Top 12 # Xem Nhiều Nhất Tác Dụng Của Biện Pháp Nghệ Thuật Tương Phản Mới Nhất 5/2023 # Top Like | Photomarathonasia.com

Biện Pháp Nghệ Thuật Tương Phản Có Tác Dụng Như Thế Náo Trong Sống Chết Mặc Bay

Nhân cách con người ảnh hưởng nhiều từ yếu tốt bên ngoài. Một trong những yếu tố quan trọng để hình thành nhân cách con người là môi trường sống. Mục đích muốn thế hệ con cháu sống đúng mực và có suy nghĩ đúng đắn để có cuộc sống tốt đẹp, cha ông ta đã có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Tuy nhiên, thế hệ trẻ ngày nay có một số bạn lại cho rằng: “Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng”.

Mặc dù môi trường sống là một yếu tốt quan trọng để hình thành nhân cách con người nhưng yếu tố con người còn quan trọng hơn cả môi trường sống. Bởi con người dù tốt hay xấu đều phụ thuộc rất nhiều vào bản lĩnh của chính con người đó. Vì thế mà gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng.

“Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Quả đúng như vậy, với nghĩa đen của câu tục ngữ có ý nghĩa nếu thường xuyên sử dụng bút mực, bị mực giây ra tay, dính vào quần áo là điều khó tránh khỏi.Đồng nghĩa như vậy khi ngồi gần đèn, được đèn chiếu vào đương nhiên sẽ bản thân ta sẽ sáng sủa. Cũng như con người, nếu sống trong môi trường tốt sẽ dễ thành người tốt, còn sống trong môi trường xấu sẽ dễ xa ngã và trở thành kẻ xấu.

“Gần mực thì đen”. Đó là hình ảnh Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao, anh vốn là một anh nông dân hiền lành, chất phác bỗng nhiên vu oan cho là có tội và phải đi ở tù. Sau bao năm ngồi tù, sống cùng bọn xã hội đen…anh Chí ngày nào sau khi trở về quê cũ đã thay đổi hẳn. Hắn đã trở thành một con ma men ở làng Vũ Đại mà ai cũng muốn tránh xa. Bởi chính cái nhà tù của xã hội thực dân phong kiến đen tối, khắc nghiệt đã đày đọa cuộc sống con người, đã biến một người nông dân quanh năm chân lấm, tay bùn, chăm chỉ làm ăn bỗng chốc thay đổi con người và trở thành như thế. Ngược trở lại, “gần đèn thì rạng”, câu chuyện người mẹ hiền dạy con là minh chứng rõ nét nhất. Mạnh Tử từ khi còn bé được sống gần trường học nên rất lễ phép, biết chăm chỉ học hành. Nếu người mẹ của Mạnh Tử cho cậu bé sống gần chợ hay gần khu nghĩa địa thì chưa chắc sau này Mạnh Tử đã trở thành bậc đại hiền tài của lịch sử Trung Quốc.

Nhưng cùng có lúc gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng,bởi lúc đó bản thân ta hiểu được ý nghĩa của “mực” nên tự dặn bản thân phải cẩn thận, không để mực giây dính quần áo, hoặc khi ta ngồi trước ngọn đèn nhưng lại cố tình ngồi khuất để ngọn đèn không rọi tới. Bởi vậy, phẩm chất, nhân cách của con người nằm ở chính bản lĩnh con người ấy. Nếu sống trong môi trường xấu mà biết giữ mình thì cũng như viên ngọc quý sáng ngời giữa đêm.Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ cứu nước, có biết bao chiến sĩ tình báo luôn hoạt động thầm lặng trong lòng địch. Chiến trường của họ không có tiếng bom rơi lửa đạn nhưng cũng thật cam go, khắc nghiệt, sống giữa sự xa hoa, những lời lẽ tán dương, những lôi kéo, dụ dỗ của quân địch, liệu họ có phản bội Tổ quốc? Làm thế nào để bên ngoài vỏ bọc lính ngụy kia bên trong họ vẫn giữ vững phẩm chất anh bộ đội Cụ Hồ? Không chỉ như vậy mà bản thân và gia đình các anh cũng phải sống quanh những lời xì xầm, bàn tán của dư luận xã hội, bị coi là Việt gian, liệu họ có dũng cảm tiếp tục công việc, nhiệm vụ ấy đòi hỏi người chiến sĩ không chỉ cần có một bộ óc nhanh nhạy mà còn cần có một bản lĩnh vững vàng đế tự chiến đấu với bản thân.

Còn ngày nay, ví dụ như nhân vật anh công an “Hoàn” trong bộ phim “Bí mật tam giác vàng”, anh đóng giả là một anh công an biến chất để luồn lách vào sào huyệt của bọn tội phạm, chúng dùng đủ mọi thủ đoạn để lôi kéo, dụ dỗ anh theo con đường của chúng, nhưng luôn luôn vững niềm tin và hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, nhà nước và cơ quan giao phó, anh luôn giữ vững lập trường tư tưởng. Hình ảnh anh công an đó cũng mang đến cho ta một bài học khá lớn. Đó cũng là một trong những rất rất nhiều các chiến sĩ công an nhân dân ngày nay đang quên mình để hoàn thành nhiệm vụ và phá biết bao ổ, tụ điểm tệ nạn xã hội, vì bình yên của Tổ Quốc.

