Top 6 # Xem Nhiều Nhất Ví Dụ Về Chức Năng Tư Tưởng Của Báo Chí Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Photomarathonasia.com

Thấm Nhuần Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Báo Chí Cách Mạng

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành những tình cảm đặc biệt đối với báo chí. Là người sáng lập nền báo chí cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công việc viết báo và làm báo. Người am hiểu sâu sâu sắc hoạt động báo chí, coi báo chí là một thứ vũ khí cách mạng sắc bén và đã sử dụng báo chí một cách tài tình để tuyên truyền cách mạng

Bác Hồ nói chuyện với các nhà báo tháng 9/1960 (Nguồn: tuanbaovannghetphcm.vn).

 Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 6 năm 1925 tờ báo Thanh niên do Hồ Chí Minh sáng lập, ra số đầu tiên đánh dấu sự ra đời của báo chí cách mạng Việt Nam. Trải qua 94 năm đồng hành cùng dân tộc, báo chí cách mạng Việt Nam đã có những đóng góp to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết và đăng trên 2000 bài báo bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, gần 300 bài thơ, 500 trang truyện và ký, sử dụng trên 174 bút danh khác nhau. Hồ Chí Minh đã đề cập đến toàn bộ các vấn đề rộng lớn của cách mạng, của đời sống xã hội. Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một di sản tư tưởng đặc biệt có giá trị, tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng. Đó là tư tưởng, lý luận và kinh nghiệm thực tiễn rất phong phú, sâu sắc và toàn diện, độc đáo và sáng tạo về những vấn đề cơ bản của báo chí cách mạng. Bao gồm các quan điểm về vai trò, chức năng, nhiệm vụ và tính chất của báo chí cách mạng, về tính đảng, tính chiến đấu, tính nhân văn, về vai trò, nghĩa vụ, đạo đức, phong cách của người làm báo, về nghệ thuật để làm nên một tờ báo có giá trị.

Nhận thức sâu sắc về báo chí với sự nghiệp cách mạng tại Đại hội lần thứ II Hội nhà báo Việt Nam tháng 4 năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Báo chí của ta không để cho một số người xem, mà để phục vụ nhân dân, để tuyên truyền, giải thích đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ. Báo chí cách mạng không có lợi ích gì khác, không có mục đích gì khác là phụng sự lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân và đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Do đó, báo chí của ta thì cần phải phục vụ cho nhân dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội, phục vụ cho đấu tranh thống nhất nước nhà, cho hòa bình thế giới.

Về tính tư tưởng và tính chiến đấu của báo chí cách mạng, theo Hồ Chí Minh, tờ báo mà không có tính chiến đấu là tờ báo không có linh hồn. Một tờ báo chỉ nói những điều vô thưởng, vô phạt, những điều ngoài lề cuộc sống, những điều chẳng những không cổ vũ được mà còn làm bải hoải tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ cách mạng thì tuyệt nhiên không phải là tờ báo cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, báo chí không phải là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể mà còn là vũ khí sắc bén chống lại mọi biểu hiện phản động, tiêu cực, đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, của đất nước; báo chí là công cụ đấu tranh xã hội, đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp. Báo chí cách mạng thể hiện tính chiến đấu ở các khía cạnh: tập trung lên án mạng mẽ kẻ thù, bóc trần cái xấu xa, thâm độc của kẻ thù và thức tỉnh toàn dân tộc đứng lên làm cách mạng, đứng lên kháng chiến kiến quốc. Tính chiến đấu của báo chí cách mạng còn thể hiện ở việc đề cao chính nghĩa cách mạng, đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm động viên quần chúng tự giác, tự nguyện tham gia cách mạng, đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Tính chiến đấu của báo chí cách mạng còn thể hiện ở việc tuyên truyền, giác ngộ quần chúng; biểu dương những cái hay, cái tốt; ngăn chặn, đấu tranh và đẩy lùi cái xấu, cái tiêu cực, cái lạc hậu. Tính chiến đấu còn thể hiện lập trường, tư tưởng, bản lĩnh, khí chất của người làm báo. Vì thế, Hồ Chí Minh coi nhà báo là một chiến sỹ trên mặt trận chính trị, tư tưởng. Tại Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt Nam (năm 1962), Người chỉ rõ: ‘‘đối với những người viết báo chúng ta, báo chí là một mặt trận, cây bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng để động viên quần chúng’’. Do vậy, cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ. Người yêu cầu đội ngũ những người làm báo phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng. Cho nên, báo chí của chúng ta phải có đường lối chính trị đúng. Người thường xuyên nhấn mạnh mục đích viết báo phải bảo đảm tính nhân dân, tính phổ thông, tính đại chúng… người làm báo phải học cách nói của quần chúng, chớ nói như giảng sách; luôn dùng lời nói, ví dụ đơn giản, cụ thể, dễ hiểu; khi viết, khi nói phải làm thế nào cho ai cũng hiểu được, làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quan tâm đến lời kêu gọi của mình. Người thường nhắc nhở những người làm báo phải viết ngắn gọn, rõ ràng phù hợp với đông đảo quần chúng lao động, không nên viết dài dòng, lan man khó hiểu. Người căn dặn: ta làm cách mạng, ta nói và viết cho quần chúng nhân dân mà mọi người không hiểu ta nói cái gì, sao có thể gọi là cán bộ cách mạng được.

