất thường;

Làm bilan đông máu trước mổ;

Cần theo dõi tình trạng bệnh nhân trong quá trình điều trị tiêu fibrin;

Có thể ứng dụng để theo dõi bệnh gan tiến triển;

Xét nghiệm đông máu nhanh ROTEM cũng là một xét nghiệm quan trọng trong đánh giá khả năng đông máu của người bệnh, nhằm xác định nhu cầu thực sự của bệnh nhân với các chế phẩm máu, giúp điều trị đúng và đủ; giảm nhu cầu truyền máu và các tác hại do truyền máu. Ngoài ra nếu áp dụng xét nghiệm này sớm còn giúp giảm tỷ lệ bệnh nhân phải truyền máu khối lượng lớn, đảm bảo an toàn cho bệnh nhân và giảm chi phí điều trị.

Xét nghiệm này đang được áp dụng tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City, được chỉ định đối với các bệnh nhân cần truyền máu khi lượng máu mất độ III trở lên (mất máu khối lượng lớn 1500 – 2000ml).

Xét nghiệm ROTEM tại Vinmec Times City sử dụng những trang thiết bị hiện đại, đạt chuẩn quốc tế, trong đó có máy phân tích đàn hồi cục máu ROTEM® delta, hỗ trợ kết quả xét nghiệm đạt độ chính xác cao. Đặc biệt, xét nghiệm được thực hiện bởi Tiến sĩ, Bác sĩ Trương Công Duẩn, người có kinh nghiệm dày dặn trong lĩnh vực xét nghiệm với hơn 30 năm công tác trong lĩnh vực này. Hiện bác sĩ là trưởng khoa Xét nghiệm – Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 02439743556 hoặc đăng ký trực tuyến TẠI ĐÂY.

Chỉ Định Và Đánh Giá Kết Quả Xét Nghiệm Đông Cầm Máu

Để chẩn đoán chính xác các bất thường đông cầm máu, bên cạnh các thông tin về triệu chứng lâm sàng, tiền sử bản thân và gia đình người bệnh,… kết quả các xét nghiệm đông cầm máu đóng vai trò rất quan trọng. Xét nghiệm đông cầm máu giúp chẩn đoán sớm, chẩn đoán chình xác loại rối loạn, mức độ rối loạn cũng như tiến triển của các rối loạn đó. Tương ứng với các giai đoạn của quá trình đông cầm máu: Cầm máu kỳ đầu, đông máu huyết tương và tiêu sợi huyết, là các xét nghiệm để đánh giá các giai đoạn này.

1. ĐÁNH GIÁ GIAI ĐOẠN CẦM MÁU KỲ ĐẦU

Các xét nghiệm tổng quát, hiện đang sử dụng rộng rãi ở các bệnh viện

Xét nghiệm: Thời gian máu chảy, nghiệm pháp dây thắt, co cục máu đông.

Chỉ định: Tất cả những trường hợp nghi ngờ có bất thường cầm máu kỳ đầu: Thiếu vitamin C, giảm số lượng và/ hoặc chất lượng tiểu cầu, bệnh von Willebrand…

Các xét nghiệm đánh giá chức năng tiểu cầu

a. Đánh giá tổng quát chức năng tiểu cầu bằng máy tự động (Platelet Funtion Analyzer: PFA)

Khái niệm: PFA là xét nghiệm đánh giá cả 2 khả năng dính và ngưng tập của tiểu cầu; Kết quả PFA trong giới hạn bình thường cho phép loại trừ hầu hết các bệnh lý gây bất thường giai đoạn cầm máu kỳ đầu.

Chỉ định: Những trường hợp nghi ngờ bệnh lý chức năng tiểu cầu bẩm sinh hoặc mắc phải, bệnh von Willebrand, nghi ngờ kháng aspirin khi điều trị thuốc này.

b. Đo độ ngưng tập tiểu cầu

– Chỉ định: Tất cả những trường hợp nghi ngờ giảm hoặc tăng ngưng tập tiểu cầu: Bệnh lý chức năng tiểu cầu, bệnh von Willebrand, huyết khối động mạch, nghi ngờ kháng aspirin.

2. CÁC XÉT NGHIỆM ĐÁNH GIÁ GIAI ĐOẠN ĐÔNG MÁU HUYẾT TƯƠNG

Các xét nghiệm vòng đầu (first- line tests)

APTT, PT, TT, fibrinogen, số lượng tiểu cầu.