Còn được sống, hưởng thụ một môi trường tốt đẹp mà thế hệ cha ông ta đã hi sinh, đổ máu để danh được cuộc sống hòa bình cho chúng ta ngày nay mà bản thân chúng ta không chịu thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, cố gắng chăm chỉ học tập thì cũng chỉ như những thanh thép, để lâu ngày không tôi luyện sẽ bị han gỉ, trở thành những vật vô dụng.

Tóm lại, câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” đã giúp ta thấy rằng môi trường sống có ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành nhân cách của mỗi con người. Còn quan điểm “Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng”là do bản thân chúng ta đang sống chủ quan hoặc cố tình né tránh. Nhưng dù môi trường không tốt nếu có bản lĩnh thì ta vẫn như đóa sen thơm ngát: “Gần bùn mù chẳng hỏi tanh mùi bùn”.

Phân Tích Nghệ Thuật Tương Phản Trong Truyện Hai Đứa Trẻ

Phân tích sự tương phản trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam để làm sáng tỏ dụng ý của tác giả khi muốn nói về cuộc sống khổ cực của những con người sống trong cái phố huyện nhỏ bé ảm đạm, ngập chìm trong bóng tối đậm đặc ngày ngày ước muốn thoát ra khỏi sự tù túng của nghèo đói.

Đề bài: Viết một bài văn phân tích nghệ thuật tương phản trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Dàn ý phân tích sự đối lập trong Hai đứa trẻ chi tiết

I. Mở bài:

– Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm

– Nêu vấn đề nghị luận

Ví dụ: Truyện ngắn của Thạch Lam có một phong cách riêng. Đó là những truyện ngắn dường như không có cốt truyện, hoặc cốt truyện thường đơn giản nhưng lại hấp dẫn và gợi lên trong người đọc nhiều suy nghĩ. Hai đứa trẻ là một trong những truyện ngắn rất tiêu biểu cho phong cách của Thạch Lam. Tác phẩm thành công trong việc sử dụng nghệ thuật tương phản.

II. Thân bài: Phân tích sự đối lập trong Hai đứa trẻ

2. Nghệ thuật tương phản trong truyện ngắn Hai đứa trẻ

– Tương phản giữa bóng tối và ánh sáng (phân tích dẫn chứng)

Ánh sáng và bóng tối đã xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện, ánh sáng yếu ớt của mặt trời “như hòn than sắp tàn” và xen vào đó là những hình ảnh đầu tiên của bóng tối “dãy tre làng trước mặt đen lại”.

Nhưng ám ảnh và có sự khơi gợi nhiều hơn cả là một không gian tối – sáng lúc phố huyện vào đêm: “Liên ngồi lặng im bên mấy quả thuốc sơn đen, đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị”.

Trong sự đối lập sáng – tối đó, bóng tối là gam màu chủ yếu. Bóng tối dày đặc mênh mang khắp một vùng còn ánh sáng thì mờ nhạt, nhỏ nhoi, leo lét không đủ để xua đi bóng tối.

Thạch Lam thường miêu tả bóng tối nhưng chỉ trong Hai đứa trẻ, bóng tối mới đủ hình hài, cung bậc: “đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối”, bóng người làm công lung lay bóng dài, bóng bác phở Siêu mênh mang ngã xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ”.

Phố xá thì tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vài làng lại càng sậm đen hơn nữa. Đêm ở phố huyện tĩnh mịch và đầy bóng tối”. Trong cái thế giới ngập tràn bóng đêm, dưới một bầu trời thăm thẳm bao la đầy bí mật của phố huyện, ánh sáng lại quá yếu ớt, mà nhạt, nhỏ bé, leo lét. Ánh sáng của các cửa hiệu chỉ là những khe sáng, lọt ra ngoài, hắt xuống mặt đường gồ ghề khiến mặt đất dường như nhấp nhô hơn vì những hòn đá nhỏ vẫn còn một bên sáng một bên tối. Ánh đèn của bác phở Siêu chỉ là những chấm nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối. Ánh sáng ngọn đèn của chị em Liên thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa… Đặc biệt là hình ảnh ngọn đèn chị Tí, một quầng sáng nhỏ nhoi, chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ, xuất hiện bảy lần trong tác phẩm, tạo nên sức ám ảnh và khơi gợi về cảnh đời, những kiếp sống nhỏ bé, lay lắt trong đêm đen, trong bóng tối cuộc đời.

– Tương phản giữa quá khứ và hiện tại (phân tích dẫn chứng)

Quá khứ đẹp đẽ, sung túc của chị em Liên và An – đối lập với cuộc sống đơn điệu, nghèo nàn, quẩn quanh của hai chị em và của người dân nơi phố huyện.

