Top 12 # Xem Nhiều Nhất Xét Nghiệm Chức Năng Tuyến Thượng Thận Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Photomarathonasia.com

Xét Nghiệm Tuyến Thượng Thận

Tuyến thượng thận là một tuyến nội tiết của cơ thể, mà một khi rối loạn sẽ phát sinh nhiều bệnh lý: cường tuyến thượng thận, suy tuyến thượng thận, u tuyến thượng thận, hội chứng Cushing, bệnh Addison… gây nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe và sinh hoạt của người bệnh.

Xét nghiệm máu tuyến thượng thận thông qua 02 chỉ số hormone cortisol và ACTH giúp tầm soát các nguy cơ bệnh lý tuyến thượng thận chính xác, hiệu quả, từ đó thực hiện điều trị kịp thời.

Tuyến thượng thận

Tuyến thượng thận có nhiệm vụ tiết ra hormone tham gia các quá trình chuyển hóa phức tạp, đặc biệt các catecholamine của tuỷ thượng thận có tác dụng điều hoà huyết áp động mạch.

Tuyến thượng thận nằm sâu sau phúc mạc, mỗi bên của quả thận có 02 tuyến thượng thận. Kích thước của tuyến thượng khoảng bằng quả óc chó, có cấu tạo bên ngoài (vỏ thượng thận) và bên trong (tủy thượng thận). Tế bào trong những vùng khác nhau của tuyến thượng thận tạo những hormone khác nhau.

Sự tăng tiết các nội tiết tố do u tuyến thượng thận có thể gây nên nhiều bệnh lý phức tạp, khó điều trị dứt điểm bằng nội khoa.

Xét nghiệm máu tuyến thượng thận

Khái niệm

Cortisol (còn được gọi là hormone căng thẳng) là hormone steroid được sản xuất bởi tuyến thượng thận.

ACTH là tên viết tắt của adrenocorticotropic hormone (hormone kích vỏ thượng thận), còn gọi là corticotropin, được sản xuất bởi tuyến yên.

Mẫu xét nghiệm

Sự thay đổi nồng độ ACTH và cortisol trong máu thường được đánh giá cùng lúc, và việc lấy mẫu máu làm xét nghiệm ACTH và cortisol cùng một thời điểm để có thể biện luận kết quả một cách hợp lý.

Nồng độ ACTH thường cao vào buổi sáng và thấp vào buổi tối. Nồng độ cortisol tăng lên vào buổi sáng (đạt đỉnh vào 7 giờ sáng), và sụt giảm rất thấp vào buổi tối và trong suốt giai đoạn đầu của giấc ngủ.

Mẫu ACTH và cortisol thường lấy mẫu khi đói, vào khoảng từ 7 đến 10 giờ sáng.

Lưu ý khi xét nghiệm

Không tập thể dục mạnh trong vòng một ngày trước khi xét nghiệm.

Tạm ngưng một số loại thuốc.

Bệnh nhân nên ăn một chế độ ít carbohydrate trong vòng 48h trước khi lấy máu xét nghiệm, nhịn ăn và hạn chế hoạt động thể lực trước 10h – 12h.

Giá trị ở mức bình thường

8 giờ sáng đến 12 giờ trưa: 5,0-25,0 μg/dL hay 138-690 nmol/L

12h trưa đến 20 giờ tối: 5,0-15,0 μg/dL hay 138-410 nmol/L

20 giờ tối đến 8h sáng: 0-10,0 μg/dL hay 0-276 nmol/L

Dao động từ 6.0 – 76.0 pg/ml hoặc từ 1.3 – 16.7 pmol/L.

Tình trạng bất thường

Nồng độ cortisol trong máu tăng đột ngột khi cơ thể rơi vào trạng thái căng thẳng. Nếu nồng độ cortisol trong máu duy trì ở mức cao thường xuyên, đó là dấu hiệu của bệnh lý.

Chỉ số ACTH trong máu thay đổi tăng hoặc giảm đột biến có thể là dấu hiệu cảnh báo cơ thể đang gặp phải một số bệnh lý.

Chỉ định

Đối tượng nên làm xét nghiệm người bị rối loạn hormone cortisol: hội chứng Cushing (sản xuất quá mức cortisol) và bệnh Addison (sản xuất không đủ cortisol).

Bảng kết quả xét nghiệm cortisol và ACTH chính xác là điều rất quan trọng để bác sĩ chẩn đoán các bệnh lý tuyến thượng thận và đưa ra phác đồ điều trị phù hợp. Để làm được đó, bệnh nhân cần đến các cơ sở y tế uy tín, chất lượng với máy móc trang thiết bị hiện đại cùng đội ngũ y bác sĩ có chuyên môn vững vàng.

Phòng khám Đa khoa BSGĐ Phú Đức đã và luôn là địa chỉ đáng tin cậy cho khách hàng gần xa với việc đáp ứng xét nghiệm lâm sàng chuyên nghiệp, hiệu quả bởi đội ngũ tâm huyết và cơ sở hạ tầng được đầu tư chất lượng.

Để nhận được tư vấn kỹ lưỡng hơn (HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ), hãy liên hệ với Phòng khám BSGD Phú Đức!

