Top 7 # Xem Nhiều Nhất Ví Dụ Về Chức Năng Nhận Thức Của Đạo Đức Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Photomarathonasia.com

Chức Năng Của Ẩn Dụ Đối Với Ngôn Ngữ Và Nhận Thức

Ngay từ thời Aristotle người ta đã đề cập tới chức năng của ẩn dụ. Trong cuốn “Thi pháp học”. Aristottle đã viết rằng ẩn dụ có nhiều loại quan trọng trong cả thơ lẫn văn xuôi, nhưng trong thơ nhiều hơn. Ẩn dụ có tính sáng sủa, dễ yêu và tác động mạnh… Rải rác trong các công trình nghiên cứu, các tác giả đã đề cập đến chức năng của ẩn dụ đối với ngôn ngữ. Đại để, ẩn dụ có những chức năng cơ bản đối với ngôn ngữ như sau.

a. Ẩn dụ làm phong phú thêm cho vốn từ của một ngôn ngữ

Trong vốn từ vựng của một ngôn ngữ có rất nhiều từ được tạo ra nhờ phương thức ẩn dụ. Các từ như đầu sông, ngọn suối, mũi súng, chân núi…được tạo ra từ phương thức này. Trong phương trình nghiên cứu của mình. Nguyễn Thiện Giáp đã có nhận xét các từ da trời, da cam, cánh sen, cỏ úa, cứt ngựa… làm cho các từ chỉ màu sắc của tiếng Việt trở nên phong phú,

b. Ẩn dụ làm tăng thêm ý nghĩ cho một từ

Nhờ phương thức ẩn dụ từ có thêm nhiều nghĩa mới. Từ ốc lẽ ra chỉ có nghĩa là động vật, thân mềm có vỏ cứng và xoắn, sống ở dưới nước. Nhờ chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ, từ ốc còn có nghĩa là đinh ốc. Đó là từ ốc trong cách nói “Hộp ốc vít của tôi đâu?” hay “Bộ phạn này có năm con ốc”. Từ cá ngoài nghĩa là động vật có xương sống sống ở dưới nước, thở bằng mang, bơi bằng vây, còn để chỉ miếng gỗ khi giữ chặt mộng để giữ miếng ghép, như cách nói: cá áo quan; hay để chỉ miếng cứng cài vào cạnh đứng của răng trong bộ bánh cóc, làm cho bánh răng chỉ quay được một chiều, như trong cách nói: xe bị sập cá; và từ cá cũng còn để chỉ: miếng sắt đóng vào đế giầy da cho đỡ mòn, như trong cách nói: cá giày bong mất rồi!. Từ bươm bướm ngoài nghiã chỉ: bọ có cánh mỏng, phủ một vẩy nhỏ như phấn, thường có nhièu màu, có vòi để hút mật hoa. Còn để chỉ một loại truyền đơn, như trong cách nói: giải bươm bướm giữa chợ.

Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), từ có thêm nhiều nghĩa nhất nhờ phương thức ẩn dụ là từ đánh: ngoài nghĩa chính, từ đánh có thêm 26 nghĩa sinh ra từ nghĩa chính và nghĩa phụ của từ này. Đây là minh chứng điển hình cho nhận xét “ẩn dụ làm giàu thêm ý nghĩa cho một từ”

Hàng loạt các từ khác như đầu, mũi, đường, đi …cũng có thêm rất nhiều nghĩa mới nhờ phương thức ẩn dụ.

Trong Từ điển phong cách học, tác giả Weles viết: bằng cách trung hoà hoá sự lệnh chuẩn về mặt ngữ nghĩa và sự sử dụng liên tục với một nghĩa mới thông qua cách dùng lặp đi lặp lại các ẩn dụ sẽ là một phương thức để gia tăng hàng nghìn nghĩa mới cho ý nghĩa của từ. (tr.117)

Theo Đỗ Hữu Châu, ẩn dụ không chỉ là “kết quả của những qui luật điều khiển sự tạo nghĩa cho từ”, mà nó còn là cách thức tạo từ mới và tạo nghĩa mới cho từ.