Việc bảo đảm tính chân thực và tính đa dạng trong báo chí, Người căn dặn người làm báo phải bảo đảm nguyên tắc trung thực. Khi nêu gương người tốt, việc tốt phải viết giản dị và đúng sự thật, không nói sai sự thật, không được bịa ra,  không chỉ phản ánh một chiều, chỉ tuyên truyền cái tốt mà dấu diếm cái xấu. Nêu cái hay, cái tốt phải có chừng mực, chớ phóng đại, có thế nào nói thế ấy. Bộ đội và nhân dân ta cũng đủ nhiều cái hay để nêu lên, không cần phải bịa đặt ra. Phê bình thì phải phê bình một cách thật thà, chân thành, đúng đắn, chớ không nên để địch lợi dụng để nó đả kích, tuyên tuyền, Tính đa dạng của báo chí là sự phản ánh cuộc sống một cách toàn diện, sâu sắc, nhiều mặt, không hời hợt, phiến diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói ‘‘Cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món thôi’’, cho nên báo chí phải đưa ra những thôn tin bổ ích, phản ánh khách quan, chân thực cuộc sống, xã hội. Những tính chất trên có mối quan hệ đan xen, tác động qua lại với nhau tạo nên một nét riêng sâu sắc của nền báo chí cách mạng Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng còn được thể hiện ở đạo đức người làm báo và phong cách viết báo. Hồ Chí Minh tự hào khi nhận ra mình là nhà báo. Người đặt nhà báo ngang với nhà cách mạng chuyên nghiệp. Bởi vì, nhà báo có các phẩm chất của nhà cách mạng và nhà cách mạng chuyên nghiệp đã hòa làm một với nhà báo – chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng. Do vậy, đạo đức báo chí Hồ Chí Minh còn thể hiện ở sự cầu thị khiêm nhường. Người yêu cầu các nhà báo phải có lập trường, tư tưởng vững chắc, không ngừng học tập, nâng cao trình độ mọi mặt đặc biệt là trình độ chính trị; đồng thời phải hòa vào đời sống của quần chúng nhân dân để viết cho đúng với tâm trạng, nhu cầu và nguyện vọng của họ. Hồ Chí Minh khuyên các nhà báo: Nếu các bạn viết báo mà quần chúng, nhân dân hiểu, ham đọc, quần chúng nhân dân khen hay, thế là tiến bộ. Ngược lại quần chúng nhân dân chê là các bạn viết chưa thành công.

Về kỹ năng viết báo, Hồ Chí Minh căn dặn các nhà báo, trước khi cầm bút phải đặt câu hỏi: ‘‘Vì ai mà mình viết? Mục đích viết để làm gì? Viết cho ai? Viết cho đại đa số Công – Nông – Binh. Viết để làm gì? Để giáo dục, giải thích, cổ động, phê bình, để phục vụ quần chúng, thế thì viết cái gì trong vấn đề này cũng phải có lập trường vững vàng, ta, bạn, thù thì mới viết đúng. Viết để nêu những cái hay, cái tốt của dân ta. Đồng thời phê bình những khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ, của nhân dân, của bộ đội. Về vấn đề này, ta có thể thấy rõ sự biến hóa và uyển chuyển của Hồ Chí Minh trước từng đối tượng, trong từng tình huống.

Về hình thức diễn đạt, phương pháp thể hiện, cách trình bầy, kết cấu tác phẩm báo chí phải trong sáng, dễ hiểu và tránh cầu kỳ. Hồ Chí Minh căn dặn “Muốn cho người xem hiểu được, nhớ được, làm được, thì phải viết cho đúng trình độ người xem; viết rõ ràng, gọn gàng, chớ dùng chữ nhiều’’. Phải viết gọn gàng, rõ ràng, vắn tắt, nhưng vắn tắt không phải là cụt đầu, cụt đuôi, mà phải có đầu, có đuôi. Phải học tiếng nói của quần chúng, viết phải thiết thực. Hồ Chí Minh dạy các nhà báo cách viết rất cụ thể, tỉ mỉ, thiết thực. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Viết nên cẩn trọng, phải kiên trì và công phu ‘‘Viết xong rồi phải thế nào’’, ‘Viết rồi thì phải đọc đi, đọc lại, thấy cái gì thừa, câu nào, chữ nào thừa thì bỏ bớt đi, đọc đi, đọc lại 4,5 lần đã đủ chưa? Đọc đi đọc lại, sửa đi sửa lại. Phải nhờ một số đồng chí công, nông, binh đọc lại. Chỗ nào ngúc ngắc, chữ nào khó hiểu, họ nói ra cho thì phải chữa lại’’. Hồ Chí Minh còn lưu ý chúng ta chớ có tự ái cá nhân, cho rằng bài viết của mình là ‘‘tuyệt’’ rồi, tự ái, tự kiêu nó ngăn chặn con đường tiến bộ của chúng ta. Không chỉ với người viết báo Hồ Chí Minh còn nhắc nhở những người tham gia làm báo, ở các khâu, các bước đều phải có trách nhiệm với công việc của mình.

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng, hiện nay cả nước ta đã có trên 800 cơ quan báo chí. Bắt đầu từ năm 1997, báo điện tử chính thức hòa mạng internet. Hơn 20 năm qua, báo điện tử đã phát triển mạnh mẽ, trở thành công cụ có hiệu quả trong việc thông tin tuyên truyền các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước tới nhân dân trong nước và quốc tế. Những con số này nói lên sự lớn mạnh của báo chí cách mạng sau 94 năm kể từ khi báo Thanh niên tời báo cách mạng đầu tiên ra đời. Báo chí không chỉ là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân mà còn phản ánh kịp thời, phân tích, đánh giá đúng mức, góp phần nâng cao nhận thức của người dân và định hướng dư luận xã hội về các sự kiện, các vấn đề thời sự trong nước và trên thế giới. Báo chí còn có trách nhiệm phản ánh các nhân tố mới, các điển hình tiên tiến, các mô hình tốt đạt hiệu quả trong việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước; kịp thời đưa ra ánh sáng những vụ việc tham nhũng, lãng phí; đấu tranh không khoan nhượng với những hiện tượng tiêu cực trong xã hội, những âm mưu, thủ đoạn và luận điệu sai trái của các thế lực thù địch… Tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng luôn là cẩm nang thần kỳ cho đội ngũ những người làm báo, những người lính trên mặt trận tư tưởng, văn hóa trực tiếp tham gia thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tiến trình hội nhập, quốc tế.

