Top 9 # Xem Nhiều Nhất Viết Một Câu Sử Dụng Biện Pháp Nhân Hóa Để Nói Về Chiếc Lá Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Photomarathonasia.com

Tìm Hiểu Về Biện Pháp Nhân Hóa Và Cách Sử Dụng Biện Pháp Nhân Hóa

1. Biện pháp nhân hóa là gì?

Biện pháp nhân hóa chính là việc gọi các sự vật, hiện tượng bằng những từ ngữ dùng để miêu tả cho con người, có những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm giống như con người.

Biện pháp nghệ thuật nhân hóa giúp việc miêu tả các hình ảnh của sự vật hiện tượng trở nên sinh động và hấp dẫn hơn.

Ví dụ: “Dưới trăng quyên đã gọi hè

Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”.

2. Các hình thức nhân hóa trong tiếng Việt

2.1 Gọi các sự vật bằng những từ chỉ người

Đơn giản đó là việc dùng các đại từ nhân xưng vốn dùng cho người sẽ dùng cho vật. Cách gọi này giúp cho các đồ vật, con vật, cây cối … trở nên gần gũi và thân thiện. Nội dung này thường xuất hiện nhiều trong các đề thi Tiếng Việt của học sinh tiểu học.

Ví dụ: Nhà em có nuôi một chú chó trắng, chú có bộ lông rất mượt mà.

Mỗi buổi sáng, bác gà trống gáy ò ó o gọi mọi người thức giấc dậy đi làm.

2.2 Miêu tả hành động, tính chất của người để miêu tả sự vật

Miêu tả các sự vật có hành động và tính chất giống như con người, cách nhân hóa này giống lời văn gợi hình, gợi ảnh và sinh động hơn. Hình thức nhân hóa này mang lại hiệu quả nghệ thuật khá cao và gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Vươn mình trong gió tre đu

Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành

Những hành động như “vươn mình”, “đu”, “hát ru” vốn là những từ ngữ chỉ hành động của con người. Khi câu văn sử dụng biện pháp nhân hóa, giúp cho hình ảnh của “tre” trở nên gần gũi và giàu cảm xúc. Câu văn mang nhiều ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Thể hiện sức sống dẻo dai, bền bỉ, kiên cường đồng thời thể hiện tinh thần lạc quan, bất khuất của người dân vươn lên trong khó khăn, gian khổ.

Biện pháp nghệ thuật nhân hóa

2.3 Xưng hô với vật như với con người

Cách xưng hô thân mật, giúp cho sự vật tưởng như vô tri vô giác trở nên gần gũi như những người bạn tâm giao, tri kỷ của con người. Thường áp dụng khi nhân vật độc thoại nội tâm.

Ví dụ: “Buồn trông con nhện giăng tơ

Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai”

Qua câu thơ trên người đọc có thể hiểu được tâm sự của người đang trong hoàn cảnh cô đơn, lựa chọn một người bạn ở đây là “nhện” để giãi bày tâm tư, tình cảm về nỗi nhớ quê hương.

Cách sử dụng biện pháp nhân hóa

3. Giúp bé sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa hiệu quả

Bước 1: Cần xác định sự việc cần được nhân hóa (Có thể là đồ vật, cây cối, con vật).

Về đồ vật: cái bàn, cái ghế, cái tủ …

Cây cối: cây bàng, cây hoa, cây chuối …

Con vật: con chim, con gà, con ếch, con gấu …

Bước 2: Sử dụng các hình thức nhân hóa cho sự vật (bao gồm: gọi, miêu tả, xưng hô).

Bước 3: Hoàn thiện nội dung của câu văn.

Ví dụ: Cái tủ sách của lớp em “đứng” gọn gàng ở góc lớp.

Từng tán cây bàng rung rinh như “đón chào” chúng em đến lớp.

“Chú” gà trống “gọi” em thức dậy mỗi buổi sáng.

“Bác” gấu đang chăm sóc đàn con nhỏ.

Như vậy việc áp dụng biện pháp nhân hóa vào câu văn giúp sự vật, hiện tượng trở nên sinh động và có hồn hơn. Câu thơ, lời văn trở nên mềm mại và mang giá trị nghệ thuật cao hơn.

Một Số Kinh Nghiệm Hướng Dẫn Học Sinh Viết Văn Miêu Tả Sử Dụng Biện Pháp Nhân Hóa

Phép nhân hoá tỏ ra đặc dụng khi miêu tả loài vật . ở nhiều tác phẩm, nhân hoá không chỉ là biện pháp hoặc thủ pháp có tính chất tu từ học mà trở thành phương pháp xây dựng hình tượng , xây dựng tác phẩm như trong Dế mèn phiêu liêu ký , Võ sĩ Bọ Ngựa Phổ biến trong các bài văn miêu tả nhân hoá được dùng như một biện pháp nghệ thuật . Người viết dùng cách gọi người để gọi vật (Cu Tũn, Chị Vàng ), tả các hoạt động , tính nết của con vật như con người . Nhờ biện pháp nhân hoá , con vật được miêu tả trở nên thân thuộc với người đọc .

Ví dụ : Bài : Anh Đom Đóm

Mặt trời gác núi

Bóng tối tan dần

Anh Đóm chuyên cần

Lên đèn đi gác.