PHÒNG KHÁM ĐA KHOA PHÚ ĐỨC

ĐỊA CHỈ:838 – 840 Nguyễn Chí Thanh, Phường 4, Quận 11, chúng tôi

FACEBOOK: Phongkhamdakhoaphuduc

Xét Nghiệm U Tuyến Thượng Thận Giúp Chẩn Đoán Bệnh Chính Xác

Tuyến thượng thận là một tuyến nội tiết có chức năng sản xuất ra các hormone quan trọng cho quá trình điều hòa huyết áp, chống stress hay cân bằng nước – điện giải,… của cơ thể. Vị trí của tuyến thượng thận là ở ngay phía trên 2 thận.

U tuyến thượng thận là một bệnh lý hiếm gặp. Khối u phát triển trong tuyến thượng thận sẽ giải phóng ra các hormone dẫn đến tình trạng cao huyết áp nhiều lần và liên tục. Điều này có thể làm tổn thương các cơ quan khác thậm chí gây nguy hiểm đến tính mạng của người bệnh nếu không được điều trị kịp thời.

U tuyến thượng thận là một khối u hiếm

Bệnh u tuyến thượng thận có thể bắt gặp ở bất kỳ lứa tuổi nào, nhưng hầu hết các trường hợp mắc bệnh là trong khoảng từ 20 – 50 tuổi. Xét nghiệm u tuyến thượng thận sẽ được chỉ định để chẩn đoán chính xác tình trạng bệnh lý và có phương hướng can thiệp hiệu quả.

2. Triệu chứng của bệnh u tuyến thượng thận

Các triệu chứng thường gặp ở những người mắc bệnh u tuyến thượng thận như:

– Cao huyết áp.

– Mồ hôi đổ nhiều.

– Tim đập nhanh, khó thở.

– Đau nhức đầu.

– Da mặt xanh xao.

– Run.

Ngoài ra còn có một số triệu chứng khác hiếm gặp hơn như:

– Sụt cân không rõ lý do.

– Táo bón.

– Thường xuyên lo lắng, căng thẳng.

Huyết áp cao liên tục, nhiều lần là dấu hiệu của u tuyến thượng thận

3. Biến chứng có thể xảy ra của bệnh u tuyến thượng thận

U tuyến thượng thận nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời có thể làm tổn thương đến nhiều cơ quan, nhất là các mô của hệ tim mạch, thận và não.

U tuyến thượng thận kết hợp với tình trạng huyết áp cao có khả năng dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm như:

– Suy thận.

– Bệnh tim.

– Đột quỵ.

– Suy hô hấp cấp tính.

– Tổn thương các dây thần kinh mắt.

4. Khi nào cần xét nghiệm u tuyến thượng thận

Ngay khi có bất kỳ một trong số các triệu chứng kể trên, người bệnh cần đến các cơ sở y tế để được thăm khám và làm xét nghiệm u tuyến thượng thận.

Một số trường hợp được khuyến cáo nên làm xét nghiệm này bao gồm:

– Huyết áp cao khó kiểm soát.

– Gia đình có người bị u tuyến thượng thận.

5. Xét nghiệm u tuyến thượng thận như thế nào?

Trong trường hợp nghi ngờ mắc bệnh, bác sĩ sẽ chỉ định làm các xét nghiệm u tuyến thượng thận để có thể đưa ra chẩn đoán chính xác nhất.

5.1. Xét nghiệm trong phòng thí nghiệm

Xét nghiệm máu: tham khảo ý kiến của bác sĩ về việc nhịn ăn và thông báo về các loại thuốc mình đang sử dụng.

Xét nghiệm nước tiểu 24 giờ: người bệnh sẽ được yêu cầu thu lại tất cả mẫu nước tiểu trong vòng 24 giờ theo chỉ định của bác sĩ.

Các xét nghiệm này được tiến hành nhằm đo mức adrenaline và noradrenaline hoặc một số chất khác có trong cơ thể người bệnh.

5.2. Chẩn đoán hình ảnh

Nếu kết quả xét nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy bạn có nguy cơ cao bị u tuyến thượng thận thì bác sĩ sẽ chỉ định làm thêm các xét nghiệm hình ảnh để có thể xác định được vị trí của khối u, cụ thể:

– Chụp cộng hưởng từ (MRI).

Chỉ định xét nghiệm hình ảnh u tuyến thượng thận với bệnh nhân có nguy cơ cao

– Chụp CT Scanner.

– Chụp cắt lớp phát xạ positron (PET).

– Chụp M-iodobenzylguanidine (MIBG)

– Một số rối loạn có khả năng gây ung thư ác tính hoặc tái phát gây bệnh.

– Kết quả xét nghiệm di truyền có thể cung cấp thông tin về việc có cần thiết làm xét nghiệm u tuyến thượng thận cho các thành viên khác trong gia đình hay không.

5.4. Tình cờ phát hiện

Nhiều trường hợp, trong quá trình xét nghiệm chẩn đoán các tình trạng sức khỏe khác có thể tình cờ phát hiện khối u trong tuyến thượng thận. Khi đó, bác sĩ sẽ đề nghị tiến hành bổ sung các xét nghiệm để xác định bản chất của khối u.

6. Điều trị u tuyến thượng thận

Tùy vào tình trạng của từng bệnh nhân mà sẽ có phương hướng điều trị khác nhau.

Đối với người có u tuyến thượng thận nhưng kích thước nhỏ (dưới 5cm) và không có triệu chứng gì thì có thể chưa cần đến các biện pháp can thiệp. Lúc này, bác sĩ sẽ yêu cầu bệnh nhân làm các xét nghiệm nội tiết định kỳ để có thể theo dõi và đánh giá được kích thước của khối u.

