BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
NGUYỄN NGỌC BÍCH
GIÁO DỤC TÌNH CẢM ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI TRƯỜNG MẦM NON HOA QUỲNH CHIỀNG BÔM – THUẬN CHÂU – SƠN LA THÔNG QUA VIỆC GIÚP TRẺ LÀM QUEN VỚI TRUYỆN CỔ TÍCH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
SƠN LA, NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
NGUYỄN NGỌC BÍCH
GIÁO DỤC TÌNH CẢM ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI TRƯỜNG MẦM NON HOA QUỲNH CHIỀNG BÔM – THUẬN CHÂU – SƠN LA THÔNG QUA VIỆC GIÚP TRẺ LÀM QUEN VỚI TRUYỆN CỔ TÍCH
CHUYÊN NGÀNH: PHƯƠNG PHÁP CHO TRẺ LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Người hướng dẫn: Th.S Trịnh Thị Hồng
SƠN LA, NĂM 2013
LỜI CẢM ƠN Khóa luận tốt nghiệp được hoàn thành dựa trên sự hướng dẫn khoa học của cô giáo, Thạc Sĩ Trịnh Thị Hồng. Nhân dịp khóa luận được công bố, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo, Thạc Sĩ Trịnh Thị Hồng – người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tận tình cho em trong quá trình thực hiện đề tài này. Em xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới Phòng Đào Tạo, các thầy, cô giáo khoa Tiểu học – Mầm non, thư viện trường Đại học Tây Bắc, các ban ngành chức năng và tập thể lớp K50 Đại học giáo dục Mầm non. Đồng thời em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới ban giám hiệu trường Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng Bôm – Thuận Châu – Sơn La đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khóa luận này. Với nội dung khóa luận này em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn! Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô và các bạn!
Sơn La, tháng 5 năm 2013 Người thực hiện
Nguyễn Ngọc Bích
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT GDĐĐ
: Giáo dục đạo đức
MGB
: Mẫu giáo bé
MGL
: Mẫu giáo lớn
MGN
: Mẫu giáo nhỡ
NXB
: Nhà xuất bản
STT
: Số thứ tự
%
: Phần trăm
MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ………………………………………………………………………………….. 1 1. Lí do chọn đề tài ………………………………………………………………………………… 1 2. Lịch sử vấn đề …………………………………………………………………………………… 3 3. Mục đích nghiên cứu ………………………………………………………………………….. 5 4. Nhiệm vụ nghiên cứu …………………………………………………………………………. 5 5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu …………………………………………………………… 5 6. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………………………….. 5 6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận ………………………………………………………… 6 6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn …………………………………………………….. 6 6.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm ……………………………………………………. 6 7. Đóng góp của khóa luận ……………………………………………………………………… 6 8. Giả thuyết khoa học ……………………………………………………………………………. 6 9. Cấu trúc của khóa luận ……………………………………………………………………….. 7 PHẦN NỘI DUNG ………………………………………………………………………………. 8 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN …………………………………………………………….. 8 1.1. Đặc điểm tâm lí của trẻ mầm non ………………………………………………………. 8 1.2. Nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non ……………………………………….. 9 1.2.1. Khái niệm đạo đức………………………………………………………………………… 9 1.2.2. Khái niệm giáo dục……………………………………………………………………….. 9 1.2.3. Khái niệm giáo dục đạo đức …………………………………………………………. 10 1.2.4. Nhiệm vụ, nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo ……………………. 10 1.2.5. Phương pháp giáo dục đạo đức ……………………………………………………… 11 1.3. Truyện cổ tích với trẻ mẫu giáo ……………………………………………………….. 14 1.4. Đặc điểm tâm lí trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi đối với việc lựa chọn truyện cổ tích để giáo dục đạo đức ……………………………………………………………………………… 18 TIỂU KẾT………………………………………………………………………………………….. 22