ới học sinh: Học sinh không hứng thú với phân môn Tập làm văn, các em ngại học hoặc học một cách đối phó vì các em ít được quan sát thực tế khi miêu tả. Phần lớn các đối tượng miêu tả được đưa vào chương trình rất quen thuộc đối với các em. Tuy nhiên vì các em thường hay không để tâm quan sát nên việc tìm ý để miêu tả là rất khó. Bởi vậy, thực tế bài làm của học sinh nhiều câu văn còn mang tính chất sao chép, cứng nhắc, chưa thực tế, không mang tính phát hiện của bản thân. Chẳng hạn có học sinh tả: "Cây nhãn này do ông em trồng từ mười năm trước. Cây cao khoảng 40 cm , cành lá xum xuê che bóng mát cho cả một khu đất rộng". Mặt khác hầu như các bài văn của học sinh làm chỉ mang tính chất liệt kê sự vật chứ chưa mang tính chất miêu tả, thậm chí các em còn dựa nhiều vào những bài văn mẫu có trong các sách tham khảo. Đứng trước thực trạng trên, là giáo viên chủ nhiệm lớp 4A, tôi thật sự băn khoăn và đặt ra nhiệm vụ là làm thế nào để học sinh ứng dụng những điều đã học về biện pháp nhân hóa trong bài văn ? Làm thế nào để học sinh viết được một văn miêu tả hay? Chính vì thế mà tôi chọn đề tài: Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh viết văn miêu tả sử dụng biện pháp nhân hóa. 3. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp đàm thoại, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp với học sinh lớp 4A. - Phương pháp quan sát . - Phương pháp khảo sát thực tế . - Phương pháp thống kê . - Phương pháp thực nghiệm . II. PHẦN NỘI DUNG 1. Mục tiêu: - Tìm hiểu về nội dung qui định Chương trình sách giáo khoa tiếng việt 4 . 2. Giải pháp đề ra: Với thực trạng trên, trong năm học 2012-2013, tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 4A. Ngay từ đầu năm, tôi đã tiến hành điều tra khảo sát chất luợng môn tập làm văn của học sinh trong lớp mình phụ trách. Kết quả đạt được như sau: Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 4A 19 1 5 6 31 7 37 5 27 4B 20 1 5 7 35 8 40 4 20 Trước thực tế dạy học đó, để đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực nhằm đem lại hiệu quả cao trong tiết dạy Tập làm văn bản thân tôi đã nghiên cứu kỹ chương trình Tập làm văn lớp 4, tìm tòi và thử nghiệm đổi mới phương pháp dạy dạy học, mạnh dạn đưa các biện pháp tu từ đặc biệt là biện pháp nhân hoá để hướng dẫn học sinh làm bài văn với mục đích để học sinh có kĩ năng làm bài văn được tốt hơn. Để hướng dẫn học sinh sử dụng biện pháp nhân hoá khi viết văn miêu tả tôi đã tiến hành giúp học sinh làm rõ các vấn đề sau: * Thế nào là văn miêu tả? Để hiểu về văn miêu tả trước hết tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu rõ thế nào là văn miêu tả ? Văn miêu tả vẽ ra các sự vật, sự việc, hiện tượng, con người bằng ngôn ngữ một cách sinh động, cụ thể giúp người đọc cảm tưởng như đang xem tận mắt, bắt tận tay. Tuy nhiên, hình ảnh, đối tượng do văn miêu tả tạo nên không phải là bức ảnh chụp lại, sao chép lại một cách vụng về mà nó là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, những rung động sâu sắc mà người viết đã thu lượm được khi quan sát cuộc sống. Văn miêu tả mang tính thông báo thẩm mĩ, chứa đựng tình cảm của người viết; văn miêu tả có tính rung động, tính hình tượng. Vì vậy, nó phải tuân theo những quy định để làm ra một tác phẩm nghệ thuật. * Biện pháp nhân hoá là gì? Nhân hoá trong viết văn là cách dùng các từ ngữ chỉ về người hoặc biểu thị về các hoạt động tính chất của con người để biểu thị các sự vật hoặc các hoạt động, tính chất của sự vật không phải là người , qua đó bày tỏ thái độ tình cảm của người nói đối với đối tượng được miêu tả. Có tài liệu gọi nhân hoá là những ẩn dụ, khi chuyển đổi từ những vật vô sinh sang những vật hữu sinh, hoặc là từ thế giới vật chất sang thế giới ý thức của con người. Nhân hoá chỉ có thể được hiện thực hoá trong ngữ cảnh nhất định . Nếu tách nó ra khỏi ngữ cảnh thì hiệu quả biểu đạt của nó sẽ không còn giá trị . Khi nghiên cứu về biện pháp nhân hoá, các tác giả nghiên cứu về phong cách học cho rằng : Nhân hoá là một loại , hoặc biến thể của ẩn dụ.Về hình thức cấu tạo , nhân hoá cũng giống như ẩn dụ vì chỉ có một vế B được phô bày , nó không gọi thẳng tên đối tượng mà để người ta tự tìm đến đối tượng đó trong ngữ cảnh theo quy luật của lôgic. Quá trình liên tưởng đến đối tượng đó là phân tích lôgic để xác lập đối tượng được miêu tả. Macxim Goorki đã có lần chỉ trích về cách nhân hoá " Biển cười" của mình . Ông tự nhân xét : biển cười mà cười thì không thể nào chấp nhận được tuy rằng lối nhân hoá này có gây nên sự tưởng tượng bất ngờ * Cơ sở của việc xác định biện pháp nhân hoá: Cơ sở để tạo nên nhân hoá đó là sự liên tưởng. Liên tưởng để nhằm đi đến phát hiện ra những nét giống nhau giữa người và đối tượng không phải là người. ở đây đòi hỏi một sự quan sát tinh tế, một sự hiểu biết chính xác về những thuộc tính của con người cũng như những thuộc tính không phải của con người. Ví dụ : Gắn đặc tính của con người : siêng năng, cần cù, chịu khó, dùm bọc lẫn nhau cho cây