Top 12 # Xem Nhiều Nhất Giải Pháp Xây Dựng Gia Đình Việt Nam Hiện Nay Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Photomarathonasia.com

Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Xây Dựng Gia Đình Việt Nam Hiện Nay

Ngày đăng: 06/12/2018 05:53

Gia đình là một thiết chế xã hội đặc biệt trong cơ cấu của xã hội. Sự ổn định và phát triển của gia đình có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự ổn định và phát triển xã hội. Việt Nam là một trong số những nước có truyền thống tôn trọng gia đình. Tuy nhiên, đã có một thời gian dài do phải tập trung giải quyết các vấn đề giải phóng dân tộc, thống nhất và xây dựng đất nước nên chúng ta đã không có điều kiện để nghiên cứu về gia đình. Gia đình ở nước ta, bên cạnh những bước phát triển mới, tiến bộ, thuận lợi cũng phải đối diện với rất nhiều thách thức và bước đầu có những dấu hiệu của sự khủng hoảng. Những định hướng về xây dựng giá trị, chuẩn mực gia đình trong thời kỳ mới chưa rõ ràng và chưa trở thành học thuyết cho các gia đình noi theo. Bởi vậy, nghiên cứu về gia đình nhằm xây dựng những luận cứ khoa học cho việc củng cố và phát triển gia đình là một trong những vấn đề quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam hiện nay.

1. Cơ sở lý luận của nghiên cứu khoa học về gia đình

1.1 Đóng góp về lý luận của các nghiên cứu gia đình trên thế giới

Có thể nói, gia đình gắn bó chặt chẽ với con người và xã hội, là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Điều này dẫn tới nhu cầu phải liên kết các ngành khoa học trong nghiên cứu gia đình và việc hình thành một chuyên ngành khoa học còn khá mới mẻ gọi là Gia đình học (Family Study).

Từ thời cổ đại, ba trụ cột triết học cổ điển Hy Lạp: Socrates (469-399), Platon (427-347), Aristoteles (384-322) trước Công nguyên đã đặt nền móng cho nghiên cứu về hôn nhân và gia đình. Platon đã đề cập nhiều về gia đình và cá nhân trong mô hình quản lý của “nhà nước lý tưởng”. Tuy nhiên, có thể coi nhà triết học Hy Lạp Aristoteles là một trong những người đầu tiên nghiên cứu về gia đình một cách hệ thống. Ông đã dựa vào phương pháp phân tích thực nghiệm để nghiên cứu các hiện tượng xã hội và xác định hệ thống gia đình một cách tổng quát và coi gia đình là một phạm trù biến đổi, vừa mang tính lịch sử vừa mang tính đặc thù của các xã hội.

Ở phương Đông, các nhà kinh điển của Nho giáo Trung Quốc đặt gia đình vào mối quan hệ với toàn bộ hệ thống xã hội của con người, coi Nhà là mắt xích quan trọng nhất nối kết con người với đất nước và thế giới (Thân – Nhà – Nước – Thiên hạ). Các tác phẩm của Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử (Nho giáo nguyên thủy) và Trình Y Xuyên, Đổng Trọng Thư (hậu Nho) đã đặt nền móng cho các quan điểm nghiên cứu về gia đình ở Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên là những nước theo Nho giáo thời cổ.

V.Ph.Hêghel là nhà triết học duy tâm khách quan nổi tiếng của nước Đức đã đưa ra các vấn đề về mối quan hệ biện chứng trong gia đình. Nhà triết học Pháp J.J. Rousseau đã chỉ rõ xã hội tư bản trong giai đoạn đầu tiên đang phá hoại các chuẩn mực văn hoá gia đình truyền thống và khuyên con người nên trở lại gia đình truyền thống (J.J. Rousseau, 1964). Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng, Thomas More, Charles Fourier, Robert Owen, Saint-Simon đã đưa ra mô hình bình đẳng giới trong gia đình và xã hội.

