Top 5 # Xem Nhiều Nhất Vị Trí Tính Chất Chức Năng Của Ủy Ban Nhân Dân Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Photomarathonasia.com

Vị Trí, Chức Năng Của Văn Phòng Ủy Ban Nhân Dân Cấp Tỉnh Được Quy Định Như Thế Nào?

Vị trí, chức năng của Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được quy định như thế nào? Xin chào Ban biên tập, tôi tên là Ngọc Tuyền. Tôi đang có thắc mắc muốn nhờ Ban biên tập giải đáp giúp tôi. Cụ thể, Ban biên tập cho tôi hỏi: Vị trí, chức năng của Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được quy định ra sao? Văn bản pháp luật nào quy định về vấn đề này? Hi vọng sớm nhận được sự phản hồi từ Ban biên tập. Tôi xin chân thành cảm ơn!

Vị trí, chức năng của Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được quy định tại Điều 1 Thông tư liên tịch 01/2015/TTLT-VPCP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ – Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành với nội dung như sau:

– Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) là cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về: Chương trình, kế hoạch công tác; tổ chức, quản lý và công bố các thông tin chính thức về hoạt động của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; đầu mối Cổng Thông tin điện tử, kết nối hệ thống thông tin hành chính điện tử chỉ đạo, điều hành của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; quản lý công báo và phục vụ các hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (bao gồm cả các Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo thẩm quyền; quản lý văn thư – lưu trữ và công tác quản trị nội bộ của Văn phòng.

– Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có tư cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng.

Trân trọng!

Đề Tài Vị Trí, Tính Chất, Chức Năng Của Hội Đồng Nhân Dân Theo Pháp Luật Hiện Hành