Còn với những trường hợp có u tuyến thượng thận lớn hơn 5cm hoặc có chức năng nội tiết (sản xuất quá mức hormon thượng thận) thì sẽ phải làm phẫu thuật để cắt bỏ khối u.

Phẫu thuật cắt bỏ u tuyến thượng thận là phương pháp điều trị phổ biến

Có 2 phương pháp phẫu thuật chính bao gồm:

Mổ hở: khi khối u quá lớn và dính nhiều vào tạng xung quanh; hoặc trong các trường hợp bệnh nhân chống chỉ định mổ nội soi.

Mổ nội soi: thường được lựa chọn khi khối u là lành tính và có kích thước nhỏ (dưới 5cm).

Nếu u tuyến thượng thận đã phát triển thành ung thư hoặc ung thư di căn, người bệnh sẽ được chỉ định các phương pháp điều trị khác như xạ trị, hóa trị,…

Có thể thấy, u tuyến thượng thận là một bệnh lý tương đối nguy hiểm nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Do đó, người bệnh ngay khi có bất kỳ nghi ngờ nào cần đến ngay các cơ sở y tế uy tín để làm xét nghiệm u tuyến thượng thận sớm nhất.

Nếu có bất cứ câu hỏi nào, hãy liên hệ ngay qua tổng đài 1900 56 56 56 hoặc trực tiếp đến các cơ sở của MEDLATEC để được tư vấn và giải đáp từ các bác sĩ nhiều năm trong nghề. Phục vụ bạn là niềm vinh dự của chúng tôi.

Cấu Tạo Và Chức Năng Tuyến Thượng Thận

Tuyến thượng thận gồm hai tuyến nằm ở đầu trước hai quả thận. Tuyến chia làm hai miên: miền tuỷ và miền vỏ. Mỗi miền tiết ra các loại hormon khác nhau. Miền tuỷ thuộc loại mô ưa crôm, miền vỏ thuộc loại tổ chức gian thận. Miền tuỷ chịu sự chi phối trực tiếp của thần kinh giao cảm. Những sợi giao cảm sau khi vào tuyến thì tạo thành bó thần kinh dày đặc ở dưới màng của miền tuỷ. Mỗi một sợi chi phối một số lượng tế bào ưa crôm nhất định. Sự chi phối thần kinh đối với miền tuỷ biến miền tuỷ thượng thận như là một hạch giao cảm lớn. Những sợi giao cảm vào miền tuỷ là sợi trước hạch.

Miền vỏ chia làm 3 lớp và tính từ ngoài vào trong là các lớp cầu, dậu, lưới và mỗi lớp tiết ra các loại hormon khác nhau.

Miền tuỷ thượng thận tiết ra 2 hormon, đó là adrenaline (epinephrin) và noradrenaline (norepinephrin). Năm 1901,Takanin và Aldroch đã điều chế được adrenaline dưới dạng kết tinh và đến năm 1904 đã có thể tổng hợp nhân tạo hormon này. Adrenaline là sản phẩm chuyển hoá của amino acid có tên là thyrosine. Sau đó một thời gian người ta tìm được noradrenaline. Đến năm 1949, cấu trúc hoá học của nó được xác định và nó chính là tiền thân của adrenaline.

Adrenaline (A) và noradrenaline (N) tồn tại đồng thời trong miền tuỷ thượng thận với tỷ lệ thông thường là A/N = 4/1. Trong trạng thái sinh lý bình thường mỗi phút ở chó có thể tiết ra 0,3-0,6 mmg adrenaline /1kg thể trọng.

Adrenaline làm tim đập nhanh, mạnh, tăng dẫn truyền hưng phấn cho tim. Noradrenaline ảnh hưởng đến tim không rõ. Đối với mạch máu và huyết áp thì ngược lại noradrenaline có tác dụng mạnh hơn nhiều so với adrenaline. Chỉ cần tiêm 1/10 vạn mmg noradrenaline cho 1 kg thể trọng chó, thỏ, người là có thể làm tăng huyết áp.

Cả adrenaline và noradrenaline đều gây co mạch, nhưng adrenaline chỉ gây co mạch máu da, còn noradrenaline gây co mạch toàn thân làm cho áp suất tâm thu và áp suất tâm trương đều tăng, sức cản ngoại vi cũng tăng làm huyết áp tăng mạnh. Adrenaline làm tăng lưu lượng máu tuần hoàn, tăng áp suất tâm thu nhưng không ảnh hưởng đến áp suất tâm trương.

b. Đối với cơ trơn nội tạng

Cả hai hormon đều có tác dụng như nhau nhưng noradrenaline thì yếu hơn và cụ thể như sau:

Làm giãn cơ trơn dạ dày, ruột, túi mật, khí quản nhánh và bóng đái. Làm co hoặc dãn cơ trơn tử cung, và tác dụng này khác nhau từng loại động vật và trạng thái sinh lý. Làm co cơ phản xạ đồng tử mắt gây giãn đồng tử, làm co cơ dựng lông. Riêng Adrenaline làm co cơ trơn lá lách, gây co nhỏ lá lách (để tống máu vào hệ tuần hoàn khi cơ thể hoạt động, khi hưng phấn).Tăng bài tiết mồ hôi.

c. Đối với trao đổi đường

Cả hai hormon đều làm tăng đường huyết, nhưng tác dụng của adrenaline mạnh gấp 20 lần noradrenaline. Hormon nhóm này kích thích phân giải glycogen dự trữ ở gan thành glucose, làm tăng đường huyết. Ở cơ, nó xúc tác phân giải glycogen thành acid lactic. Làm tăng cao nồng độ acid lactic huyết. Cơ chế tác động thông qua AMP vòng như đã nói ở trên.