– Nghệ thuật tương phản thể hiện tập trung nhất ở phần cuối câu chuyện: khi đoàn tàu chạy qua phố huyện: bóng tối – ánh sáng, quá khứ – hiện tại, hiện tại – tương lai, âm thầm, lặng lẽ – ồn ào, náo nhiệt,…

3. Tác dụng của nghệ thuật tương phản

– Tạo nên vẻ đẹp lãng mạn, giàu chất thơ cho tác phẩm

→ Tất cả nhằm thể hiện cuộc sống quẩn quanh, bế tắc, tẻ nhạt, tăm tối của những con người nơi phố huyện đang héo mòn vì bóng tối cuộc đời và niềm khao khát một cuộc sống tươi sáng tốt đẹp hơn, từ đó thấy được tấm lòng chan chứa yêu thương của tác giả với những cuộc đời bé nhỏ nơi phố huyện.

III. Kết bài: Đánh giá chung:

Tác phẩm đã thể hiện được phong cách nghệ thuật độc đáo của tác giả Thạch Lam qua nghệ thuật đối lập tương phản.

Việc sử dụng bút pháp tương phản giúp Thạch Lam thể hiện rõ nét tư tưởng nghệ thuật của mình và tạo được dấu ấn riêng trong cách viết truyện ngắn.

Top 3 bài văn hay phân tích nghệ thuật tương phản trong Hai đứa trẻ

Nghệ thuật tương phản khắc họa cuộc sống tù túng mong mỏi được vươn tới một cuộc sống mới

Nhà văn Thạch Lam là một cây bút tài ba chuyên viết truyện ngắn và văn xuôi. Các tác phẩm của ông luôn mang một vẻ độc đáo riêng biệt, đó là những truyện ngắn có cốt truyện đơn giản hoặc thậm chí không có cốt truyện, nhưng luôn đọng lại trong lòng người đọc nhiều suy nghĩ, hoài niệm. Tiêu biểu trong số đó chính là tác phẩm ” Hai đứa trẻ ” -một tác phẩm đặc trưng cho phong cách văn thơ của ông. Với nghệ thuật tương phản sâu sắc trên nhiều khía cạnh, nhà văn Thạch Lam đã miêu tả được sinh động cuộc sống và niềm mơ ước của các nhân vật trong truyện.

Nhân vật chính trong tác phẩm đó chính là hai chị em Liên và An, hai người sống ở một phố huyện nghèo khi gia đình khó khăn phải lui về ở đấy. Khi mới vào tác phẩm, Thạch Lam đã dùng nghệ thuật tương phản để miêu tả rõ nét quang cảnh của buổi chiều tà nơi vùng quê, đó chính là sự đối lập của bóng tối và ánh sáng. Bóng tối cùng màn đêm dần buông xuống, nó bao trùm, ngự trị khắp mọi nơi, mọi ngóc ngách. Phố xá thì tối hết cả, con đường chỉ toàn là những rác rưởi, văng vẳng đâu đó là những tiếng ếch kêu, tiếng vo ve của muỗi. Tất cả mọi thứ làm cho khung cảnh trở nên ảm đạm, tẻ nhạt và vô vị, nó thấm vào sâu thẳm trong cả con người khiến con người ta buồn man mác. Trong gam màu tối chủ đạo ấy, vẫn hiện lên những hình ảnh le lói của những tia sáng yếu ớt. Đó chính là những tia nắng cuối cùng của buổi chiều tà đang tắt dần qua các ngọn núi, là ngọn đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo lắt trong nhà ông Cửu, hay đơn giản chỉ là tia sáng phát ra từ những cây nến nhỏ bé.

Những nguồn sáng ấy quá lẻ loi, đơn độc, chẳng thể nào thắp sáng cả một khu phố, cũng giống như số phận của những con người lao động nơi đây, dù có cố gắng, chăm chỉ làm ăn, nhưng cuộc sống vẫn mãi quẩn quanh trong sự đói nghèo và bế tắc. Tiêu biểu là ánh đèn dầu của chị Tí – một người phụ nữ nghèo khổ, làm lụng vất vả, lúc nào cũng nheo nhóc với đứa trẻ con và đống đồ đạc. Ánh sáng phát ra từ cây đèn là một quầng sáng mờ nhạt, leo lắt, chỉ đủ chiếu tỏ một vùng nhỏ bé, đó giống như một hình ảnh ẩn dụ mà thông qua đó nhà văn Thạch Lam muốn khơi gợi về những mảnh đời cơ cực, những kiếp sống nhỏ bé trong một xã hội đầy những bất công và khổ nhục.

Quang cảnh tiếp theo thể hiện sự tương phản đó chính là sự đối lập giữa mặt đất và bầu trời. Bầu trời đẹp đẽ bao nhiêu, rực rỡ toàn sao bao nhiêu thì dưới đất lại bẩn thỉu, ngột ngạt bấy nhiêu. Thạch Lam đã miêu tả: “trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía, một mùi âm ẩm bốc lên”, chả có điều gì thơm tho, đẹp đẽ ở đó cả. Những con người trên bề mặt đấy còn khiến ta động lòng, cảm thương hơn nhiều: “Mấy đứa trẻ con nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được từ các người bán hàng để lại”, hay hình ảnh đứa trẻ con nhà bác xẩm bò ra đường “nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát” không khỏi khiến con người ta phải cảm thương cho những số phận đang vùi mình trong đêm tối ấy.