Theo Dangcongsan.vn

Nêu Ví Dụ Về 5 Chức Năng Của Tiền Tệ Câu Hỏi 37236

1.Thước đo giá trị

Mỗi vật phẩm đều có giá trị khác nhau và được so sánh bằng giá trị của tiền tệ. Một đôi giày bảo hộ có giá trị bằng 5 xu ( tiền xu ngày xưa được làm từ nhôm). Một cuốn sách có giá trị bằng 1 đồng (tiền đồng được đúc từ đồng). Mà 1 đồng cũng có giá trị bằng 10 xu.Vì thế có thể nói Giá trị hàng hóa tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả của nó.

2.Phương tiện lưu thông

Ngày xưa Việt Nam lưu hành những đồng tiền làm bằng nhôm. Để thuận tiện người ta đã đục lỗ ở giữa đồng tiền để tiện lưu trữ và đến. Những đồng tiền bị đục lỗ đó vẫn có giá trị lưu thông trong xã hội ngày đó.

Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. sở dĩ có tình trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị.

Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là ký hiệu của giá trị, do đó việc in tiền giấy phải tuân theo quy luật lưu thông tiền giấy.

3.Phương tiện cất trữ

Người giàu ngày xưa hay có thói quen cất trữ vàng, bạc trong hũ, trong rương. Bạn dễ dàng nhìn thấy trong các phim truyện xưa, cổ tích. Ngày nay cũng có nhiều người có thói quen cất trữ tiền trong ngân hàng. Việc làm này không đúng vì tiền cất giữ phải là tiền có giá trị như tiền vàng, bạc.

4.Phương tiện thanh toán

Hiện nay ngân hàng điều cho vay tín dụng. Bạn dễ dàng trở thành con nợ của ngân hàng nếu tiêu xài không đúng cách.

6.Tiền tệ thế giới

Hiện nay ngành du lịch phát triển, mọi người dễ dàng du lịch nước ngoài. Khi đi du lịch bạn cần đổi tiền tệ của mình sang tiền tệ nước bạn. Tỷ giá hối đoái dự vào nền kinh tế của các nước nên có giá trị khác nhau. Hiện tại 1usd = 23.000 VNĐ…

Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Phòng, Chống Tham Nhũng

Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, là người sáng lập ra Nhà nước Việt Nam hiện đại – Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Là người đứng đầu một đảng cầm quyền và người đứng đầu Nhà nước, Người sớm nhận rõ được mối nguy hại của các tệ nạn gắn với Nhà nước, với người có chức có quyền, nhất là trong điều kiện người có chức có quyền lại là đảng viên của một đảng cách mạng vừa lãnh đạo thành công cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc xâm lược, giành độc lập cho Tổ quốc.

Vì vậy, trong các bài nói và viết của mình, ngay từ những ngày đầu giành được chính quyền cho đến sau này, Người rất chú ý đến việc giáo dục cho cán bộ, đảng viên phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, là người lãnh đạo Nhà nước Việt Nam dân chủ đầu tiên đề cập đến việc chống các bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí… Những bệnh này cũng có thể được Hồ Chí Minh diễn đạt trong một thuật ngữ cổ hơn đó là “bất liêm”, mà ngày nay chúng ta gọi là tham nhũng.

Nghiên cứu các tác phẩm của Hồ Chí Minh, chúng ta có thể thấy rằng Hồ Chí Minh là người Việt Nam hiện đại đầu tiên đã vạch rõ nguồn gốc, bản chất, các hình thức biểu hiện, các phương pháp PCTN trong khu vực công và trong cả khu vực tư.

Thế nào là tham nhũng? Thông qua định nghĩa chữ “Liêm”, Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm về tham nhũng: “Liêm là trong sạch, không tham lam”(1), Người chỉ ra 2 biểu hiện trong 10 hành vi bất liêm của cán bộ đó là: “Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên; Người cán bộ, cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư”(2). Biểu hiện của bệnh tham ô, theo Hồ Chí Minh, đó là “Người cán bộ, cậy quyền thế mà đục khoét của dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư”(3) là bất liêm, tức không trong sạch, tham lam mà ngày nay chúng ta gọi là tham nhũng.

Về tác hại của tệ tham ô – tham nhũng. Ngay từ những ngày đầu thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945), Hồ Chí Minh đã coi trọng lên án những biểu hiện của sự tha hóa quyền lực Nhà nước trong không ít cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Người luôn coi tham ô, lãng phí và quan liêu là ba kẻ thù hết sức nguy hiểm, Người viết: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của chính phủ”(4) nó là: “Kẻ thù khá nguy hiểm vì nó không mang gươm, mang súng mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng mọi việc của ta”(5).

Theo Hồ Chí Minh, trong ba kẻ thù trên, tham ô là kẻ thù nguy hiểm nhất, bởi đó là hành động xấu xa nhất, tội lỗi đê tiện nhất trong xã hội. Nó nguy hiểm đến mức mà Người từng xếp căn bệnh này ngang hàng với tội phản quốc. Năm 1946, khi trả lời các nhà báo nước ngoài, Người nói: “Nếu cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam, Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài”(6).

Từ những hậu quả mà tham ô, lãng phí và quan liêu có thể đem lại nên Hồ Chí Minh xác định nó cũng là một thứ giặc nguy hiểm, “thứ giặc ở trong lòng”. Chưa xoá bỏ hết cái nọc nguy hiểm này thì cách mạng chưa thành công được, vì nó ngấm ngầm chống phá cách mạng, chống phá sự nghiệp dựng xây chế độ mới của ta. Vì vậy, Người nhắc nhở nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên chống “giặc nội xâm” này thì chưa làm tròn nhiệm vụ của mình.