Trên thế giới, những nghiên cứu khoa học về gia đình một cách thực sự bài bản và có hệ thống được bắt đầu từ thế kỷ XIX. Việt Nam chịu ảnh hưởng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin với bộ “Tư bản” của C.Mác, tác phẩm “Nguồn gốc Gia đình, của Chế độ tư hữu và của Nhà nước” của Ph.Ănghen, các tác phẩm của V.I.Lênin về Cách mạng tháng Mười, về gia đình vô sản đã đưa ra quan điểm về giải phóng con người, gia đình theo chế độ một vợ một chồng, bình đẳng nam nữ, gia đình dựa trên tình yêu, con người yêu và sống có trách nhiệm với nhau mà không có sự kỳ thị, phân biệt.

1.2 Đóng góp lý luận của các nghiên cứu về gia đình ở Việt Nam

Ngay từ thời phong kiến, nhiều nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ đã chú ý tới gia đình, điển hình là tác phẩm “Gia huấn ca” của Nguyễn Trãi, “Khổng học đăng” của Phan Bội Châu, “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, “Vũ trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ. Tuy nhiên, phải đến năm 1986, các nghiên cứu về gia đình ở Việt Nam mới được phát triển một cách có hệ thống. Cũng như nhiều nước trên thế giới, các nghiên cứu gia đình Việt Nam được đề cập tới từ nhiều góc độ triết học, sử học, dân tộc học, văn học, tâm lý học, giáo dục học, dân số học, văn hóa học, nhân loại học, phụ nữ học, giới…

Có thể chia ra ba mảng nghiên cứu lớn: nghiên cứu về các chính sách gia đình và tác động của chính sách đối với gia đình; các vấn đề về gia đình truyền thống (giai đoạn trước năm 1945); các vấn đề về gia đình hiện đại (từ năm 1945 đến nay).

Trước hết là các vấn đề về chính sách gia đình:

Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng đầu tiên trong lịch sử Việt Nam hiện đại không chỉ là cuộc cách mạng xã hội mà còn là cuộc cách mạng về gia đình. Nó tạo ra sự biến đổi lớn lao cho gia đình, tạo điều kiện để giải quyết các vấn đề bất công trong gia đình như bất bình đẳng giới, giải phóng và giáo dục con người. Việc đấu tranh nhằm xoá bỏ những tập quán lỗi thời, những hiện tượng phản nhân văn trong đời sống gia đình đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Các chính sách về gia đình trong Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Chăm sóc và bảo vệ trẻ em, Luật Người cao tuổi…; các chiến lược quốc gia về gia đình đã nhất quán quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về gia đình, đó là: thực hiện chế độ một vợ, một chồng; cha mẹ gương mẫu, con cái hiếu thảo; anh em giúp đỡ, hòa thuận; tôn trọng phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới; bảo vệ trẻ em; chăm sóc người cao tuổi; bảo vệ quyền cá nhân hợp pháp trong gia đình; xây dựng gia đình văn hóa; xác định quyền và trách nhiệm của các cá nhân trong gia đình; quyền lợi và trách nhiệm của gia đình với xã hội, ngược lại – trách nhiệm và quyền lợi của xã hội với gia đình; gia đình tuân thủ và thực hiện luật pháp…

Những chính sách trên đã tạo điều kiện cho các nghiên cứu về gia đình phát triển. Tổng điều tra dân số và nhà ở các năm của Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương đã công bố kết quả cơ bản về phân bố dân số và nhà ở của thành thị, nông thôn và tỷ lệ tăng dân số theo vùng kinh tế – xã hội, tỷ lệ giới tính.

