Top 5 # Xem Nhiều Nhất Xét Nghiệm Chức Năng Thận Gồm Những Gì Mới Nhất 4/2023 # Top Like | Photomarathonasia.com

Xét Nghiệm Chức Năng Thận Gồm Những Gì?

Nhiều người nghi ngờ thận của mình hoạt động kém và muốn thực hiện các xét nghiệm để đánh giá chức năng thận, tuy nhiên lại không biết xét nghiệm chức năng thận gồm những gì? Khi nào thì cần làm xét nghiệm đánh giá chức năng của thận? Bài viết sau đây, sẽ chỉ ra các trường hợp bạn nên tiến hành xét nghiệm kiểm tra chức năng của thận, và những loại xét nghiệm cần thiết để đánh giá chức năng thận.

Khi nào thì cần thực hiện xét nghiệm chức năng thận?

Xét nghiệm chức năng thận được chỉ định khi người bệnh có các dấu hiệu nghi ngờ thận hoạt động kém như

Tiểu nhiều lần

Tiểu ít, tiểu buốt

Nước tiểu có máu

Nước tiểu có màu sẫm hoặc chứa nhiều cặn

Kèm theo các biểu hiện như: đau nhói ở khu vực thận, đau lưng, mệt mỏi, xanh xao, mất ngủ, có thể sốt,… Ngoài ra các xét nghiệm đánh giá chức năng thận cũng được thực hiện trong các trường hợp tầm soát và chủ động kiểm tra sức khỏe của thận như:

Kiểm tra sức khỏe định kỳ hàng năm, nhằm đánh giá tình hình sức khỏe nói chung và chức năng thận nói riêng.

Tiền căn gia đình có người mắc phải các bệnh lý di truyền về thận hoặc có người bị suy thận.

Người mắc các bệnh lý viêm đường tiết niệu, hoặc sử dụng thuốc trong một thời gian dài,…

Xét nghiệm chức năng thận gồm những gì?

Để đánh giá chức năng thận một cách chính xác nhất, chúng ta cần thực hiện sinh thiết thận. Tuy nhiên, việc tiến hành sinh thiết là một việc làm không hề đơn giản, và các bác sĩ cần cân nhắc thật kỹ trước khi sinh thiết vì sinh thiết có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người bệnh.

Các xét nghiệm đánh giá chức năng thận gồm:

Xét nghiệm sinh hóa máu

Xét nghiệm ure máu

Ure là sản phẩm thoái hóa của protein, được lọc qua cầu thận và đào thải ra ngoài cơ thể qua nước tiểu. Xét nghiệm ure máu được dùng để đánh giá chức năng thận và theo dõi các căn bệnh về thận.

Chỉ số chức năng thận bình thường nếu giá trị ure máu dao động trong khoảng 2.5 – 7.5 mmol/l.

Ure tăng trong trường hợp viêm cầu thận, viêm ống thận, sỏi thận, suy thận, sỏi niệu quản, mất nước do sốt cao, tiêu chảy, suy tim sung huyết,…

Ure giảm khi người bệnh ăn ít protein, suy giảm chức năng gan, truyền nhiều dịch,…

Xét nghiệm Creatinin huyết thanh

Creatinin bình thường đối với nam giới là 0.6 -1.2 mg/dl và nữ giới là 0.5 – 1.1 mg/dl.

Nếu Creatinin tăng cao, có thể bạn đang bị rối loạn chức năng thận và có thể phải đối mặt với bệnh lý suy thận.

Điện giải đồ

Sự rối loạn chức năng thận gây mất cân bằng các chất điện giải trong cơ thể. Việc thực hiện xét điện giải đồ nhằm đánh giá các chỉ số như Sodium (Natri), Potasimum (Kali), Canxi máu. Từ đố giúp đanh giá chức năng thận.

Rối loạn cân bằng kiềm toan

Việc đo nồng độ pH trong máu cho phép bác sĩ đánh giá tình trạng hoạt động của các men tế bào, yếu tốt đông máu, acid hình thành trong quá trình chuyển hóa cơ thể gây tình trạng toan hóa máu do thận bị yếu gây ra.

Acid uric máu

Đây là xét nghiệm được sử đụng để chẩn đoán các bệnh lý như bệnh gout, bệnh thận, … Nồng độ acid uric trong máu ở mức bình thường là: 180 – 420 mmol/l (nam), 150 – 360 mmol/l (nữ).

Nồng độ acid uric trong máu tăng ở những người mắc bệnh suy thận, bệnh gout, bệnh vẩy nến, …

Albumin huyết thanh

chỉ số albumin huyết thanh là 35 – 50g/L, chiếm 50 – 60% protein toàn phần. Albumin giảm mạnh ở những người mắc bệnh lý cầu thận cấp như viêm cầu thận cấp.

Protein toàn phần huyết tương

Đây là chỉ số phản ánh chức năng lọc của cầu thận. Chỉ số protein trong máu bình thường ở mức 60 – 80 g/L. Protein toàn phần trong máu ở những người mắc bệnh lý về thận do màng lọc cầu thận bị tổn thương gây ra.