Adrenaline làm giảm bạch cầu ái toan. Tác dụng này của noradrenaline không rõ. Đối với hệ thần kinh trung ương Adrenaline làm tăng tính hưng phấn của hệ thần kinh trung ương. Nó kích thích sự tăng tiết ACTH của thuỳ trước tuyến yên. Từ đó kích thích hormon glucocorticoid của vỏ thượng thận, làm tăng phản ứng phòng vệ của cơ thể. Adrenaline còn tăng khả năng xúc tác cho phản ứng ôxi hoá – khử trong cơ thể. Tác dụng của adrenaline và noradrenaline trên các cơ quan nó trên thường không bền vì chúng nhanh chóng bị phá huỷ bởi các enzyme aminoxidase, tyrosinase.

Trong điều kiện bình thường cắt miền tuỷ thượng thận không làm con vật chết. Nhưng cho động vật thí nghiệm vào phòng lạnh mà cắt thì con vật chết ngay vì nó không còn khả năng phản ứng đề kháng tích cực nữa.

e. Điều hoà hoạt động miền tuỷ thượng thận

Hoạt động của miền tuỷ thượng thận chịu sự chi phối của thần kinh giao cảm. Những kích thích đau, lạnh, nóng, xuất huyết, vận động, thay đổi môi trường đột ngột đều tác dụng lên các thụ quan tương ứng, theo đường cảm giác vào thần kinh trung ương (tuỷ sống, hành tuỷ, vùng dưới đồi, vỏ não) lệnh truyền ra theo dây thần kinh nội tạng (sợi giao cảm trước hạch) đến kích thích miền tuỷ thượng thận tiết adrenaline và noradrenaline. Những thay đổi về nội môi như giảm huyết áp, hạ đường huyết cũng kích thích lên các thụ quan áp lực và hoá học trong thành mạch máu. Xung động thần kinh truyền vào các trung ương thần kinh nói trên, lệnh truyền ra theo đường giao cảm đến kich thích miền tuỷ thượng thận tiết ra hormon.

Miền vỏ tuyến thượng thận gồm 3 lớp đó là lớp cầu, lớp dậu và lớp lưới. Mỗi lớp tiết ra một loại hormon khác nhau và chúng có tác dụng khác nhau. Thần kinh chi phối miền vỏ cũng phát ra từ dây tạng lớn và tập trung chủ yếu ở lớp cầu, còn lớp dậu và lớp lưới chịu ảnh hưởng chủ yếu từ hệ thống mạch quản của tuyến. Hormon miền thượng thận thuộc loại steroid có bản chất lipid. Hormon thuộc lớp cầu có tên chung là mineral corticoid gồm hai hormon là aldosterone và desoxy-corticosterone (DOC).

Tác dụng sinh lý của hai hormon này tham gia điều hoà trao đổi muối, nước bằng cách xúc tác cho quá trình tái hấp thu chủ động natri ở ống thận nhỏ (kèm theo clorua và nước) và tăng cường bài tiết kali.Tác dụng của aldosterone mạnh gấp 30 – 120 lần desoxy corticosterone. Do giữ natri kèm theo giữ clorua và nước, nên nếu nó được tiết nhiều sẽ gây hiệu ứng tích nước gian bào và có thể gây phù thũng. Mineral corticoid còn xúc tiến sự hấp thu natri ở dạ dày và ruột

Aldosterone cũng có tác dụng lên chuyển hoá đường nhưng hiệu quả không bằng hormon nhóm glucocorticoid của lớp dậu. Trong các bệnh gây phù thũng như các bệnh về gan, tim, thận thì lượng aldosterone trong máu tăng cao.

Hormon thuộc lớp dậu có tên chung là glucorticoid gồm 3 hormon quan trọng là cortisol, corticosterone và cortisone. Trong đó cortisol có hoạt tính mạnh nhất. Tác dụng sinh lý của nhóm hormon thể hiện ở các khía cạnh sau.

– Tác dụng lên trao đổi đường

Hormon thúc đẩy sự tạo hợp glucose và glycogen, làm tăng đường huyết, nhưng không phải từ glucid mà từ sự phân giải protein và lipid. Hormon thúc đẩy dị hoá protein, lipid đến acid axetic, rồi thông qua cầu axetyl-coA mà đi ngược con đường đường phân yếm khí để tạo hợp glycogen và glucose. Tiêm nhiều cortisol gây hiệu ứng tăng đường huyết và đường niệu là do cơ chế trên gây ra. Nhóm hormon này xét theo khía cạnh chức năng thì nó đối kháng với sự xuất tiết insulin bằng cách ức chế tế bào β của đảo tuỵ nên hiệu ứng đường huyết và đường niệu càng trầm trọng. Tác dụng tăng đường huyết cuả nhóm hormon này còn thông qua cơ chế hoạt hoá enzyme phosphatase kiềm ở thành ruột để làm tăng hấp thu glucose qua thành ruột; đồng thời làm giảm sự sử dụng glucose ở gan và cơ. Ức chế sự chuyển acid pyruvic vào chu trình Kreb và ức chế cả quá trình đường phân yếm khí. Hormon còn ức chế hoạt tính của enzyme hexokinase. Nếu tiêm insulin thì loại trừ được tác dụng và con đường đường phân sử dụng glucose vẫn tiếp tục.