Thông qua việc tạo từ mới và nghiã mới, ẩn dụ giúp ngôn ngữ mau chóng đáp ứng được đòi hỏi phải kịp thời sáng tạo ra những phương tiện mới để biểu thị sự vật, hiện tượng và những nhận thức mới xuất hiện trong xã hội, để thay thế những cách diễn đạt, những tên gọi cũ đã mòn, không còn khả năng gợi tả, bộc lộ cảm xúc và gây ấn tượng sâu sắc ở người nghe nữa… Đó cũng là cách khai thác và phát huy tiềm năng của ngôn ngữ” (Đỗ Hữu Châu, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, trang 152).

c. Ẩn dụ tạo ra những cách nói mới làm cho cách diễn đạt trở nên phong phú

Tác giả Xi-xi-rô nói rằng: ẩn dụ lúc đầu xuất hiện cho sự hạn chế, sự nghèo nàn từ vựng của một ngôn ngữ nào đó. Nhưng khi ngôn ngữ đó là trưởng thành, đã có một số vốn từ vựng phong phú thì ẩn dụ sẽ làm giàu thêm cho ngôn ngữ đó bằng cách cung cấp cho người nói những cách nói hấp dẫn hơn để diễn đạt, để biểu thị, để bộc lộ chính mình. Bectle thì coi ẩn dụ có tác dụng trang trí, giúp cho người viết phương tiện để quyến rũ lí trí. Tác giả Đỗ hữu Châu đã dẫn ra ví dụ: lẽ ra cần nói em rất đẹp thì có thể nói em là một bông hoa. Hay một chút hi vọng thì gọi là hạt mầm hi vọng; Muốn nói con đáng yêu quá thì nói con chó con của mẹ, muốn nói ông thật xảo quyệt thì nói đồ cáo già.

d. Ẩn dụ làm cho cách nói trở nên hàm súc.

Nhờ ẩn dụ người ta có thể diễn đạt ngắn gọn nhưng rất cô đọng, súc tích ý mình. Lẽ ra phải nói “bộ phận nhọn của vũ khí” thì cần nói mũi dao, mũi súng; “bộ phận trước của thuyền” thì chỉ cần nói mũi thuyền; phần đất nhô ra ở ngoài biển thì nói mũi đất;…Nếu không có ẩn dụ thì đầu làng sẽ phải gọi là “vị trí đầu tiên của đầu làng tính từ chỗ người nói”; chân núi sẽ phải gọi là “phần cuối cùng tiếp giáp với mặt đất của núi”; tài năng chín sẽ phải gọi là ” tài năng đã trải qua quá trình nung nấu kĩ, quá trình rèn luyện chu đáo, phải đem ra thi thố với đời nếu không cái chín sẽ trở thành trì trệ”. Cách diễn đạt ” tình thế của những kẻ hèn kém bị dồn vào thế đường cùng, không lối thoát, mặc dù đã xoay sở hết cách” có thể xoay bằng cụm từ cố định ngắn gọn ” chuột chạy cùng sào “.

Những cách gọi tên không dùng phương thức ẩn dụ nói trên nhiều khi rất dài, khó nhớ và tai hại hơn là không thể diễn tả hết các sắc thái ý nghĩa tinh tế trong đó. Chẳng hạn cách gọi đầu làng ngoài tác dụng chỉ vị trí của đầu làng còn gợi cho ta sắc thái nghĩa: đây là một bộ phận của cái gì sống động chứ hoàn toàn không phải là một vật vô tri vô giác như cách gọi “vị trí đầu tiên …” vừa phân tích ở trên.

Cách gọi chi trên, chi dưới trong dòng họ cho ta thấy được tính chất gắn bó, ràng buộc như các bộ phận của một cơ thể, điều đó đã vừa diễn đạt tính chất cội nguồn, vừa diễn tả một cách sinh động cụ thể mối quan hệ của những tổ chức gia đình, họ hàng này.

Đỗ Hữu Châu đã phân tích ẩn dụ chịu tang trong câu thơ: “Rặng liễu dìu hiu đứng chịu tang” của Xuân Diệu. Theo ông, khó lòng tường minh hoá nghĩa của từ chịu tang bằng trường ngữ hoá như ” những rặng liễu đìu hiu giống như người đàn bà đang khóc than trong một đám tang” hoặc “những rặng liễu đìu hiu giống như người đàn bà đang xoã tóc khóc than trong một đám tang”.

Có rất nhiều trường hợp không thể trường nghĩa hoá được các ẩn dụ vì đó là cách nói chuẩn xác nhất, hàm súc nhất, hàm súc nhất, cách nói mà “ngôn ngữ thường ngày không đủ khả năng diễn đạt chúng”.

Đối với ngôn ngữ, ẩn dụ là một bộ phận hợp thành của sự sáng tạo ra ngôn ngữ. Và có thể nói rằng thật khó tưởng tượng về sự tồn tại của một ngôn ngữ nếu không có ẩn dụ.

e. Ẩn dụ giúp cho người nói diễn đạt được mọi cung bậc tình cảm, thái độ của mình

Đầu tiên phải nói đến ưu thế đặc biệt của ẩn dụ trong lối nói kiêng tránh. Chẳng hạn khi nói về cái chết có thể và nên dùng từ đi như cách nói: Ông cụ đi tối hôm qua.

Nhiều trường hợp để tránh lối mòn trần tục, thô thiển, làm người nói ngượng mồm và người nghe xấu hổ thì cách nói ẩn dụ là cách nói rất hiệu quả. Người xưa đã rất khéo léo dùng ẩn dụ khi diễn tả tình huống sau đây:

Trách người quân tử vô tình. Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao.

Và ngày nay chúng ta vẫn phát huy thế mạnh của phương thức chuyển nghĩa này. Chẳng hạn như cách nói “Híc, híc, dạo này đèn dầu của tớ cứ hay …dựng đứng bất tử lắm! hay nó bị… hỏng”? (trích Hoa học trò số 589). Hoặc “Đỉnh núi đôi của tớ bé tẹo à. Tớ lo sau này, cục cưng của tớ sẽ phải bú bình mất”? (Hoa học trò số 609) và “Đèn dầu của tớ bình thường, nhưng dầu của nó thì hầu như có vấn đề. Trong veo. Hay là mình không sản xuất được tinh binh” (Trích hoa học trò, số 613).

Ẩn dụ giúp người nói thể hiện được những tình cảm hết sức tinh tế như tình yêu chẳng hạn. Cách tỏ tình sau đây trong ca dao là một minh chứng:

Bây giờ mận mới hỏi đào Vườn hồng đã có ai vào hay chưa? Mận hỏi thì đào xin thưa Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.

Khi muốn nhấn mạnh sắc thái biểu cảm trong lời nói, ẩn dụ cũng tỏ ra là một trợ thủ rất đắc lực. khi muốn nói em thật đáng yêu và có sức mạnh tuyệt đối với anh thì có thể nói là: “Em là thiên thần bé nhỏ của anh”. Đó là những tình cảm tích cực. Còn muốn thể hiện những tình cảm tiêu cực cũng có thể dùng cách này. Chẳng hạn để nói: đồ nhỏ nhen ghê tởm thì chỉ cần nói đồ sâu bọ.

2. Chức năng của ẩn dụ đối với nhận thức

a. Theo G. Lakoff, ẩn dụ có ở khắp nơi trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, không chỉ ở trong ngôn ngữ mà trong cả tư duy và hành động. Hệ thống khái niệm của chúng ta suy nghĩ và hành động, về cơ bản, về bản chất có tính chất ẩn dụ… Các khái niệm của chúng ta tri giác được. Nó cấu trúc lại cách chúng ta ứng xử trong đời sống và cấu trúc cả cách chúng ta quan hệ với những người khác. Ông đã dùng các ẩn dụ so sự tranh luận (argument), theo đó thì tranh luận là chiến tranh, để chứng minh cho nhận xét trên. Theo ông, ẩn dụ này chi phối cách chúng ta nhận thức về tranh luận và người tranh luận với chúng ta. Chúng ta xem người tranh luận với chúng ta là đối phương của mình. Chúng ta tấn công quan điểm của anh ta vào bảo vệ trận địa của mình. Chúng ta dựng lên và dùng những chiến lược. Nếu chúng ta thấy luận điểm của chúng ta không bảo vệ được thì chúng ta có thể bỏ luận điểm đó và chọn một chiến tuyến tấn công khác. Một khái niệm khác mà G. Lakoff dẫn ra để chứng minh rằng ẩn dụ không chỉ có vai trò đối với ngôn ngữ mà nó còn chi phối nhận thức của con người và từ đó chi phối hành động của con người là ẩn dụ thời gian là tiền bạc. Vì nhận thức về thời gian như là tiền bạc. Đó là thói quen trả lương cho người theo giờ, theo tháng, theo năm…Các cuộc nói nói chuyện bằng điện thoại, tiền thuê khách sạn tính theo thời gian, rồi tiền lời, tiền trả nợ cho xã hội tính theo thời gian…Người ta hiểu và thể nghiệm thời gian như một loại sự vật mà người ta có thể tiêu, có thể lãng phí, có thể lập thành quỹ, có thể đầu tư một cách khôn khéo hoặc dại dột, có thể tiết kiệm hay phung phí. Toàn bộ những cái đó đều bị chi phối bởi cái ẩn dụ trên.