Từ sự khác nhau giữa mặt đất và bầu trời ấy, Thạch Lam đã dẫn dắt người đọc sang một nét tương phản khác, đó chính là sự tương phản giữa quá khứ – thực tại và những mơ ước xa xôi. Quá khứ của An và Liên là những ngày tháng tươi đẹp nơi Hà thành, nơi mà hai chị em vô âu vô lo, được mẹ dẫn đi Bờ Hồ chơi, uống những cốc nước xanh đỏ mát lạnh. Ngoài ra những kỉ niệm về Hà Nội đó chính là cả một vùng sáng rực rỡ và lấp lánh. Nhưng giờ đây, hai con người ấy lại phải ngồi ở một nơi đói nghèo, tối tăm, cuộc sống tẻ nhạt, vô vị. Thay vì vui chơi, học hành thì giờ đây Liên đã bắt đầu biết suy nghĩ về cuộc sống, về những thứ xa xôi, chính điều ấy đã khiến cô trở nên trưởng thành hơn. Sống trong một cuộc sống như vậy, cho nên Liên lúc nào cũng mơ về một cuộc sống tốt đẹp, sung túc hơn. Những ước mơ của cô thật xa vời nhưng cũng rất giản dị.

Thạch Lam đã mượn hình ảnh đoàn tàu hàng ngày chạy qua nơi phố nghèo để nói lên rõ nhất những ước mơ của hai chị em cũng như toàn thể người dân lao động nghèo nơi đây. Đoàn tàu chính là sự hiện thân của ánh sáng, của những hoài niệm đẹp đẽ, ấm áp nơi Hà Thành “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường”, “những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh”. Đoàn tàu ấy như mang một thế giới hoàn toàn khác đi ngang qua nơi này, một thế giới mà Liên ao ước và hoài niệm. Trong một thực tại tối tăm, nghèo đói, bế tắc, nhưng những con người nơi phố huyện vẫn luôn mơ đến những ước mơ xa xôi, mơ về một cuộc sống sung túc, tươi đẹp. Nhưng rồi, khi đoàn tàu đi qua, bóng tối lại bao trùm, màn đêm buông xuống, tất cả trở lại với thực tại tầm thường.

Bằng bút pháp đối lập tương phản tinh tế, nhà văn Thạch Lam đã miêu tả một cách khéo léo được quang cảnh nghèo khổ, tẻ nhạt của cuộc sống nơi phố nghèo. Nhưng cũng qua đó mà những nét đẹp của con người Việt Nam đã được tác giả thể hiện, đó chính là sự vô tư, tốt bụng, dù có khó khăn bế tắc thế nào đi chăng nữa nhưng lúc nào cũng chăm chỉ làm ăn, luôn mơ ước về một cuộc sống tươi đẹp ở phía trước.

Bài văn đạt điểm cao phân tích sự đối lập trong Hai đứa trẻ

Là một thành viên trụ cột trong bút nhóm Tự lực văn đoàn, Thạch Lam đã tự khẳng định mình bằng một hướng đi riêng, đặc biệt là những tác phẩm viết về nông thôn, những người dân nghèo nơi phố huyện. rút trong tập Nắng trong vườn là một truyện ngắn hay, thấm đẫm tinh thần nhân văn nhân đạo, tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật miêu tả tương phản của ông.

Giống như hầu hết các truyện ngắn khác của Thạch Lam, Hai đứa trẻ là truyện không có chuyện. Câu chuyện như một bài thơ, cốt chuyện, tình tiết, tâm trạng, biến cố đều nhẹ nhàng, dịu êm… Truyện là tâm trạng thao thức đợi tàu, là những cảm xúc, những mảnh ghép cuộc sống, là cảnh vật xung quanh của hai đứa trẻ Liên và An. Truyện chỉ có vậy nhưng qua ngòi bút của Thạch Lam, những điều ấy trở nên sống động, làm cảm động lòng người. Thủ pháp nghệ thuật tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, giữa bầu trời và mặt đất, giữa quá khứ và hiện tại… đã gọi nên nhiều suy nghĩ thấm thía, sâu xa về những cảnh đời, những kiếp người nhỏ bé, sống vô danh vô nghĩa và héo mòn cùng những hi vọng mỏng manh và mơ hồ trong xã hội cũ.

Con người luôn khao khát và luôn cần ánh sáng, thế nhưng với chuyển động của thời gian, chuyển động của trái đất quay quanh trục của nó, mặt trời chỉ có thể chiếu sáng cho chúng ta một nửa thời gian trong ngày. Bởi vậy, cái khoảnh khắc thao thức, cái sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối cùng xuất hiện, thời khắc chiều tà và đêm khuya bên cạnh nhau, tương phản nhau, cùng soi tỏ cho nhau. Ánh sáng và bóng tối đã xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện, ánh sáng yếu ớt của mặt trời “như hòn than sắp tàn” và xen vào đó là những hình ảnh đầu tiên của bóng tối “dãy tre làng trước mặt đen lại”. Nhưng ám ảnh và có sự khơi gợi nhiều hơn cả là một không gian tối – sáng lúc phố huyện vào đêm: “Liên ngồi lặng im bên mấy quả thuốc sơn đen, đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dàn và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị”. Trong sự đối lập sáng – tối đó, bóng tối là gam màu chủ yếu. Bóng tối dày đặc, mênh mang, bao phủ khắp một vùng còn ánh sáng thì mờ nhạt, nhỏ nhoi, leo lét không đủ để xua đi bóng tối. Thạch Lam thường miêu tả bóng tối nhưng chỉ trong Hai đứa trẻ, bóng tối mới đủ hình hài, cung bậc: “đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối”, bóng người làm công lung lay bóng dài, bóng bác phở Siêu mênh mang ngã xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ”.