– Tác dụng lên trao đổi protein

Glucocorticoid thúc đẩy sự phân giải protein để lấy nguyên liệu tạo hợp glycogen và glucose thông qua cơ chế hoạt hoá các enzyme tách và chuyển amin desaminase và transaminase, tạo thành các xeto acid để từ đó biến thành glucogen và glucose. Song nếu dùng liều thấp thì glucocorticoid lại xúc tác cho sự tổng hợp protein. Người ta thấy rằng sau khi cắt bỏ tuyến thượng thận thì sự kết hợp S35 cystein vào protein bị giảm xuống. Nếu tiêm glucocorticoid thì khôi phục lại sự kếp hợp amino acid đó vào protein mô biểu bì da lông. Cắc bỏ tuyến thượng thận còn gây giảm sự kết hợp N-15 của glyxin vào protein gan và C-14 của lecine vào protein mô cơ.

– Tác dụng lên trao đổi lipid

Với liều vừa phải, glucocorticoid ức chế sự tích luỹ mỡ, tăng cường sự phân giải axit béo mạch dài làm giải phóng nhiều axit béo tự do trong máu. Một điều đáng chú ý là hormon thúc đẩy tạo hợp glucogen nhưng không làm chuyển hoá glucogen thành lipid.

Tuy nhiên trong một số trường hợp khi tiêm liều cao và kéo dài hormon có tác dụng thúc đẩy sự hấp thụ axit béo bậc cao, kể cả những hạt mỡ nhũ tương qua thành ống tiêu hoá, kích thích đồng hoá lipid, gây hôị chứng béo phì vì cortisol.

Dùng nhiều glucocorticoid có thể gây tích natri và nước sinh phù thũng, vì vậy khi dùng cortisol nên ăn nhạt ở người trong bệnh nhược năng vỏ thượng thận có thể gây mất nhiều natri và nước.

– Tác dụng chống đỡ với những yếu tố stress

Glucocoriticoid của lớp dậu vỏ thượng thận cùng với adrenaline, noradrenaline của miền tuỷ có vai trò lớn trong phản ứng stress, hoạt động trong hệ thống vùng dưới đồi- tuyến yên- tuyến thượng thận. Cơ chế của phản ứng được trình bày như sau:

Cơ thể động vật và người thường xuyên chịu tác động bất thường của ngoại cảnh về các yếu tố như vật lý, hoá học, và sinh vật học khác nhau. Ví dụ: trời nóng, lạnh đột ngột, khi bị đánh đau, bị giật điện, bị ong đốt hoặc đột nhiên gặp kẻ thù hoặc thú giữ tấn công và ở người lúc cãi nhau, khi đợi lệnh xung phong ngoài mặt trận, khi hồi hộp đợi chờ điều gì sắp xảy ra, khi quá sung sướng được gặp lại người thân sau bao năm xa cách v.v.

Tất cả những yếu tố bất thường đó thường xuyên “chờ chực” đã kích thích vào cơ thể để và để thích ứng, cơ thể phải phát sinh hàng loạt những phản ứng phối hợp bằng hai giai đoạn đối kháng đó là đề kháng tích cực và đề kháng phòng ngự, gọi chung là phản ứng stress.

Giai đoạn đề kháng tích cực: Là giai đoạn xuất hiện đầu tiên, tức thời, nghĩa là xuất hiện nhanh, chấm dứt cũng nhanh, nhưng rất cần thiết, chủ động và thích ứng ngay còn gọi là đề kháng tích cực. Vỏ não ngay sau khi nhận được những kích thích mạnh của ngoại cảnh (thông qua các giác quan) phát xung động thần kinh đi xuống trung khu giao cảm cấp cao ở vùng dưới đồi (hypothalamus) và trung khu giao cảm cấp thấp ở trong sừng bên chất xám tuỷ sống. Từ các trung khu này, luồng xung động truyền theo các dây thần kinh giao cảm đến kích thích tăng cường hoạt động một số cơ quan như tim đập nhanh, hô hấp tăng, máu ngoài da co lại, huyết áp tăng, đồng tử giảm, lông dựng đứng.

Hiệu quả tác dụng của thần kinh giao cảm tăng lên gấp bội, làm các mô ưa crôm ở miền tuỷ thượng thận tăng tiết adrenaline và noradrenaline. Dưới tác dụng đồng thời của 2 loại hormon này trong máu, làm tăng trương lực cơ tim và tim được nuôi dưỡng tốt hơn. Nhịp tim và sức co bóp của tim tăng lên, tăng lưu lượng tuần hoàn máu, mạch máu não giãn, não được trợ sức để tăng hưng phấn và chỉ huy mọi hoạt động, mạch máu cơ vân giãn và tăng dinh dưỗng và hoạt động bắp thịt. Trong lúc đó mạch máu ngoài da và mạch máu nội tạng co lại, để điều hoà phân bố lượng máu, nhằm tiết kiệm năng lượng.

Adrenaline còn làm giãn nở phế quản để tăng lượng thông khí phổi, nó còn làm giảm đồng tử mắt để “nhìn rõ kẻ thù ” tập trung sự chú ý vào đối phương, đặc biệt nó làm co cơ dựng cơ lông để chống lạnh hoặc đe doạ kẻ thù. Một tác dụng quan trọng khác của adrenaline trong giai đoạn đề kháng tích cực này là huy động glucogen từ gan ra máu chuyển thành glucose để cung cấp tạo năng lượng, kịp thời nâng cao sức đề kháng tích cực của cơ thể.