Cũng trong công trình nghiên cứu của mình, G. Lakoff đã khẳng định rằng: chức năng đầu tiên của ẩn dụ là cung cấp cho chúng ta một cách hiểu bộ phận về một loại kinh nghiệm khác và chức năng này có thể vận dụng vào việc hiểu những sự giống nhau đã tồn tại từ trước ngoài ẩn dụ, bao gồm cả sự sáng tạo ra những sự giống nhau mới, nghĩa là việc lý giải, hiểu biết những sự giống nhau từ trước, những sự sáng tạo ra những cái giống nhau mới cũng là theo nguyên tắc chúng ta hiểu sự giống nhau này dựa trên sự giống nhau khác.

Như vậy, G. Lakoff không những khẳng định ẩn dụ không chỉ là những vấn đề của ngôn ngữ mà còn là vấn đề tư duy, nhận thức: đó là có thể nhận thức sự vật này qua qua kinh nghiệm hiểu biết vè sự vật khác nếu chúng giống nhau.

b. Cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, nhận thức của con người ngày càng được nâng cao. Con người ngày càng phát hiện ra nhiều sự vật, hiện tượng xung quanh mình và các sự vật hiện tượng đó ngày càng được nhận thức toàn diện, sâu sắc hơn. Nhưng số lượng từ ngữ để biểu hiện những nhận thức đó thì còn có hạn. Do đó, buộc phải có những cách thức khác nhau để dùng số lượng hữu hạn các từ để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhận thức. Như vậy, ẩn dụ đã góp phàn làm cho ngôn ngữ đáp ứng được sự phát triển ngày càng cao của nhận thức con người.

c. Có rất nhiều sự vật, hiện tượng hay những phương diện, khía cạnh khác nhau của các sự vật, hiện tượng nhận thức bằng phương thức ẩn dụ. Trong khoa học tự nhiên có rất nhiều ví dụ chứng tỏ điều này. Có thể dẫn ra đây một hiện tượng như sau: Để tìm ra những quy luật của dòng điện, người ta ví dòng điện như dòng nước. Đây là một ẩn dụ. Trên cơ sở đó những quy luật của dòng điện đi qua dây dẫn có thiết diện nhỏ thì điện trở lớn, ngược lại dòng điện đi qua dây dẫn lớn tức là thiết diện lớn thì điện tích nhỏ. Điều đó giồng như dòng nước khi đi qua ống dẫn có thiết diện lớn thì sức cản đối với dòng nước sẽ nhỏ và ngược lại. Như vậy, để nhận thức về dòng điện là cái mắt thường không nhìn thấy được, người ta so sánh với dòng nước là cái có thể nhìn thấy được.

Hay hai khái niệm trường hấp dẫn, trường điện từ cũng được nhận thức trên cơ sở ẩn dụ. Trường “là một khoảng đất rộng, bằng phẳng dùng làm nơi tiến hành một loại hoạt động nhất định, có đông người tham gia, thường là thi đấu hoặc tập luyện như trường đua, trường bắn”. (Theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 1994). Trường hấp dẫn, trường điện từ là hai khái niệm trừu tượng, nhưng giống trường ở chỗ đều là một khoảng không gian nhất định và trong đó tồn tại một cái gì đó nhất định. Do đó, để hiểu hai khái niệm này người ta đã dùng hai khái niệm trường để nhận thức chúng. Và trường hấp dẫn, trường điện từ được hiểu như sau: “Dạng vật chất tồn tại trong một khoảng không gian mà vật nào trong đó cũng chịu tác động của một lực” (dẫn theo từ điển trên, tr. 1057).