Chỉ định: Tất cả những trường hợp nghi ngờ bất thường đông cầm máu, xét nghiệm tiền phẫu.

Các xét nghiệm chuyên sâu

a. Xét nghiệm phát hiện sự có mặt của chất ức chế (mix test)

Đây là xét nghiệm nhằm mục đích xác định thời gian đông kéo dài bất thường do thiếu hụt yếu tố đông máu hay do có mặt chất ức chế. Khi trộn huyết tương người bệnh với huyết tương bình thường theo tỷ lệ 1:1, thời gian đông sẽ trở về bình thường nếu thiếu hụt yếu tố đông máu và thời gian đông không về bình thường trong trường hợp có chất ức chế quá trình đông máu. Tùy theo xét nghiệm nào kéo dài (PT, APTT hay TT) mà chỉ định tiến hành mix test bằng xét nghiệm đó.

b. Định lượng hoạt tính yếu tố đông máu

Xét nghiệm hoạt tính yếu tố đông máu được chỉ định khi kết quả của xét nghiệm mix test cho thấy thời gian đông của mẫu huyết tương trộn 1 thể tích huyết tương bệnh với 1 thể tích huyết tương chứng điều chỉnh về bình thường. Tùy vào thời gian đông của xét nghiệm nào kéo dài để chỉ định yếu tố cần định lượng phù hợp:

APTT kéo dài trong khi PT và TT bình thường: Định lượng yếu tố VIII, IX, XI, XII;

PT kéo dài trong khi APTT và TT bình thường: Định lượng yếu tố VII;

Cả APTT và PT kéo dài: Định lượng các yếu tố II, V, VII, IX,

3. ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG TIÊU SỢI HUYẾT

2 xét nghiệm được sử dụng rộng rãi hiện nay ở Việt Nam là nghiệm pháp Vonkaulla và định lượng D-Dimer.

4. ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG TĂNG ĐÔNG, HUYẾT KHỐI

Đánh giá nồng độ các chất ức chế đông máu sinh lý

a. Khái niệm

Những chất ức chế đông máu sinh lý bao gồm antithrombin/antithrombin III (AT/ATIII), protein S (PS), protein C (PC); thiếu hụt chất ức chế đông máu sinh lý là nguyên nhân gây tăng đông huyết khối.

b. Chỉ định

Những trường hợp huyết khối nghi ngờ do thiếu hụt chất ức chế đông máu sinh lý bẩm sinh (huyết khối khi còn trẻ, tái phát, có tính chất gia đình) hoặc mắc phải (xơ gan, DIC…).

5. XÉT NGHIỆM ĐÔNG MÁU KHI ĐIỀU TRỊ THUỐC CHỐNG ĐÔNG

Điều trị kháng vitamin K

– Xét nghiệm cần tiến hành: PT, sử dụng chỉ số INR (International Normalized Ratio: chỉ số bình thường hóa quốc tế) của PT để điều chỉnh liều của thuốc;

Điều trị heparin

a. Heparin tiêu chuẩn: Các xét nghiệm cần tiến hành:

Giá trị cần đạt: rAPTT trong khoảng 1,5- 2,0;

Kiểm tra số lượng tiểu cầu: 2 lần/ tuần.

nghiệm phát hiện giảm tiểu (Heparin Induced Thrombocytopenia: HIT): khi số lượng tiểu cầu giảm 50% so với trước khi điều trị

Thời gian máu đông hoạt hóa (Activated Clotting Time: ACT): Đây là xét nghiệm tiến hành ngay tại giường bệnh hay phòng mổ, thực hiện tại các thời điểm trong và ngay sau quá trình phẫu thuật tim mạch, chạy thận nhân tạo…

b. Heparin trọng lượng phân tử thấp: Các xét nghiệm cần tiến hành:

Định lượng anti Xa: Chỉ định cho những người bệnh: Suy thận, chảy máu hoặc có nguy cơ chảy máu cao, có thai, người già, béo được điều trị heparin trọng lượng phân tử thấp.

Giá trị cần đạt: Nồng độ anti Xa trong khoảng 0,35- 0,7 UI/ml.

Điều trị các thuốc kháng tiểu cầu (antiplatelet therapy)

Mục đìch chính là phát hiện tình trạng kháng thuốc, điều trị không hiệu quả, thường được sử dụng là PFA và đo độ ngưng tập tiểu cầu với chất kích tập ADP.