Từ công cuộc đổi mới (năm 1986), các cuộc điều tra xã hội học về gia đình do nhiều cơ quan tiến hành đã đưa đến cái nhìn toàn diện hơn về gia đình Việt Nam hiện đại. Có thể nêu một số tác phẩm về gia đình như: “Gia đình học” (2007) của Đặng Cảnh Khanh và Mai Thị Quý đã trình bày tương đối toàn diện về vấn đề gia đình ở Việt Nam và một số nghiên cứu của gia đình trên thế giới; nghiên cứu về gia đình và biến đổi gia đình ở nông thôn của Vũ Tuấn Huy trong tác phẩm “Xu hướng gia đình ngày nay” đã phân tích sự chuyển đổi của hôn nhân và gia đình ở Việt Nam và đưa ra các chỉ báo thú vị về gia đình trong hiện tại và tương lai; tác giả Nguyễn Từ Chi đưa ra nhiều nhận định dân tộc học và xã hội học về gia đình trong “Những nghiên cứu Xã hội học về gia đình Việt Nam”. Tác giả Nguyễn Đình Tấn trong “Sự thay đổi vai trò của người chồng, người cha trong gia đình từ truyền thống đến hiện đại” đã nêu ra một vấn đề rất mới về người đàn ông trong xã hội bình đẳng giới. Đây cũng là nghiên cứu khẳng định sự thay đổi từ thời đại gia trưởng sang thời đại bình đẳng giới khi quyền lợi chính đáng của người phụ nữ trong gia đình và xã hội đang được Nhà nước và xã hội bảo vệ. Tác giả Đặng Vũ Cảnh Linh đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề về vị thành niên trong tác phẩm “Một số vấn đề từ những khảo sát xã hội học về vị thành niên trong môi trường gia đình” và người cao tuổi trong tác phẩm “Người cao tuổi và các mô hình dịch vụ chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam”. Tác giả đã phân tích hai thế hệ khác biệt về tuổi tác, lối sống, điều kiện sống, nhu cầu, sở thích trong gia đình; đã đưa ra những khuyến nghị cho Nhà nước và thông điệp cho xã hội cần phải có các chính sách khác biệt cho mỗi thế hệ trong gia đình…

Từ những nghiên cứu về gia đình nêu trên, có thể đưa ra một số vấn đề lý luận sau:

– Gia đình Việt Nam có những bước phát triển đặc trưng giống với các nước khác từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp. Tuy nhiên, gia đình Việt Nam cũng có những nét đặc trưng riêng, đó là sự kết tinh của văn hóa truyền thống Việt Nam, một xã hội nông nghiệp theo Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo và văn hóa bản địa đặc sắc thể hiện qua lối sống, các giá trị chuẩn mực, các tục lệ và tín ngưỡng của các vùng miền.

– Gia đình Việt Nam phát triển trong một xã hội đa dân tộc, vì vậy vừa có tính chung vừa phản ánh tính riêng của các dân tộc, đa dạng trong sự thống nhất.

– Gia đình Việt Nam đổi mới theo chính sách của Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ và đóng góp to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.

– Gia đình Việt Nam đang kế thừa các truyền thống tốt đẹp của dân tộc kết hợp với tinh hoa của thời đại và đang chịu ảnh hưởng của các trào lưu, lối sống hiện đại của nhiều nước trên thế giới trong xu thế mở cửa kinh tế và toàn cầu hóa.

2. Cơ sở thực tiễn của xây dựng gia đình Việt Nam

Sự tồn tại của gia đình với các hoạt động phong phú qua các thời đại lịch sử là cơ sở thực tiễn để xây dựng và phát triển gia đình. Việc thực hiện các chức năng cơ bản của gia đình chính là cơ sở thực tiễn cho việc hình thành các chính sách, xây dựng những chuẩn mực và định hướng giá trị tốt đẹp của gia đình. Gia đình phát triển sẽ không chỉ củng cố các mối quan hệ gia đình, hình thành nhân cách con người mà còn kiến tạo một môi trường xã hội thuận lợi cho mỗi cá nhân được phát triển hài hoà và toàn diện. Về phương diện này, gia đình là cơ sở đầu tiên cho việc tái sản xuất ra con người và xã hội.