Nguồn gốc của tham nhũng. Là do tha hóa quyền lực Nhà nước, do thiếu dân chủ. Thiếu dân chủ, được Hồ Chí Minh xem xét từ hai phía. Thứ nhất, là từ phía cán bộ, công chức Nhà nước mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Nguyên nhân là do: “Xa nhân dân… Khinh nhân dân… Sợ nhân dân… Không tin cậy nhân dân… Không hiểu biết nhân dân… Không yêu thương nhân dân… Thậm chí còn lừa phỉnh dân và dọa nạt dân”(7). Thứ hai, “Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “quan” dù không liêm cũng phải hóa ra LIÊM. Vì vậy “dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ thực hiện chữ LIÊM”(8).

PCTN như thế nào? Tham nhũng là vướng vào chủ nghĩa cá nhân, là trục lợi: “Là người có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”(9). Vì thế, muốn chống tham nhũng, phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân với tất cả các biện pháp, trong đó “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”(10). Trong bài viết “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu”, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn lời Xtalin về cách thức phòng, chống lãng phí và coi đây như một “nghệ thuật”, nhưng “nghệ thuật” đó không phải dễ: “Đồng chí Xtalin dạy chúng ta: “Phải tiết kiệm tiền bạc, lại phải chi tiêu tiền bạc ấy cho hợp lý. Không được phí phạm một đồng xu nào của dân. Phải dùng toàn bộ tiền bạc ấy vào công nghệ của nước ta. Không như vậy thì chúng ta sẽ vấp phải cái nguy hiểm lãng phí, cái nguy hiểm dùng tiền vào những việc không cần kíp cho sự phát triển công nghệ, cho sự bồi bổ kinh tế của nhân dân. Khéo tính toán, chi tiêu tiền bạc cho hợp lý – Đó là một nghệ thuật quan trọng. Nghệ thuật ấy không phải là dễ””(11).

2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về PCTN trong ngành Thanh tra hiện nay

Trong những năm gần đây, tệ tham nhũng, hối lộ, lãng phí ở nước ta diễn ra rất nghiêm trọng, vấn đề này, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đề ra quyết tâm chính trị đó là: “Đẩy mạnh đấu tranh PCTN, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan Nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức”(12). Đây là trách nhiệm chính trị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, trong đó có ngành Thanh tra trong nghiên cứu, quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về PCTN đã được luận giải ở trên.

Trong những năm qua, nhất là năm 2019, là đơn vị chuyên trách PCTN, Thanh tra Chính phủ “tiếp tục được kiện toàn tổ chức, bộ máy, đẩy mạnh hoạt động nghiệp vụ, phát huy vai trò nòng cốt trong công tác quản lý Nhà nước về PCTN và phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng. Cục CTN thuộc Thanh tra Chính phủ tập trung tham mưu thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về PCTN và tiến hành các cuộc thanh tra nhằm phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng, nhất là các vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, được Thủ tướng Chính phủ giao”(13).

Từ thực trạng trên, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về PCTN trong ngành Thanh tra trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số giải pháp trọng tâm sau:

Một là, toàn ngành tiếp tục quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về PCTN. Trong đó, cần nhận tính cấp thiết và phương thức PCTN theo tư tưởng Hồ Chí Minh; từ đó, cụ thể hóa vào các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của ngành để tham mưu đúng, trúng và kịp thời cho Đảng, Nhà nước những chủ trương, quyết sách lớn trong PCTN hiệu quả.

Hai là, trước mắt, cần tập trung tham mưu cho Chính phủ chỉ đạo, thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 10/1/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ người phát hiện, tố giác, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; Quy định số 11-QĐi/TW ngày 18/2/2019 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân; quy định về xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, đơn vị; quy định về việc thôi giữ chức vụ, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý; cơ chế bảo vệ người dân phản ánh, tố giác và tích cực đấu tranh chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên; cơ chế kiểm soát quyền lực trong PCTN…

Đồng thời, triển khai thi hành Luật PCTN năm 2018 theo Quyết định số 101/QĐ-TTg ngày 21/1/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành kế hoạch triển khai thi hành Luật PCTN bảo đảm kịp thời, đồng bộ, thống nhất và hiệu lực, hiệu quả.

Ba là, toàn ngành tiếp tục quán triệt và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với đẩy mạnh nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về PCTN trong tình hình mới cho phù hợp với chức năng là cơ quan chuyên trách PCTN.

(1) (2) (3) (8) (9) (10) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.126; tr.126; tr.126; tr.127; tr.127; tr.127

(4) (5) (7) (11) Sđd, tập 7, tr.357; tr.357; tr.176; tr.365

(6) Sđd, tập 4, tr.187-188

(12) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.181

(13) Chính phủ, Số: 488/BC-CP, ngày 15 tháng 10 năm 2019, Báo cáo công tác PCTN năm 2019, Hà Nội, 2019, tr.5; tr.16

TS Hà Sơn Thái – TS Nguyễn Xuân Đại Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Chức Năng Xã Hội Của Báo Chí

CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Báo chí là loại hình hoạt động thông tin chính trị xã hội có những chức năng xã hội của mình. Chỉ có hiểu những chức năng xã hội của báo chí là gì; bao gồm những chức năng nào; được thực hiện bằng cách nào … thì mới có thể bàn đến nội dung của hoạt động báo chí. I. KHÁI NIỆM 1. Thuật ngữ chức năng: – Theo từ điển tiếng Việt: Chức năng là: + Hoạt động, tác dụng bình thường hoặc đặc trưng của một cơ quan, một hệ cơ quan nào đó trong cơ thể. + Tác dụng, vai trò bình thường hoặc đặc trưng của một người nào đó, một cái gì đó. – Theo ngữ nghĩa: Chức năng – tiếng La tinh là Functio được hiểu là sự tổng hợp vị trí, vai trò và tác dụng của một đối tượng, của một hoạt động nào đó. Mỗi một đối tượng tồn tại và vận động, mỗi loại hình hoạt động đều nhằm thực hiện những chức năng nhất định nào đó. Chức năng quy định cả hình thức của hoạt động, cả chất lượng của hoạt động, cả đặc điểm của hoạt động. Muốn hiểu và đánh giá đúng được kết quả hoạt động phải đặt nó trong mối tương quan với nhiệm vụ – như là biểu hiện cụ thể của chức năng. Hiểu được chức năng thì mới hiểu được bản chất của đối tượng nghiên cứu, mới xác định được phương hướng và phương pháp hoạt động, và do đó mới có thể hoạt động một cách phù hợp và có hiệu quả. Hay nói cách khác – chức năng là nhiệm vụ mang tính bản chất, nhiệm vụ khách quan. Như vậy, chức năng không phải là sự áp đặt một cách chủ quan, mà nó tồn tại một cách khách quan trên cơ sở của những quy luật nội tại của loại hình hoạt động. 2. Chức năng xã hội của báo chí: – Từ thuật ngữ chức năng báo chí (đồng nghĩa với các thuật ngữ sứ mệnh; bổn phận vốn có của báo chí, cái báo chí sinh ra để làm), ta hiểu được vị trí, vai trò và tác dụng của báo chí trong đời sống xã hội. Sự ra đời và tồn tại của báo chí đã khẳng định một cách khách quan vị trí, vai trò và tác dụng của báo chí trong đời sống xã hội. Tổng hợp vị trí, vai trò và tác dụng của báo chí cũng chính là chức năng xã hội của báo chí. Toàn bộ hoạt động của con người (hoạt động có ý thức), trong đó có hoạt động báo chí luôn mang đặc điểm mục tiêu. Con người chỉ bắt tay vào hoạt động khi đã xác định được mục tiêu, dự định đạt được kết quả mong muốn. Đối với nhà báo – xác định mục tiêu hoạt động phải phù hợp với những chức năng xã hội của báo chí. Thiếu hiểu biết đầy đủ về chức năng báo chí hoạt động của nhà báo có thể sẽ mâu thuẫn với những chức năng vốn có của báo chí. Chức năng của báo chí được hình thành không phải là do sự áp đặt một cách chủ quan từ đâu đó hay từ ai đó, mà tồn tại một cách khách quan trên cơ sở những quy luật nội tại của báo chí. Nói về tính khách quan của những chức năng trên cơ sở của những quy luật nội tại của báo chí – C.Mác viết: “… muốn cho báo chí có thể hoàn thành sứ mệnh của mình thì trước hết cần phải không có áp lực nào từ bên ngoài vào, cần phải thừa nhận là báo chí có những quy luật nội tại của mình”. (C.Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập; Tập 1, tr.227). Vậy những nhiệm vụ khách quan đó của báo chí là gì? Do có vị trí đặc biết trong hệ thống xã hội và có ảnh hưởng to lớn đến các mặt của đời sống xã hội, vai trò của báo chí không chỉ thể hiện trong số lượng các mối quan hệ, trong khối lượng và ý nghĩa của những thông tin về các lĩnh vực mà báo chí phản ánh, mà còn ở chất lượng của các mối qaun hệ đó, có nghĩa là mở rộng phạm vi chiếm lĩnh thực tế, chú ý tới các lĩnh vực mới, thu hút các đối tượng công chúng mới, thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu thông tin của công chúng … Do đó, nhận thức rõ nhiệm vụ khách quan (chức năng) của báo chí là rất phức tạp. Lý luận báo chí của chủ nghĩa Mác- Lê nin và thực tiẽn hoạt động của báo chí cách mạng đã cho thấy báo chí tác động tới xã hội theo nhiều khuynh hướng, thực hiện một số nhóm chức năng: Chức năng tư tưởng, chức năng quản lý – giám sát xã hội, chức năng khai sáng – giải trí, chức năng kinh doanh … II. NHÓM CHỨC NĂNG TƯ TƯỞNG – Hoạt động tư tưởng là hoạt động tác động vào thế giới tinh thần của con người hình thành hệ ý thức xã hội cho phù hợp với những mục tiêu đã xác định. Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng luôn coi trọng công tác tư tưởng, coi công tác tư tưởng là một trong số những công tác quan trọng nhất, song song với công tác tổ chức và công tác kiểm tra. Nội dung công tác tư tưởng của Đảng ta: – Truyền bá hệ tư tưởng. – Truyền bá Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng. Mục đích của công tác tư tưởng: – Để quần chúng nhân dân biến hệ tư tưởng của Đảng thành hệ tư tưởng của quần chúng nhân dân. – Để giác ngộ, nâng cao tính tự giác cho quần chúng nhân dân. – Để bồi dưỡng niềm tin, tình cảm cách mạng, cổ vũ hành động. Các loại hình của công tác tư tưởng: – Hoạt động lý luận (Quán triệt và phổ biến hệ tư tưởng; Tổng kết thực tiễn để hình thành đường lối chiến lược , chủ trương, chính sách). – Hoạt động tuyên truyền. – Hoạt động cổ động. (Khi đã có đường lối chiến lược, Chủ trương, chính sách … thì tuyên truyền và cổ động cho