Tương tự như vậy hai hiện tượng sóng điện từ và sóng âm cũng được nhận thức qua khái niệm sóng. Nhờ phương thức ẩn dụ người ta coi sóng điện từ và sóng âm như dòng nước. Sóng điện từ “là sự lan truyền trong không gian của điện từ với tốc độ hữu hạn”. Sóng âm “là giao động cơ học truyền đi trong môi trường đàn hồi kích thích được thần kinh thính giác”. Hai loại sóng này không thể nhận biết bằng các giác quan của con người, mà phải nhờ các thiết bị đặc biệt ghi lại hình ảnh sự tồn tại của nó. Nó giống nước ở sự giao động dâng lên, hạ xuống và đều ở trong một môi trường, một không gian. Khi được ví với sóng nước, hai khái niệm trên được nhận thức một cách dễ dàng hơn.

Phần trung tâm của nguyên tử, nơi tập trung hầu hết các khối lượng mang điện tích dương được gọi là hạt nhân. Nhờ ẩn dụ này (coi phần nói trên là hạt nhân giống như hạt quả, mà sự vật trừu tượng trên dễ được nhận thức hơn. Sở dĩ được gọi là hạt nhân vì nó giống nhân của hạt ở vị trí bên trong và vì chức năng quan trọng của nhân đối với hạt.

Tương tự như vậy, khái niệm nhân tế bào cũng được nhận thức rõ hơn qua phương thức ẩn dụ. Đây là bộ phận ở giữa tế bào, thường hình cầu, có chức năng quan trọng trong hoạt động sống, sinh sản và di truyền của tế bào. Bộ phận này không thể quan sát bằng mắt thường. Như vậy, khi được gọi là nhân bộ phận này sẽ dễ dàng nhận thức hơn.

Những thí dụ phân tích trên cho thấy chức năng quan trọng của ẩn dụ đối với nhận thức. Nhờ ẩn dụ, người ta có thể hiểu, có thể nhận thức những hiện tượng, sự vật chưa biết qua các hiện tượng, sự vật đã biết bằng cách so sánh ngầm giữa chúng. Vì bản chất của ẩn dụ là so sánh, do đó chức năng nhận thức của so sánh chính là chức năng nhận thức của ẩn dụ.

Ẩn dụ là một cách thức để con người nhận thức thế giới. Tìm hiểu chức năng của ẩn dụ đối với nhận thức sẽ giúp cho việc hiểu rõ hơn chức năng của ẩn dụ đối với ngôn ngữ.

Tóm lại, rất nhiều kinh nghiệm và hoạt động của chúng ta có bản chất là ẩn dụ. Phần lớn hệ thống khái niệm của chúng ta được hệ thống trong các ẩn dụ, bởi vì chúng ta phát hiện ra những sự giống nhau theo các phạm trù của hệ thống khái niệm. Ẩn dụ là nét độc đáo của ngôn ngữ tự nhiên. Năng lực hiểu các ẩn dụ và dùng được các ẩn dụ là dấu hiệu về khả năng ngôn ngữ của con người. Do đó ẩn dụ không chỉ là vấn đề của ngôn ngữ mà còn là vấn đề của tư duy, của nhận thức của con người.

Tài liệu tham khảo Tiếng Việt

1. Đỗ Hữu Châu – Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb. GD, H, 1981.

2. Nguyễn Thiện Giáp – Từ vựng học tiếng Việt, Nxb. GD, H, 1998.

3. Hoàng Phê chủ biên – Từ điển tiếng Việt, Nxb. KHXH, 1994.

4. Đỗ Xuân Thảo – Lê Hữu Tỉnh – Giáo trình tiếng Việt 2 (Hệ từ xa, bậc tiểu học), Nxb, ĐHSP Hà Nội, 1998.

Tiếng Anh

1. Aristotle – Thi pháp học. Tạp chí Văn học, số 1. 1997.

2. Asher R. E (Ed. In-Chief) – The Encyclopedia of Language and Linguistics (mục từ Metaphor). Tập V. Pergamon Press, New York, 1994.

Nêu Ví Dụ Về 5 Chức Năng Của Tiền Tệ Câu Hỏi 37236

1.Thước đo giá trị

Mỗi vật phẩm đều có giá trị khác nhau và được so sánh bằng giá trị của tiền tệ. Một đôi giày bảo hộ có giá trị bằng 5 xu ( tiền xu ngày xưa được làm từ nhôm). Một cuốn sách có giá trị bằng 1 đồng (tiền đồng được đúc từ đồng). Mà 1 đồng cũng có giá trị bằng 10 xu.Vì thế có thể nói Giá trị hàng hóa tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả của nó.