Trước hết, chức năng kinh tế của gia đình khẳng định gia đình không chỉ tạo ra nguồn thu nhập cho sự tồn tại của mình mà còn cung cấp lực lượng lao động, của cải cho xã hội và tham gia vào các quá trình kinh tế của xã hội từ sản xuất, phân phối đến trao đổi và tiêu dùng. Mọi nhân tài của đất nước, từ các anh hùng, vĩ nhân, cán bộ, những người lính cũng như các tầng lớp công nhân, nông dân, lao động tự do, trí thức đều xuất thân từ gia đình. Bước qua ngưỡng cửa của gia đình, họ có mặt trên tất cả các vị trí, điều tiết và vận hành bộ máy của xã hội.

Chức năng văn hóa của gia đình đã đóng góp vào việc xây dựng các chuẩn mực và giá trị đạo đức, phong tục tập quán, lối sống văn hoá, giáo dục của xã hội. Gia đình là một mắt xích quan trọng trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với làng xóm, cộng đồng, đất nước. Đây chính là những nhân tố “phi kinh tế” không thể thiếu được để thúc đẩy và dẫn đường cho những phát triển về kinh tế.

Chức năng tinh thần, tình cảm của gia đình là một chức năng đặc biệt. Từ tình thương yêu đối với gia đình dẫn tới tình thương yêu đối với cộng đồng, xã hội, Tổ quốc. Chính tình thương yêu đó là chỗ dựa vững chắc cho sự tồn tại, phát triển của đất nước trước những biến động dữ dội của lịch sử. Người Việt Nam giải quyết tất cả các mối quan hệ không chỉ theo luật pháp mà còn trên cơ sở của tình nghĩa.

Trong gia đình Việt Nam truyền thống, “hiếu đễ” được coi là cái gốc của đạo lý. Ai bất hiếu với cha mẹ, tàn nhẫn với anh, chị, em mình thì không thể là người tốt và đáng tin cậy trong xã hội được. Bên cạnh đó, mối quan hệ trên dưới trong gia đình được quy định rất rõ ràng. Con người, trước hết là một bộ phận của gia đình, là một mắt xích bắt nguồn từ tổ tiên đến con cháu sau này. Ở những vị trí cụ thể của mình là cha, con, chồng, vợ đều phải ứng xử theo phận sự của mình, cha mẹ nhân từ, con cái hiếu thảo, vợ chồng hoà thuận, thủy chung, anh chị nhường nhịn em, em kính trọng anh chị. Nếu tất cả các thành viên đều giữ đúng lễ nghĩa của mình thì gia đình mới ổn định, xã hội mới thái bình.

Chức năng sinh sản, duy trì và phát triển nòi giống cũng được quan tâm hơn trước. Các gia đình không còn sinh nhiều con với chất lượng thấp mà quan tâm đến việc ít con với chất lượng cao. Chất lượng sống, chất lượng con người là mối quan tâm hàng đầu của hầu hết gia đình hiện nay.

Chức năng giáo dục của gia đình đóng vai trò quan trọng, là cốt lõi trong chức năng giáo dục của xã hội. Nó là nền tảng của giáo dục xã hội trong việc hình thành nhân cách con người, cách ứng xử và đạo đức của con người. Con người mẫu mực thường xuất thân trong các gia đình có nền giáo dục cao (gia giáo), ngược lại những gia đình khủng hoảng, bỏ rơi con cái, quan hệ phức tạp sẽ tạo ra những con người ốm yếu về thể chất, tinh thần hoặc rơi vào tệ nạn xã hội và tệ hại hơn là vi phạm pháp luật, tội phạm.