Xét nghiệm nước tiểu

Tổng phân tích nước tiểu

Người bị suy giảm chức năng thận sẽ làm giảm tỷ trọng nước tiểu (tỷ trọng nước tiểu bình thường là 1,01-1,02). Trong trường hợp nghi ngờ mắc bệnh thận, người bệnh có thể được chỉ định thực hiện thêm các xét nghiệm như nghiệm pháp cô đặc nước tiểu, nghiệm pháp pha loãng nước tiểu, so sánh tỷ trọng nước tiểu ngày và đêm,…

Định lượng protein nước tiểu 24 giờ

Xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh

Siêu âm ổ bụng

Siêu âm vùng bụng sẽ giúp phát hiện tình trạng thận ứ nước do tắc nghẽn niệu quản. Nếu thận ứ nước hai bên có thể gây ra suy thận cấp hoặc suy thận mạn. Ngoài ra, siêu âm vùng bụng có thể giúp phát hiện các trường hợp bệnh lý thận đa nang bẩm sinh, di truyền, bệnh lý thận mạn tính thông qua kích thước thận.

Chụp CT scan

Đây là phương pháp thăm dò hình ảnh cho phép nhìn thấy rõ hình ảnh toàn bộ hệ tiết niệu. Được sử dụng trong trường hợp nghi ngờ suy thận do tắc nghẽn đường tiết niệu hoặc nghi ngờ bị sỏi thận mà kết quả siêu âm không thể hiện rõ được điều này.

Ngoài ra phương pháp chụp có tiêm thuốc cản quang bằng máy chụp cắt lớp vi tính cho phép dựng hình lại toàn bộ đường tiết niệu, có thể phát hiện được vị trí sỏi thận cứ trú và nguyên nhân gây bế tắc niệu quản làm ảnh hưởng đến chức năng của thận.

Xạ hình thận bằng đồng vị phóng xạ

Đây là xét nghiệm duy nhất cho phép đánh giá chức năng thận từng bên. Phương pháp này nhìn rõ chức năng lọc của từng thận, tỷ lệ phần trăm tưới máu và tham gia chức năng của từng thận.Tuy nhiên đây là phương pháp khó thực hiện, việc thực hiện phải phụ thuộc máy móc, trình độ và kinh nghiệm bác sĩ chuyên khoa.

Như vậy khi có các biểu hiện nghi ngờ thận hư, thận yếu hay suy giảm chức năng thận, bạn cần đến gặp ngya bác sĩ chuyên khoa Thận – Tiết niệu để được thăm khám và làm các xét nghiệm, chụp chiếu cần thiết. Điều này sẽ giúp chẩn đoán chính xác nguyên nhân và có biện pháp can thiệp hiệu quả kịp thời như điều trị nội khoa hoặc can thiệp ngoại khoa khi cần thiết.

Nếu bạn cần tư vấn thêm về xét nghiệm chức năng thận gồm những gì? Hay muốn đặt lịch khám tại Hệ thống y tế Thu Cúc, xin vui lòng liên hệ 1900 5588 92 để được hỗ trợ tốt nhất.

Xét Nghiệm Chức Năng Gan Gồm Những Gì

Xét nghiệm chức năng gan gồm những gì?

Gan là cơ quan đảm nhận nhiều chức năng quan trọng của cơ thể, đảm bảo cho mọi hoạt động được diễn ra bình thường. Tuy nhiên gan cũng là cơ quan dễ bị tổn thương do nhiều nguyên nhân như virus, rượu bia, chế độ ăn uống không hợp lý… Biểu hiện ra bên ngoài là các triệu chứng mệt mỏi, chán ăn, nổi mụn, vàng da… Tuy nhiên các dấu hiệu này lại khá mờ nhạt, khiến người bệnh lơ là, đến khi thăm khám thì bệnh đã ở giai đoạn nặng, điều trị khó khăn. Chính vì vậy mà bệnh nhân cần phải thăm khám thường xuyên, thực hiện xét nghiệm để kịp thời phát hiện bệnh.

Một trong những xét nghiệm quan trọng được sử dụng thường xuyên trong việc đánh giá tình trạng hoạt động của gan đó là xét nghiệm chức năng gan. Tùy từng bệnh mà người ta sẽ lựa chọn thực hiện xét nghiệm thích hợp. Người ta có thể xếp một số xét nghiệm chức năng vào một số nhóm như:

➢ Xét nghiệm Alanine Trasaminase (ALT) và Aspartate Aminotransferase (AST)

ALT là một enzyme được cơ thể sử dụng để chuyển hóa protein. Trong khi AST lại được tìm thấy nhiều ở một số bộ phận khác trên cơ thể như tim, gan, cơ… Một khi gan bị tổn thương hoặc hoạt động không bình thường, ALT sẽ được giải phóng vào máu, khiến nồng độ ALT trong máu tăng cao. Kết quả ALT trong máu cao có thể là dấu hiệu cảnh báo tổn thương gan. ALT là minh chứng cảnh báo tổn thương gan rõ ràng hơn AST vì đa phần nó chỉ tồn tại trong gan. Bên cạnh đó, AST cũng được giải phóng vào máu khi gan bị tổn thương. Kết quả kiểm tra cho AST trong máu tăng cao cảnh báo cả những vấn đề ở gan hoặc cả ở cơ.