3.7. Một số giáo án ………………………………………………………………………………. 42 TIỂU KẾT………………………………………………………………………………………….. 52 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ……………………………………………………………… 53 1. Kết luận ………………………………………………………………………………………….. 53 2. Kiến nghị………………………………………………………………………………………… 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………………… 55 PHỤ LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Tại điều 22 luật giáo dục (2005) của nước ta xác định: “Mục tiêu giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào học lớp một”. Trong tương lai trẻ em tuổi mầm non của ngày hôm nay sẽ trở thành người lao động, người công dân thực sự của đất nước nhưng việc đào tạo con người mới lại phải bắt đầu ngay từ thuở lọt lòng. Khi bàn về bản chất con người, đứng trên quan điểm xã hội học, Mạnh Tử nói: “Nhân chi sơ tính bản thiện, tính tương cận tập tương viễn”, nghĩa là con người sinh ra ban đầu vốn dĩ lương thiện, tính tình khá đồng nhất, nhưng do môi trường và sự tiếp cận học hỏi khác nhau mà tính tình đâm ra khác biệt nhau. Còn Tuân Tử nói: “Nhân chi sơ tính bản ác, lý tính hậu lai tập đắc”, nghĩa là con người sinh ra ban đầu vốn dĩ là ác, nhưng sau này do học tập mà có lý trí, biết cái đúng cái sai. Mạnh Tử và Tuân Tử đều là bậc thầy của Nho giáo thời Chiến quốc, dù có những đánh giá khác nhau về tính con người, nhưng đều thống nhất rằng môi trường và sự giáo dục sẽ làm con người thay đổi, nghĩa là giáo dục đóng vai trò quyết định cho bản tính của con người trong tương lai. Mục tiêu của giáo dục thật sự rất rõ ràng là dạy làm người, nghĩa là rèn luyện đạo đức và nhân cách con người. Giáo dục đồng thời cung cấp kiến thức, kỹ năng để con người xây dựng cuộc sống hạnh phúc, văn minh. Giáo dục không chỉ là việc cung cấp, bồi dưỡng tri thức, kĩ năng hay nâng cao năng lực con người, mà hơn hết mục tiêu chính và quan trọng nhất của giáo dục không gì khác chính là “dạy cách làm người”. Giúp con người bồi dưỡng tâm hồn và rèn giũa nhân cách, hoàn thiện bản thân, có như vậy con người mới có thể phát triển toàn diện được. Mục tiêu ấy của giáo dục không phải có thể hoàn thành một cách nhanh chóng trong một sớm một chiều, mà nó là cả một quá trình dài thực hiện theo những cấp độ khác nhau, từ khi trẻ được sinh ra cho đến hết bậc học phổ thông hoặc cao hơn nữa. Trong đó tập trung chủ yếu ở các cấp học mầm non, tiểu học và phổ thông cơ sở và tất nhiên là khâu quan trọng nhất, cũng là nền tảng cho việc hình thành những kĩ năng đầu tiên với cuộc sống. Tạo dựng những nền tảng căn sơ cho nhân cách sau này của trẻ chính là ở trường mầm non. Bởi lẽ, đây là thời kỳ quan trọng nhất của trẻ khi các em mới chập chững làm quen với xã hội bên ngoài sự bao bọc của gia đình. Đây cũng là thời kỳ tiên quyết, giúp trẻ chuẩn bị những hành trang đầu tiên để bước vào đời sau này. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Trẻ em như búp trên cành, biết 1
ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”. Đó như một lời khẳng định cho sự ngây thơ, hồn nhiên, trong sáng của trẻ. Khi mới sinh ra trẻ em như một tờ giấy trắng tinh khôi không hề tì vết, không vấy bẩn và trong sáng vô cùng. Sự trong sáng ngây thơ ấy mang lại cho trẻ sự hồn nhiên nhưng cũng khiến trẻ không đủ khả năng để có thể vững vàng trong cuộc sống. Bởi vậy, trẻ rất dễ bị ảnh hưởng bởi những tác động của xã hội xung quanh. Đặc biệt, ở lứa tuổi mầm non, trẻ chủ yếu nhận biết xã hội bằng việc quan sát và bắt chước những gì quan sát được, chứ chưa thể có những chủ kiến của bản thân cũng như có được sự đánh giá đúng sai để xem xét có nên học tập hay không. Bởi vậy mà tâm hồn trong sáng ngây thơ của trẻ rất có khả năng sẽ bị biến đổi nhanh chóng, trở thành những đứa trẻ hư, những học sinh kém… Chúng ta cũng từng khẳng định trẻ em là mầm non tương lai của đất nước. Có lẽ nào ta lại để những mầm non ấy chưa kịp lớn lên đã dần thui chột và lụi tàn. Vì vậy, giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ là nhiệm vụ rất quan trọng trong các cơ sở giáo dục mầm non và trong môi trường gia đình của trẻ. Khoa học tâm lý đã khẳng định rằng khi hết tuổi mầm non, ở đứa trẻ đặt xong nền móng đầu tiên của nhân cách, sự phát triển về mặt đạo đức cho trẻ sau này đều mang rõ dấu ấn của thời ấu thơ. Vì thế, từ lứa tuổi này chúng ta phải chăm lo phát triển toàn diện cho trẻ, trên cơ sở đó mà từng bước hình thành tình cảm đạo đức cho trẻ theo phương hướng, yêu cầu mà xã hội mới đặt ra. Môn “Phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học” có vai trò rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển đạo đức cho trẻ. Từ lâu người ta đã nhận thấy văn học là nguồn không cạn của tri thức, là kinh nghiệm sống mà con người cần tiếp thu và phát triển. Người ta cũng thấy rõ vị trí sức mạnh riêng của tác phẩm văn học trong sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục trẻ mầm non nói riêng. Trong các tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi có một thể loại văn học được trẻ em trên khắp thế giới yêu thích và được nhân dân lao động từ ngàn xưa coi là một công cụ hữu hiệu để giáo dục đạo đức cho trẻ đó là truyện cổ tích. Ngay từ khi ra đời truyện cổ tích đã mang trong mình sứ mệnh vẻ vang, là một phương tiện để giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức cho trẻ. Truyện cổ tích mang nội dung luân lí, đạo đức, triết học rất rõ ràng. Vì vậy những bài học đạo đức ở đây trở nên sâu sắc. Mọi sự vật, hiện tượng đều có quan hệ nhân quả: gieo gió gặp bão, ở hiền gặp lành. Qua những hiện tượng trong cổ tích, trẻ em nhận thức được những khái niệm đầu tiên về sự công bằng và bất công, về nền văn hóa của dân tộc mình… Như vậy việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học đặc biệt là thông qua truyện cổ tích có ý nghĩa to lớn đối với việc giáo dục đạo đức, bồi dưỡng phẩm chất tâm hồn, phát triển nhân cách trẻ mẫu giáo. Có 2
thể nói trẻ rất nhạy cảm với nội dung đạo đức trong tác phẩm văn học. Giáo dục đạo đức là một trong những mặt quan trọng nhất của sự phát triển nhân cách. Hiện nay, ở trường Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng Bôm – Thuận Châu – Sơn La, vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo thông qua giờ kể chuyện cổ tích còn ít được đề cập đến hoặc có được đề cập đến nhưng chưa được áp dụng rộng rãi. Vì vậy để trẻ phát huy được tối đa những tình cảm đạo đức, tính tích cực, sáng tạo, tư duy tưởng tượng các nhà giáo dục cần có biện pháp và phương pháp giúp trẻ phát triển tình cảm đạo đức thông qua việc giúp trẻ làm quen với truyện cổ tích. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân, mức độ biểu hiện tình cảm đạo đức của trẻ chưa cao, một trong những nguyên nhân đó là ở trường mầm non còn mang nặng tính hình thức, trong quá trình tổ chức hoạt động giáo viên chưa chú trọng phát huy vai trò của truyện cổ tích đối với sự phát triển tình cảm đạo đức của trẻ. Một trở ngại lớn đối với việc giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua truyện cổ tích đó là việc sử dụng ngôn ngữ của trẻ. Mác nói: “Ngôn ngữ là vỏ hiện thực của lời nói và tư duy”. Không đủ vốn từ hay vốn từ không được tích cực hóa thì không thể hiểu được ý của người khác nói, không thể diễn đạt được điều mình muốn nói cho người khác hiểu được. Bên cạnh đó cơ sở vật chất còn hạn hẹp, phụ huynh thiếu quan tâm đến sự phát triển đạo đức của trẻ, trẻ chủ yếu sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình để giao tiếp. Mà đặc biệt là giáo viên chưa biết khai thác thế mạnh của truyện cổ tích trong việc giáo dục toàn diện nhân cách nói chung và tình cảm đạo đức nói riêng cho trẻ mẫu giáo. Với những lý do trình bày ở trên chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ 5 – 6 tuổi trường Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng Bôm – Thuận Châu – Sơn La thông qua việc giúp trẻ làm quen với truyện cổ tích”. 2. Lịch sử vấn đề Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về tác động của văn học và truyện cổ tích với sự phát triển toàn diện của trẻ. Qua quá trình tìm hiểu về sự tác động của truyện cổ tích trong việc giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ 5 – 6 tuổi chúng tôi đã tiếp cận với một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước. Có lẽ đối với trẻ thơ không món quà nào hấp dẫn bằng truyện cổ tích. Vai trò của truyện cổ tích từ lâu đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến các tác giả như: M.K Bogoliup Xkaia và V.v septsenk với tác phẩm: “Đọc và kể truyện văn học ở vườn trẻ” (Liên Xô cũ, 1967). Các tác giả tập trung nhấn mạnh đến các vấn đề cơ bản của người giáo viên trong việc đọc và kể truyện văn học ở trường 3
mẫu giáo. Tuy chưa có ý thức rõ ràng về thi pháp của thể loại truyện cổ tích nhưng các tác giả đã lưu ý giáo viên cần chú ý vào giá trị nội dung và hình thức nghệ thuật của truyện dân gian như những biện pháp tự sự với âm điệu lạc quan, tính duyên dáng mà giản dị của ngôn ngữ, với sự xuất hiện những câu văn vần, ca khúc và những câu đối thoại đơn giản. Công trình cũng nhấn mạnh không khí cổ tích, môi trường diễn xướng dân gian, thể hiện trên nét mặt, cử chỉ và sự giao cảm trực tiếp của người đọc và sự đáp lại của người nghe. Tập thể giáo viên mẫu giáo Hans Joachim, Horst, Cholothauer tác phẩm: “Về văn học cho trẻ mẫu giáo” (Cộng hòa dân chủ Đức, 1976). Công trình này đã trở thành cuốn sách giáo khoa nổi tiếng được tái bản lại nhiều lần. Cuốn sách đã quán triệt tư tưởng giáo dục cơ bản là: đề cao vai trò to lớn của môi trường văn hóa nghệ thuật và những ấn phẩm góp phần phát triển nhân cách trẻ mẫu giáo. Vai trò to lớn và tác dụng lâu dài của truyện cổ tích trong việc giáo dục trẻ thông qua chức năng xã hội, thẩm mỹ trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai được nhấn mạnh đặc biệt trong công trình này. Trong công trình tác giả xem trọng đặc trưng ngôn ngữ cổ tích và việc khai thác và phát triển năng lực ngôn ngữ trẻ. Tập thể tác giả Stanislawa Fryciego, I Zabeli – Lewanskie tác phẩm: “Văn hóa văn học ở trường mẫu giáo” (Ba Lan). Các tác giả đã nhìn thấy rõ sự cần thiết phải tạo không khí văn học kết hợp với các hình thức giao tiếp với trẻ, cổ vũ trẻ tập trung nhìn nhận, đánh giá về nhân vật văn học góp phần hình thành và hoàn thiện nhân cách trẻ. Tác giả Nguyễn Thu Thủy tác phẩm: “Giáo dục trẻ mẫu giáo qua truyện và thơ” (1986). Cuốn sách chưa đi sâu vào nội dung giáo dục của truyện cổ tích. Phạm Thị Việt – Lê Ánh Tuyết – Cao Đức Tiến, “Văn học và phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học”, NXB giáo dục. Cuốn sách đã đề cập đến mục đích, nội dung và phương pháp cho trẻ làm quen với văn học. Đồng thời đã lựa chọn và mang đến cho trẻ những truyện kể dân gian phù hợp và hấp dẫn. Một số cuốn sách sưu tầm truyện cổ tích như: “100 truyện cổ tích nổi tiếng thế giới”, NXB Văn hóa thông tin “100 truyện cổ tích thế giới Ngọc Ánh sưu tầm và biên soạn”, NXB Dân trí “100 truyện cổ tích Việt Nam hay nhất”, NXB nhà văn, do tác giả Thái Đắc Xuân sưu tầm… Qua tìm hiểu về lịch sử nghiên cứu chúng tôi nhận thấy đó đều là những công trình nghiên cứu vĩ đại trên cả lĩnh vực lí luận và thực tiễn. Tuy nhiên chưa 4