tre. Từ đó tạo ra sự đối lập, làm nên tính hấp dẫn, mới mẻ, lý thú. Khi đó có sự chuyển trường nghĩa : Từ trường nghĩa sự vật , hiện tượng vô tri vô giác sang trường nghĩa con người. Các hình thức nhân hoá thường dùng trong văn miêu tả đó là. - Dùng từ chỉ tính chất , hoạt động của con người để biểu thị tính chất, hoạt động của đối tượng không phải con người : chạy , nhảy, khóc, cười. - Coi đối tượng không phải là con người như con người , tâm tư , trò chuyện với nhau - Có thể dùng các từ ngữ chỉ quan hệ thân thuộc của con người trong gia đình để gọi tên các đối tượng không phải của người: ông, bà, chú, bác Mặt khác, trong quá trình phân tích, tìm hiểu , chúng ta thấy nhân hoá có thể được sử dụng ở nhiều cấp độ khác nhau: Cấp độ từ, cấp độ câu, cấp độ toàn văn bản. Vì vậy tôi sẽ dựa vào các cấp độ sử dụng biện pháp này để phân loại , hướng dẫn học sinh cách sử dụng biện pháp nhân hoá khi viết văn nhằm để đạt mục đích đó là. -Nhân hoá giúp học sinh biết thể hiện tình cảm một cách tế nhị , tinh tế. -Nhân hoá làm cho thế giới xung quanh thêm sinh động, hồn nhiên , từ đó dùng trở thành người bạn tâm tình của trẻ thơ , giúp trẻ dễ hiểu và nhận biết thế giới xung quanh. * Cơ sở để xác định cách hướng dẫn học sinh sử dụng biện pháp pháp nhân hoá khi viết văn miêu tả: Văn miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm cho người nghe, người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự việc như nó vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay không những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng tượng khi miêu tả. Bởi vì trong thực tế, không ai tả để mà tả, mà thường tả để gửi gắm những suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh giá của mình, những tình cảm yêu ghét cụ thể của người viết. Các bài văn miêu tả ở Tiểu học chỉ yêu cầu tả những đối tượng mà các em yêu mến, yêu thích (cái cặp sách, con búp bê, cây bàng). Vì vậy qua bài làm của mình, các em được gửi gắm tình cảm của mình với những gì mà mình miêu tả. khi khuyến khích học sinh sử dụng biện pháp nhân hoá bản thân tôi đã giúp học sinh những điểm sau: -Phát triển tư duy độc lập sáng tạo, khả năng suy ngẫm, óc phê phán và tính độc đáo của học sinh. -Học sinh có khả năng vận dụng những hiểu biết, kinh nghiệm của bản thân vào quá trình học tập một cách tích cực. -Phát triển những kĩ năng, kĩ xảo của hoạt động học tập và nhận thức cho học sinh. 3 . Các biện pháp thực hiện hướng dẫn học sinh sử dụng biện pháp pháp nhân hoá khi viết văn miêu tả: Dạy học sinh lớp 4 sử dụng biện pháp nhân hoá để trong viết văn nhằm mục đích nâng cao chất lượng học tập cho học sinh bậc tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng xuất phát từ thực tiễn của quá trình dạy học nhằm mặt hạn chế mặt tiêu cực và phát huy mặt tích cực của các cách dạy học trước đây và hiện nay. Để thực hiện được điều này, giáo viên cần thực hiện những biện pháp sau: Biện pháp 1 :Nắm vững mục tiêu của môn Tập làm văn ở tiểu học Giáo viên cần phải nắm vững mục tiêu của môn Tập làm văn ở Tiểu học để từ đó xác định đúng mục tiêu của từng kiểu bài, từng bài dạy. Cụ thể mục tiêu của phân môn tập làm văn ở Tiểu học được thể hiện ở 2 nội dung đó là: -Rèn luyện cho học sinh kĩ năng sản sinh các văn bản nói và viết( kĩ năng phân tích đề, kĩ năng tìm ý, lập dàn ý; kĩ năng viết đoạn văn; kĩ năng liên kết đoạn văn thành bài văn). Bên cạnh đó củng cố và hoàn thiện các kĩ năng mà học sinh đã học ở các phân môn khác như kĩ năng dùng từ đặt câu, sử dụng dấu câu, viết đúng chính tả -Thông qua việc dạy Tập làm văn để rèn luyện các thao tác tư duy, phát triển ngôn ngữ, bồi dưỡng tình yêu cái đẹp, cái thiện, lẽ phải và sự công bằng trong xã hội; tình yêu và thói quen giữ gìn sự giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, có tri thức, thấm nhuần tryền thống tốt đẹp của dân tộc, ưa chuộng lối sống lành mạnh, ham thích việc làm và biết rèn luyện khả năng thích ứng với cuộc sống xã hội sau này. Biện pháp 2: Nắm vững các kiểu bài văn miêu tả ở tiểu học Khi dạy học, tôi đặt ra mục tiêu hàng đầu là giúp học sinh nắm chắc từng kiểu bài văn miêu tả và tuỳ thuộc vào từng kiểu bài để hướng dẫn học sinh sử dụng biện pháp nhân hoá cho hợp lí, đặc biệt là lấy ví dụ minh hoạ bằng cách sử dụng những đoạn thơ, đoạn văn mang tính chất điển hình để cho học sinh tham khảo. Kiểu bài "tả đồ vật" Đồ vật là vật vô tri, vô giác . Để tả cho sinh động người ta thường hay sử dụng biện pháp nhân hoá. Dựa vào điểm này, tôi đã hướng dẫn học sinh dùng đại từ hay từ xưng hô : Anh , Chị, chú, cô nàng, anh chàng , khi đứng trước ngôi thứ ba, hoặc dùng các địa từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất (" Tớ là chiếc xe lu") để tả. Có thể dùng theo các đại từ nhân xưng là hàng loạt các động từ, tính từ miêu tả hoạt động hoặc tâm trạng, ý nghĩ của con người được dùng để tả đồ vật . Nhờ vậy đồ vật trở nên sinh động , hấp dẫn dù là vật vốn quen thuộc hàng ngày. Ví dụ : Chiếc xe lu Tớ là chiếc xe lu Người