chúng). Các công cụ tư tưởng: – Hệ thống các trường lớp chính trị. – Sinh hoạt tư tưởng theo các cơ quan, đoàn thể, đơn vị, tổ chức … – Đội ngũ báo cáo viên. – Bảo tàng, Triển lãm, Pa nô, Áp phích, Các đội tuyên truyền … – Văn học nghệ thuật. – Báo chí (bao gồm các loại hình) là công cụ đặc biệt quan trọng. Trong số các công cụ tư tưởng của Đảng thì báo chí đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Chính vai trò, tác dụng của báo chí trong việc giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng đối với quần chúng nhân dân đã tạo thành nhóm chức năng tư tưởng của báo chí. Báo chí là công cụ tư tưởng quan trọng bởi lẽ báo chí hàng ngày hàng giờ thông qua hoạt động chuyển tải thông tin truyền bá hệ tư tưởng của Đảng vào quần chúng nhân dân, hướng tính tích cực xã hội của quần chúng nhân dân vào việc thực hiện những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt ra. Nhóm chức năng tư tưởng của báo chí bao gồm các thành tố: 1. Chức năng mục tiêu: – Lý luận báo chí cách mạng đã chỉ rõ ý nghĩa to lớn của báo chí trong việc hình thành đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân. Vai trò của báo chí cũng tăng nhanh đồng hành với sự phất triển của xã hội cùng với việc mở rộng quy mô của các hoạt động xã hội và thu hút quần chúng nhân dân tham gia vào các phong trào, các hoạt động xã hội. – Báo chí làm nhiệm vụ khách quan là chuyển tải thông tin một cách nhanh chóng, toàn diện và có định hướng. Cũng như mọi hoạt động khác của con người, hoạt động báo chí bao giờ cũng hướng tới những mục tiêu xác định. Mục tiêu của hoạt động báo chí là nâng cao tính tự giác cho đối tượng công chúng. (Tự giác là làm việc gì tự mình hiểu mà làm, không cần phải nhắc nhở, đốc thúc). Để nâng cao tính tự giác cho công chúng, báo chí phải nâng cao nhận thức và tự nhận thức cho họ. Nhận thức và tự nhận thức nằm trong mối quan hệ biện chứng. Nhận thức (là khả năng của con người phản ánh và tái hiện hiện thực vào tư duy) – là toàn bộ những tri thức về thế giới xung quanh: những quy luật, những hiện tượng, những khuynh hướng, những quá trình của đời sống xã hội. Còn tự nhận thức là hiểu được vị trí của mình trong thế giới, trong các mối quan hệ xã hội; hiểu được mục đích, ý nghĩa của cuộc sống, hiểu được mục đích và yêu cầu, hiểu được cách thức để đạt được mục đích và thỏa mãn những nhu cầu ấy … Sự tự giác là kết quả của nhận thức và tự nhận thức. Tự giác là động lực mạnh mẽ của hành vi, nó quy định tính tích cực xã hội của con người. – Để thực hiện tốt chức năng mục tiêu – báo chí phải: + Giúp cho công chúng nhận thức thế giới khách quan một cách toàn diện, sâu sắc và đúng đắn. + Định hướng xã hội cho công chúng một cách toàn diện, đúng đúng đắn và khoa học. 2. Chức năng định hướng. Để nâng cao tính tự giác cho đối tượng công chúng đòi hỏi báo chí phải định hướng cho họ một cách toàn diện và đúng đắn. Định hướng xã hội – là tác động, giáo dục, giúp đỡ cho công chúng hiểu và đánh giá đúng các sự kiện, hiện tượng của đời sống xã hội để từ đó họ xác định được mục tiêu, khuynh hướng và đặc điểm hành vi của mình. Sự định hướng như vậy thể hiện ở các mặt: – Thứ nhất: Qua thông tin báo chí cung cấp giúp cho công chúng hiểu được cái gì đang diễn ra. Sự định hướng bắt đầu từ hiểu biết tất cả các sự kiện hàng ngày diễn ra trong thế giới xung quanh để tạo thành bức tranh toàn cảnh về thế giới khách quan của con người mà con người sống trong nó. Đối với báo chí, mô hình thông tin, hệ thống các khái niệm về cuộc sống là rất quan trọng. – Thứ hai: Qua việc cung cấp thông tin báo chí giúp cho công chúng xác định rõ được rằng trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể cần đạt tới cái gì, cả về trước mắt, cả về lâu dài từ quan điểm chính thống. – Thứ ba: Sự định hướng được thể hiện qua việc đánh giá các sự kiện, hiện tượng, các quá trình, các khuynh hướng, các nhân vật … (Đương nhiên là từ quan điểm chính thống). Sự đánh giá đó sẽ có sức thuyết phục, tác động mạnh mẽ tới đối tượng khi nó như là những kết luận được rút ra từ việc phân tích các sự kiện, hiện tượng, các quá trình, các khuynh hướng, các nhân vật … ấy của thực tiễn (từ quan điểm chính thống). – Thứ tư: Sự định hướng còn thể hiện ở việc phổ biến những giá trị, những chuẩn mực, những phương thức, phương pháp hoạt động … nhằm thực hiện những mục tiêu đề ra và đạt được những kết qủa cao nhất trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Kết quả định hướng của báo chí đến mức nào phụ thuộc vào mức độ công khai các vấn đề của đời sống xã hội; vào sự dễ hiểu, cập nhật của thông tin; vào khả năng phản ánh và xem xét công khai, thẳng thắn các vấn đề của đời sống xã hội trên báo chí. Định hướng của báo chí trong thực tế có thể toàn diện, sâu sắc và đúng đắn; có thể toàn diện nhưng không sâu sắc và đúng đắn; và cũng có thể là rất yếu kém. Báo chí cách mạng – với bản chất giai cấp và vai trò lịch sử của mình – phải định hướng một cách sâu sắc, toàn diện và đúng đắn, hình thành ý thức khoa học và tiến bộ cho công chúng xã hội, làm sao để công chúng báo