Những biểu hiện bên ngoài của con vật như nhe răng khi mèo gặp chó, đỏ mắt tía tai, mồ hôi thoát đầy, thở dồn, đánh trống ngực như khi hai người cãi cọ, xung đột nhau, là những biểu hiện tình trạng căng thẳng của cơ thể, xuất hiện vào giai đoạn đầu của phản ứng stress.

Giai đoạn đề kháng phòng ngự: Có thể nói, ở giai đoạn đề kháng tích cực, cơ thể động vật và người khi gặp các stress, đã tung ra một cơ chế chống lại hiệu quả có thể để quyết giáng “một đòn phủ đầu vào đối phương” bước đầu ngăn chặn kẻ thù tấn công, nhưng chưa thẳng hẳn (trong trường hợp yếu tố stress có cường độ mạnh. Muốn tiếp tục “cuộc chiến” thì cơ thể phải biết bảo toàn, duy trì và bổ xung lực lượng vì “cuộc chiến đấu” còn phải kéo dài, phải tiếp tục ngay bằng giai đoạn đề kháng phòng ngự. Adrenaline sau khi đã tiêu tốn khá nhiều, liền tạo một mối quan hệ ngược dương tính lên vùng dưới đồi, để kích thích bài tiết yếu tố giải phóng CRF. Đến lượt mình, yếu tố này đi xuống thuỳ trước tuyến yên, kích thích bài tiết ACTH. Hormon này đi xuống kích thích miền vỏ thượng thận tiết glucocorticoid chất có hoạt tính mạnh nhất là cortisol, để tạo nên sức đề kháng phòng ngự của cơ thể. Tại sao cortisol lại có vai trò lớn như vậy? Vì chính cortisol có tác dụng làm giảm tính thấm của màng tế bào (trừ tế bào não). Ta biết rằng, tế bào cơ tiêu dùng glucose rất nhiều, nên việc ngăn cản glucose đi vào tế bào cơ là cách tiết kiệm năng lượng tốt nhất. Một cách khác, nhằm tiết kiệm glucose dùng vào việc thiêu đốt để tạo năng lượng, cortisol còn giúp tháo dỡ cả protein, chuyển nó thành glucose bổ xung cho quá trình huy động năng lượng.

Sự tăng tiết cortisol của lớp dậu vỏ thượng thận, một mặt tiết kiệm năng lượng cho cơ thể để kéo dài cuộc “đọ sức”, để cầm cự với địch thủ (yếu tố stress), mặt khác nó hạn chế chứng viêm, ngăn cản sự tiếp xúc kháng nguyên với kháng thể có tác dụng giảm khả năng nhiễm bệnh. Nếu như giai đoạn đề kháng tích cực xảy ra một cách kịch liệt, dồn sức, chi dùng nhiều năng lượng thì đề kháng phòng ngự sẩy ra một cách thầm lặng, kéo dài giúp cho cơ thể thoát được ” tai qua nạn khỏi ” và phục hồi trở lại bình thường. Nếu chuyển qua giai đoạn đề kháng phòng ngự rồi, mà cơ thể vẫn không thích ứng với stress, thì cơ thể sẽ lâm vào trạng thái suy kiệt. Có những trường hợp, khi đề kháng tích cực diễn ra quá kịch liệt, thì sau đó cơ thể sẽ bị suy kiệt và cơ thể động vật có thể chết ngay không kịp chuyển sang giai đoạn đề kháng phòng ngự. Thí dụ bị đánh đau quá, động vật có thể bị ngất đi. Hay trường hợp các vận động viên thể thao chạy quá sức, dừng lại đột ngột ngã lăn ra chết do tim ngừng đập, không phương cứu chữa. Trong y học và thú y, người ta tìm cách tránh giai đoạn đề kháng tích cực vì đôi khi quá kịệt sức và muốn để cơ thể động vật thích ứng kéo dài bằng đề kháng phòng ngự đặng vượt qua cơn hiểm nghèo.

Gây mê, gây tê trước khi mổ, tiêm thuốc chống đau khi bị tổn thương, hoặc cho uống thuốc ngủ để quên đi những cơn đau đều là những biện pháp áp dụng thực tiễn theo phương pháp đó.

Tác dụng chống viêm và dị ứng: Đây là tác dụng rất quan trọng của loại hormon này. Nó làm giảm bạch cầu ái toan nhưng lại làm tăng bạch cầu trung tính và kích thích sản sinh hồng cầu. Vì lý do đó cortisol có tác dụng mạnh trong việc hạn chế chứng viêm và dị ứng (nhất là đối với người).

Lớp lưới tiết ra nhóm hormon có tên chung là androcorticoit, bao gồm hormon dehydroandosteron, andrenosteron, androstendion và 11-hydroxy-androstendion. Tác dụng của chúng tương tự hormon sinh dục đực androgene (nhưng yếu hơn nhiều và ước chừng bằng 1/5 tác dụng của androgene ). Hormon nhóm này làm tăng đồng hoá protein bằng cách tăng tích luỹ nitơ. Ngoài ra chúng cũng có tác dụng tăng tái hấp thu P , K, Na và CL lại trong cơ thể.Ở con đực lớp lưới chỉ tồn tại và hoạt động mạnh ở kỳ trước tuổi thành thục về tính. Đến tuổi này, do có hormon sinh dục thay thế, nên lớp lưới kém hoạt động và phần nào bị thoái hoá. Ở con cái, nếu có quá nhiều hormon lớp lưới sẽ làm cho con vật mang tính đực.