ALP là một loại enzyme tồn tại nhiều trong gan, túi mật hoặc xương. Xét nghiệm ALP thường được kết hợp với một số xét nghiệm khác để đưa ra kết luận chính xác nhất. Khi ALP tăng cao có thể là dấu hiệu cảnh báo những tổn thương tại gan, ứ đọng ở túi mật hay thậm chí là các bệnh về xương.

Tuy nhiên ở những đối tượng như trẻ em và thanh thiết niên sẽ có chỉ số ALP tăng cao do đang trong giai đoạn phát triển. Phụ nữ mang thai cũng có thể gặp phải tình trạng này.

Chỉ số albumin bình thường duy trì ở mức từ 35-55g/l, nếu kết quả albumin thấp có thể chỉ ra rằng gan đang hoạt động kém, có tổn thương xảy ra.

Bilirubin được sản xuất từ huyết sắc tố (hemoglobin). Huyết sắc tố này là một hóa chất trong tế bào hồng cầu được giải phóng khi các tế bào hồng cầu bị vỡ. Bilirubin sẽ phải đi qua gan trước khi được bài tiết qua phân. Khi kết quả kiểm tra cho thấy bilirubin tăng cao sẽ cảnh báo các tổn thương gan hoặc các bệnh lý về gan.

GGT là một enzyme trong máu, một khi nồng độ cao hơn bình thường sẽ cảnh báo cho tình trạng gan bị tổn thương hoặc ống dẫn mật bị hư hại.

Xét nghiệm chức năng gan là một xét nghiệm quan trọng trong việc nhận biết các bệnh lý về gan. Dựa vào kết quả xét nghiệm, các bác sĩ chuyên khoa sẽ có những kết luận cụ thể nhất về tình trạng bệnh sau đó đưa ra phương án điều trị thích hợp nhất.

Được đầu tư hệ thống trang thiết bị hiện đại trong đó có các máy móc tiên tiến phục vụ cho công tác xét nghiệm cùng với hệ thống phòng xét nghiệm đạt tiêu chuẩn cao cấp, chính vì vậy, thực hiện xét nghiệm chức năng gan tại phòng khám Đa khoa Hồng Phong sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo để đem lại kết quả chính xác nhất dành cho bạn.

Đến đây, bạn sẽ được thăm khám trực tiếp bởi các bác sĩ chuyên khoa gan hàng đầu, nhiều năm kinh nghiệm trong thăm khám và điều trị các bệnh lý gan mật với thái độ ân cần và chu đáo nhất.

Thời gian hoạt động: 8:00 – 20:00 mỗi ngày kể cả các ngày lễ tết.

PHÒNG KHÁM ĐA KHOA HỒNG PHONG

Địa chỉ phòng khám: 160-162 Lê Hồng Phong, phường 3, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

Các Xét Nghiệm Chức Năng Gan Bao Gồm Những Gì?

Ở bài viết sau đây THS BS Trần Quốc Khánh tại phòng khám đa khoa Pasteur sẽ gửi đến bạn đọc đầy đủ các kiến thức cũng như các xét nghiệm chức năng gan hiện nay để mọi người hiểu rõ hơn về vấn đề này cụ thể nhất.

1/ Tại sao gan quan trọng?

Gan là cơ quan lớn thứ hai trong cơ thể, nằm bên dưới lồng ngực ở bên phải. Gan nặng khoảng 1,4kg và có hình dáng như một quả bóng phẳng ở một bên. Gan thực hiện nhiều chức năng quan trọng đối với cơ thể. Nó chuyển hóa những gì bạn ăn thành năng lượng và chất dinh dưỡng mà cơ thể có thể sử dụng. Gan cũng loại bỏ các chất độc khỏi máu.

2/ Xét nghiệm chức năng gan là gì?

Các xét nghiệm chức năng gan giúp bác sĩ kiểm tra chức năng của gan và phát hiện các tổn thương gan. Những xét nghiệm máu này đo nồng độ protein và enzyme trong máu của bạn. Protein là những phân tử lớn cần thiết cho sức khoẻ tổng thể. Enzyme là các protein tế bào giúp các phản ứng hóa học quan trọng xảy ra trong cơ thể.

3/ Tại sao các xét nghiệm chức năng gan cần được thực hiện?

Xét nghiệm chức năng gan có thể được thực hiện vì nhiều lý do. Một số bác sĩ thực hiện các xét nghiệm này như là một phần của một lần khám sức khỏe định kì. Một số bác sĩ khác có thể sử dụng xét nghiệm.

4/ Xét nghiệm chức năng gan được sử dụng?

Người ta có thể xếp một số xét nghiệm chức năng gan thành các nhóm như sau:

Nhóm xét nghiệm đánh giá tình trạng hoại tử gan.

Nhóm xét nghiệm khảo sát chức năng bài tiết và khử độc.

Nhóm xét nghiệm khảo sát chức năng tổng hợp.

Các xét nghiệm khác.

a) Nhóm xét nghiệm đánh giá tình trạng hoại tử tế bào gan. Transaminase hay aminotransferase là những enzym nội bào, chuyển nhóm g-amin (-NH2) của aspartat và alanin đến nhóm g-keto của ketoglutarat để tạo thành acid oxaloacetic và pyruvic. Sự tăng của các enzym này phản ánh tình trạng tổn thương tế bào gan.