giáo 5 – 6 tuổi. Tuy nhiên, khi sử dụng truyện cổ tích vào việc giáo dục trẻ còn gặp nhiều vấn đề khó khăn, mức độ phát triển đạo đức thông qua truyện cổ tích cho trẻ mầm non từ 5 – 6 tuổi ở trường Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng Bôm – Thuận Châu – Sơn La còn có những hạn chế do đó tình cảm đạo đức mà trẻ thể hiện còn chưa cao. Nếu khóa luận đề xuất được những biện pháp phù hợp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục của truyện cổ tích trong việc hình thành tình cảm đạo đức cho trẻ 5 – 6 tuổi trường Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng Bôm – Thuận Châu – Sơn La nói riêng và phát triển nhân cách cho trẻ nói chung. 9. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo nội dung khóa luận gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở lí luận. Trong chương này chúng tôi đề cập đến cơ sở lí luận về việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học nói chung và việc thông qua truyện cổ tích nhằm phát triển tình cảm đạo đức cho trẻ nói riêng. Chương 2: Cơ sở thực tiễn vấn đề nghiên cứu. Trong chương này chúng tôi đề cập đến cơ sở thực tiễn về việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học và việc giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ 5 – 6 tuổi trường Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng Bôm – Thuận Châu – Sơn La thông qua việc giúp trẻ làm quen với truyện cổ tích. Chương 3: Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ 5 – 6 tuổi trường Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng Bôm – Thuận Châu – Sơn La thông qua việc giúp trẻ làm quen với truyện cổ tích. Thiết kế một số giáo án mẫu.
7
nhanh, đây là giai đoạn trẻ cần được sự giáo dục – xã hội hóa một cách tích cực. Trạng thái của trẻ lúc này đã tương đối phong phú, đồng thời cũng rất dễ biểu hiện ra ngoài, không ổn định, thiếu kiềm chế, thường có tâm lý sợ bóng tối, ma quỷ… Lúc này trẻ đã có những biểu đạt cao hơn như: đạo đức, lý trí… Có thể tuân thủ theo những quy phạm hành vi thông thường. Ngoài ra, trẻ sau 5 tuổi đã bắt đầu biết phân biệt giới tính, ý thức bản thân mình có sự phát triển. Khi trẻ luôn nhận được sự đánh giá tích cực, sự khẳng định của người xung quanh thường sẽ rất tự tin. Ngược lại có những trẻ luôn nhận được sự đánh giá tiêu cực, phủ định của người khác sẽ rất dễ nảy sinh cảm giác cô độc, tự ti. Biểu hiện của tính khí, tính cách, tâm trạng, hành vi… thường là hạt nhân của cá tính một con người. Thời điểm lúc trẻ tròn 6 tuổi là một bước ngoặt quan trọng của trẻ em. Ở độ tuổi mẫu giáo 5 – 6 tuổi là thời kỳ trẻ đang tiến vào bước ngoặt đó với sự biến đổi của hoạt động chủ đạo. Vì vậy, ở giai đoạn này, việc nâng cao khả năng nhận thức cho con trẻ là vô cùng quan trọng. Điều này bao gồm cả việc bồi dưỡng năng lực cho trẻ như khả năng quan sát, trí nhớ, tưởng tượng, lí giải sự vật hiện tượng… Giai đoạn này cũng là giai đoạn các kỹ năng học tập về nhận thức và ngôn ngữ của trẻ đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy, mọi sự can thiệp sớm trong việc cải thiện các khả năng giao tiếp, ngôn ngữ và ứng xử của trẻ cần phải đưa