Điều hoà hoạt động miền vỏ thượng thận

– Điều hoà hoạt động lớp cầu

Trước đây người ta cho rằng hormon ACTH của thuỳ trước tuyến yên cũng ảnh hưởng luôn cả lớp vỏ thượng thận nhưng sau khi người ta thấy không phải hoàn toàn như thế. Mãi đến năm 1964 mới tìm được ở tuyến tùng tiết ra 2 chất, trong đó một chất làm tăng, một chất làm giảm hoạt động của lớp cầu, nhằm điều hoà hoạt động của lớp cầu. Ngày nay người ta xác định ảnh hưởng của ACTH đến lớp cầu chỉ ở mức duy trì sự phát dục của lớp cầu, còn hoạt động tiết hormon của nó chịu ảnh hưởng ít của ACTH. Sự thay đổi nồng độ của natri trong máu có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của lớp cầu và khi natri trong máu đi qua thận, kích thích cầu thận tiết renin, chất này biến angiotensinogen vô hoạt máu trong thành angiotenxin I, rồi thành anggiotenxin II hoạt động. Chất này vừa gây tăng huyết áp vừa kích thích lớp cầu tiết hormon aldosterone. Hormon này làm tăng tái hấp thu chủ động natri ở ống thận nhỏ để tiết kiệm ion này cho máu. Vòng tác dụng chung này gọi là hệ thống renin – angiotenxin – aldosterone. Nếu cơ thể mất nhiều muối natri và nước do ra mồ hôi nhiều sẽ làm tăng tiết aldosterone. Ngược lại nếu ăn nhiều muối thì sự tiết aldosterone giảm.

– Điều hoà hoạt động lớp dậu

Sự phát dục và hoạt động của lớp dậu miền vỏ thượng thận, chịu sự khống chế chặt chẽ của hệ thống dưới vùng dưới đồi – tuyến yên – vỏ thượng thận. Khi nồng độ glucocorticoid trong máu giảm sẽ kích thích vào cơ quan nhận cảm hoá học trong thành mạch máu, nhậy cảm nhất là ở cung động mạch chủ và túi động mạch cổ, luồng xung động thần kinh truyền vào vùng dưới đồi, gây tiết yếu tố giải phóng CRF. Yếu tố này, kích thích tuyến yên tiết ACTH. Hormon này đến lược mình nhập vào máu đến kích thích lớp dậu vỏ thượng thận tiết glucocorticoid cho đến khi nó đạt mức trung bình thì thôi. Khi nồng độ glucocorticoid trong máu tăng, theo cơ chế điều hoà liên hệ ngược, làm giảm tiết hormon này ở lớp dậu, cho đến khi đạt mức trung bình mới thôi. Giữa hai miền tuỷ và thượng thận cũng có mối quan hệ với nhau. Khi có những kích thích đột ngột gây phản ứng stress, trước hết miền tuỷ thượng thận tiết adrenaline và noradrenaline để tạo nên phản ứng đề kháng tích cực (như tăng nhịp tim, tăng đường huyết, tăng huyết). Sau đó chính adrenaline tạo một mối quan hệ ngược dương tích lên vùng dưới đồi, kích thích bài tiết CRF, để tăng bài tiết ACTH của thuỳ trước tuyến yên, từ đó làm tăng bài tiết cortisol ở lớp dậu miền vỏ tuyến thượng thận và tạo nên phản ứng đề kháng phòng ngự của cơ thể.

Xét Nghiệm Chức Năng Tuyến Giáp

Xét nghiệm chức năng tuyến giáp là xét nghiệm máu giúp kiểm tra chức năng tuyến giáp. Các xét nghiệm này chủ yếu được sử dụng để phát hiện suy giáp (thiểu năng tuyến giáp hay còn gọi là nhược giáp) và cường giáp (tuyến giáp hoạt động quá mức).

Xét nghiệm chức năng tuyến giáp là gì?

Xét nghiệm chức năng tuyến giáp là các xét nghiệm máu kiểm tra nồng độ của nội tiết tố (hormone) do tuyến giáp sản xuất. Một số xét nghiệm chức năng tuyến giáp cũng kiểm tra nồng độ của một hormone do tuyến yên trong não, có tác dụng lên tuyến giáp.

Tuyến giáp là gì?

Tuyến giáp là một tuyến nhỏ hình bướm nằm ở trước cổ, ngay dưới quả táo Adam (trái khế) của bạn. Chức năng chính của tuyến giáp là sản xuất hormone. Các hormone là những hóa chất được phóng thích và vận chuyển trong máu để đến các cơ quan đích (target). Chúng hoạt động như là chất dẫn truyền, điều hòa hoạt động các tế bào và các mô cơ quan trong cơ thể của bạn. Hormone tuyến giáp ảnh hưởng đến tốc độ trao đổi chất của cơ thể và nồng độ của một số khoáng chất trong máu.

Chức năng tuyến giáp là gì?