Đặt vấn đề: Ngay từ sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, nhận thức được sâu sắc vấn đề cơ bản của mọi cuộc Cách mạng là vấn đề chính quyền nhà nước, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Quốc dân đồng bào thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước CHXHCN Việt Nam, chính quyền dân chủ đầu tiên của nước ta. Đúng với mục tiêu xây dựng nhà nước CHXHCH Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, Đảng luôn coi trọng quyền làm chủ của nhân dân thông qua phổ thông đầu phiếu để bầu ra các cơ quan quyền lực Nhà nước. Chính vì thế, Hội đồng nhân dân đã được xây dựng như là một hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân trực tiếp bầu ra. Bản hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã giành 5 chương, 6 điều quy định vai trò và vị trí của Hội đồng Nhân dân. Ngày 22/11/1945; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 63 về Tổ chức Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Hành chính các cấp. Lần đầu tiên, Hội đồng nhân dân có một định nghĩa kể từ Hiến pháp 1959. Qua nhiều lần sửa đổi bổ sung (các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992), Hiến pháp đều quy định đầy đủ vị trí, tính chất, chức năng (được cụ thể hóa bằng nhiệm vụ và quyền hạn) của Hội đồng nhân dân. Từ đó đến nay, cùng với sự thăng trầm của đất nước, hệ thống các cơ quan dân cử ở địa phương đã vượt qua không ít những khó khăn, thử thách để khẳng định vị trí của mình. Việc nghiên cứu, làm rõ vị trí, tính chất, chức năng của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành giúp ta có cái nhìn đa diện và hoàn thiện hơn về bộ máy nhà nước, nghiên cứu lý luận về Hội đồng nhân dân giúp ra hiểu rõ vai trò nhiệm vụ của nó, đồng thời làm sáng tỏ những vấn đề thực tiễn còn bất hợp lý so với lý luận, để từ đó tìm ra giải pháp giải quyết ngay từ ngọn nguồn của vấn đề. Nội dung : Về mối quan hệ giữa vị trí, tính chất và chức năng của Hội đồng nhân dân : Nói đến vị trí là nói đến chỗ đứng của Hội đồng nhân dân trong hệ thống chính trị, trong bộ máy nhà nước, tính chất làm ta xác định rõ và không thể nhầm lẫn Hội đồng nhân dân với cơ quan nào khác, chức năng là những tính chất của các mặt hội đồng nhân dân đảm nhiệm. Như vậy, có thể thấy rõ, ba yếu tố này có liên hệ mật thiết không thể tách rời, nghiên cứu để làm rõ từng khía cạnh nhưng phải đặt chúng trong mối quan hệ với nhau thì mới có thế nhìn được vấn đề một cách toàn diện. Vị trí, tính chất, chức năng của Hội đồng nhân dân được quy định tại Điều 119. Điều 120 Hiến pháp 1992 và cụ thể hóa tại Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kì họp thứ 4 thông qua ( 26/11/2003) cùng các văn bản luật, pháp lệnh khác. Vị trí của Hội đồng nhân dân : Sự thay đổi kết cấu và tính chất bộ máy nhà nước dưới chế độ XHCN: HĐND là hình thức tổ chức chính quyền kiểu mới XHCN. Phương thức tổ chức chính quyền kiểu mới dựa trên quan điểm thừa nhận quyền lực nhân dân ở từng cộng đồng lãnh thổ. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương XHCN không còn phân biệt cấp hành chính cơ bản hay trung gian nữa mà ở tất cả các đơn vị hành chính lãnh thổ đều có mô hình tổ chức gần giống nhau: Một cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương và một cơ quan chấp hành. Với nhà nước XHCN thì mô hình chính quyền địa phương là một cơ quan đại diện quyền lực nhà nước của nhân dân trên địa bàn lãnh thổ do nhân dân bầu ra, vừa đại diện cho nhân dân địa phương vừa đại diện cho cơ quan nhà nước cấp trên – là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Đây là hình thức tổ chức chính quyền địa phương kiểu mới thay thế cho mô hình hành chính cũng như tự quản tồn tại trước đó. Con đường hình thành : Hội đồng nhân dân là cơ quan do nhân dân bầu ra ( Điều 119 HP 1992), miễn nhiệm và bãi nhiệm theo các nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín ( Điều 1 Luật bầu cử đại biểu HĐND). Con đường hình thành này là một yếu tố quan trọng tạo nên vị trí của Hội đồng nhân dân. Cơ sở pháp lý: Điều 119 Hiến pháp 1992 quy định “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”. Vị trí của Hội đồng nhân dân cũng được ghi nhận trong Điều 1 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân. Vị trí trong bộ máy nhà nước : Như vậy, vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân có thể xét theo 2 góc độ: + Hội đồng nhân dân _ cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương + Hội đồng nhân dân _ cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Do vị trí pháp lý như trên, quyền lực của HĐND được giới hạn trong phạm vi đơn vị hành chính lãnh thổ, tuy là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, hội đồng nhân dân không có quyền lập pháp, mà là cơ quan có chức năng quản lý địa phương thực hiện nhiều hoạt động mang tính chấp hành và điều hành. HĐND còn là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, có quyền chủ động giải quyết các vấn