vào trong giai đoạn này. Truyện cổ tích là một thể loại văn học dân gian có khả năng đáp ứng nhu cầu này của trẻ. Tuy nhiên, khác với người lớn, trẻ em lứa tuổi mầm non chỉ có thể tiếp xúc với truyện cổ tích một cách gián tiếp. Sự tiếp nhận truyện cổ tích của trẻ bị chi phối bởi các quá trình tâm lý. Chính vì vậy, các cô giáo mầm non đều cần phải hiểu những đặc điểm tâm lý rất cơ bản của trẻ, có như thế thì mới có thể phát huy được sức mạnh của văn học nói chung, truyện cổ tích nói riêng trong việc giáo dục trẻ thơ. 1.2. Nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non 1.2.1. Khái niệm đạo đức Đạo đức là một hệ thống những quy tắc, chuẩn mực, một hình thái ý thức xã hội, chế định xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với chính bản thân mình. 1.2.2. Khái niệm giáo dục Giáo dục theo nghĩa rộng là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ quan giáo dục, nhằm hình thành nhân cách cho họ. 9
Giáo dục học theo nghĩa hẹp là quá trình hình thành cho người được giáo dục: lí tưởng, động cơ, tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội thông qua việc tổ chức cho họ các hoạt động và giao lưu. 1.2.3. Khái niệm giáo dục đạo đức Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch nhằm trang bị cho trẻ những hiểu biết về những nguyên tắc, qui tắc chuẩn mực đạo đức, rèn cho trẻ những tình cảm, hành vi đạo đức phù hợp với yêu cầu xã hội mà trẻ đang sống. Trên cơ sở đó hình thành cho trẻ những phẩm chất đạo đức, những nét tính cách của con người Việt Nam mới. 1.2.4. Nhiệm vụ, nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo * Nhiệm vụ Trong quá trình giáo dục đạo đức, việc hình thành những tình cảm đạo đức có vị trí quan trọng hàng đầu. Bởi lẽ ở lứa tuổi này mọi hành động của trẻ đều bị chi phối bởi tình cảm. Khi trẻ yêu mến ai thì trẻ luôn nghe theo lời người đó và sẵn sàng làm mọi việc để người đó vui lòng và yêu quý trẻ. Mặt khác, tình cảm đạo đức là cơ sở, động lực thúc đẩy trẻ có những hành vi, việc làm tốt. Việc hình thành các thói quen đạo đức cho trẻ mẫu giáo là nhiệm vụ quan trọng thứ hai trong quá trình giáo dục đạo đức. Đặc điểm đặc trưng của trẻ mẫu giáo là khả năng bắt chước. Khi bắt chước hành vi của người khác, nhiều trẻ chưa hiểu được nội dung đạo đức hành vi của mình, do vậy dễ dẫn đến hành vi sai. Bởi vậy, cần hình thành ở trẻ những thói quen hành vi khác nhau trong quan hệ ứng xử với người lớn, bạn bè, nơi công cộng, với chính bản thân mình. Nhiệm vụ cơ bản thứ ba là hình thành ở trẻ những biểu tượng về chuẩn mực hành vi đạo đức và động cơ đạo đức đúng đắn. Trên cơ sở có tình cảm đạo đức đúng đắn, đứa trẻ tích cực, tự giác thực hiện những hành vi phù hợp với các yêu cầu của chuẩn mực hành vi đạo đức, dần dần nhận ra được các yêu cầu của chuẩn mực hành vi (thế nào là ngoan, thế nào là hư, là xấu…). Các nhiệm vụ giáo dục tình cảm đạo đức, hình thành thói quen đạo đức được thực hiện thống nhất trong quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo. * Nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo bao gồm những hệ thống thái độ và hành vi ứng xử với con người và cuộc sống xung quanh. Đối với người lớn: trẻ biết kính trọng, vâng lời, lễ phép, yêu quý ông bà, cha mẹ, cô giáo… thật thà, lễ phép. Biết vâng lời người lớn và làm theo những 10