– AST (Aspartate aminotransferase) hay SGOT (Serum Glutamic Oxaloacetic Transaminase). Hiện diện trong bào tương và ty thể của tế bào. AST hiện diện ở cơ tim và cơ vân nhiều hơn ở gan. Ngoài ra, AST còn có ở thận, não, tụy, phổi, bạch cầu và hồng cầu. Bình thường AST < 40 UI/L.

– ALT (Alanine aminotransferase) hay SGPT (Serum Glutamic Pyruvic Transaminase). Hiện diện chủ yếu ở bào tương của tế bào gan cho nên sự tăng ALT nhạy và đặc hiệu hơn AST trong các bệnh gan. Bình thường ALT < 40 UI/L.

Ở người lớn, nồng độ của AST và ALT ở nam cao hơn nữ và cũng thay đổi theo tuổi và cân nặng. Các men này được phóng thích vào máu khi có tổn thương màng tế bào làm tăng tính thấm. Tuy nhiên, sự tăng men gan không tương quan hoàn toàn với tình trạng hoại tử tế bào gan.

Nguồn gốc và cơ chế đào thải AST và ALT vào trong máu vẫn chưa được biết rõ. Các transaminase tăng trong hầu hết các bệnh về gan nhưng không hoàn toàn đặc hiệu cho gan vì còn tăng trong các bệnh khác như nhồi máu cơ tim, tổn thương cơ vân (viêm cơ, loạn dưỡng cơ), cường giáp hoặc nhược giáp, bệnh celiac… Ngược lại, các enzyme này có thể bị giảm giả tạo khi có tăng urê máu. Sự tăng đơn thuần AST có thể gặp trong trường hợp macro-AST (AST được bám vào một globulin miễn dịch).

· Tăng vừa (< 300 UI/L) gặp trong viêm gan do rượu. Transaminase tăng chủ yếu là AST nhưng trị số không quá 2-10 lần giới hạn trên mức bình thường. Trong khi đó, ALT có thể bình thường hoặc thấp là do thiếu pyridoxal 5-phosphate (vitamin B6), là cofactor để tổng hợp ALT ở gan.

· Tăng nhẹ (< 100 UI/L) có thể gặp trong viêm gan virút cấp, nhẹ và bệnh gan mạn tính khu trú hay lan tỏa (xơ gan, viêm gan mạn, di căn gan) hoặc tình trạng tắc mật. Gần đây, người ta nhận thấy các trường hợp tăng nhẹ men gan thường gặp trong gan nhiễm mỡ. Đối với vàng da tắc mật, đặc biệt là trường hợp sỏi di chuyển vào ống mật chủ, ALT thường tăng < 500 UI/L (trong viêm túi mật cấp), hiếm khi ALT tăng đến 3.000 UI/L nhưng sau đó giảm nhanh trở về bình thường.

– Lactat dehydrogenase (LDH). Là xét nghiệm không chuyên biệt cho gan vì men này có ở khắp các mô trong cơ thể (tim, cơ, xương, thận, hồng cầu, tiểu cầu, hạch bạch huyết). Ngay cả men LDH5 tương đối đặc hiệu cho gan nhưng cũng ít có giá trị trong việc xác định các bệnh gan-mật. LDH tăng cao và thoáng qua gặp trong hoại tử tế bào gan, sốc gan. Tăng LDH kéo dài kèm tăng ALP gợi ý đến các tổn thương thâm nhiễm ác tính ở gan.

– Ferritin. Là một loại protein dự trữ sắt ở trong tế bào, được cấu tạo gồm apoferritin gắn với sắt. Ferritin giữ nhiệm vụ điều chỉnh sự hấp thu sắt ở đường tiêu hóa tùy theo nhu cầu của cơ thể. Một số trường hợp viêm hoại tử tế bào gan cấp hoặc mạn tính, đặc biệt trong viêm gan virút C, ferritin tăng cao.

Bình thường, ferritin ở nam 100-300 mg/L, ở nữ 50-200 mg/L. Giảm ferritin gặp trong ăn thiếu chất sắt, thiếu máu thiếu sắt, ăn chay trường, xuất huyết rỉ rả, thiếu máu tán huyết mạn, người cho máu thường xuyên, chạy thận nhân tạo. Tăng ferritin còn gặp trong bệnh ứ sắt mô, bệnh ung thư (gan, phổi, tụy, vú, thận), bệnh huyết học (bệnh Hodgkin, bạch cầu cấp), hội chứng viêm và nhiễm trùng, bệnh thể keo (collagenosis), ngộ độc rượu, thiếu máu tán huyết, thalassemia…

b) Nhóm xét nghiệm khảo sát chức năng bài tiết và khử độc – Bilirubin

Bilirubin là sản phẩm chuyển hóa của hemoglobin và các enzym có chứa hem. Chín mươi lăm phần trăm bilirubin được tạo ra từ sự thoái biến của hồng cầu. Bilirubin gồm hai thành phần là bilirubin gián tiếp (GT) và bilirubin trực tiếp (TT). Bilirubin GT còn được gọi là bilirubin tự do, tan trong mỡ, gắn kết với albumin huyết tương nên không được lọc qua cầu thận.