Phố xá thì tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sậm đen hơn nữa. Đêm ở phố huyện tĩnh mịch và đầy bóng tối”. Trong cái thế giới ngập tràn bóng đêm, dưới một bầu trời thăm thẳm bao la đầy bí mật của phố huyện, ánh sáng lại quá yếu ớt, mà nhạt, nhỏ bé, leo lét. Ánh sáng của các cửa hiệu chỉ là những khe sáng, lọt ra ngoài, hắt xuống mặt đường gồ ghề khiến mặt đất dường như nhấp nhô hơn vì những hòn đá nhỏ vẫn còn một bên sáng một bên tối. Ánh đèn của bác phở Siêu chỉ là những chấm nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối. Ánh sáng ngọn đèn của chị em Liên thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa… Có lẽ trong văn học xưa nay, ánh sáng cũng đã từng xuất hiện nhiều nhưng không mấy ai miêu tả ánh sáng là khe, là vệt, là chấm, là hột, là quầng… Một cách riết róng như Thạch Lam. Đặc biệt là hình ảnh ngọn đèn chị Tí, một quầng sáng nhỏ nhoi, chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ, xuất hiện hai lần trong tác phẩm, tạo nên sức ám ảnh và khơi gợi về cảnh đời, những kiếp sống nhỏ bé, lay lắt trong đêm đen, trong bóng tối cuộc đời.

Điều Liên, An và những người dân nơi phố huyện mong chờ là thứ ánh sáng nơi bàn tay con người từ chuyến tàu cuối cùng của đêm “các toa đèn sáng trưng, đồng và kền lấp lánh”… Giữa đêm, thời điểm tưởng như bóng tối nặng nề, đông đặc nhất lại chính là thời điểm ánh sáng bừng lên rực rỡ, sáng lóa cả không gian và tâm hồn con người. Bầu trời bao la và mặt đất cũng có sự đối lập. Mặt đất sau buổi chợ tàn chỉ còn lại rác rưởi, bụi bẩn và mùi của đất, là mặt đất bụi bặm, khổ đau, chứa đầy bóng tối. Còn bầu trời thì khác, nó đỏ rực lúc chiều tà, là hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, là sự kì diệu, thuộc về ước mơ, khao khát, là những kỉ niệm của một thời nay chỉ còn là vang bóng. Ánh sáng và bầu trời thuộc về ước mơ, là để thắp lên, đợi chờ, khát khao. Bóng tối và mặt đất là cái thực tại, là cái hằng chiều, là bóng đêm con người phải sống, phải đối mặt.

Với việc sử dụng nghệ thuật đối lập tương phản trong thiên truyện. Thạch Lam đã làm nổi bật lên cuộc sống buồn bã, tẻ nhạt, tối tăm của những con người nơi phố huyện đang héo mòn vì bóng tối. Qua đó Thạch lam đã bộc lộ rõ được tinh thần nhân đạo, trong niềm day dứt, dằn vặt, thể hiện cái tài và cái tâm của tác giả, tạo nên cả đẹp lãng mạn nhẹ nhàng đầy thi vị cho tác phẩm.

Văn mẫu 11 phân tích sự đối lập trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Hai đứa trẻ là tác phẩm nêu lên hiện thực của một vùng phố huyện nghèo, nơi đó có cuộc sống và những con người đang sống trên cảnh nghèo đói, khổ sở, họ phải chật vật lo cho cuộc sống của mình quanh năm vất vả, với việc buôn ba kiếm từng mảnh cơm… Và để lột tả được những điều đó, tác giả đã thể hiện những biện pháp nghệ thuật tương phản nhằm làm tăng lên giá trị phản ánh trong tác phẩm, những điều đó thể hiện một tư tưởng nghệ thuật cũng như giá trị của tác phẩm mà tác giả đang muốn thể hiện. Tương phản ở đây đó là sự đối lập giữa những phạm trù, và để tăng lên sức chú ý và mức độ ảnh hưởng của nó đến toàn bộ con người và sự vật.

Trong tác phẩm không gian chật hẹp tối tăm còn đối diện với ánh sáng, đó là ánh sáng của cuộc sống tốt đẹp hơn, của những ánh sáng của bóng đèn dầu leo lắt, của hình ảnh của chiếc đèn toa tàu, nó làm sáng rực lên không gian của vùng phố huyện, những cảnh leo lắt, tối tăm đó, nó làm tăng lên sự nghèo đói và khó khăn của những người dân nghèo ở phố huyện, cảnh phố huyện tiêu điều xơ xác với những rác rưởi sau buổi chợ làm cho chúng ta có cảm giác như đang có điều gì đó tăm tối và không có chút sáng sủa.

Không gian nơi phố huyện thật tiêu điều, xơ xác nó làm cho con người có những cảm giác chật hẹp và bị bó chặt vào cùng không gian nơi đây, đó là những cảm giác tăm tối và con người đang phải trải qua những khó khăn và gian nan nhất, cuộc sống của con người bị bó buộc trong không gian vô cùng chật hẹp, nó đã phản ánh được tình trạng đói khổ, và gian nan của con người, con người dường như đang phải chịu những vất vả do cuộc sống gây nên. Chính sự đối lập tương phản nó đã bao trùm lên toàn bộ vùng không gian của nơi phố huyện, đó là những cảnh tối tăm của không gian, của con người, tất cả đang dần chìm vào những gam màu tối, nó đã làm cho cuộc sống của họ không có chút hy vọng nào.

Chính những gam màu chính là gam màu tối nó làm cho tác phẩm ngập tràn trong một vùng không gian với rất nhiều những thứ tồi tệ, đó là cảnh nghèo đói, đó là sự tối tăm của không gian con người, con người đang phải sống trong một hoàn cảnh khắc nghiệt, và có chút ánh sáng tiêu điểm, nó cũng đủ để điểm tô thêm những niềm hy vọng mới cho con người, nhưng đó là những điều mà làm cho con người có thêm chút niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn, cuộc sống đang phải tràn ngập và nở rộ những tia hy vọng về một tương lai tươi sáng, ở đó con người có thể sống một cuộc sống tốt đẹp hơn. Mặc dù ánh sáng nó chỉ là những hình ảnh rất hiếm hoi, leo lắt và tác động nhỏ tới con người, nó không thể bao trùm lên không gian rộng lớn của vùng phố huyện, nhưng nó đủ để tạo nên những niềm tin sâu sắc vào một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Với cách dùng từ một cách tinh tế, tác giả đã thể hiện được tư tưởng và ý nghĩa chủ đạo trong tác phẩm của mình, với những cách miêu tả tinh tế, con người dường như đang lạc vào một thế giới nhiều màu sắc hơn, mặc dù, nhiều chi tiết như: “phố xá thì tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông ra ngõ đều đen sậm lại”. Tất cả cảnh phố huyện đang tràn ngập trong bóng tối, đó là bóng tối của thiên nhiên, và mặt khác nó cũng thể hiện sự khó khăn trong vật chất của con người, con người có thể mong ước điều gì đó mới mẻ và khác lạ hơn sẽ đến trong chính cuộc sống của mình. Ánh sáng mà tác giả thể hiện mặc dù rất yếu ớt đó là ánh sáng của chiếc đèn dầu của chị em nhà Liên và An, nhưng nó đủ để cho con người cảm thấy ấm lòng, hay hình ảnh của toa tàu khi đang đến nó làm cho không gian nơi đây sáng lên rực rỡ trong phút chốc.

Người luôn mong chờ để đón những tia sáng đến vùng đất của mình để họ có thể cảm nhận và hiểu được những điều tinh tế và tốt đẹp nhất cho con người, con người vẫn đang cần mẫn và phải làm những điều tốt nhất cho chính cuộc đời của mình, trong không gian nơi đây con người dường như đã bị cái tối tăm của không gian bao phủ lấy tâm can, và trái tim của họ, chính vì vậy, cái lớn lao nhất mà họ mong đợi đó là có điều gì đó tốt nhất sẽ đến với chính cuộc đời của họ vượt qua được mọi điều để họ có thể có được điều tốt nhất.

Tương phản còn thể hiện giữa cuộc sống của Liên và An trong quá khứ và hiện tại, quá khứ tươi đẹp, sáng sủa, hiện tại tối tăm… Tác dụng của nghệ thuật tương phản mà tác giả thể hiện đem đến cho người đọc một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ và sâu sắc về hiện thực nơi đây.

Truyện kết thúc một cách nhẹ nhàng, nhưng đối với người đọc là cả sự băn khoăn, day dứt, xót thương. Hình ảnh ánh sáng và bóng tối cứ thấp thoáng, cứ ám ảnh người đọc: không biết bao giờ ánh sáng, tương lai và hạnh phúc mới đến với Liên – An và những người dân nghèo nơi phố huyện?

Thế Nào Là Nghệ Thuật Tương Phản? Nêu Cách Thể Hiện Thủ Pháp Nghệ Thuật Ấy Trong Truyện Sống Chết

Phép tương phàn (cũng gọi là đối lập) trong nghệ thuật là việc tạo ra những hành động những cảnh tượng, những tính cách trái ngược nhau để qua đó làm nổi bật một ý tưởng bộ phận trong tác phẩm hoặc tư tưởng chính của tác phẩm. Với nội dung như thế, chúng ta hoàn toàn có thế khẳng định Phạm Duy Tốn đã tạo được thành công xuất sắc trong việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật ấy trong truyện ngắn Sống chết mặc bay – bông hoa đầu mùa của truyện ngắn hiện đại Việt Nam.

Bằng phép tương phản, Phạm Duy Tốn đã dựng lên trước mắt người đọc hai bức tranh đời hoàn toàn trái ngược nhau. Trước tiên đó là bức tranh về những người dân đang vất vả đấu tranh với thiên tai. Trong bốn thứ giặc: thủy – hoả – đạo – tặc, nhân dân đã xếp giặc nước – lũ lụt lên hàng đầu. Điều đó cho ta thấy sức mạnh của thiên nhiên nước to lớn và khủng khiếp như thế nào, đê vỡ thì tình cảnh sẽ nguy khốn ra sao. Chính vì thế mà gần một giờ đêm, dân phu kể hàng trăm nghìn con người vẫn đang vật lộn dưới trời mưa để cứu bằng được con đê. Không phải họ mới bắt đầu công việc mà họ đang tiếp tục chiến đấu suốt từ chiều đến giờ. Càng khuya tình thế càng trở nên khó khăn. Đáng lẽ giờ này họ phải được nằm ngủ trong ngôi nhà ấm cúng thì lại đang vắt kiệt sức và căng thẳng mệt mỏi đến cao độ. Đây đúng là một bức tranh hết sức lộn xộn, nhốn nháo. Trong cái âm thanh ầm ĩ của trống, của ốc thổi vô hồi, tiếng xao xác của những người gọi nhau, những con người mệt lừ vừa đói vừa khát đang cố gắng một cách bất lực với nguy hiểm, kẻ thì thuổng người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp nào cừ… người nào người nấy lướt thướt như chuột lột. Ngay từ những dòng chữ đầu tiên, ngôn ngữ miêu tả xác thực, sống động cùng nhịp điệu dồn dập gấp gáp, tác giả đã cuốn người dọc vào cái không khí đầy hỗn loạn ấy. Nhưng tất cả mọi cố gắng của con người chỉ là vô ích. Từ láy tầm tã, cuồn cuộn nối tiếp nhau để chỉ sức nước đang đe doạ khúc đê đang núng thế và tính mạng của những người hộ đê ngày một gần: Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước. Hai trăm nghìn con người vẫn là quá nhỏ bé trước sức mạnh của thiên nhiên, khúc đê yếu kém sao có thể chống chọi lại với thế nước. Nên Phạm Duy Tốn than rằng: lo thay! Nguy thay! thì người đọc cũng chỉ biết ngậm ngùi mà Thương thay!

Sử dụng thành công nghệ thuật tương phản, Phạm Duy Tốn đã phản ánh môt cách chân thực sự đối lập hoàn toàn giữa cuộc sống và sinh mạng của nhân dân với cuộc sống của bọn quan lại mà kẻ đứng đầu là tên quan phủ lòng lang dạ thú. Thông qua đó, nhà văn tố cáo thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm của bọn quan lại cầm quyền và gửi gắm niềm thương cảm của mình vào cuộc sống lầm than cơ cực của nhân dân. Phép tương phản góp phần tạo nên sức hấp dẫn của truyện bằng cách đẩy mâu thuẫn xung đột lên tới đỉnh điểm và khắc hoạ sinh động tính nhân vật.

Tác Dụng Của Các Biện Pháp Nghệ Thuật Trong Bài Hát “Một Đời Người Một Rừng Cây”

Sống hữu ích, sống vì mọi người luôn là lý tưởng của thế hệ thanh niên trong thời đại mới. Trong bài hát “Một đời người – một rừng cây”, nhạc sĩ Trần Long Ẩn từng viết: “Chân lí thuộc về mọi người. Không chịu sống đời nhỏ nhoi!”. Lời hát thiết tha đã để lại cho chúng ta biết bao suy nghĩ về trách nhiệm và bổn phận làm người trong cuộc đời này. Chân lí là gì? Khái niệm chân lý dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan; sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn. Nói một cách dễ hiểu: chân lý là một sự thật hiển nhiên của loài người luôn luôn đúng và tồn tại mãi mãi theo thời gian. Thực tế, chân lí là sự phù hợp giữa nhận thức và thực tiễn khách quan, là nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan trong đầu óc con người.Lý tưởng sống của con người trong thời đại mới: Dựa trên khái niệm chân lí, câu nói trên có nghĩa là: những điều đúng đắn nhất thuộc về nhận thức của mọi người, được mọi người chấp nhận. Con người ý thức được ý nghĩa sự tồn tại của mình phải biết sống cuộc đời lớn lao, rực rỡ và hữu ích cho mọi người. Câu nói đề cao một lẽ sống cao đẹp, thái độ sống có trách nhiệm, biết cống hiến cho đời. Lẽ sống cao đẹp là không chỉ làm tốt những việc trong phận sự của mình mà còn sẵn sàng gánh vác, lãnh nhận về mình những khó khăn, cống hiến cho đời bằng những việc làm thiết thực.* Bàn luậnMỗi người cần phải sống có trách nhiệm, biết cống hiến cho đời vì: Trách nhiệm, cống hiến là một trong những người tiêu chí đạo đức làm người, tạo nên lối sống vị tha. Trách nhiệm làm nên những nghĩa cử cao đẹp: dám hi sinh, dám dẫn thân, biết chia sẻ phần gian khổ với mọi người.Xã hội cũng quy định rát rõ trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của mỗi công dân nhằm hướng con người biết thực hiện bổn phận của mình đối với bản thân, gia đình và đất nước. Song, đó mới chỉ là quy định. Bản thân mỗi cá nhân phải biết tự nỗ lực vươn lên trong cuộc sống và đem lại những hành động ý nghĩa, những giá trị sâu sắc cho cuộc đời chung. Mỗi cá nhân sống mạnh mẽ và thành công thì xã hội sẽ tiến bộ, đất nước lớn mạnh, hạnh phúc lâu bền.Sống có trách nhiệm, biết cống hiến tạo nên hiệu quả công việc, tạo nên moi trường sống tốt đẹp, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa con người với nhau trong ra đình, tập thể, cộng đồng là một lối sống vững mạnh và tiến bộ, trở thành động lực phát triển xã hội:Nếu sống thiếu trách nhiệm, không biết cống hiến cho đời thì con người tự tách mình khỏi cộng đồng, trở nên lạc lõng, cô độc, tạo nên lối sống ích kỉ, cản trở công việc chung và sự phát triển của xã hội… Trong xã hội, có nhiều người chỉ vì lợi ích riêng mình mà sống thờ ơ, vô cảm tách biệt với cộng đồng. Họ chỉ lo cho bản thân, không quan tâm đến cộng đồng, không muốn thực hiện trách nhiệm nào đối với tập thể. Những người như thế thật đáng chê trách.Trách nhiệm là nhiệt tình, là sự cống hiến nhưng nếu nhiệt tình cống hiến một cách mù quáng thì tính trách nhiệm lại phản tác dụng. Sự nhiệt tình, cống hiến phải gắn liền với hiệu quả công việc, phù hợp với những chuẩn mực đạo đức, văn hóa, pháp luật và khả năng, năng lực của bản thân. Phải gắn công việc với các chuẩn mực đạo đức vốn được xã hội thừa nhận, đảm bảo công việc mang lại hiệu quả thiết thực. Nhiệt tình nhưng nông nổi, thiếu suy nghĩ, cố chấp là sự nhiệt tình vô ích, thậm chí là trở thành kẻ phá hoại.Một người năng nổ, có trách nhiệm với công việc nhưng nếu nhận lấy một công việc vượt quá sự hiểu biết của mình, chấp nhận vừa làm, vừa học vừa rút kinh nghiệm có thể sẽ gây ra những tổn thất lớn cho tập thể. Tri thức luôn đóng vai trò quyết định thành công trong công việc, không nên chỉ dựa trên lòng nhiệt tình mà nhận lấy về mình những trách nhiệm quá lớn, vượt quá khả năng.Ý thức được sự cần thiết có lẽ sống cao đẹp, có tinh thần trách nhiệm, biết cống hiến hi sinh cần sống có trách nhiệm từ những việc nhỏ, trách nhiệm với bản thân, với những người xung quanh, với xã hội…Để cho lẽ sống đẹp đẽ trong bài ca được lan tỏa, nhiều phong trào của tuổi trẻ không chỉ là khẩu hiệu, mà phải biến khẩu hiệu thành hành động cụ thể:”tình nguyện vì cộng đồng”, “chung tay xây dựng nông thôn mới”, “thi đua học tập, sáng tạo, lập thân, lập nghiệp”, “xung kích bảo vệ Tổ quốc”.Hình thành nên một thế hệ trẻ “không chịu sống đời nhỏ nhoi” nối bước cha anh “sống vì mọi người” bằng các chương trình khởi nghiệp đang phát triển trên khắp đất nước, mang trong mình khát vọng lớn lao đưa đất nước mau chóng thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu; biết cống hiến và hy sinh, làm chủ vận mệnh dân tộc, đưa đất nước tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và phát triển. Nhà thơ Tố Hữu cũng đã từng nói: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Cho đi để giúp mọi người cùng vượt qua nghịch cảnh và được nhận lại những gì tương xứng. Tuy nhiên, cũng nên tỉnh táo nhận ra rằng mỗi người có một bổn phận, một sự nghiệp riêng. Không nên cao vong mong ước những thành công lớn lao vượt sức mình, chạy theo những ảo tưởng mà làm uổng phí cuộc đời. Nói như nhà thơ Nguyễn Sĩ đại:“Người vá trời lấp bểKẻ đắp luỹ xây thànhTa chỉ là chiếc láViệc của mình là xanh”.(Lá Xanh – Nguyễn Sĩ Đại)Sống bình thường chưa hẳn đã nhỏ bé mà sống chân thực với bản thân. Nhiều người có trí tuệ, có tiềm lực, theo đuổi những sự nghiệp lớn lao là điều hiển nhiên. Còn những ai không có đủ những điều kiện ấy thì hãy sống như cuộc sống vốn có của mình. Sống đẹp là sống hữu ích như chiếc lá kia dâng cho đời màu xanh, góp phần tạo nên sự sống tươi xinh.