2.Phương tiện lưu thông

Ngày xưa Việt Nam lưu hành những đồng tiền làm bằng nhôm. Để thuận tiện người ta đã đục lỗ ở giữa đồng tiền để tiện lưu trữ và đến. Những đồng tiền bị đục lỗ đó vẫn có giá trị lưu thông trong xã hội ngày đó.

Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. sở dĩ có tình trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị.

Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là ký hiệu của giá trị, do đó việc in tiền giấy phải tuân theo quy luật lưu thông tiền giấy.

3.Phương tiện cất trữ

Người giàu ngày xưa hay có thói quen cất trữ vàng, bạc trong hũ, trong rương. Bạn dễ dàng nhìn thấy trong các phim truyện xưa, cổ tích. Ngày nay cũng có nhiều người có thói quen cất trữ tiền trong ngân hàng. Việc làm này không đúng vì tiền cất giữ phải là tiền có giá trị như tiền vàng, bạc.

4.Phương tiện thanh toán

Hiện nay ngân hàng điều cho vay tín dụng. Bạn dễ dàng trở thành con nợ của ngân hàng nếu tiêu xài không đúng cách.

6.Tiền tệ thế giới

Hiện nay ngành du lịch phát triển, mọi người dễ dàng du lịch nước ngoài. Khi đi du lịch bạn cần đổi tiền tệ của mình sang tiền tệ nước bạn. Tỷ giá hối đoái dự vào nền kinh tế của các nước nên có giá trị khác nhau. Hiện tại 1usd = 23.000 VNĐ…

Nêu Các Chức Năng Cơ Bản Của Tiền Tệ? Cho 3 Ví Dụ Về Chức Năng Cơ Bản Của Tiền Tệ?

Có 5 chức năng của tiền tệ:

– Thước đo giá trị

VD: Mỗi vật phẩm đều có giá trị khác nhau và được so sánh bằng giá trị của tiền tệ. Một chiếc bánh có giá trị bằng 5 xu (tiền xu ngày xưa được làm từ nhôm). Một cuốn sách có giá trị bằng 1 đồng (tiền đồng được đúc từ đồng). Mà 1 đồng cũng có giá trị bằng 10 xu. Vì thế có thể nói Giá trị hàng hoá tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả của nó.

– Phương tiện lưu thông

VD:

Ngày xưa Việt Nam lưu hành những đồng tiền làm bằng nhôm. Để thuận tiện người ta đã đục lỗ ở giữa đồng tiền để tiện lưu trữ và đếm. Những đồng tiền bị đục lỗ đó vẫn có giá trị lưu thông trong xã hội ngày đó.

Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. sở dĩ có tình trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị.

Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là ký hiệu của giá trị, do đó việc in tiền giấy phải tuân theo quy luật lưu thông tiền giấy.

– Phương tiện cất trữ

VD: Người giàu ngày xưa hay có thói quen cất trữ vàng, bạc trong hũ, trong rương. Bạn dễ dàng nhìn thấy trong các phim truyện xưa, cổ tích. Ngày nay cũng có nhiều người có thói quen cất trữ tiền trong ngân hàng. Việc làm này không đúng vì tiền cất giữ phải là tiền có giá trị như tiền vàng, bạc.

– Phương tiện thanh toán

VD: Hiện nay ngân hàng điều cho vay tín dụng. Bạn dễ dàng trở thành con nợ của ngân hàng nếu tiêu xài không đúng cách.

– Tiền tệ thế giới

VD: Hiện nay ngành du lịch phát triển, mọi người dễ dàng du lịch nước ngoài. Khi đi du lịch bạn cần đổi tiền tệ của mình sang tiền tệ nước bạn. Tý giá hối đoái dự vào nền kinh tế của các nước nên có giá trị khác nhau. Hiện tại 1usd = 23.000 VNĐ…

Ví Dụ Về Các Hàm Băm Mật Mã

MD 5: Nó tạo ra hàm băm 128 bit. Kháng va chạm đã bị phá vỡ sau ~ 2 ^ 21 băm.

SHA 1: Tạo ra hàm băm 160 bit. Kháng va chạm đã phá vỡ sau ~ 2 ^ 61 băm.

SHA 256: Tạo ra hàm băm 256 bit. Điều này hiện đang được sử dụng bởi bitcoin.

Keccak-256: Tạo ra hàm băm 256 bit và hiện đang được Ethereum sử dụng .