lời dạy bảo của người lớn. Trẻ biết giúp đỡ ông bà, cha mẹ, anh chị… tự nguyện làm những việc tốt dù là rất nhỏ cho người thân vui lòng. Không quấy rầy người lớn. Lễ phép chào hỏi khi khách đến nhà. Trẻ biết “vâng”, “dạ”, biết cảm ơn khi người lớn cho quà hay giúp đỡ, biết xin lỗi khi làm sai, làm phiền người khác dù là vô tình. Biết quan tâm đến ông bà, cha mẹ, anh chị khi ốm đau hay bận việc (thể hiện ở cử chỉ, việc làm phù hợp với khả năng). Không la hét ồn ào khi người lớn ốm đau hay giờ nghỉ ngơi. Đối với bạn cùng tuổi: trẻ thân ái, đoàn kết với bạn bè khi chơi hay cùng hợp tác trong công việc, nhất là trong trò chơi. Sẵn sàng nhường đồ chơi hay quà bánh cho bạn khi bạn cần và thiếu. Giúp đỡ, thông cảm khi bạn gặp khó khăn hay có chuyện buồn; không trêu chọc, gây gổ với bạn; biết bênh vực bạn khi bị người khác bắt nạt. Đối với em bé hơn mình: biết chơi hòa thuận và bày trò cho em bé chơi cùng, biết nhường nhịn, dỗ dành em bé… Đối với người tàn tật hay những người gặp hoàn cảnh khó khăn: biết yêu thương, tôn trọng, thông cảm với những người tàn tật hay những người gặp hoàn cảnh khó khăn; không trêu chọc hay nhại tật của họ, biết giúp đỡ họ phù hợp với khả năng của bản thân. Quan tâm đến người lao động: biết yêu thương, tôn trọng, lễ phép với mọi người lao động như bác sĩ, chú công nhân, cô cấp dưỡng… Giáo dục tình cảm với trường, lớp, với thầy cô giáo: trẻ yêu ngôi trường của mình, thích được đến trường, yêu quý và thoải mái khi tới lớp. Trẻ yêu thương, kính trọng, lễ phép, biết ơn và nghe lời thầy cô giáo. Giáo dục tình yêu quê hương đất nước, Bác Hồ: trẻ yêu quý, kính trọng Bác Hồ, biết lá cờ Tổ quốc. Biết quan tâm đến những ngày lễ lớn, những sự kiện quan trọng, những truyền thuyết lịch sử trong nước hoặc ở địa phương, biết những biến đổi tích cực trong đời sống địa phương. Giáo dục tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, có ý thức bảo vệ thiên nhiên: đối với thế giới đồ vật (có thái độ nâng niu, giữ gìn, không làm bẩn đồ dùng đồ chơi, biết thu dọn, cất đồ dùng đồ chơi gọn gàng, ngăn nắp sau khi chơi). Đối với vật nuôi (trẻ thương yêu, chăm sóc). Đối với cây trồng (trẻ nâng niu, chăm sóc cây cối trong vườn, không hái hoa bẻ cành, trẻ yêu thích ngắm cảnh thiên nhiên đẹp…). 1.2.5. Phương pháp giáo dục đạo đức Phương pháp GDĐĐ là những cách thức tác động tới trẻ nhằm hình thành ở trẻ những phẩm chất đạo đức theo mục đích giáo dục. 11
* Phương pháp dùng tình cảm Một trong những đặc điểm nổi bật trong đời sống tâm lí của trẻ nhỏ là sự phát triển mãnh liệt của những xúc cảm và chính những xúc cảm này lại có sức mạnh chi phối lớn đối với các hoạt động tâm lí của chúng. Trẻ có nhu cầu được yêu thương và cũng dễ yêu thương lại mọi người. Chính vì vậy những tác động giáo dục đạo đức đến với trẻ trước hết bằng con đường tình cảm. Thông qua tình cảm, người lớn có thể gợi lên ở trẻ những điều tốt lành. Đối với trẻ nhỏ, trong việc GDĐĐ, dùng mệnh lệnh hay lí lẽ sẽ không có tác dụng tích cực. Phương pháp dùng tình cảm trong GDĐĐ cần được hiểu theo hai chiều: chiều thứ nhất là bằng tình yêu thương của mình, người lớn hết lòng dạy dỗ bảo ban trẻ, chiều ngược lại là tạo ra những tình huống để trẻ có cơ hội đáp lại tình cảm của người lớn bằng những hành vi đạo đức tốt đẹp của chúng. Trong việc GDĐĐ cho trẻ mầm non, phương pháp dùng tình cảm là phương pháp chủ đạo xuyên suốt quá trình hình thành hệ thống thái độ và hành vi ứng xử có đạo đức cho trẻ. Vì ngay trong bản thân phương pháp này đã chứa đựng cả một nội dung sâu sắc của GDĐĐ đó là lòng nhân ái. * Phương pháp dùng nghệ thuật Những tác phẩm nghệ thuật được sáng tạo ra chủ yếu theo quy luật của tình cảm. Đặc điểm của các tác phẩm nghệ thuật là giàu hình tượng sinh động, dễ gợi cảm, được con người cảm thụ một cách trực tiếp. Vì vậy mà nghệ thuật rất gần với tuổi thơ, có thể nói nghệ thuật và tuổi thơ là hai người