Các Chỉ Số Xét Nghiệm Máu Đánh Giá Chức Năng Tuyến Giáp

Các chỉ số xét nghiệm máu đánh giá chức năng tuyến giáp

Rối loạn chức năng tuyến giáp là một tình trạng thường gặp. Trong một số trường hợp rối loạn chức năng tuyến giáp không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng điển hình thì các xét nghiệm chức năng tuyến giáp đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ chẩn đoán. 1. Tuyến giáp và chức năng của tuyến giáp Tuyến giáp là một tuyến nhỏ có hình bướm, nằm ở trước cổ. Chức năng chính của tuyến giáp là sản xuất hormone điều hòa hoạt động của các tế bào và các mô cơ quan trong cơ thể. Hormone tuyến giáp ảnh hưởng tới tốc độ trao đổi chất của cơ thể và nồng độ của một số loại khoáng chất trong máu.

 

 

Tuyến giáp tiết ra hai hormone chính, một trong số đó là T4 và một loại khác là T3. Lượng T4 và T3 do tuyến giáp tiết ra được điều hòa bởi hormone kích thích tuyến giáp (TSH) của tuyến yên.

 

2.1. TSH (Thyroid stimulating hormone) – Hormone kích thích tuyến giáp Khi nồng độ hormon giáp trong dòng tuần hoàn giảm xuống, vùng dưới đồi bị kích thích để giải phóng ra hormon gây ra giải phóng hormon hướng tuyến giáp (TRH). TRH sẽ kích thích thùy trước tuyến yên sản xuất hormon kích thích tuyến giáp (TSH). Sau đó TSH kích thích sản xuất và giải phóng Triiodothyroxine (T3) và Thyroxin (T4). Xét nghiệm TSH rất có giá trị để chẩn đoán các bệnh lý rối loạn chức năng tuyến giáp và nguồn gốc gây ra rối loạn này. Đây còn là phương tiện giúp dự báo bệnh sẽ ổn định hay tái phát sau khi điều trị. Nếu TSH vẫn ở mức thấp kéo dài chứng tỏ bệnh không có đáp ứng tốt và sẽ dễ tái phát nếu ngưng thuốc. Khi lâm sàng nghi ngờ có tình trạng rối loạn chức năng giáp, xét nghiệm định lượng nồng độ TSH là chỉ định đầu tiên. 2.2. Hormon tuyến giáp

 

Sau khi được tổng hợp bởi hormon T3, T4 sẽ được phóng thích vào máu và tồn tại dưới 2 dạng: + Dạng gắn với protein huyết tương chủ yếu với TBG, một phần gắn với TBA và TBPA; + Dạng tự do FT3 (Free Triiodothyroxine) FT4 (Free Thyroxine)

 

 

– Xét nghiệm định lượng nồng độ T3 toàn phần thường được chỉ định khi bệnh nhân có biểu hiện các triệu chứng cường giáp song nồng độ FT4 bình thường hay ở mức ranh giới. Xét nghiệm giúp đánh giá chức năng tuyến giáp và hỗ trợ chẩn đoán các trường hợp cường giáp do T3. – Xét nghiệm định lượng T4 hữu ích để chẩn đoán tình trạng cường giáp hoặc suy giáp nhất là khi được phân tích đồng thời với FT4 và TSH. – Tương tự, FT3 có thể bình thường trong suy giáp, tuy nhiên, FT3  là xét nghiệm nhạy trong chẩn đoán cường giáp. Ở các bệnh nhân cường giáp, FT3 và FT4 đều tăng, FT3 tăng nhiều hơn. Đôi khi, FT4 tăng còn FT3 bình thường, các trường hợp này thường do bệnh nhân bị cả bệnh không phải tuyến giáp, gây giảm chuyển T4 thành T3, FT3 tăng khi bệnh giảm. 2.3. TPO-Ab (Thyroperoxidase antibodies) – Kháng thể kháng Thyroperoxidase TPO-Ab là tự kháng thể tuyến giáp, phát sinh khi hệ thống miễn dịch của cơ thể nhầm lẫn các thành phần của tuyến giáp (các tế bào tuyến, các protein tuyến giáp) với các protein lạ, xảy ra hiện tượng “tự chiến đấu” giữa kháng thể tuyến giáp với các thành phần tuyến giáp. Hiện tượng này gọi là hiện tượng “tự miễn tuyến giáp”, dẫn đến hậu quả là tuyến giáp bị viêm mãn tính, tổn thương, rối loạn cơ năng tuyến giáp, nếu nặng và kéo dài dẫn đến suy giáp, ung thư tuyến giáp. 2.4. Tg (Thyroglobulin ) và Tg-Ab (Anti Thyroglobulin) Tg được sử dụng như một dấu ấn khối u để đánh giá hiệu quả điều trị ung thư tuyến giáp và theo dõi tái phát của các ung thư tuyến giáp thể biệt hóa. Không phải tất cả các loại ung thư tuyến giáp đều sản xuất Tg, hai loại ung thư tuyến giáp phổ biến nhất là ung thư tuyến giáp thể nhú và ung thư tuyến giáp thể nang (trong đó có ung thư tế bào Hürthle), thường tăng sản xuất Tg, dẫn đến tăng mức độ Tg trong máu. 