Tuyến giáp sản xuất ba loại hormone và phóng thích vào máu. Hai trong số chúng, còn được gọi là thyroxine (T4) và triiodothyronine (T3), có tác dụng tăng tốc độ trao đổi chất của cơ thể. Loại hormone còn lại giúp kiểm soát lượng canxi trong máu. Để sản xuất ra T3 và T4, tuyến giáp cần iode, một chất được tìm thấy trong thực phẩm chúng ta ăn. Gọi là T4 vì trong phân tử nó có 4 nguyên tử iode. Tương tự T3 có chứa ba nguyên tử iode. Trong các tế bào và mô cơ thể chất T4 được khử một iode để chuyển thành T3. T3 là hormone hoạt động trên tổ chức, có hoạt tính sinh học gấp 5 lần T4. Nó ảnh hưởng đến hoạt động của tất cả các tế bào và mô cơ thể.

Tuyến giáp thực hiện chức năng của nó như thế nào?

Công việc chính của tuyến giáp là sản xuất hormone T3 và T4. Để làm điều này tuyến giáp phải bắt lấy các phân tử iode từ máu vào tế bào tuyến giáp. Chất này sau đó trải qua một số phản ứng hóa học khác nhau dẫn đến việc sản xuất được T3 và T4. Hoạt động của tuyến giáp được điều khiển bởi hormone được sản xuất bởi hai phần của não bộ, vùng dưới đồi và tuyến yên. Vùng dưới đồi nhận “tín hiệu” về trạng thái của nhiều chức năng khác nhau trong cơ thể. Khi vùng dưới đồi cảm nhận nồng độ T3 và T4 là thấp, hoặc tỷ lệ trao đổi chất của cơ thể thấp, nó giải phóng một loại hormone được gọi là thyrotropin-releasing (TRH). TRH đi đến tuyến yên thông qua hệ thống mạch máu. TRH kích thích tuyến yên tiết ra hormone kích thích tuyến giáp (TSH). TSH được sản xuất từ tuyến yên vào máu và đi đến tuyến giáp. Tại đây, TSH kích thích các tế bào tuyến giáp sản xuất nhiều T3 và T4 hơn. Sau đó T3 và T4 được phóng thích vào máu, nơi chúng kích thích tăng cường hoạt động trao đổi chất của các tế bào trong cơ thể. Nồng độ cao của hormone T3 truyền tín hiệu về vùng dưới đồi và tuyến yên làm tạm ngưng tiết ra TRH và TSH. Đến lượt mình, tuyến giáp cũng tạm ngưng quá trình sản xuất T3, T4. Hệ thống này đảm bảo rằng T3 và T4 chỉ được sản xuất khi nồng độ của chúng trong máu quá thấp.

Làm thế nào để kiểm tra chức năng tuyến giáp?

Thông thường, xét nghiệm đầu tiên để kiểm tra chức năng tuyến giáp là đo nồng độ TSH trong máu của bạn. Ở những người bị suy giáp số lượng TSH thường sẽ cao. Điều này thường là do tuyến giáp không tiết đủ T3 để ngăn chặn tuyến yên sản xuất TSH. Nếu lượng TSH trong máu cao, bạn thường sẽ có thêm các xét nghiệm để kiểm tra lượng T3 và T4 trong máu.

Ở những người bị cường giáp, mức TSH thường sẽ thấp. Điều này thường là do tuyến giáp sản xuất quá nhiều hormone khiến nồng độ của T3 và T4 quá cao, tuyến yên sẽ “tạm dừng hoạt động” và số lượng TSH được sản xuất sẽ ít hơn. Nếu bạn có nồng độ TSH trong máu thấp, bạn có thể được chỉ định làm thêm một số xét nghiệm máu hơn để kiểm tra lượng T3 và T4 trong máu. Các xét nghiệm này có thể giúp các bác sĩ để tìm nguyên nhân cụ thể của lượng TSH thấp ở trên.

Xét nghiệm chức năng tuyến giáp để làm gì?

Xét nghiệm chức năng tuyến giáp thường được thực hiện để tìm hiểu xem tuyến giáp hoạt động tốt hay không. Điều này chủ yếu để chẩn đoán suy giáp (hypothyroidism) và cường giáp (hyperthyroidism).

Xét nghiệm chức năng tuyến giáp cũng có thể được thực hiện để:

Theo dõi điều trị bằng thuốc thay thế chức năng tuyến giáp cho những bệnh nhân suy giáp.

Kiểm tra chức năng tuyến giáp ở những người đang được điều trị cường giáp.

Xét nghiệm chức năng tuyến giáp là một xét nghiệm máu đơn giản. Mẫu máu được gửi đến phòng xét nghiệm để phân tích, và kết quả được gửi lại cho các bác sĩ ra yêu cầu xét nghiệm.

Nên chuẩn bị những gì trước khi xét nghiệm chức năng tuyến giáp?

Xét nghiệm chức năng tuyến giáp thường yêu cầu rất ít sự chuẩn bị. Cho bác sĩ biết nếu bạn đang dùng bất cứ loại thuốc nào có thể làm thay đổi kết quả xét nghiệm và lý giải tại sao bạn sử dụng thuốc đó. Một điều quan trọng khác cần đề cập là nếu bạn được chụp X-quang có sử dụng thuốc cản quang chứa iode, vì nó có thể ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm của bạn. Nồng độ hormone tuyến giáp cũng thay đổi trong thời kỳ mang thai, vì vậy hãy cho bác sĩ của bạn biết nếu bạn đang mang thai trước khi làm xét nghiệm.

http://www.patient.co.uk/health/thyroid-function-tests