· Tăng bilirubin GT (thuờng < 15 mg/dL): hiếm khi do bệnh gan, có thể do tăng sản xuất bilirubin (tán huyết, tạo hồng cầu không hiệu quả, tái hấp thu từ khối máu tụ) hoặc do giảm sự bắt giữ bilirubin tại tế bào gan (hội chứng Gilbert) hoặc giảm sự liên hợp bilirubin do thiếu men glucuronyl transferase (hội chứng Crigler-Najjar).

Nguyên nhân ứ mật có thể do các bệnh di truyền hiếm gặp (hội chứng Dubin-Johnson, hội chứng Rotor) hoặc do nguyên nhân mắc phải (thuốc, sỏi mật). Khi bilirubin TT tăng cao, có một phần bilirubin sẽ gắn với albumin huyết tương nên không bài tiết được qua nước tiểu.

Do vậy, tình trạng vàng da thường giảm chậm hơn sau khi nguyên nhân gây tắc mật đã được giải quyết. Phần bilirubin còn lại không gắn với albumin sẽ được bài tiết qua nước tiểu nên hạn chế được sự tăng bilirubin quá mức.

+ Bilirubin niệu

Chỉ hiện diện ở dạng bilirubin TT. Khi có bilirubin niệu, chắc chắn có vấn đề về gan mật. Bilirubin niệu được phát hiện nhanh chóng nhờ que nhúng. Kết quả có thể dương tính trước khi có vàng da rõ trên lâm sàng nhưng đến khi bệnh nhân hết vàng da, bilirubin niệu trở về âm tính trước khi giảm bilirubin huyết. Phenothiazine có thể làm cho kết quả bị dương tính giả khi sử dụng viên thử Ictotest.

– Urobilinogen

Là chất chuyển hóa của bilirubin tại ruột, được tái hấp thu vào máu theo chu trình ruột – gan và sau đó cũng được bài tiết qua nước tiểu. Trong trường hợp tắc mật hoàn toàn, sẽ không có urobilinogen trong nước tiểu. Urobilinogen tăng trong nước tiểu gặp trong trường hợp tán huyết (tăng sản xuất), xuất huyết tiêu hóa hoặc bệnh lý gan. Bình thường urobilinogen 0,2 – 1,2 đơn vị (phương pháp Watson).

– Phosphatase kiềm (alkalin phosphatase, ALP)

ALP là enzym thủy phân các ester phosphat trong môi trường kiềm (pH = 9). Nguồn gốc chủ yếu của ALP là ở gan và xương. Ở ruột, thận và nhau thai thì ít hơn. Bình thường ALP 25 – 85 U/L hoặc 1,4 – 4,5 đơn vị Bodansky hoặc 1,5 – 4,5 đơn vị King Armstrong.

Men ALP là xét nghiệm rất nhạy để phát hiện có tắc đường mật. Sự tăng ALP trong bệnh cảnh tắc mật là do đáp ứng của tế bào gan và tế bào biểu mô ống mật tăng tổng hợp enzym này chứ không hẳn là do sự trào ngược men vào trong máu hoặc do giảm thải trừ ALP đang lưu hành.

Sự tăng ALP do nguyên nhân ở gan thường đi kèm với sự tăng của men GGT và 5′-nucleotidase. Khi ALP tăng đơn thuần có thể là một dấu hiệu chỉ dẫn cho các bệnh gan do thâm nhiễm như ung thư, áp xe, u hạt, thoái hóa dạng bột.

ALP tăng nhẹ và vừa (hai lần bình thường) có thể gặp trong viêm gan, xơ gan, di căn hoặc thâm nhiễm ở gan (bệnh bạch cầu, lymphoma, sarcoidosis). ALP tăng cao (3-10 lần bình thường) thường do tắc mật trong hoặc ngoài gan. ALP có thể tăng sớm ngay cả khi tắc mật không hoàn toàn, lúc đó bilirubin máu có thể vẫn còn bình thường hoặc tăng nhẹ. Một khi ALP bình thường, ít nghĩ đến nguyên nhân do tắc mật.

ALP cũng không đặc hiệu cho gan vì còn tăng trong các bệnh ngoài gan như bệnh Paget của xương, hủy xương, nhuyễn xương, di căn xương, tăng PTH và một số bệnh ác tính khác. Khác với ALP có nguồn gốc từ xương, các isoenzym ở gan bền với nhiệt độ (56o C/15′) đồng thời có thể điện di để tách các isoenzym này. ALP còn tăng trong trường hợp tắc ruột non hoặc trong các điều kiện sinh lý như có thai, giai đoạn tăng trưởng xương ở trẻ em. ALP thấp có thể gặp trong suy giáp, thiếu máu ác tính, giảm chất kẽm, giảm ALP bẩm sinh và sự bùng phát của bệnh Wilson.

– 5′ Nucleotidase (5NT)

Đây là một ALP tương đối chuyên biệt cho gan, giúp xác định tình trạng tăng ALP là do gan hay do xương hoặc do các trạng thái sinh lý như trẻ em đang tuổi tăng trưởng hoặc phụ nữ có thai. Sự tăng 5NT có tương quan với mức tăng ALP. Bình thường 5NT 0,3 – 2,6 đơn vị Bodansky/dL

– g-glutamyl transferase , g-glutamyl transpeptidase (GGT, g-GT)

GGT xúc tác sự chuyển nhóm g-glutamyl từ những peptid như glutathion đến những acid amin khác và giữ vai trò vận chuyển acid amin. Mặc dù hiện diện ở nhiều cơ quan khác nhưng GGT được tìm thấy ở nồng độ cao trong tế bào biểu mô trụ của ống mật. Đây là một xét nghiệm rất nhạy để đánh giá rối loạn chức năng bài tiết của gan nhưng cũng không đặc hiệu do bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố.