tớ to lù lù Con đường nào mới đắp Tớ san bằng tăm tắp Con đường nào rải nhựa Tớ là phẳng như lụa. (Trần Nguyên Đào) Tuy nhiên, cần hướng dẫn học sinh sử dụng biện pháp nhân hoá đúng chỗ, nếu không có thể làm cho việc tả đồ vật mất tính chân thực . b) Kiểu bài " tả cây cối" Khi miêu tả cây cối , người ta hay dùng biện pháp so sánh, nhân hoá. Khi dạy kiểu bài này, ngoài việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ nội dung của các đoạn văn mẫu trong sách giáo khoa tôi còn lấy thêm nhiều ví dụ về việc sử dụng biện pháp nhân hoá khi miêu tả cây cối trong các đoạn văn đoạn thơ ở ngoài để làm ví dụ. Chăng hạn, Trần Đăng Khoa từng nhân hoá : Cây dừa xanh toả nhiều tàu lá Dang tay đón gió , gật đầu gọi trăng c) Kiểu bài " Tả loài vật" Phép nhân hoá tỏ ra đặc dụng khi miêu tả loài vật . ở nhiều tác phẩm, nhân hoá không chỉ là biện pháp hoặc thủ pháp có tính chất tu từ học mà trở thành phương pháp xây dựng hình tượng , xây dựng tác phẩm như trong Dế mèn phiêu liêu ký , Võ sĩ Bọ NgựaPhổ biến trong các bài văn miêu tả nhân hoá được dùng như một biện pháp nghệ thuật . Người viết dùng cách gọi người để gọi vật (Cu Tũn, Chị Vàng), tả các hoạt động , tính nết của con vật như con người . Nhờ biện pháp nhân hoá , con vật được miêu tả trở nên thân thuộc với người đọc . Ví dụ : Bài : Anh Đom Đóm Mặt trời gác núi Bóng tối tan dần Anh Đóm chuyên cần Lên đèn đi gác. Bởi sự đặc dụng của biện pháp nhân hoá trong miêu tả con vật, nên khi dạy kiểu bài này tôi đã hướng cho học sinh dùng cách gọi người để gọi vật. Với cách hướng dẫn này tôi nhận thấy học sinh rất thích thú khi làm bài văn tả con vật, qua đó các em tìm ra được những chi tiết riêng, đặc sắc của con vật vì với cách giọ này các em cảm thấy con vật trở nên gần gũi, quen thộc đối với chính bản thân mình. d)Kiểu bài " Tả cảnh": Trong kiểu bài này các tính từ chỉ màu sắc, hình khối , tính chất , các từ tượng thanh và tượng hình , các phép nhân hoá , so sánh đều được huy động. Cũng như đối với các kiểu bài văn trên, khi dạy kiểu bài văn này, tôi cũng giúp học sinh thấy được cái hay của biện pháp nhân hoá khi dùng để tả cảnh. Ví dụ : Phép nhân hoá được sử dụng khi tả cảnh trời giông sắp đổ mưa trong bài Mưa của Trần Đăng Khoa: Ông trời Múa gươm Mặc áo giáp đen Kiến Ra trận Hành quân Muôn nghìn cây mía Đầy đường Từ nhưng câu thơ này, giáo viên gợi ý cho học sinh về cách sử dụng biện pháp nhân hoá khi tả vật , đồ vật , tả cảnh để bài văn được sinh động , hấp dẫn người đọc.. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh quan sát Đây là biện pháp quan trọng, vì nếu giáo viên biết cách hướng dẫn tốt thì sẽ gây được nhiều hứng thú và sự tưởng tượng cho học sinh . Từ việc quan sát đồ vật, con vật, cây cối, cảnh vật, các em sẽ liên tưởng tới những hoạt động của con người và từ đó các em sẽ sử dụng được biện pháp nhân hoá trong viết văn miêu tả làm cho bài văn trở nên sinh động, gây bất ngờ cho người đọc. + Hướng dẫn học sinh trình tự quan sát: Nên để cho học sinh tự tìm cho mình một trình tự quan sát, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, dẫn dắt các em để các em tìm ra được những điểm mới lạ, riêng biệt và phát hiện ra những điểm giống nhau giữa người và đối tượng mình đang miêu tả. Các trình tự quan sát có thể tiến hành là: - Quan sát theo trình tự không gian: Quan sát toàn bộ đối tượng (bao quát) đến quan sát từng bộ phận của đối tượng (chi tiết) hoặc ngược lại xem đối tượng miêu tả có những điểm nào có thể sử dụng biện pháp nhân hoá. Ví dụ: Nhìn từ xa, cây đa cổ thụ trông như một cái ô khổng lồ. Nó dang những cánh tay lớn che bóng mát cho cả một khoảng đất rộng ở đầu làng. - Quan sát theo trình tự thời gian: Quan sát theo diễn biến của thời gian từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc, từ mùa này sang mùa khác ... Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh tả cây bàng theo trình tự thời gian từ mùa đông sang mùa xuân, tôi hướng dẫn học sinh liên tưởng đến giấc ngủ của con người. "Mùa xuân đã đến. Cây bàng như dần tỉnh sau giấc ngủ đông. Từ trên cành khẳng khiu, những chồi non như những con mắt màu nâu đang còn ngái ngủ được những hạt mưa xuân đánh thức bắt đầu vươn dậy đón nhận ánh sáng mặt trời" - Quan sát theo trình tự tâm lý: Thấy nét gì nổi bật thu hút bản thân, gây cảm xúc mạnh cho bản thân thì quan sát trước, các bộ phận khác thì quan sát sau. Dù quan sát theo trình tự nào thì tôi cũng dừng lại ở bộ phận chủ yếu, trọng tâm để hướng dẫn học sinh quan sát một cách kĩ lưỡng . Biện pháp quan trọng trong khi hướng dẫn học sinh quan sát là giáo viên cần phải chuẩn bị hệ thông câu hỏi gợi ý để dẫn dắt các em vào việc sử dụng biện pháp nhân hoá khi miêu tả. Đối với học sinh yếu chưa biết cách quan sát giáo viên cần có sự hướng dẫn cụ thể, tỉ mỉ một vài lần. Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh sử dụng các giác quan để quan sát Đây là thao tác quan trọng nhất có tính quyết định về nhiều mặt. Thông thường các nhận xét và cảm xúc gắn liền với thị giác (hình dáng, màu sắc, đường nét, độ xa gần ...). Đó là mặt mạnh cũng là mặt yếu của học sinh chúng ta phải lưu ý các em dùng thêm giác quan khác để quan sát như khứu giác, xúc giác, thính giác, vị giác. Thực tế khi làm bài văn học sinh thường chỉ sử dụng 1 giác quan (thị giác) để miêu tả. Với cách sử dụng ít giác quan như vậy bài văn của các em trở nên khô cứng và ít cảm xúc, ít gây ấn tượng cho người đọc. Bởi vậy, một trong những biện pháp quan trọng để giúp các em làm văn hay hơn , đặc biệt là đưa được biện pháp nhân hoá vào trong quá trình miêu tả khi sử dụng nhiều giác quan là một việc làm không thể thiếu trong dạy học tập làm văn cho học sinh tiểu học. Ví dụ: khi tả cây hoa cần nhắc học sinh tả cả bông hoa và mùi thơm của bông hoa đó. "Hoa thiên lí không khoe sắc như những loài hoa khác, màu xanh mát của hoa là màu mà cả gia đình em đều thích. Hương thơm của hoa thiên lí mới tuyệt làm sao! Vào mỗi đêm, hương thơm nhẹ nhàng bắt đầu rón rén bước ra, và tung tăng trong ngọn gió nhẹ, nhảy trên mái nhà, luồn qua khe cửa, chui vào khắp các ngóc ngách trong nhà làm cho căn nhà em ở luôn tràn ngập hương hoa" Biện pháp 5: Tổ chức dạy tiết quan sát - Để làm bài văn viết trung thực, kích thích trí tưởng tượng của học sinh phải cho học sinh quan sát trực tiếp cảnh, vật. Có nhiều hình thức và biện pháp để thực hiện yêu cầu này. - Tổ chức cho học sinh quan sát ngay tại địa điểm có cảnh, vật, đồ vật cần quan sát. - Tổ chức cho học sinh quan sát trực tiếp đồ vật, cảnh vật ngay tại lớp. - Quan sát trực tiếp cảnh vật, đồ vật trước khi đến lớp. Tới lớp, trong tiết học các em hồi tưởng lại và ghi chép lại. Học sinh phải tự làm việc, tự ghi chép lại là chính, cần dành thời gian tối đa cho việc này. Về mặt tổ chức lớp học, học sinh có thể không ngồi yên một chỗ mà cần được động đậy, nghiêng ngó, thậm chí rồi khỏi chỗ để có một vị trí quan sát thích hợp, học sinh có thể thì thầm trao đổi với nhau, miễn không làm ồn và ảnh hưởng tới bạn khác. Biện pháp 6: Hướng dẫn học sinh tích luỹ các từ ngữ miêu tả và lựa chọn những từ ngữ miêu tả Tạo điều kiện cho học sinh tích luỹ vốn từ ngữ miêu tả. Biện pháp đầu tiên giúp các em tích luỹ vốn miêu tả qua các bài tập đọc. Nhiều bài tập đọc là các bài miêu tả hay của nhà văn, số lượng từ ngữ miêu tả ở các bài văn đó rất phong phú, cách sử dụng sáng tạo. Dạy các bài đó giáo viên cần chỉ ra các từ ngữ miêu tả, chọn các trường hợp đặc sắc để phân tích cái hay, cái đẹp sự sáng tạo của người viết khi dùng chúng. Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc "Con chuồn chuồn nước" Tieng Việt 4 -Tập 2 có đoạn: "Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao! Màu vàng trên lưng chú lấp lánh . Bốn cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng mùa thu. Chú đậu trên một cành lộc vừng ngả dài trên mặt hồ. Bốn cánh khẽ rung rung như đang còn phân vân. " giáo viên có thể đặt câu thêm câu hỏi để hỏi học sinh. +Trong đoạn văn trên tác giả đã sử dụng những biện pháp miêu tả nào? +Những từ ngữ nào thể hiện biện pháp miêu tả đó? Từ việc thường xuyên nhắc nhở các em tích luỹ những từ ngữ và các biện pháp miêu tả như vây, các em sẽ là được những bài văn miêu tả một cách tốt hơn. Kết quả đạt được: Qua một năm thực hiện các biện pháp nêu trên về phương pháp giảng dạy tập làm văn cho học sinh lớp 4 tôi đã thu được những kết quả sau: a) Về phía giáo viên: Các đồng chí trong tổ khối tán thành kiến của tôi đưa ra và áp dụng vào tiết dạy cụ thể, giáo viên trong tổ tránh được những thắc măc, những lung túng, khi giảng dạy tập làm văn. Các đồng chí trong tổ đã biết vận dụng sáng tạo phương pháp giảng dạy tập làm văn lớp 4 -5 mà tôi nêu ra. Kết quả tiết dạy đã được nâng lên một cách rõ rệt. b) Về phía học sinh: Học sinh đã hứng thú và yêu thích phân môn tập làm văn. Các em đã biết diễn đạt rõ ràng mạch lạc những suy nghĩ, cảm xúc của mình một cách mạch lạc, biết chọn những chi tiết độc đáo, nổi bật, viết câu giàu hình ảnh, biết sử dụng biện pháp nhân hoá khi miêu tả. Nhìn chung các em không ngại làm tập làm văn như trước nữa, các em đã có sự ham mê học tập, sự quan sát tinh tế, cách cảm nhận, rung động, thẩm mỹ trước cái đẹp của thiên nhiên, cuộc sống đang diễn ra. Cụ thể sau khi thực nghiệm, tôi đã tiến hành điều tra kết quả học tập của học sinh. Với viêc dạy học sinh cách sử dụng biên pháp nhân hoá trong viết văn miêu tại lớp 4A trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám kết quả thu được như sau: Tổng số 19 em Loại giỏi Loại khá Loại TB Loại yếu SL TL SL TL SL TL SL TL 2 11% 10 53% 7 36% 0 0% 5. Bài học kinh nghiệm Qua thời gian nghiên cứu, tìm hiểu và vận dụng hướng dẫn học sinh lớp 5 sử dụng biệp pháp nhân hoá khi viết văn miêu tả; được sự giúp đỡ của ban Giám hiệu, tổ chuyên môn cùng với sự nỗ lực của bản thân tôi đã rút ra một số kinh nghiệm sau: 1. Trước hết, người giáo viên phải luôn có lòng yêu nghề, yêu người, có ý thức trách nhiệm và tinh thần cầu tiến, không ngừng học hỏi và mạnh dạn áp dụ