bạn đồng hành. Những bài thơ, câu chuyện, điệu hát bằng sức truyền cảm mãnh liệt của mình đã để lại những dấu ấn đẹp đẽ, sâu đậm trong tâm hồn tuổi thơ. Nghệ thuật sáng tạo theo quy luật của tình cảm nên nghệ thuật chứa trong đó những nội dung GDĐĐ sâu sắc. Phải kể đến những tác phẩm nghệ thuật gần gũi với trẻ thơ như tác phẩm văn học, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm tạo hình… Tại trường mầm non, hàng tuần trẻ luôn được tiếp xúc với các tác phẩm nghệ thuật. Đây là điều kiện tốt để GDĐĐ cho trẻ. Thông qua việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, thông qua hoạt động tạo hình và hoạt động âm nhạc trẻ lĩnh hội được những tình cảm, thói quen, hành vi đạo đức đúng đắn. Do vậy phương pháp dùng nghệ thuật là phương pháp GDĐĐ cho trẻ một cách nhẹ nhàng mà đạt hiệu quả rất cao. * Phương pháp dùng trò chơi Chơi đối với trẻ, nhất là trẻ mẫu giáo thường gây nhiều hứng thú và say mê nhất. Trò chơi tác động mạnh vào đời sống tình cảm của trẻ. Chơi là người bạn đồng hành của trẻ thơ, chơi là cuộc sống của trẻ, không chơi trẻ không thể phát triển được. Khi tham gia vào trò chơi trẻ học được cách nhường nhịn, giúp đỡ hỗ 12
trợ hợp tác với nhau một cách tích cực, trẻ được trải nghiệm những thái độ đạo đức và tập dượt được những hành vi ứng xử đối với mọi người xung quanh. * Phương pháp luyện tập hành vi ứng xử thường xuyên trong sinh hoạt hàng ngày Đây là những phương pháp chủ đạo để thực hiện các nhiệm vụ của công tác giáo dục đạo đức, nhằm biến những khái niệm đạo đức thành những hành vi, thói quen đạo đức. Chỉ trong hoạt động thực tiễn, trong mối quan hệ với mọi người trẻ mới lĩnh hội được qui tắc hành vi trong cuộc sống, mới tập hành động theo các tiêu chuẩn đạo đức, hình thành các kĩ năng, kĩ xảo, thói quen đạo đức, trên cơ sở đó trẻ tích lũy được những kinh nghiệm thực tế phong phú cho bản thân, nhờ vậy mà có những thái độ, những hành vi đúng đắn trong cuộc sống hàng ngày như lễ phép, tôn trọng người lớn, đoàn kết với bạn bè, nhường nhịn, giúp đỡ bạn bè, em nhỏ, giữ gìn đồ dùng đồ chơi… * Phương pháp nêu gương, giải thích Phương pháp nêu gương và giải thích rất thường xuyên được sử dụng trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ. Trong đó, giải thích là phương pháp giáo viên dùng lời nói giúp trẻ hiểu được ý nghĩa hoặc lý do của một hành vi đạo đức, qui tắc đạo đức, phân biệt được điều tốt, điều xấu nhằm hướng trẻ vào thực hiện một cách tự giác những yêu cầu đạo đức. Còn nêu gương là dùng những tấm gương tốt, điển hình về những hành vi, phẩm chất đạo đức để giáo dục trẻ noi theo. * Phương pháp dùng khen, chê đúng lúc, đúng mực Trong việc giáo dục đạo đức, người lớn cần biết khen chê đúng lúc và đúng mực. Trong đó, khen ngợi là phương pháp tác động đến trẻ nhằm xác nhận, đánh giá biểu dương những tiến bộ mà trẻ đã đạt được đồng thời cũng là động lực thúc đẩy và khích lệ trẻ cố gắng nhiều hơn nữa. Ngược lại, chê trách là một hình thức đánh giá hành vi giúp trẻ tránh được những hành động xấu. Dùng phương pháp chê trách nhằm gây cho trẻ phạm sai lầm một cảm xúc hối hận, từ đó giúp trẻ ngăn ngừa được những hành động xấu. * Phương pháp thống nhất tác động giáo dục Trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ nhỏ, khi mà mọi nét tính cách đang ở thời điểm ban đầu của sự hình thành nhân cách thì những tác động cần tập trung về một hướng. Những tác động không chỉ thống nhất trong trường mầm non mà phải thống nhất tư tưởng và hành động giáo dục giữa trường mầm non với gia đình, giữa cô giáo với cha mẹ trẻ. Đây là một đảm bảo bằng vàng cho việc hun
13