Bình thường GGT # 30 U/L ở nữ và # 50 U/L ở nam. Nguyên nhân thường gặp nhất của tăng GGT đơn thuần là tình trạng nghiện rượu mạn tính, tắc mật, sau uống một số thuốc gây cảm ứng enzym ở gan (acetaminophen, phenytoin) và một số trường hợp gan nhiễm mỡ không do rượu. Thời gian bán hủy là 7-10 ngày nhưng ở người uống rượu, thời gian bán hủy này có thể kéo dài đến 28 ngày. Vì vậy, GGT là một chỉ dẫn để nhận biết bệnh nhân có còn tiếp tục uống rượu hay không. GGT còn được dùng để phân biệt với trường hợp tăng ALP do nguyên nhân ở xương.

– Amoniac máu (NH3)

NH3 được sản xuất từ chuyển hóa bình thường của protein trong cơ thể và do vi khuẩn sống ở đại tràng. Gan giữ nhiệm vụ khử độc NH3 bằng cách chuyển thành urê để thải qua thận. Cơ vân cũng giữ vai trò khử độc NH3 bằng cách gắn với acid glutamic để tạo thành glutamin. Những bệnh nhân bệnh gan nặng thường bị teo cơ do phá hủy cũng góp phần làm cho NH3 tăng cao. NH3 có thể tăng ở bệnh nhân bị tăng áp lực tĩnh mạch cửa nặng hoặc có shunt mạch máu cửa ở gan.

Bình thường NH3 máu 5-69 mg/dL. NH3 tăng trong các bệnh gan cấp và mạn tính. NH3 máu không phải là xét nghiệm đáng tin cậy để chẩn đoán bệnh não do gan. NH3 có thể trở về bình thường khoảng 48 – 72 giờ trước khi có cải thiện tình trạng thần kinh.

Nồng độ NH3 trong máu động mạch chính xác hơn trong máu tĩnh mạch vì không bị ảnh hưởng của NH3 từ ruột.

Gan là nơi duy nhất tổng hợp albumin cho cơ thể. Albumin duy trì áp lực keo trong lòng mạch và là chất vận chuyển các chất trong máu đặc biệt là thuốc. Bình thường albumin 35 -55 g/L. Do khả năng dự trữ của gan rất lớn và thời gian bán hủy của albumin kéo dài (khoảng 3 tuần) nên lượng albumin máu chỉ giảm trong các bệnh gan mạn tính (xơ gan) hoặc khi tổn thương gan rất nặng. Ở bệnh nhân xơ gan cổ trướng, lượng albumin giảm còn do bị thoát vào trong dịch báng.

Giảm albumin huyết thanh còn gặp trong suy dinh dưỡng hoặc bị mất albumin bất thường qua đường tiểu (hội chứng thận hư) hoặc qua đường tiêu hóa (viêm đại tràng mạn). Ở bệnh nhân bị vàng da sậm, albumin có thể bị giảm giả tạo là do bilirubin tăng cao gây cản trở việc định lượng albumin.

Được sản xuất từ nhiều nơi khác nhau trong cơ thể, bao gồm nhiều loại protein vận chuyển các chất trong máu và các kháng thể tham gia hệ thống miễn dịch thể dịch. Bình thường globulin 20 – 35 g/L.

Globulin bao gồm a1 globulin (a1-antitrypsin, TBG tức thyroxin-binding globulin, transcortin…), a2 globulin (haptoglobulin, ceruloplasmin. a2-macroglobulin…), b globulin (b1-transferrin, b-lipoprotein, các bổ thể…), g globulin (các kháng thể miễn dịch).

Trong xơ gan, các kháng nguyên từ vi khuẩn đường ruột không được tiêu diệt ở gan mà lại đi tắc theo các thông nối cửa-chủ nên tạo ra đáp ứng tăng kích thích tổng hợp ở hệ võng nội mô, làm cho g globulin tăng cao. Ngoài ra, kiểu tăng của các loại globulin cũng có thể gợi ý đến một số bệnh gan đặc biệt, ví dụ IgG tăng trong viêm gan tự miễn, IgM tăng trong xơ gan ứ mật nguyên phát.

– Điện di protein huyết thanh

Albumin: 35-55 g/L, chiếm 50-60%

a1 globulin: 2-4 g/L, chiếm 4,2-7,2%

a2 globulin: 5-9 g/L, chiếm 6,8-12%

g globulin: 6-11 g/L, chiếm 9,3-15%

g globulin: 7-17 g/L, chiếm 13-23%

Tỷ số albumin/globulin (A/G) đảo ngược (<1) gặp trong các bệnh viêm gan mạn tính; đặc biệt trong xơ gan là do giảm tổng hợp albumin và tăng tổng hợp g-globulin. Trong xơ gan do rượu, biểu đồ điện di protein máu có hình ảnh “b-g bloc” hay “cầu b-g” do sự tăng IgA làm cho hai đỉnh b và g nhập lại một vì khi điện di, IgA nằm giữa b và g globulin.