Viết Đoạn Văn Tả Cánh Đồng Lúa Trong Đó Có Sử Dụng Biện Pháp So Sánh Và Nhân Hóa

Tài liệu Tiếng Việt lớp 5

Viết đoạn văn tả cánh đồng lúa trong đó có sử dụng biện pháp so sánh và nhân hóa

Viết đoạn văn tả cánh đồng lúa trong đó có sử dụng biện pháp so sánh và nhân hóa lớp 5 bao gồm cách viết đoạn văn có sử dụng biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa cho các em học sinh tham khảo củng cố kỹ năng làm bài văn miêu tả cảnh. Mời các em học sinh tham khảo chi tiết.

Bài tham khảo 1 – Văn miêu tả lớp 5 Tả cánh đồng lúa

Thời gian trôi qua thật nhanh, mới đó mà đã xế chiều rồi. Bầu trời trong xanh cao rộng. Những dải mấy trắng hồng kia như chiếc khăn voan vắt ngan bầu trời. Cánh đồng lúa quê em dưới ánh nắng chiều hè, màu vàng ươm. Chị Gió chốc chốc lại thổi qua những đợt gió mạnh, làm cho những cây lúa nghiêng nghiêng cong cong như lưỡi liềm. Những chú chim hót líu lo, kết hợp với dàn đồng ca mùa hạ những chú ve sầu kêu vang khắp xóm làng, có lẽ ban nhạc này muốn cho tất cả mọi người cảm thấy thoải mái hơn sau những giờ làm việc mệt mỏi. Tiếng sáo diều vi vu, lẫn thêm tiếng hò reo vang động cả một góc trời. cánh đồng to như một thảm lụa khổng lồ. Sóng lúa gợn lăn tăn nô đù vs gió. Hương lúa chín dìu dịu, thoang thoảng, lẫn với mùi bùn đất ngai ngái, mùi cỏ khô nồng nồng. Thời gian dần trôi qua, rồi ngày hè hôm nay đã kết thúc. Cánh đồng cuối cùng thì cũng đã chìm vào màn đêm yên tĩnh. Ôi! Buổi chiều trên cánh đồng quê e thật tuyệt vời, tĩnh lặng, và đẹp đẽ!