Điều quan trọng hiện nay là làm rõ một số vấn đề như gia đình cần kế thừa và phát huy truyền thống gì, tiếp thu tính hiện đại nào? Cha mẹ thường dạy con theo bản năng, kinh nghiệm học được từ thế hệ trước hoặc từ sách báo, vì vậy nhìn chung sự giáo dục này không được nhất quán và toàn diện trong khi xã hội phát triển đa dạng trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Cũng cần thấy rõ những biểu hiện tiêu cực hiện nay của gia đình, chẳng hạn, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, giá trị của đồng tiền đã và đang len lỏi vào các mối quan hệ gia đình. Hiện tượng này mang lại cả hiệu quả tích cực lẫn tiêu cực. Sự bận rộn của các thành viên gia đình trong các hoạt động kinh tế và xã hội làm giảm sút thời gian sinh hoạt tập thể của gia đình. Vấn đề chăm sóc và giáo dục con cái, phụng dưỡng cha mẹ già cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Bên cạnh đó, lối sống tự do của các xã hội công nghiệp phát triển đã xâm nhập vào nước ta và thực sự chưa phù hợp với trình độ phát triển cũng như truyền thống dân tộc. Trong khi đó, những nếp nghĩ và thói quen lạc hậu, cổ hủ, phong kiến đang có xu hướng phục hồi. Những quan niệm của chủ nghĩa gia trưởng, thói coi thường phụ nữ, nạn bạo lực, xung đột trong gia đình đã phát triển ở cả thành thị và nông thôn. Hiện tượng khủng hoảng của gia đình hiện nay là tất yếu khi gia đình không có nhiều sức đề kháng trước những cơn bão của xã hội, thời cuộc.

Ngày nay, giáo dục gia đình không chỉ dựa vào kinh nghiệm mà ông bà, cha mẹ còn phải được học tập, có thể học từ trường lớp, học từ sách báo và phải tuân theo pháp luật. Giáo dục nhân cách con người theo các chuẩn mực truyền thống là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, công, dung, ngôn, hạnh cần được khôi phục trong bối cảnh các chuẩn mực đó đang dần mất đi, nhưng cũng cần được bổ sung theo các quan điểm hiện đại. Các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình không chỉ dựa trên tình yêu thương mà còn trên cơ sở của pháp luật về quyền tự do cá nhân. Trách nhiệm và quyền lợi của các thành viên trong gia đình cần phải tiến dần tới sự công bằng, mối quan hệ giới phải được coi là tiến bộ và được pháp luật bảo vệ.

3. Một số đề xuất, kiến nghị

– Các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách về gia đình cần dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn về gia đình. Lý luận soi đường, đem đến những kinh nghiệm quý báu, những bài học sâu sắc, còn thực tiễn là các trải nghiệm để chúng ta hoàn thiện gia đình. Do đó, cần nhận dạng gia đình với các mặt tích cực và thách thức, đồng thời dự báo hướng phát triển của gia đình trong tương lai.

– Đảng và Nhà nước cần có các chính sách sát hợp với gia đình dựa trên cơ sở khoa học để quản lý sự phát triển gia đình đúng hướng, tạo sự hài hòa giữa gia đình và xã hội, bảo đảm các yếu tố truyền thống có chọn lọc và tiếp thu tinh hoa của nhân loại. Thực hiện quản lý nhà nước về gia đình, đặc biệt trong các trường hợp gia đình suy thoái, khủng hoảng, bạo lực, tệ nạn xã hội và tội phạm.

– Tạo mối quan hệ lành mạnh giữa gia đình và xã hội, giữa gia đình với luật pháp. Gia đình vừa đóng vai trò tích cực, tham gia vào xây dựng, phổ biến chính sách vừa thực hiện, phản biện và kiểm soát chính sách.

– Cần quan tâm đến việc phát triển gia đình đa dạng hiện nay. Đó là các gia đình đa văn hóa đang ngày càng phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

tcnn.vn

Về Xây Dựng Gia Đình Văn Hóa Việt Nam

Về xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam

13:56 – 17/09/2018

Gia đình phát triển bền vững không chỉ là niềm hạnh phúc cho mỗi người, mỗi nhà mà còn là nhân tố quan trọng góp phần giữ gìn sự phát triển lành mạnh, an toàn của xã hội và sự ổn định dân số của mỗi quốc gia. Vì vậy, gia đình luôn là một mối quan tâm đặc biệt của Đảng ta. Tại Đại hội XI của Đảng, vấn đề vai trò của gia đình và xây dựng gia đình văn hóa trong thời kỳ mới được Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh và làm sâu sắc hơn.