– Thời gian Prothrombin (PT) hay thời gian Quick (TQ)

Là thời gian chuyển prothrombin thành thrombin khi có sự hiện diện của thromboplastin và Ca++ cùng các yếu tố đông máu. TQ là một xét nghiệm khảo sát con đường đông máu ngoại sinh.

Bình thường TQ 12″ ± 1 (tương ứng với 80-100% hàm lượng prothrombin). Để chuẩn hóa kết quả PT, người ta thường chuyển đổi thành INR (International Normalized Ratio). Bình thường INR = 0,8-1,2.

Gan tổng hợp hầu hết các yếu tố đông máu như I (fibrinogen), II (prothrombin), V, VII, IX, X. Các yếu tố đông máu này có thời gian bán hủy ngắn (ngắn nhất là yếu tố VII, sau đó là X, IX). Sự tổng hợp các yếu tố đông máu ở gan cần có sự tham gia của vitamin K, ngoại trừ yếu tố V. Vì vậy, người ta dùng yếu tố V để phân biệt suy chức năng gan thật sự với tình trạng thiếu vitamin K.

Việc đo liên tục yếu tố V có thể giúp đánh giá tiên lượng trong suy gan bùng phát (tiên lượng xấu khi giá trị < 20% mức bình thường). Đo yếu tố II (des-gamma-carboxyprothrombin) cũng có thể đánh giá được chức năng gan. Yếu tố II tăng gặp trong xơ gan, ung thư gan, sử dụng thuốc kháng đông (coumarine). Khi tiêm vitamin K, yếu tố II sẽ trở về bình thường nếu là do sử dụng kháng đông, còn nếu do các bệnh gan thì yếu tố này vẫn còn bất thường.

Khi PT kéo dài thường là dấu hiệu tiên lượng nặng. Thiếu vitamin K do tắc mật kéo dài hay rối loạn hấp thu mỡ (tiêu chảy mỡ, viêm tụy mạn) cũng làm PT kéo dài nhưng khi tiêm 10 mg vitamin K, PT sẽ trở về ít nhất 30% mức bình thường trong vòng 24 giờ (nghiệm pháp Kohler). Trước khi phẫu thuật hoặc làm sinh thiết gan, phải kiểm tra chức năng đông máu.

d) Các xét nghiệm định lượng chức năng gan

Ngoài các xét nghiệm thường quy đánh giá chức năng gan, người ta còn thực hiện một số các xét nghiệm có thể giúp đánh giá định lượng chức năng hiện tại của gan. Các xét nghiệm này thường chỉ được sử dụng để khảo sát trước khi phẫu thuật cắt gan, ghép gan hoặc dùng trong nghiên cứu.

Đo độ thanh lọc BSP (bromosulfonephtalein)

Đo độ thanh lọc indocyanine green

Đo độ thanh lọc antipyrine

Test hơi thở aminopyrine

Đo độ thanh lọc caffeine

Đo khả năng thải trừ galactose

5/ Chuẩn bị làm xét nghiệm chức năng gan như thế nào?

6/ Khoảng bình thường của các xét nghiệm chức năng gan là gì?

Các khoảng bình thường cho các xét nghiệm chức năng gan có thể khác nhau theo tuổi tác, giới tính và các yếu tố khác. Các kết quả xét nghiệm thường được đính kèm các khoảng bình thường của xét nghiệm chức năng gan đó.

…..

Nếu bạn đọc còn thắc hay cần tư vấn trao đổi rõ hơn về các xét nghiệm chức năng gan hiện nay có thể liên hệ trực tiếp đến hotline 023 63811868 của phòng khám pasteur để được các bác sĩ chuyên sâu thăm khám và đưa ra những lời khuyên tốt nhất

Xét Nghiệm Chức Năng Gan Gồm Những Gì, Khi Nào Cần Thiết?

Thực hiện xét nghiệm chức năng gan là phương pháp quan trọng để đo sức khỏe lá gan. Xét nghiệm này bao gồm đo định lượng protein, men gan và bilirubin trong máu. Kết quả xét nghiệm rất có ích cho việc bảo vệ sức khỏe mỗi người.

Vì sao cần xét nghiệm chức năng gan?

Gan thực hiện nhiều chức năng quan trọng đối với cơ thể nên việc kiểm tra chức năng gan thường xuyên là điều cần thiết. Các loại xét nghiệm về gan giúp bác sĩ kiểm tra chức năng của gan và phát hiện các tổn thương gan.

Các loại xét nghiệm về gan giúp bác sĩ kiểm tra chức năng của gan và phát hiện các tổn thương gan.

Xét nghiệm chức năng gan gồm những gì?

Các xét nghiệm men gan

– AST (Aspartate aminotransferase) hiện diện ở cơ tim và cơ vân nhiều hơn ở gan. Ngoài ra, AST còn có ở thận, não, tụy, phổi, bạch cầu và hồng cầu. Bình thường AST < 40 UI/L

– ALT (Alanine aminotransferase) hiện diện chủ yếu ở bào tương của tế bào gan cho nên sự tăng ALT nhạy và đặc hiệu hơn AST trong các bệnh gan. Bình thường ALT < 40 UI/L.