chí nhận thức đúng về thế giới xung quanh, hiểu được vị trí và vai trò của mình để lựa chọn thái độ và hành vi cho phù hợp. Định hướng xã hội toàn diện, sâu sắc, đúng đắn và khách quan sẽ tác động trực tiếp tới hoạt động của công chúng trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xã hội đã đề ra. Báo chí thực hiện chức năng mục tiêu, hình thành tính tự giác thông qua định hướng xã hội một cách toàn diện, sâu sắc, đúng đắn và khách quan – mang đặc điểm tổng hợp; có nghĩa là báo chí phải tác động tới các mặt của thế giới tinh thần, tới toàn bộ các bộ phận cấu thành của cấu trúc ý thức xã hội: Thế giới quan; Ý thức lịch sử, văn hóa và Dư luận xã hội. Thế giới quan: là quan niệm thành hệ thống về thế giới, về các hiện tượng tự nhiên và xã hội. TGQ thể hiện cả ở 2 phương diện: bức tranh thực tiễn về thế giới và mối quan hệ, quan điểm về thế giới. Hệ thống quan niệm này quy định lập trường, quan điểm, niềm tin, lý tưởng … của con người. TGQ là lăng kính mà thông qua đó con người nhận thức và đánh giá thế giới xung quanh, thẩm định các giá trị vật chất và tinh thần, bày tỏ thái độ trước các sự kiện, hiện tượng … của đời sống xã hội, xác định mục đích, phương hướng và đặc điểm của hành vi. TGQ là hạt nhân của cấu trúc ý thức xã hội, được hình thành là do cả một quá trình và nó bền vững, chậm thay đổi. Ý thức lịch sử, văn hóa: là thành tố thứ 2 của cấu trúc ý thức xã hội, nó đóng vai trò trung gian, truyền dẫn giữa TGQ và Dư luận xã hội (DLXH). Ý thức lịch sử, văn hóa là quan niệm của con người về lịch sử, về hiện tại trong mối quan hệ với quá khứ và tương lai. Để xem xét, thẩm định và đánh giá các sự kiện, hiện tượng của thực tiễn, con người phải hiểu và biết được lịch sử hình thành và vận động của thực tiễn, các mối quan hệ của thực tiễn với thời đại, với môi trường tự nhiên và xã hội … Bởi lẽ hiện tại như là quá trình vận động và phát triển của quá khứ, bị quy định bởi quá khứ và ảnh hưởng đến tương lai. Sự hình thành ý thức lịch sử, văn hóa do nhiều yếu tố: văn hóa truyền thống, kiến thức được trang bị bởi hệ thống nhà trường từ thấp đến cao, văn học nghệ thuật, các phương tiện thông tin đại chúng và tuyên truyền, kinh nghiệm sống … trong đó báo chí có vai trò đặc biệt quan trọng do khả năng cung cấp thông tin nhanh, đa dạng và phong phú: phổ biến những tri thức, những kinh nghiệm, những giá trị lịch sử, thẩm định và cổ động cho những giá trị lịch sử, tạo môi trường cho sự hình thành ý thức lịch sử, văn hóa. Dư luận xã hội: là thành tố động nhât, linh hoạt nhất của ý thức xã hội. DLXH là phản ứng, thái độ của xã hội trước một sự kiện, hiện tượng, vấn đề … hay một nhân vật nào đó. Đối tượng của DLXH là toàn bộ các sự kiện, hiện tượng … của đời sống xã hội. Chủ thể của DLXH là các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các nhóm xã hội, các vùng hay địa phương … DLXH xem xét và đánh giá các sự kiện thường ngày của đời sống xã hội xuất phát từ mối liên hệ đối với chúng. DLXH có thể tiến bộ, có thể lạc hậu, có thể thúc đẩy, có thể kìm hãm sự tiếp thu cái mới, sự phát triển của xã hội. Các thành tố của ý thức xã hội nằm trong mối liên hệ chặt chẽ, vận động một cách linh hoạt dưới sự tác động của thực tiễn. 3. Chức năng giáo dục chính trị tư tưởng. Chức năng giáo dục chính trị tư tưởng của báo chí được thể hiện ở sự giáo dục, bao gồm giáo dục thường xuyên và giáo dục lại đối với công chúng báo chí. Giáo dục – là hoạt động nhằm hình thành ý thức ở đối tượng. Khi nhận được những thông tin (về quá khứ và hiện tại, về những quy luật vận động và phát triển của xã hội, về những giá trị và chuẩn mực của cuộc sống …) tạo ra sự thay đổi về chất trong mỗi con người. Nếu những thông tin tiếp nhận ấy là chân thực và khách quan thì quan điểm riêng được hình thành sẽ là tích cực (và ngược lại). Để đạt được hiệu quả giáo dục, báo chí khi truyền bá những thông tin về thực tiễn phải giúp cho công chúng hiểu biết được những quy luật, những sự kiện, hiện tượng, những quá trình của đời sống xã hội, phải quan tâm đến việc tạo ảnh hưởng tư tưởng mạnh mẽ tới họ, phải phối hợp và gắn với những giá trị, những chuẩn mực, những tư tưởng hiện hành, có nghĩa là gắn với chức năng mục tiêu của hoạt động thông tin, với toàn bộ các hình thức định hướng xã hội. Nội dung quan trọng nhất của giáo dục là hình thành tư duy kinh tế, giáo dục ý thức chính trị, ý thức lao động, ý thức đạo đức, ý thức luật pháp, tinh thần yêu nước … và đấu tranh chống lại những tư tưởng và những chuẩn mực đạo đức xa lạ. Hoạt động giáo dục trong báo chí góp phần tạo ra niềm tin của công chúng. Sự xuất hiện của niềm tin đối với báo chí – đó là kết quả của việc tiếp thu thông tin cá nhân, hình thành từ sự tin tưởng vào những phản ánh, phân tích và đánh giá, đề xuất, kiến nghị và kết luận của báo chí. Niềm tin đối với báo chí khác với đức tin trong tôn giáo. Đức tin trong tôn giáo là sự ngộ nhận thiếu bằng chứng … còn niềm tin đối với báo chí được hình thành từ báo chí và do báo chí – thông qua những bằng cớ xác thực của thực tiễn. (Thông qua kỹ năng phản ánh, phân tích, đánh giá các sự kiện, hiện tượng, các quá trình, các khuynh hướng … hàng ngày của báo chí). Do vậy, để hình thành niềm tin của công chúng, đòi hỏi báo chí phải sử dụng một cách linh hoạt và sáng tạo các phương pháp tái tạo thực tiễn trong các tác phẩm báo chí, vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo những đặc điểm, những quy luật của hoạt động tuyên truyền, cổ động và tổ chức mà nhờ những phương pháp này thực hiện một cách hiệu quả nhiệm vụ giáo dục của báo chí. – Tuyên truyền: là hoạt động truyền bá những tư tưởng nền tảng, quan điểm cơ bản của hệ tư tưởng của chế độ. Nội dung tuyên truyền cơ bản: + Tuyên truyền hệ tư tưởng. + Tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. + Tuyên truyền các quan niệm khái quát về thời đại. + Tuyên truyền hình thành lối sống mới. – Cổ động: là hoạt động của báo chí để phổ biến những thông tin thời sự, tác động tích cực và có định hướng vào lập trường, thái độ, tình cảm … của công chúng. Bằng những thông tin phản ánh các sự kiện, hiện tượng hàng ngày về thực tiễn, cổ động được thể hiện trong những đánh giá rõ ràng nhằm hình thành nên mối quan hệ của công chúng với các sự kiện, hiện tượng ấy cho phù hợp với ý nghĩa của nó, định hướng hoạt động cho công chúng. – Tổ chức: Kết quả hoạt động tuyên truyền và cổ động của báo chí được phản ánh trong việc hình thành ý thức và tự ý thức ở công chúng, trong việc giáo dục ý thức, trong việc định hướng toàn diện, sâu sắc và đúng đắn (khoa học). Đó là bước đi đầu tiên, quan trọng của công tác tổ chức. Nó tạo điều kiện quan trọng và cần thiết cho tính tích cực trong các hoạt động xã hội của công chúng để chuyển sang bước thứ hai: tập hợp và hướng dẫn hoạt động của công chúng nhàm thực hiện những mục tiêu chung của xã hội trong từng giai đoạn xã hội cụ thể. Tuyên truyền, cổ động và tổ chức có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đan xen trong nhau, là điều kiện và tiền đề của nhau khó có thể phân định rạch ròi. III. CHỨC NĂNG QUẢN LÝ – GIÁM SÁT XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ 1. Khái niệm. a). Quản lý – là sự tác động có ý thức, có hệ thống của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đảm bảo cho khách thể quản lý hoạt động có hiệu quả trong việc thực hiện những mục tiêu đã đề ra. b). Quản lý xã hội – khách thể quản lý là những tổ chức, những đơn vị, những cơ quan, đoàn thể, những cá nhân thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, của cả xã hội nói chung. Xã hội bản thân nó là một thực thể cực kỳ đa dạng và phức tạp về số lượng và chất lượng của các bộ phận cấu thành, về vị trí của chúng trong hệ thống xã hội, về chức năng xã hội của chúng, về tính chất của sự tác động lẫn nhau giữa chúng với nhau và giữa chúng với thế giới xung quanh. Mỗi một khách thể đó lại thuộc về một lớp những hệ thống hỗn hợp (chủ thể quản lý) lớn hơn (bao gồm cả yếu tố con người và sự vật). c). Bản chất của hoạt động quản lý – Chủ thể quản lý tác động tới khách thể quản lý bằng thông tin dưới dạng các quyết định quản lý. Hoạt động quản lý do vậy luôn gắn với quá trình thu thập, xử lý thông tin để soạn thảo các quyết định quản lý và khi đã có quyết định quản lý thì phổ biến những quyết định quản lý ấy một cách nhanh chóng, đầy đủ … tới khách thể quản lý. Hoạt động quản lý là hoạt động mang tính chu kỳ. Bất kỳ một chu kỳ quản lý nào cũng bắt đầu từ việc thu thập, xử lý thông tin và kết thúc bằng việc thu nhận những thông tin và cũng là điểm bắt đầu của chu kỳ quản lý mới. Việc khởi thảo chiến lược quản lý (những mục tiêu và nhiệm vụ lâu dài), soạn thảo và lựa chọn các quyết định quản lý, tổ chức thực hiện các quyết định quản lý, điều chỉnh và kiểm tra, tổng kết và đánh giá … cũng xuất phát từ việc thu thập thông tin, xử lý những thông tin thu thập được và kết thúc bằng việc phổ biến những thông tin mới. Như vậy, quản lý xã hội không thể tách rời quá trình liên tục sản xuất và tái sản xuất thông tin. Hiệu quả của hoạt động quản lý do vậy bị quy định bới sự “nhiễu thông tin” và trình độ, năng lực của chủ thể quản lý. – Nhiễu thông tin – là những yếu tố bên ngoài tác động thường xuyên, liên tục (cả tác động tích cực, cả tác động tiêu cực) vào quá trình quản lý. Sự tác động như vậy rất đa dạng. Một số có tác động với cường độ yếu, tác động trong một thời gian ngắn. Số khác tác động yếu nhưng lại thường xuyên hoặc lâu dài không làm rối loạn nghiêm trọng cơ cấu và chức năng của cả hệ thống. Thông tin đầy đủ và kịp thời về những tác động “nhiễu” như vậy tạo điều kiện cho chủ thể quản lý ổn định hệ thống trong trường hợp “nhiễu” yếu và thời gian tác động ngắn, và thích ứng, thích nghi trong trường hợp tác động “nhiễu” thường xuyên hay lâu dài. Có những tác động “nhiễu” phá hoại cơ cấu quản lý và gây rối loạn các chức năng của cả hệ thống hay một số bộ phận cấu thành nào đó của hệ thống quản lý. Để khắc phục – chủ thể quản lý phải khôi phục cơ cấu chức năng nhằm ổn định hệ thống, duy trì hoạt động của hệ thống. Để làm được điều đó cần phải thu thập thông tin đầy đủ và chính x