đề trong phạm vi địa phương, không đối lập với lợi ích chung của quốc gia và chính sách, pháp luật của nhà nước. Vị trí này dẫn đến việc ta có thể hình dung HĐND như chiếc cầu nối giữa nhân dân và nhà nước, tạo điều kiện cho nhân dân làm chủ, mối quan hệ hai chiều được thúc đẩy khi dung hòa giữa yếu tố quyền lực nhà nước và yếu tố ý chí của nhân dân. Hội đồng nhân dân ở nước ta là bộ phận cấu thành của bộ máy Nhà nước thống nhất của nhân dân, chứ không phải và không thể là cơ quan tự quản như các cơ quan dân cử địa phương ở một số nước. Vì vậy, HĐND không chỉ chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương mà còn phải chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp trên. Điều này đảm bảo cho nguyên tắc tập trung dân chủ khi xây dựng bộ máy nhà nước. Sự cụ thể hóa của vị trí : Vị trí của HĐND là hoàn toàn có cơ sở, được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên, HĐND chỉ có thể đứng ở đúng vị trí của nó khi các vị trí được ghi nhận đó, trên thực tế triển khai có hiệu quả. Sau khi quy định vị trí, pháp luật tiếp tục ghi nhận tính chất và chức năng của Hội đồng nhân dân, tạo ra cơ sở pháp lý để áp dụng trong thực tế. Mặt khác, chính bản thân vị trí đã thể hiện một phần chức năng và nhiệm vụ của HĐND. Tuy vậy, vị trí của HĐND trên thực tế có xứng tầm với những gì được ghi nhận trong lý luận hay không, thì cần tiếp tục xem xét trong sự thể hiện của nó là tính chất và chức năng của HĐND. Tính chất của Hội đồng nhân dân : Cơ sở pháp lý: Điều 119, 120, 121, 122, 123, 125 Hiến pháp 1992 và phần những quy định chung trong Luật tổ chức Hội đồng nhân dân năm 2003. Như đã trình bày ở trên, vị trí của Hội đồng nhân dân tạo nên những tính chất đặc thù riêng của nó. Việc Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh hai tính chất của Hội đồng nhân dân mang nhiều ý nghĩa quan trọng, hai tính chất ấy là tính quyền lực và tính đại diện. Tính quyền lực nhà nước của Hội đồng nhân dân: Hội đồng nhân dân cùng với Quốc hội hợp thành hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước, thay mặt nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước và là gốc của chính quyền nhân dân. Các cơ quan nhà nước khác đều do Quốc hội và HĐND thành lập. Tuy nhiên, nếu Quốc hội thay mặt nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước trên phạm vi cả nước thì HĐND lại là cơ quan nhà nước ở địa phương. HĐND được nhân dân giao quyền thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước, HĐND thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy quyền chủ động, sáng tạo của địa phương. Tuy là cơ quan quyền lực nhà nước nhưng tổ chức Hội đồng nhân dân vẫn phải đảm bảo sự thống nhất quyền lực nên mặt khác, tính quyền lực này còn thể hiện ở một số điểm: bảo đảm những quy định và quyết định của các cơ quan nhà nước cấp trên ở trung ương và địa phương được thực hiện; HĐND phải chịu trách nhiệm trước các cơ quan chính quyền cấp trên và TW, chịu sự hướng dẫn hoạt động của Chính phủ và chịu sự lãnh đọa của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Tính quyền lực nhà nước ở địa phương của HĐND biểu hiện một số mặt cơ bản: HĐND quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, giáo dục…; tham gia thành lập các cơ quan nhà nước khác ở địa phương như bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm chủ tịch, phó chủ tịch, uỷ viên thường trực hội đồng nhân dân; chủ tịch, phó chủ tịch, và các thành viên khác của uỷ ban nhân dân…; tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước cùng cấp và cấp dưới, giám sát việc tuân theo pháp luật ở địa phương . Tính đại diện của Hội đồng nhân dân: Hội đồng nhân dân là hình thức tổ chức chính quyền kiểu mới. Nó không phải là cơ quan đại diên, tư vấn bên cạnh cơ quan hành chính, cũng không phải là cơ quan tự quản kiểu chính quyền phong kiến trước đây. Bản thân con đường hình thành là nguyên nhân của tính đại diện của HĐND. Nó thể hiện ở chỗ, chỉ HĐND là cơ quan duy nhất do cử tri bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. HĐND là đại diện tiêu biểu nhất cho tiếng nói của các tầng lớp nhân dân trong xã hội, được cấu thành từ các đại biểu ưu tú của mọi tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, những công nhân, nông dân, trí thức… HĐND đại diện cho trí tuệ,tinh thần và sức mạnh tập thể nhân dân địa phương. Vì thế, HĐND trong nhà nước ta là những tổ chức chính quyền gần gũi nhân dân nhất, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân, nắm vững những đặc điểm của địa phương , do đó mà nắm và quyết định mọi quyết định sát hợp với nguyện vọng của nhân dân. Những quyết định này được thể chế hóa thành Nghị quyết, các Nghị quyết của HĐND phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân địa phương, đồng thời phù hợp với lợi ích toàn dân, văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và trung ương. HĐND chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân địa phương. Các đại biểu không còn được nhân dân tín nhiệm sẽ bị bãi nhiệm. Như vậy, HĐND vừa là một tổ chức có tính chất chính quyền, vừa có tính chất quần chúng, vừa là trường học quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở địa phương. Trong tính chất và hoạt động của mình, HĐND phải thể hiện đầy đủ hai tính chất đó. Nếu quá thiên về tính đại diện mà không thể hiện tính quyền lực nhà nước thì HĐND chỉ là một tổ chức xã hội. Nếu chỉ thiên về tính quyền lực nhà nước, không chú ý đến tính đại diện thì HĐND trở thành cơ quan nhà nước quan liêu, xa rời nhân dân. Chỉ khi nào HĐND kêt hợp nhuần nhuyễn hai tính chất nói trên trong tổ chức và hoạt động của mình thì HĐND mới thực sự là cơ quan nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trên thực tế, việc thể hiện hai tính chất này của HĐND còn nhiều bất cập. Nhìn tổng thể, HĐND chưa thể hiện và thực hiện thực sự tính chất của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương như Hiến pháp và luật đã quy định. Các hoạt động quyết định giám sát của HĐND đều có hạn chế, và UBND_ cơ quan chấp hành lại có xu hướng ngày càng độc lập với HĐND. UBND, bên cạnh việc chịu trách nhiệm trước HĐND còn chịu trách nhiệm trước cơ quan hành chính cấp trên. Chính tính chất thứ hai đã tạo tính độc lập tương đối của UBND. Kế đến, nói HĐND có tính chất quyền lực nhà nước và tính đại diện nghĩa là nó phải gắn liền với một cộng đồng dân cư và một lãnh thổ nhất định. Tính chất đó chỉ tương thích đối với các đơn vị hành chính mà ở đó có sự liên kết gắn bó của một cộng đồng các đơn vị hành chính cơ bản. Trong khi đó, theo quy định hiện hành thì ở tất cả các đơn vị hành chính hiện tại không phân biệt cơ bản hay trung gian đều được tổ chức như nhau, dẫn đến việc mô hình tổ chức cơ quan chính quyền lại tương tự nhau ở tất cả các loại đơn vị hành chính đã tạo ra bộ máy chính quyền rập khuôn, cứng nhắc, không phân biệt tính chất đặc thù ở từng cấp, từng địa phương. Cách tổ chức như vậy không thể hiện được tính chất, vai trò của cơ quan đại diện quyền lực ở những đơn vị hành chính. HĐND không phát huy được vai trò chủ động, sáng tạo, thực tiễn thể hiện tính chất không đi liền với lý luận. Có thể thấy HĐND với tính chất là cơ quan đại diện của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đã được đặt trong nhiều bối cảnh khác nhau không đồng nhất, do đó, môi trường này tuy tỏ ra thích hợp nhưng lại bị kiềm chế bởi các thiết chế khác nhau nên ở nơi này không phát huy được, nới kia lại tỏ ra không phù hợp. Tính chất ấy, dù được chứng minh và thể hiện rất hợp lý trong lý luận, trên thực tế, đã không còn nguyên vẹn như trong lý luận đã nêu ra. Chức năng của Hội đồng nhân dân: Chính vị trí, tính chất là cơ sở để quy định chức năng của HĐND. Những chức năng cơ bản của HĐND phải thể hiện và là sự chứng minh được vị trí cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương và cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân địa phương, với hai tính chất đặc trưng của là tính quyền lực và tính đại diện. HĐND có những chức năng được quy định trong Hiến pháp; Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 cùng các quy định khác của pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy quyền làm chủ của nhân dân địa phương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, HĐND, UBND quản lý địa phương theo Hiến pháp, luật, các cơ quan nhà nước cấp trên, tăng cường pháp chế XHCN, ngăn ngừa và chống các biểu hiện quan liêu vô trách nhiệm, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác trong cơ quan, cán bộ viên chức nhà nước và bộ máy chính quyền nhà nước ở địa phương…Tổng kết lại, HĐND có 3 chức năng chính sau đây: HĐND quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương: Căn cứ pháp lý: Điều 120 Hiến pháp 1992, Điều 1 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, trong các điều luật, pháp lệnh khác của từng lĩnh vực cụ thể. HĐND quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, như quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng đế phát huy tiềm năng kinh tế của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước. Thể hiện quyền làm chủ của nhân dân, HĐND quyết định những vấn đề quan trọng nhất của địa phương, điều này được cụ thể hóa bằng nhiệm vụ và quyền hạn trong các lĩnh vực cụ thể: Lĩnh vực kinh tế: Theo luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003: nhiệm vụ, quyền hạn được quy định cụ thể cho từng cấp HĐND: HĐND cấp tỉnh: Điều 11; HĐND cấp huyện: Điều 19; HĐND cấp xã: Điều 29. Theo luật ngân sách nhà nước: Điều 25- Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND các cấp: Căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi ngân sách được cấp trên giao và tình hình thực tế tại địa phương, quyết định: Dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; Dự toán thu ngân sách địa phương; Dự toán chi ngân sách địa phương, dự phòng ngân sách; Quyết định phân bổ dự toán ngân sách cấp mình. Theo luật đất đai: Điều 7- HĐND các cấp thực hiện quyền quyết định, giám sát việc quản lý và sử dụng đất đai trong địa phương mình. Theo pháp lệnh bảo vệ công trình giao thông: Điều 8- HĐND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát việc thi hành pháp luật về bảo vệ công trình giao thông tại địa phương. Theo pháp lệnh bảo vệ công trình thủy lợi: Điều 5- HĐND các cấp trong phạm vi và quyền hạn của mình quyết định chủ trương phát triển, kế hoạch khai thác, bảo vệ hệ thống công trình thủy lợi, giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ đó. Như vậy, ta thấy nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND được quy định trong hầu hết các mặt của lĩnh vực kinh tế với vai trò chủ yếu là ra những quyết định quan trọng, kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội, thông tin, thể dục thể thao…: Theo luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003: Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp tỉnh: Điều 12; HĐND cấp huyện: Điều 20, HĐND cấp xã: Điều 30. Theo luật giáo dục: Điều 92- ” HĐND cấp tỉnh căn cứ vào khung học phí của Chính phủ quy định mức học phí, lệ phí tuyển sinh cụ thể đố với trường, cơ sở giáo dục khác của tỉnh; căn cứ vào nhu cầu phát triển giáo dục…quyết định mức đóng góp xây dựng trường lớp…”. Lĩnh vực an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội: Theo luật tổ chức HĐND và UBND: Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp tỉnh: Điều 14, HĐND cấp huyện: Điều 22; cấp xã: Điều 31. Theo pháp lệnh chống tham nhũng: Điều 36- HĐND, đại biểu HĐND các cấp giám sát việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng, giám sát hoạt động thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng ở địa phương. Các lĩnh vực khác: Thực hiện các chính sách dân tộc, chính sách tôn giác; xây dựng chính quyền địa phương, quản lý địa giới hành chính; khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường;… Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương của HĐND, nói tóm lại bao gồm việc ra các quyết định quan trọng trong mọi lĩnh vực, các kế hoạc cụ thể, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các kế hoạch đó. Những ví dụ trên có thể chứng minh được, chức năng quyết định mọi vấn đề quan trọng của địa phương của HĐND là hoàn toàn có cơ sở pháp lý, được thể hiện trong tất cả mọi lĩnh vực đời sống địa phương. Trên thực tế, những nhiệm vụ quyền hạn của HĐND được quy định trong luật là rất nặng nề, đòi hỏi HĐND phải có một bộ máy giúp việc chuyên nghiệp và cơ cấu tổ chức khoa học, hoạt động thường xuyên mới có thể bắt kịp nhịp sống địa phương, từ đó thực hiện chức năng của mình được hiệu quả. HĐND bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên và trung ương ở địa phương: Căn cứ vị trí, tính chất của HĐND: Với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, là cầu nối giữa nhân dân với chính quyền Trung ương, việc HĐND phải đảm bảo tinh thống nhất quyền lực nhà nước là điều tất yếu. HĐND phải đảm bảo được sự lãnh đạo thống nhất của trung ương, nghĩa là đảm bảo cho quy định và quyết định của cấp trên và trung ương được thi hành triệt để ở địa phương, đồng thời phát huy quyền chủ động, sáng tạo của địa phương. Chính sách và pháp luật của nhà nước phải được thực hiện nhất quán ở mọi nơi trong phạm vi lãnh thổ, tránh sự cục bộ địa phương do mặc định HĐND là cơ quan đại diện của địa phương. Chức năng này đảm bảo cho nguyên tắc tập trung dân chủ khi xây dựng bộ máy nhà nước Việt Nam. Căn cứ pháp lý: Theo Hiến pháp 1992: Điều 120 – Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, HĐND ra Nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương. Theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003: Trong lĩnh vực thi hành pháp luật, Hội đồng nhân dân các cấp quyết định biện pháp bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của mình ở địa phương. Theo luật ban hành các Văn bản quy phạm pháp luật : Điều 1- khoản 3-” Văn bản do HĐND, UBND ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, văn bản do UBND ban hành còn để thi hành Nghị quyết của HĐND cùng cấp”. Chức năng giám sát của HĐND: Cơ sở pháp lý: Điều 1 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương. Chương 3 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định cụ thể về hoạt động giám sát của HĐND, thường trực HĐND, các ban cuat HĐND và đại biểu HĐND. Bản chất chức năng giám sát của HĐND: Quy định tại điều 1 luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã xác định rõ vi trí pháp lý và tính chất pháp lý của HĐND: là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đồng thời, là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước và cơ quan đại diện của nhân dân ở địa phương, HĐND thay mặt cho nhân dân địa phương, cho cử tri đã bầu ra mình để quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương và giám sát việc thi hành những quyết đị

Ủy Ban Nhân Dân Các Cấp

Vị trí, tính chất, chức năng của Ủy ban nhân dân tỉnh, huyện, xã và các cấp tương đương được quy định tại Hiến pháp và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân: …

❂ Vị trí, tính chất, chức năng của Ủy ban nhân dân tỉnh, huyện, xã và các cấp tương đương được quy định tại Điều 194 Hiến pháp 2013 và Điều 2 Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân : ” Ủy ban nhân dân do hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương… chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp … “

❧ Do đó vị trí, tính chất của Ủy ban nhân dân được thể hiện ở hai điểm sau:

– Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.

– Với tư cách là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, ủy ban nhân dân là cơ quan thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước, chấp hành nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp cũng như các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.

❂ Ủy ban nhân dân chỉ có một chức năng duy nhất là quản lí nhà nước, vì quản lí nhà nước là hoạt động chủ yếu, bao trùm lên toàn bộ hoạt động của ủy ban nhân dân. Trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, Ủy ban nhân dân có quyền ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp với thực tế của địa phương mình, tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài.

❂ Cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân gồm : Chủ tịch, phó chủ tịch và các ủy viên.

❂ Nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh : Quy định tổ chức bộ máy và nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp mình; Quyết định thành lập các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công trên cơ sở quy hoạch và hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Cho phép thành lập, giải thể, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước; cấp, thu hồi giấy phép thành lập doanh nghiệp, công ty; Xây dựng phương án đặt tên, đổi tên đường, phố, quảng trường, công trình công cộng trong tỉnh …

❂ Nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân cấp Huyện: Quy định tổ chức bộ máy và nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp mình theo hướng dẫn của ủy ban nhân dân cấp trên; Quản lý công tác tổ chức, biên chế, lao động, tiền lương theo phân cấp của ủy ban nhân dân cấp trên.

Tòa nhà HSLAWS, Số 183 Trường Chinh, Khương Mai, Thanh Xuân, Hà Nội.

Điện thoại VP: 04 3724 6666 ; Di động : 090 574 6666

Nhiệm Vụ, Quyền Hạn Của Hội Đồng Nhân Dân Và Ủy Ban Nhân Dân

Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa…

Thứ nhất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân được pháp luật quy định là xuất phát từ vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân với tính cách là cơ quan chính quyền Nhà nước trong hệ thống bộ máy Nhà nước thống nhất. Hội đồng nhân dân thực hiện những nhiệm vụ và sử dụng những quyền hạn theo phân cấp quản lý của chính quyền cấp trên, đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương đồng thời phát huy quyền chủ động sáng tạo của địa phương.

Mặt khác, như đã nói ở trên, Hội đồng nhân dân là hình thức quản lý địa phương kiểu mới. Nó bao quát và thống nhất trong mình những cơ cấu do nó lập ra để phân công, phân nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân (như Thường trực, Uỷ ban nhân dân, các ban). Những nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật qui định cho Hội đồng nhân dân ở những nét chung nhất là hàm ý qui định cho cơ quan chính quyền địa phương ở cấp đó mà Hội đồng nhân dân là cơ quan chủ đạo, bao quát. Việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đó sau này sẽ được phân định cụ thể cho bản thân Hội đồng nhân dân (kỳ họp Hội đồng nhân dân) hay Thường trực Hội đồng nhân dân hoặc Uỷ ban nhân dân tuỳ thuộc mức độ và tính chất của vấn đề.

Nhiệm vụ (chức năng) cơ bản nhất của Hội đồng nhân dân với tính cách là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương là “căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, ra nghị quyết về các biện pháp đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước” (Điều 120 Hiến pháp năm 1992). “Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương; xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước. Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương. (Điều 1 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003).

Tựu trung lại chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân thể hiện trên ba hướng: một là, quyết định các biện pháp quản lý địa phương; hai là, tổ chức thực hiện các quyết định và ba là, giám sát việc thực hiện các quyết định và hoạt động của các cơ quan Nhà nước khác. Như vậy, pháp luật nước ta nhìn nhận Hội đồng nhân dân là một cơ quan quản lý địa phương toàn quyền và thống nhất. Tính toàn quyền và chủ đạo của Hội đồng nhân dân thể hiện ở chỗ nó là cơ quan vừa quyết định các biện pháp (ban hành nghị quyết) vừa tổ chức thực hiện các quyết định và giám sát thực hiện các quyết định đó. Đương nhiên Hội đồng nhân dân không làm hết tất cả mà lập ra các cơ cấu của mình để phân giao, phân nhiệm thực hiện chức năng, nhiệm vụ chung.

Trong số các phương hướng hoạt động chủ yếu đó thì chức năng quyết định và chức năng giám sát được Hội đồng nhân dân trực tiếp thực hiện nhiều hơn cả. Ở đây chức năng quyết định là đặc trưng nổi bật của Hội đồng nhân dân với tính cách là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Điều này phân biệt Hội đồng nhân dân nước ta với các Hội đồng tự quản (thực chất là Hội đồng tư vấn) ở một số đơn vị hành chính các nước tư bản.

Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, Hội đồng nhân dân, mặc dù được coi là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, cơ quan có quyền quyết định, song nó không phải là một “Quốc hội địa phương” có quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở địa phương. Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ quản lý địa phương trong khuôn khổ qui định của pháp luật tức là thi hành, chấp hành pháp luật của Nhà nước ở địa phương, quyết định những vấn đề được giao ở địa phương. Với ý nghĩa đó, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước và quản lý Nhà nước ở địa phương.

Thẩm quyền của Hội đồng nhân dân được Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân qui định chung cho tất cả các cấp theo từng lĩnh vực chính trị – kinh tế – xã hội ở địa phương.

Trong lĩnh vực kinh tế Hội đồng nhân dân quyết định:

1. Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, chủ trương biện pháp nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế ở địa phương, đảm bảo quyền tự chủ sản xuất, kinh

doanh của các cơ sở kinh tế theo qui định của pháp luật, dự toán và phê chuẩn quyết toán ngân sách của địa phương;

2. Chủ trương, biện pháp phân bố lao động và dân cư ở địa phương;

3. Biện pháp quản lý, sử dụng đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên ở địa phương theo qui định của pháp luật;

4. Biện pháp thực hiện chính sách tiết kiệm trong hoạt động quản lý của Nhà nước trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, chống tham nhũng, chống buôn lậu.

Trong lĩnh vực văn hoá – xã hội và đời sống, Hội đồng nhân dân quyết định:

1. Chủ trương, biện pháp phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, phát thanh, truyền hình, giáo dục thanh niên, bảo vệ chăm sóc giáo dục thiếu niên, nhi đồng, xây dựng nếp sống văn minh, giáo dục truyền thống, đạo đức tốt đẹp, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, chống các tệ nạn xã hội và những biện pháp không lành mạnh trong đời sống xã hội ở địa phương;

2. Chủ trương, biện pháp giải quyết việc làm và cải thiện điều kiện làm việc, sinh hoạt của người lãnh đạo, cải thiện đời sống nhân dân ở địa phương;

3. Chủ trương, biện pháp bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo vệ chăm sóc người già, bà mẹ, trẻ em, thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình;

4. Chủ trương, biện pháp thực hiện chính sách ưu đãi, chăm sóc và giúp đỡ thương binh, bệnh binh, gia đình có công với nước, thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, cứu tế xã hội.

Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và môi trường, Hội đồng nhân dân quyết định:

1. Chủ trương, biện pháp khuyến khích việc nghiên cứu, phat huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ sản xuất và đời sống ở địa phương;

2. Chủ trương, biện pháp bảo vệ và cải thiện môi trường ở địa phương theo qui định của pháp luật;

3. Biện pháp thực hiện các qui định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường và chất lượng sản phẩm, ngăn chặn việc sản xuất và lưu hành hàng giả trên địa phương, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.

Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh trật tự an toàn xã hội, Hội đồng nhân dân quyết định:

1. Biện pháp thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang và quốc phòng toàn dân, đảm bảo thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ thực hiện nhiệm vụ động viên chính sách hậu phương quân đội và chính sách đối với các lực lượng vũ trang trong nhân dân ở địa phương;

2. Biện pháp thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng ngừa và phòng chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương;

Trong lĩnh vực thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo, Hội đồng nhân dân quyết định:

1. Biện pháp đảm bảo thực hiện chính sách dân tộc, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao dân trí của đồng bào các dân tộc, đảm bảo thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, giữ gìn, tăng cường khối đại đoàn kết và tương trợ giữa các dân tộc ở địa phương;

2. Biện pháp đảm bảo chính sách tôn giáo, quyền bình đẳng giữa các tôn giáo trước pháp luật, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở địa phương;

Trong lĩnh vực thi hành pháp luật, Hội đồng nhân dân quyết định:

1. Biện pháp đảm bảo việc thi hành Hiến pháp, Luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên trong cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương;

2. Biện pháp bảo vệ tài sản, tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;

3. Biện pháp bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước, bảo hộ tài sản của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội ở địa phương;

4. Biện pháp đảm bảo giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân theo qui định của pháp luật.

Trong lĩnh vực xây dựng chính quyền địa phương, Hội đồng nhân dân quyết định:

1. Bầu, miễn nhiệm, bãi miễn Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Uỷ viên thường trực (ở cấp tỉnh và huyện) Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Trưởng ban và các thành viên khác của các ban của Hội đồng nhân dân; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân cùng cấp; bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân và chấp nhận việc đại biểu xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu;

2. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu;

3. Bãi bỏ những quyết định sai trái của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, những quyết

định sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp;

4. Quyết định giải tán Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp trong trường hợp Hội

đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng ddến lợi ích của nhân dân;

5. Thông qua đề án phân vạch, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính ở địa phương để đề nghị cấp trên xét.

Thứ hai, nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân

Với tính cách là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

Tương tự như đối với Hội đồng nhân dân, nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân được Hiến pháp quy định những nét cơ bản tại điều 123 và được Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân mới (năm 2003) quy định cụ thể và phân định theo theo từng cấp Uỷ ban nhân dân. Ở đây chỉ nêu chung cho tất cả các cấp và nêu một cách tổng quát nhất.

Trong lĩnh vực kinh tế, Uỷ ban nhân dân xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội, trình Hội đồng nhân dân thông qua, trình Uỷ ban nhân dân cấp trên phê duyệt; tổ chức và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch đó; lập dự toán ngân sách, phương án phân bổ ngân sách; tổ chức thực hiện ngân sách; thực hiên đại diệnchủ sở hữu phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.

Trong lĩnh vực nông, ngư nghiệp, thuỷ lợi và đất đai, Uỷ ban nhân dân chỉ đạo và kiểm tra thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi trên địa bàn; các chương trình khuyến nông, khuyến ngư…

Trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, Uỷ ban nhân dân xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; tổ chức quản lý đối với các doanh nghiệp trên địa bàn theo thẩm quyền; tổ chức thực hiện các chương trình, dự án phát triển công nghiệp; tổ chức thực hiện việc bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác ở địa phương…

Trong lĩnh vực giao thông, vận tải, Uỷ ban nhân dân chỉ đạo, kiểm tra việc xây dựng và thực hiệnquy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới giao thông; tổ chức quản lý các công trình giao thông đô thị, đường bộ, đường thuỷ; tổ chức thực hiện việc kiểm tra, giám định kỹ thuật an toàn phương tiện cơ giới; tổ chức, chỉ đạo công tác thanh tra, bảo vệ công trình giao thông…

Trong lĩnh vực xây dựng, quản lí và phát triển đô thị, Uỷ ban nhân dân tổ chức việc lập, trình duyệt hoặc xét duyệt theo thẩm quyền các quy hoạch xây dựng vùng, xây dựng đô thị trên địa bàn; quản lý đầu tư, khai thác sử dụng các công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị; xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển vật liệu xây dựng, quản lý việc khai thác và sản xuất kinh doanh…

Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, Uỷ ban nhân dân lập quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới thương mại, du lịch, dịch vụ; cấp, thu hồi giấy phép kinh doanh; quy định các quy tắc về an toàn và vệ sinh trong hoạt động thương mại…

Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo,văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, y tế và xã hội, Uỷ ban nhân dân thực hiện quản lý Nhà nước đối với các loại hình trường, lớp các hoạt động văn hoá, các đơn vị y tế trực thuộc; chỉ đạo và kiểm tra việc tổ chức thực hiện các biện pháp bảo vệ sức khoẻ nhân dân…

Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường, Uỷ ban nhân dân chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ, kế hoạch phát triển khoa học, công nghệ và bảo vệ mô trường, quản lý sử dụng đất đai, rừng núi, sông hồ…

Trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng và trật tự an toàn xã hội, Uỷ ban nhân dân bảo đẩm an ninh chính trị, an topàn xã hội; thực hiên các biện pháp xây dựng lực lượng vũ trang; chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ…

Trong việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, Uỷ ban nhân dân tổ chức chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện pháp luật và chính sách dân tộc, tôn giáo; bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc; xem xét giải quyết các vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng ở địa phương…

Trong lĩnh vực thi hành pháp luật, Uỷ ban nhân dân tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra việc thi hành Hiến pháp và pháp luật, tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật, ở địa phương; tổ chức và chỉ đạo thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp và các nghị quyết, quyết định, chỉ thị, thông tư của các cơ quan Nhà nước cấp trên; chỉ đạo thực hiện các biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức, bảo vệ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tiếp dân, trực tiếp xét, giải quyết và chỉ đạo các ngành, các cấp thuộc quyền mình, xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của nhân dân; tổ chức công tác thanh tra Nhà nước; chỉ đạo công tác thi hành án, quản lý hộ tịch; thực hiện công tác tư pháp khác…

Trong việc xây dựng chính quyền, Uỷ ban nhân dân chỉ đạo thực hiện công tác bầu cử; quy định tổ chức bộ máy, quyền hạn của các cơ quan chuyên môn; cho phép lập hội, quản lý hướng dẫn kiểm tra việc thành lập và hoạt động của hội theo quy định của pháp luật; quản lý biên chế, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý cho cán bộ công chức; xây dựng đề án thành lập, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính…

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, Uỷ ban nhân dân ra các quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thực hiện những văn bản đó; đình chỉ việc thi hành sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của các ngành thuộc quyền mình và của Uỷ ban nhân dân cấp dưới; đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết đó.

Bài viết được thực hiện bởi: thạc sĩ, luật sư Phạm Ngọc Minh – Giám đốc Công ty Luật TNHH Everest, Giảng viên khoa Luật kinh tế – Trường Đại học Hòa Bình

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.