RIPEMD-160: Tạo đầu ra 160 nhưng được sử dụng bởi tập lệnh Bitcoin (cùng với SHA-256).

CryptoNight: Hàm băm được sử dụng bởi Monero.

Bây giờ chúng ta đã trải qua các hàm băm có nghĩa là gì và các thuộc tính của hàm băm mật mã là gì, hãy làm quen với một số hàm băm mật mã được sử dụng phổ biến nhất trong Tiền điện tử.

Thuật toán băm an toàn (SHA)

Các thuật toán băm an toàn, theo trang Wikipedia của nó , là một nhóm các hàm băm mật mã được Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia (NIST) công bố là Tiêu chuẩn Xử lý Thông tin Liên bang Hoa Kỳ (ERIC). SHA bao gồm các thuật toán sau:

SHA-0: Đề cập đến hàm băm 160 bit ban đầu được xuất bản vào năm 1993 dưới tên gọi là SHA Lần. Nó đã bị rút lại ngay sau khi xuất bản do một lỗ hổng quan trọng không được tiết lộ và được thay thế bằng phiên bản sửa đổi một chút SHA-1.

SHA-1: Đã được đưa vào khi SHA-0 không thể giao hàng. Đây là hàm băm 160 bit giống với thuật toán MD5 trước đó. Điều này được Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) thiết kế để trở thành một phần của Thuật toán số . Tuy nhiên, nó đã bị bán phá giá ngay sau khi mọi người nhận thấy điểm yếu về tiền điện tử.

SHA-2: Bây giờ chúng ta đến một trong những loại hàm băm phổ biến nhất hiện có. Nó được NSA thiết kế bằng cách sử dụng mô hình Merkle-Damgard. Chúng là một họ gồm hai hàm băm với các kích cỡ từ khác nhau: SHA-256 và SHA-512. Bitcoin sử dụng SHA-256

SHA-3: Trước đây được gọi là keccak, nó được chọn vào năm 2012 sau một cuộc thi công khai giữa các nhà thiết kế không phải NSA. Nó hỗ trợ độ dài băm tương tự như SHA-2 và cấu trúc bên trong của nó khác biệt đáng kể so với phần còn lại của gia đình SHA. Ethereum sử dụng chức năng băm này.

Hãy xem xét kỹ hơn về SHA-256 và SHA-3.

SHA-256 là một hàm SHA-2 sử dụng các từ 32 nhưng trái ngược với SHA-512 sử dụng các từ 64 bit. Bitcoin sử dụng SHA-256 theo 2 cách quan trọng:

Tạo địa chỉ

Hàm băm SHA-256 được sử dụng để băm khóa công khai Bitcoin để tạo địa chỉ công khai. Băm khóa thêm một lớp bảo vệ bổ sung cho danh tính của người đó. Thêm vào đó, một địa chỉ được băm chỉ đơn giản là có độ dài ngắn hơn khóa công khai Bitcoin giúp lưu trữ tốt hơn.

SHA-3

Như đã đề cập ở trên, điều này trước đây được gọi là keccak và được sử dụng bởi Ethereum . Nó được tạo ra sau một cuộc thi công khai bởi các nhà thiết kế không phải NSA. SHA-3 sử dụng chức năng bọt biển.

Chức năng băm RIPEMD-160

RIPEMD là một nhóm các hàm băm mật mã được phát triển ở Leuven, Bỉ, bởi Hans Dobbertin, Antoon Bosselaers và Bart Preneel tại nhóm nghiên cứu COSIC tại Đại học Katholieke Đại học Leuven, và xuất bản lần đầu tiên vào năm 1996.

Mặc dù RIPEMD dựa trên các nguyên tắc thiết kế của MD4, hiệu suất của nó rất giống với SHA-1. RIPEMD-160 là phiên bản 160 bit của hàm băm này và thường được sử dụng để tạo địa chỉ Bitcoin.

Khóa công khai bitcoin trước tiên chạy qua hàm băm SHA-256 và sau đó thông qua RIPEMD-160. Lý do tại sao chúng tôi làm điều đó là vì đầu ra 160 bit nhỏ hơn rất nhiều so với 256 bit giúp tiết kiệm không gian.

Cùng với đó, RIPEMD-160 là hàm băm duy nhất tạo ra các giá trị băm ngắn nhất mà tính duy nhất vẫn đủ đảm bảo.