Các xét nghiệm chức năng bài tiết và khử độc của gan

– Bilirubin: Tăng bilirubin GT (thuờng < 15 mg/dL): có thể do tăng sản xuất bilirubin (tán huyết, tạo hồng cầu không hiệu quả, tái hấp thu từ khối máu tụ) hoặc do giảm sự bắt giữ bilirubin tại tế bào gan (hội chứng Gilbert).

– Bilirubin niệu: Chỉ hiện diện ở dạng bilirubin TT. Khi có bilirubin niệu, chắc chắn có vấn đề về gan mật. Bilirubin niệu được phát hiện nhanh chóng nhờ que nhúng. Kết quả có thể dương tính trước khi có vàng da rõ trên lâm sàng nhưng đến khi bệnh nhân hết vàng da, bilirubin niệu trở về âm tính trước khi giảm bilirubin huyết.

– Urobilinogen: Là chất chuyển hóa của bilirubin tại ruột, rồi hấp thu trở lại vào máu qua ruột đến gan. Sau cùng sẽ bài tiết qua nước tiểu. Ở người bị tắc mật hoàn toàn, xét nghiệm cho thấy urobilinogen không tồn tại trong nước tiểu. Urobilinogen tăng trong nước tiểu khi có tình trạng xuất huyết tiêu hóa hoặc bệnh về gan. Chỉ số urobilinogen bình thường là 0,2 – 1,2 đơn vị.

– Phosphatase kiềm (ALP): Bình thường chỉ số ALP trong khoảng 25 – 85 U/L hoặc 1,4 – 4,5 đơn vị. ALP tăng nhẹ và vừa (gấp đôi bình thường) khi có viêm gan, xơ gan, ung thư di căn hoặc thâm nhiễm ở gan (bệnh bạch cầu, lymphoma, sarcoidosis). Chỉ số này tăng mạnh từ 3-10 lần bình thường) khi có tắc mật trong hoặc ngoài gan.

– 5′ Nucleotidase (5NT): Đây là một ALP tương đối chuyên biệt cho gan, giúp xác định tình trạng tăng ALP là do gan hay do xương hoặc do các trạng thái sinh lý như trẻ em đang tuổi tăng trưởng hoặc phụ nữ có thai. Sự tăng 5NT có tương quan với mức tăng ALP. Bình thường 5NT 0,3 – 2,6 đơn vị Bodansky/dL

– GGT, g-GT: Bình thường GGT # 30 U/L ở nữ và # 50 U/L ở nam. Nguyên nhân thường gặp nhất là tình trạng nghiện rượu mạn tính, tắc mật, sau uống một số thuốc gây cảm ứng enzym ở gan, một số trường hợp gan nhiễm mỡ không do rượu.

– Amoniac máu (NH3): Bình thường NH3 máu 5-69 mg/dL. NH3 tăng trong các bệnh gan cấp và mạn tính.

Thực hiện xét nghiệm chức năng gan là phương pháp quan trọng để đo sức khỏe lá gan.

Các xét nghiệm chức năng gan tổng hợp

Albumin huyết thanh: Gan là nơi duy nhất tổng hợp albumin cho cơ thể. Albumin duy trì áp lực keo trong lòng mạch và là chất vận chuyển các chất trong máu đặc biệt là thuốc. Bình thường albumin 35 -55 g/L. Lượng albumin máu chỉ giảm trong các bệnh gan mạn tính (xơ gan) hoặc khi tổn thương gan rất nặng. Ở bệnh nhân xơ gan cổ trướng, lượng albumin giảm.

Globulin huyết thanh: Bình thường globulin 20 – 35 g/L. Globulin tăng cao khi gan bị xơ hóa. Ngoài ra, kiểu tăng của các loại globulin cũng có thể gợi ý đến một số bệnh gan đặc biệt, ví dụ IgG tăng trong viêm gan tự miễn, IgM tăng trong xơ gan ứ mật nguyên phát.

Thời gian Prothrombin (PT): Thời gian đông máu. Bình thường INR = 0,8-1,2. Trước khi phẫu thuật hoặc làm sinh thiết gan, phải kiểm tra chức năng đông máu.

Xét nghiệm chức năng gan thường được chỉ định khi cần kiểm tra hiện trạng các bệnh viêm gan virus như viêm gan B và viêm gan C

Khi nào cần thực hiện xét nghiệm chức năng gan?

Xét nghiệm chức năng gan thường được chỉ định hoặc tư vấn tiến hành khi một người có các yếu tố sau:

– Khi cần kiểm tra hiện trạng các bệnh viêm gan virus như viêm gan B và viêm gan C

– Cần theo dõi tác dụng phụ của một số loại thuốc đã và đang cần sử dụng mà có khuyến cáo tác dụng phụ ảnh hưởng tiêu cực lên lá gan.

– Theo dõi diễn biến bệnh ở người có tiền sử bệnh gan

– Người gặp phải các triệu chứng thể hiện sự bất ổn, rối loạn tại gan

– Người mắc các bệnh đái tháo đường, cao huyết áp hoặc thiếu máu

– Người thường xuyên uống rượu, người bị bệnh viêm túi mật, sỏi túi mật

XEM THÊM: