Khái niệm quản lý là gì? Vì sao phải hiểu khái niệm quản lý
định nghĩa
về
thống trị
quản lý được khái niệm là một công việc mà một người lãnh đạo học suốt đời không thấy chán và cũng là sự bắt đầu của những gì họ tìm hiểu. cai quản được cho biết như là nghĩa vụ của một nhà lãnh đạo thực thụ, nhưng không phải là sự bắt đầu để họ khai triển công việc. giống như vậy, có bao nhiêu nhà lãnh đạo tài ba thì có bấy nhiêu kiểu khái niệm và giải thích về cai quản.
Vậy suy cho cùng thống trị là gì? định nghĩa quản lý là yêu cầu tối thiểu nhất của việc lý giải vấn đề thống trị dựa trên lí luận giải và nghiên cứu quản lý học. Xét trên phương diện nghĩa của từ, cai quản thường được hiểu là chủ trì hay phụ trách một công việc nào đó.
bản thân định nghĩa cai quản có tính đa nghĩa cần có sự không giống biệt giữa nghĩa rộng và nghĩa hẹp. hơn nữa, do sự khác biệt về niên đại, thế giới, chế độ, nghề nghiệp nên thống trị cũng có nhiều lý giải, cho biết không giống nhau. Cùng với sự phát triển của cách thức thế giới hoá sản xuất và sự xây dựng rộng trong nhận thức của con người thì sự khác biệt về nhận thức và giải thích định nghĩa quản lí càng trở nên rõ rệt.
quản lý
theo
khái niệm
của các trường phái
thống trị
học
– Tailor: “Làm quản lý là bạn phải biết rõ: muốn người khác làm việc gì và hãy để ý đến phương pháp tốt nhất, kinh tế nhất mà họ sử dụng ” .
– Fayel: “Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, công ty, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: plan, đơn vị, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. thống trị chính là thực hiện kế hoạch, đơn vị, chỉ đạo điều chỉnh và làm chủ ấy”.
– Hard Koont: “Quản lý là xây dựng và duy trì một nơi tốt giúp con người hoàn thiện một hướng dẫn kết quả mục đích đang định”.
– Peter F Druker: “Suy cho cùng, cai quản là thực tiễn. Bản chất của nó k nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó k nằm ở sự logic mà ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích”.
– Peter. F. Dalark: “Định nghĩa thống trị phải được hạn chế bởi nơi bên ngoài nó. Theo đó, quản lý gồm có 3 tính năng chính là: Quản tại saoanh nghiệp, cai quản giám đốc, quản lý công việc và nhân công”.
Chủ trương của Peter. F. Dalark là hạn chế công ty từ góc độ xã hội, lấy cai quản sử dụng chức năng chính của doanh nghiệp. vì vậy, cai quản trở thành chức năng và vai trò của tổ chức xã hội, nó cũng sẽ thông qua các doanh nghiệp góp phần xây dụng chế độ không gian mới để đạt được mục tiêu lý tưởng là “một xã hội tự do và phát triển“. Nếu k có quản lý kết quả thì công ty k thể tồn tại và từ đó k thể thiết lập một không gian tự do và phát triển.
Từ đó đủ sức thấy, cơ sở chính trong khắc phục độ khó của vấn đề là “quan điểm về hệ thống“, cơ sở chính trong khắc phục độ khó về thời gian là “quan niệm về sự chuyển động”. như vậy, đặc điểm lớn nhất trong luận của Peter F. Dalark là cách Nhìn hệ thống mở và chuyển động”. Đây cũng là quan điểm cốt lõi trong tư tưởng triết học về thống trị của ông.
Tư tưởng triết học về
thống trị
của Peter F. Dalark
Quản lý doanh nghiệp phải theo nguyên tắc: “lấy kết quả kinh tế thực tế làm nguyên tắc hoạt động, đây là một mẹo Quan sát tổng thể quét thành tích sử dụng cốt lõi”.
nguyên tắc quản lý dành cho giám đốc cần có động lực mạnh mẽ quản lý mục đích và làm chủ bản thân để họ trở thành một người giám đốc thông minh.
quản lý công việc thì nhấn mạnh: công việc cần có sức sản xuất và phải thông qua những công cụ đánh giá, tổng hợp, kiểm soát và thí nghiệm.
thống trị nhân lực coi trọng gốc nhân lực, làm cho họ có thời cơ, chủ động phát huy ưu điểm của mình, thoả mãn nhu cầu về chức năng và địa vị thế giới của họ trong công việc, đưa đến cho họ cơ hội, lợi ích như nhau để mỗi người thể hiện giá trị, hoài bão của mình.
tổng kết, quản lý là quan điểm chứ chẳng hề kỹ thuật, là tự do chứ chẳng phải bị khống chế, là Nhiệm vụ thực tế chứ không phải lý luận; là thành tích chứ chẳng hề tiềm năng, là trách nhiệm chứ chẳng phải quyền lực; là cống hiến chứ không hề thăng hến; là thời cơ chứ không phải chướng ngại; là dễ dàng chứ không phải khó khăn.
như chúng ta đều biết, quản lý thực chất cũng là một hành vi, vừa mới là hành vi thì cần phải có người gây ra và người chịu ảnh hưởng. tiếp theo nên có mục đích của hành vi, đặt ra câu hỏi tại sao làm như vậy? thành ra, để tạo dựng nên hoạt động cai quản trước hết nên có chủ thể quản lý: nói rõ ai là người quản lý? Sau đó cần định hình thị trường quản lý: cai quản cái gì? Cuối cùng cần định hình mục đích quản lý: thống trị vì cái gì?
Có được 3 nguyên nhân trên nghĩa là có được điều kiện cơ bản để hình thành nên hoạt động cai quản. song song cần quan tâm rằng, bất cứ hoạt động cai quản nào cũng không hề là hoạt động độc lập, nó cần được tiến hành trong nơi, điều kiện nhất định nào đó.
yếu tố
tạo thành nên hoạt động
thống trị
Với những nghiên cứu trên mọi hoạt động thống trị đều phải do 4 nguyên nhân cơ bản sau cấu thành: – Chủ thể cai quản, trả lời câu hỏi: do ai quản lý? – Khách thể quản lý, trả lời câu hỏi: cai quản cái gì? – mục đích thống trị, trả lời câu hỏi: quản lý vì cái gì?
– nơi và điều kiện tổ chức, trả lời câu hỏi: cai quản trong nơi nào?
Dựa trên chức năng, vai trò của những nguyên nhân trong thống trị kể trên và liên kết lôgic giữa chúng, có thể khái quát ý nghĩa cơ bản của thống trị. Thông thường mà nói, cai quản là hành vi mà những thành viên trong đơn vị thực hiện ở một môi trường nhất định nhằm nâng cao năng suất công việc, để đạt được mục đích của tổ chức.
Thực ra, nếu một mực truy đến cùng câu hỏi “quản lý là gì?” thì chính mình câu hỏi gần như không có trị giá. Cho dù chúng ta có bàn thảo, tìm hiểu ra sao, về mặt lí bàn luận mà nói, chúng ta luôn luôn k đạt được sự thống nhất, trên thực tế cũng không thể đưa ra một kết bàn luận chung. Nhưng chính vì câu hỏi “quản lý là gì?” có sức tác động sâu rộng đến mỗi một học giả nghiên cứu chủ đề cai quản, đến mỗi một người thực hiện công việc quản lý như vậy nên sử dụng rõ chủ đề này mới thực sự có ý nghĩa, mặc dù để làm rõ chủ đề “quản lý là gì?” quả thực là công việc không mấy không khó khăn.
thống trị
là sự
phối hợp
của ba phương diện
Chúng ta hãy bàn về định nghĩa “quản lý” trên phạm vi rộng to hơn, quy mô hơn như trên phạm vi quốc gia chẳng hạn. Trong một tờ báo có đăng tải số liệu đo đạt năm 2001 cho biết: doanh thu bình quân đầu người nước Mỹ bằng 11 lần một số nước châu Á. doanh thu bình quân đầu người của Mỹ chẳng phải do một người Mỹ mà là trị giá bình quân của all người dân Mỹ tạo nên. Sự mẹo biệt về thu nhập bình quân này chẳng phải do sự mẹo biệt về chỉ số giỏi của người dân hai nước mà là do khả năng tương tác của họ khác nhau. Cụ thể nói đến công việc thì đó là phương thức cai quản và chiến lược cai quản của 2 nước là khác nhau.
có thể đưa ra kết bàn luận rằng: cai quản k không khó khăn chỉ là khái niệm, nó là sự kết hợp của 3 phương diện:
Thứ nhất, thông qua tập thể để xúc tiến tính tích cực của cá nhân. Thứ hai, điều hoà liên kết giữa người với người, giảm mâu thuẫn giữa hai bên. Thứ ba, gia tăng cường hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, thông qua hỗ trợ để làm được những việc mà một cá nhân không thể làm được, thông qua hợp tác xây dựng trị giá lớn hơn giá trị một mình – giá trị tập thể
kinh doanh
và
quản lý
muốn làm cho một công ty tăng trưởng tốt, ngoài công tác quản lý tốt, còn cần nghiên cứu phương hướng phát triển, mục tiêu phấn đấu và phương thức vận hành của công ty phụ thuộc tình ảnh thực tiễn trong và ngoài công ty, biến kết quả nghiên cứu thành sách lược khoa học và hành động thực tiễn để thu được ích lợi kinh tế lớn. Những điều này chính là hoạt động mua bán.
Từ ý nghĩa thông thường, mua bán và cai quản vừa có tính thống nhất, vừa có tính không giống biệt. Nhìn từ lịch sử, quản lý là sản phẩm của quá trình xã hội hoá lao động, còn mua bán là sản phẩm của kinh tế thương mại. Nhìn từ phạm vi vận dụng, thống trị được dùng trong mọi tổ chức, kinh doanh chỉ sử dụng trong doanh nghiệp. Trên phương diện mục tiêu, mục tiêu của quản lý là nâng cao năng suất của đơn vị, mục đích kinh doanh là nâng cao quyền lợi kinh tế. Nhìn từ content cấu thành, Fayel cho rằng mua bán gồm những phương diện sau:
– Hoạt động kỹ thuật (sản xuất, chế tạo, gia công). – Hoạt động thương mại (mua nguyên liệu, tiêu thụ, phân phối). – Hoạt động tài vụ (tập kết và sử dụng like đáng nhất nguồn vốn). – Hoạt động an ninh (bảo vệ tài sản và con người). – Hoạt động kế toán (hoá đơn tài chính, biểu phụ trách tài sản, vốn, hoạt động thống kê). – Hoạt động thống trị (kế hoạch, tổ chức, điều chỉnh, chỉ đạo, kiểm soát).
tính năng của mua bán chính là đảm bảo cho sáu hoạt động trên được tiến hành thuận tiện, để có được hiệu quả mua bán cao nhất. Từ đó đơn giản nhận thấy rằng, kinh doanh là all hoạt động kinh tế của một doanh nghiệp nhằm thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp ấy. Ở góc độ DN, thống trị không gồm có mua bán, mà kinh doanh gồm có cai quản. Phạm vi của kinh doanh rộng to quản lý, nội dung cũng phức tạp hơn.
cai quản
và lãnh đạo
Trong không gian ngày nay, ở nơi nào chúng ta đủ nội lực nhìn thấy lãnh đạo: mỗi đất nước đều có Đảng cầm quyền và Chính phủ lãnh đạo; các doanh nghiệp đều có chủ tịch hội đồng quản trị, chủ tịch điều hành, tổng giám đốc, giám đốc bộ phận lãnh đạo; quân đội cũng không thể rời xa sự lãnh đạo của các quan chức quân đội các cấp. Ngay cả các tổ chức phi chính phủ cũng có người đứng trên đỉnh có quyền uy lãnh đạo các member trong đơn vị.
Những nhà thống trị học có những quan niệm không giống nhau về khái niệm lãnh đạo, nhưng nội dung bản chất là giống nhau. Họ đều cho rằng lãnh đạo là người dẫn dắt cấp dưới thực hiện mục đích của tổ chức. thống trị và lãnh đạo đều có mục đích là thực hiện mục tiêu của đơn vị, nhưng chúng có điểm không giống biệt rõ rệt như sau:
* Lãnh đạo và cai quản k thuộc cùng một phạm trù.
Lãnh đạo là một tính năng của cai quản, thường được gọi là tính năng lãnh đạo, còn tính năng không giống của cai quản lại không hề là lãnh đạo. Ví dụ: công việc mà những người tham vấn trong tổ chức sử dụng là công tác quản lý, nhưng chẳng phải là công tác lãnh đạo. quản lý ở đây chỉ hành vi quản lý, công tác lãnh đạo vừa bao gồm hành vi thống trị, vừa gồm có hoạt động nghiệp vụ không giống. Ví dụ: một người lãnh đạo công ty cần gặp và tiếp nhân vật cần thiết, tham gia đàm phán, tham gia những hoạt động chung.
Thông thường, lãnh đạo chủ yếu là lãnh đạo con người, xử lý liên kết giữa người với người, đặc biệt là quan hệ cấp trên và cấp dưới. Đây là chủ đề cốt lõi trong hoạt động thống trị. Còn về quản lý, ngoài thống trị con người, phân khúc của thống trị còn gồm có tài chính, vật chất. thống trị k chỉ xử lý gắn kết giữa người với người mà còn phải xử lý mối gắn kết tài chính và vật chất, giữa vật chất và con người, giữa con người và tài chính. Phạm vi mà quản lý đề cập đến rộng hơn nhiều đối với lãnh đạo.
Lãnh đạo và thống trị thuộc 2 tầng hoạt động không giống nhau song chúng lại có quan hệ mật thiết khó tách rời. Hoạt động lãnh đạo hội tụ vào việc mang ra quyết sách, xác định mục đích, plan phấn đấu, vạch ra chính sách tương ứng và phương hướng lãnh đạo khu vực, ban lĩnh vực, tổ chức tiến lên phía trước… Còn quản lý tụ họp giữ vững và tăng trưởng cường hoạt động của đơn vị để đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu mà lãnh đạo vừa mới xác định.
Nguồn: https://gdnn.edu.vn/