Nhân Hóa: Chị gió (in đậm)

So sánh: làm cho những cây lúa nghiêng nghiêng cong cong như lưỡi liềm.( so sánh với từ “như”) (in đậm + gạch chân)

Bài tham khảo 2 – Đoạn văn tả cánh đồng lúa

Sáng nào em cũng đi trên con đường quen thuộc tới trường. Hai bên đường có nhiều cảnh đẹp, nhưng em thích nhất là cánh đồng lúa quê em vào buổi sáng. Cánh đồng lúa rộng bao la. Cánh đồng lúa chín ngả màu vàng óng. Sáng sớm, ở trên cánh đồng, không gian mát mẻ, yên tĩnh. Mùi của hương cỏ hoa, đồng nội, mùi hương lúa ngào ngạt tỏa ra khắp đồng. Một vài giọt sương còn trên kẽ lá rồi tăng dần theo hơi ấm của Mặt Trời. Nắng đã lên cao nhảy nhót, cánh đồng giờ ánh lên màu xanh phá màu vàng tươi sáng. Xa xa, đàn cò trắng bay rập rờn làm tăng vẻ đẹp của đồng. Xa xa, những đàn cò kêu eng éc, bay lên trời rồi lại đậu xuống, cứ dập dình dập dình như những chiếc bập bênh. Em rất yêu cánh đồng quê hương, nó không chỉ là chỗ để nhân dân tăng gia sản xuất mà nó còn là cánh đồng lúa xanh mướt, là cánh đồng tuổi thơ, cánh đồng kỉ niệm của cá nhân em cũng như của những người sinh ra trên quê hương cánh đồng lúa. Càng ngày em càng nhận thấy vẻ đẹp của nó và em biết nó đã chiếm một phần nào đó trong tái tim em.

Nắng đã lên cao nhảy nhót: nhân hóa

Như những chiếc bập bênh: so sánh

Bài tham khảo 3 – Tả cánh đồng lúa sử dụng biện pháp nhân hóa, so sánh

Buổi sáng sớm ở quê đẹp biết bao, nhưng đẹp hơn hẳn đó là được ngắm nhìn cánh đồng lúa chín vào buổi sáng sớm như vậy. Bầu trời trong xanh, những đám mây trắng, hồng bay lơ lửng trên cao như những cây kẹo bông gòn. Trên đường đi dạo nhìn lại phía cánh đồng mới thật là đẹp, cánh đồng lú rộng bao la, vàng ươm. Sáng sớm, trên cánh đồng không khí mát mẻ, yên tĩnh, cảm giác thật là yên bình. Những cây lúa vàng óng đung đưa trong gió như đang vui đùa. Những cây lúa rì rầm chuyện trò, nô đùa trông thật vui. Trên cành cây gần đó, Những chú chim hot líu lo nghe thật vui tai. Chị gió, chị mây nô đùa làm cho không khí càng thêm dịu. Cánh đồng lúa buổi sáng sớm mới đẹp làm sao! Không khí ở quê buổi sáng hòa trộn lại với cánh đồng lúa trông thật đẹp và yên bình. Em rất thích ngắm cảnh cánh đồng lúa vào buổi sáng.

– So sánh: (bôi đen + gạch chân)

– Nhân hóa: (bôi đen + in nghiêng)

Về Câu Nói Của M.gorki: “Văn Học Là Nhân Học”

Trên đời này, ngoài con người ra, cồn có hai điều rất khó hiểu và khó hiểu đúng. Đó là tình yêu và văn chương. Có ai dám nói rằng mình hiểu tình yêu và cũng có ai dám nói rằng mình định nghĩa được văn chương? Văn chương cũng như tình yêu vậy, có rất nhiều màu sắc. Chính vì thế nó không phải là những vật thể bất dịch có thể nắm bắt bằng tay, ngửi bằng mũi hay nhìn bằng mắt được. Người ta nói về văn chương nhiều lắm, đẹp lắm! Còn Gorki, với ông: văn học là nhân học.

Cái định nghĩa văn học gồm năm chữ ấy ngắn gọn về số lượng ngôn từ nhưng về mặt ý nghĩa lại chẳng ngắn gọn chút nào. Văn học là nhân học, văn học là bộ môn học về con người, không phải chỉ là cái con người sinh học với đầy đủ chân, tay, mắt, mũi, tim, gan… mà đó là những con người với cuộc sống tinh thần phong phú và đa dạng của họ. Học văn là để hiểu sâu hơn tâm hồn con người, và đồng thời cũng là để học cách làm người. Phải chăng đó chính là điều Goóc-ki muốn nói với chúng ta – những người đã phần nào đặt chân vào ngưỡng cửa văn chương?

Câu nói của Gơrki dường như đã được hun đúc lại từ chính cuộc đời cầm bút của ông. Đó là một phát hiện mới mà lại không mới; là câu nói ngắn gọn mà lại không ngắn gọn. Đối với những người chỉ coi văn chương là một thứ phù phiếm thì câu nói ấy của ông cũng sớm héo úa như những bông hoa chưa kịp nở đã tàn.

Với văn chương, chất liệu đầu tiên để cấu thành tác phẩm là ngôn từ nhưng yếu tố cuối cùng quyết định sự sống còn của tác phẩm lại không phải là ngôn từ. Đó chính là hình tượng nhân vật. Nhân vật văn chương không ai khác chính là những con người của cuộc sống. Đọc tác phẩm ta nhận ra mình qua mỗi nhân vật ở từng ngõ ngách nội tâm hiểu đúng hơn và hiểu nhiều hơn về cái thế giới tinh thần phong phú bí ẩn vốn bị bề ngoài bao phủ.