 

Ở 15 – 20% số bệnh nhân ung thư tuyến giáp có khả năng hệ miễn dịch tự sản xuất tự kháng thể kháng Tg, còn gọi là Anti – Tg. Kháng thể Anti – Tg làm sai lệch giá trị thật của Tg. Vì thế, xét nghiệm Anti – Tg thường được chỉ định cùng xét nghiệm Tg để tìm ra giá trị thật sự của Tg. 2.5. TRAb (TSH Receptor Antibodies) Xét nghiệm TRAb dùng để đo nồng độ TRAb trong máu và tỷ lệ giữa thành phần TRSAb/TRBAb để đánh giá bệnh Basedow. TRAb tồn tại 3 dạng: + TRNAb là tự kháng thể trung gian, không ảnh hưởng đến chức năng tế bào tuyến giáp. + TRSAb và TRBAb là cạnh tranh với TSH và gây hại. Tỉ lệ TRSAb/TRBAb càng lớn thì bệnh Basedow biểu hiện càng nặng và ngược lại. Do đó, xét nghiệm TRAb vừa có thể đánh giá bệnh nhân có tồn tại tự kháng thể TRAb hay không, nghĩa là mắc Basedow hay không và đánh giá mức độ nặng của bệnh nếu xác định được tỷ lệ TRSAb/ TRBAb. Bảng giá trị tham chiếu các xét nghiệm chức năng tuyến giáp:

Hiện nay, các xét nghiệm máu đánh giá chức năng tuyến giáp là xét nghiệm thường quy đã và đang được thực hiện tại khoa Hoá sinh, Bệnh viện Việt Nam – Thuỵ Điển Uông Bí. Với đội ngũ bác sĩ chuyên môn cao ở nhiều lĩnh vực, trang thiết bị hiện đại Bệnh viện Việt Nam – Thuỵ Điển Uông Bí là địa chỉ tin cậy của nhiều bệnh nhân đến khám, điều trị cũng như thực hiện các xét nghiệm giúp chẩn đoán xác định bệnh, trong đó có xét nghiệm máu đánh giá chức năng tuyến giáp.

Các Chỉ Số Chính Đánh Giá Chức Năng Gan Trong Xét Nghiệm Máu

Gan là cơ quan quan trọng đối với cơ thể, thực hiện nhiều chức năng quan trọng. Việc xét nghiệm kiểm tra chức năng gan định kỳ sẽ giúp cho bác sĩ cũng như người bệnh biết hoạt động của cơ quan này có tốt hay không. Từ đó có hướng điều chỉnh cho phù hợp.

1. Vì sao phải xét nghiệm chức năng gan?

Xét nghiệm chức năng gan là xét nghiệm để đánh giá bằng việc kiểm tra nồng độ enzym và protein trong máu. Nồng độ cao hơn hoặc thấp hơn mức bình thường có nghĩa là tình trạng của gan đang gặp vấn đề.

Thông qua đó bác sĩ có thể đánh giá được tình trạng hoạt động của gan; phát hiện ra bệnh về gan và mức độ nghiêm trọng của bệnh. Đặc biệt là xơ gan, theo dõi tiến triển của bệnh như viêm gan siêu vi hoặc viêm gan do rượu và đánh giá hiệu quả của phương pháp điều trị đang áp dụng; theo dõi các tác dụng phụ của thuốc.

2. Nhóm các chỉ số xét nghiệm đánh giá chức năng gan

Nhóm xét nghiệm khảo sát chức năng bài tiết và khử độc.

Nhóm xét nghiệm đánh giá tình trạng hoại tử gan.

Nhóm xét nghiệm khảo sát chức năng tổng hợp

3. Các chỉ số xét nghiệm khảo sát chức năng bài tiết và khử độc của gan

Bilirubin huyết thanh

Bilirubin là sản phẩm chuyển hóa của hemoglobin và các enzym có chứa hem. 95% bilirubin được tạo ra từ sự thoái biến của hồng cầu gồm hai thành phần là bilirubin gián tiếp (GT) và bilirubin trực tiếp (TT).

Bình thường: bilirubin toàn phần (TP): 0,8-1,2 mg/dL (5-17 mmol/L); bilirubin gián tiếp (GT) 0,6 – 0,8 mg/dL; bilirubin trực tiếp (TT) 0,2 – 0,4 mg/dL (chiếm 30% bilirubin TP)

Phosphatase kiềm (alkaline phosphatase, ALP)

ALP là enzym thủy phân các ester phosphat trong môi trường kiềm (pH = 9). Nguồn gốc chủ yếu của ALP là ở gan và xương. Ở ruột, thận và nhau thai thì ít hơn.

Bình thường ALP 25 – 85 U/L hoặc 1,4 – 4,5 đơn vị Bodansky.

5′ Nucleotidase (5NT)

Đây là một ALP tương đối chuyên biệt cho gan, giúp xác định tình trạng tăng ALP là do gan hay do xương hoặc do các trạng thái sinh lý như trẻ em đang tuổi tăng trưởng hoặc phụ nữ có thai. Sự tăng 5NT có tương quan với mức tăng ALP.

Bình thường 5NT 0,3 – 2,6 đơn vị Bodansky/dL

-g-glutamyl transferase , g-glutamyl transpeptidase (GGT, g-GT)

Bình thường GGT # 30 U/L ở nữ và # 50 U/L ở nam. Nguyên nhân thường gặp nhất là tình trạng nghiện rượu mạn tính, tắc mật, sau uống một số thuốc gây cảm ứng enzym ở gan (acetaminophen, phenytoin) và một số trường hợp gan nhiễm mỡ không do rượu.

Amoniac máu (NH3)

NH3 được sản xuất từ chuyển hóa bình thường của protein trong cơ thể và do vi khuẩn sống ở đại tràng. Gan giữ nhiệm vụ khử độc NH3 bằng cách chuyển thành urê để thải qua thận.

Bình thường NH3 máu 5-69 mg/dL.

4. Nhóm xét nghiệm đánh giá tình trạng hoại tử tế bào gan

ALT (Alanine aminotransferase) hiện diện chủ yếu ở bào tương của tế bào gan cho nên sự tăng ALT nhạy và đặc hiệu hơn AST trong các bệnh gan. Bình thường ALT < 40 UI/L.

Ferritin: là một loại protein dự trữ sắt ở trong tế bào, giữ nhiệm vụ điều chỉnh sự hấp thu sắt ở đường tiêu hóa tùy theo nhu cầu của cơ thể.

Bình thường, ferritin ở nam 100-300 mg/L, ở nữ 50-200 mg/L.

5. Nhóm xét nghiệm chức năng tổng hợp của gan

Phần lớn các protein huyết tương được tổng hợp từ gan.

Albumin huyết thanh

Gan là nơi duy nhất tổng hợp albumin cho cơ thể. Albumin duy trì áp lực keo trong lòng mạch và là chất vận chuyển các chất trong máu đặc biệt là thuốc. Bình thường albumin 35 -55 g/L.

Globulin huyết thanh

Được sản xuất từ nhiều nơi khác nhau trong cơ thể, bao gồm nhiều loại protein vận chuyển các chất trong máu và các kháng thể tham gia hệ thống miễn dịch thể dịch. Bình thường globulin 20 – 35 g/L.

Thời gian Prothrombin (PT)

Là thời gian chuyển prothrombin thành thrombin khi có sự hiện diện của thromboplastin và Ca++ cùng các yếu tố đông máu. Để chuẩn hóa kết quả PT, người ta thường chuyển đổi thành INR (International Normalized Ratio). Bình thường INR = 0.8-1.2.

Các chỉ số đánh giá xét nghiệm chức năng gan trên không phải lúc nào cũng được thực hiện. Thông qua thăm khám bác sĩ sẽ chỉ định xét nghiệm phù hợp cho từng người để có ý nghĩa chẩn đoán bệnh. Để kiểm tra sức khỏe định kỳ về sức khỏe sinh sản, bạn có thể đăng ký cho phòng khám sản phụ khoa 43 Nguyễn Khang qua website: chúng tôi hoặc liên hệ zalo: 0342.318.318 để được hướng dẫn.