Học văn hay làm văn, viết văn cũng vậy thôi. Cũng là để nhận thức đúng đắn hơn về cuộc sống và con người. Bản chất của cuộc sống cũng là bản chất chất của con người. Mỗi người khi chấp nhận con đường về nghiệp văn tức là đã chấp nhận đương đầu với thử thách, khó khăn để sống đúng và hiểu đúng hơn về con người, về cuộc đời. Chính vì thế mà văn học đã lựa chọn cuộc đời làm người bạn đồng hành tri âm của mình. Và cũng chính vì lẽ đó mà văn học phải là nhân học, chứ không nào khác được.

Nhưng nếu chỉ như vậy thôi thì đã đủ chưa? Văn học cung cấp bấy nhiêu mảnh đời, bấy nhiêu số phận không đơn giản chỉ để mỗi độc giả nhận ra mình qua từng mảnh đời, số phận đó. Văn học là nhân học và vì thế văn học không chỉ thực hiện chức năng nhận thức, còn phải làm tốt cả chức năng giáo dục. Học văn là học cách làm người. Và học cách làm người tức là học về cái tốt, cái đẹp và cái thật không phải lúc nào văn học cũng đề cao cái tốt đẹp. Cũng có lúc trong văn học xuất hiện những thằng cơ hội như Xuân tóc đỏ (Số đỏ – Vũ Trọng Phụng), lưu manh như Chí Phèo ( Chí Phèo – Nam cao), nham hiểm như Bá Kiến ( Chí Phèo) và thậm chí dâm ô, trụy lạc như Nghị Hách ( Giông tố – Vũ Trọng Phụng). Nhưng điều tác phẩm văn học muốn đề cập đến qua những nhân vật ấy là con người phải biết loại bỏ, căm ghét và chống lại cái xấu, đừng để những cái xấu, cái ác như thế tồn tại trong cuộc đời. Điều đó cũng có nghĩa là, văn học giúp người đọc hướng thiện và đi tới sự hoàn thiện mình.

Có thể nói Gorki đã đúng đắn khi đưa ra một định nghĩa về văn chương như vậy. Trở lại với ý kiến ban đầu của bài viết rằng đây là một phát hiện mới mà không mới của Gorki. Nói không mới vì câu nói của ông đề cập đến bản chất của văn học – một vấn đề mà nhiều người đã nêu lên và sau này Thạch Lam, Nam Cao hay Nguyễn Khải cũng từng đề cập. Xét theo một khía cạnh nào đó, M. Gorki đã đề cập tới nhân vật trong phát biểu của mình. Văn học giúp con người tốt hơn thông qua nghệ thuật thể hiện nhân vật chứ không phải là ở những khái niệm lí lẽ thuần giáo huấn. Như vậy, giữa con người trong tác phẩm và con người trong cuộc đời có gì giống và khác nhau? Và sức sống của nhân vật điển hình mạnh như thế nào?

Tác phẩm là sự thể hiện cuộc đời vì thế con người của tác phẩm cũng là sự thể hiện của con người trong cuộc đời. Cũng yêu thương, cũng hờn ghét, cũng hình hài xấu đẹp. Nhưng sự phản ánh đó không phải là cái sao chép nguyên xi. Nhà văn mượn nguyên màu trong cuộc sống rồi sáng tạo tưởng tượng thêm để tạo ra nhân vật của mình. Chị Ràng – người nữ liệt sĩ trung kiên ở vùng đất Kiên Giang. Ràng không đẹp bằng chị Sứ và cũng không có tình mẫu tử xúc động như chị Sứ. Mối quan hệ giữa chị Ràng và chị Sứ cũng là mối quan hệ giữa cuộc đời và văn học. Cuộc đời là nơi khởi đầu cũng là hướng đi tới của văn học. Văn học viết về cuộc đời và đồng thời cũng là tập hợp từ cuộc đời. Chính vì thế nhân vật mà mỗi tác giả nhào nặn hư câu nên thường có giá trị điển hình cho con người của một xã hội, một thời đại. Đó chính là nét khác biệt giữa con người trong tác phẩm và trong cuộc đời. Sức sống của nhân vật điển hình – một con người này mà cũng nhiều người kia – chính là sức sống của một tác phẩm văn học. Và nhiều lúc nó còn thật hơn cả người thật nữa, nó quyết định sự trường tồn của tác phẩm và của tên tuổi tác giả. Mỗi nhà văn chỉ mong muốn để lại cho đời một, hai nhân vật điển hình mức độ cao nhằm làm trong sạch hơn tâm hồn con người theo đúng bản chất và chức năng của văn học: “văn học là nhân học”.

Cái điều tưởng là dễ hiểu ấy cứ sống mãi trong mỗi người như sự trường tồn của cuộc đời, của văn học. Mỗi trang văn là mỗi trang đời. Và mỗi trang đời ấy, được viết từ những mẫu, những mảnh con người. Vụt áo của triệu nhà thư không bọc hết bạc vàng mà đời rơi vãi (Chế Lan Viên) cũng như mãi mãi không có thứ văn chương nào nằm ngoài qui luật của sự sáng tạo: nghệ thuật vị nhân sinh và văn học là nhân học.