Về vai trò của gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới

Thứ nhất, gia đình là tế bào của xã hội. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh khẳng định gia đình là tế bào của xã hội. Kế thừa tư tưởng của các nhà kinh điển, Đảng ta nhận thức sâu sắc về vai trò của gia đình đối với xã hội. Tại Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội”(1). Rõ ràng,muốn có một xã hội phát triển lành mạnh thì trước hết từng “tế bào” phải phát triển bền vững. Gia đình không chỉ là “tế bào” tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế của xã hội. Không có gia đình tái tạo ra con người để xây dựng xã hội thì xã hội cũng không thể tồn tại và phát triển được. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, nhiều giá trị mới được tiếp thu, nhưng nhiều giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam cũng đang mất đi. Tình trạng ly hôn, bạo hành gia đình gia tăng; chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, hưởng thụ có xu hướng tăng lên… Những hạn chế này đang làm cho nhiều “tế bào” có nguy cơ rơi vào khủng hoảng, làm cho nền tảng xã hội thiếu vững chắc.

Từ những tiêu chí quan trọng của gia đình văn hóa Việt Nam được đề xuất tại Đại hội VIII của Đảng và được cụ thể hóa thành Chiến lược xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam, đến Đại hội XI, Đảng ta đã có sự phát triển nhận thức mới về gia đình, đó là: No ấm, tiến bộ, hạnh phúc là những điều kiện cơ bản, quan trọng để gia đình phát triển lành mạnh. Muốn có một “tế bào lành mạnh”, một “nền tảng vững chắc” thì phải xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.

Thứ hai, gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đất nước.Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Gia đình là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”(2) góp phần chăm lo xây dựng con ngườiViệt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính(3).

Đảng ta nhận thức rõ rằng, con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt đẹp nếu có một môi trường xã hội tốt. Môi trường đó trước hết là từ mỗi gia đình, mỗi tế bào của xã hội. Các gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về sản phẩm của gia đình mình, phải có trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp cho xã hội những công dân hữu ích. Cùng với nhà trường, gia đình tham gia tích cực nhiệm vụ “dạy người, dạy chữ”, tạo ra lực lượng lao động tương lai có chất lượng cao.

Đây là điểm mới trong tư duy Đại hội XI của Đảng ta về vai trò của gia đình đối với phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất nước. Gia đình chính là “đơn vị xã hội” đầu tiên cung cấp lực lượng lao động cho xã hội. Từ những người lao động chân tay giản đơn đến những người lao động trí óc… đều được sinh ra, được nuôi dưỡng và chịu sự giáo dục của gia đình.

Đảng ta nhấn mạnh, gia đình không chỉ giữ vai trò nền tảng, tế bào của xã hội, mà còn là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách. Gia đình giữ vai trò đặc biệt quan trọng tới số lượng, chất lượng dân số và cơ cấu dân cư của quốc gia. Gia đình không chỉ dừng lại ở việc duy trì nòi giống, mà quan trọng hơn gia đình phải trở thành môi trường tốt, đầu tiên để giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách cho con người. Theo quan điểm của Đảng, gia đình no ấm, bố mẹ thuận hòa, hạnh phúc là điều kiện, môi trường quan trọng, trực tiếp tạo nên các thế hệ sau có chất lượng cả về thể chất lẫn tinh thần, góp phần đắc lực vào chiến lược phát triển nguồn lực con người có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước hiện nay.

Thứ ba, gia đình có vai trò giữ gìn, lưu truyền, phát triển văn hóa dân tộc. Đảng ta nhấn mạnh gia đình là nơi tiếp thu, giữ gìn và lưu truyền các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Thông qua các câu chuyện cổ tích, qua các câu ca dao, tục ngữ, cha mẹ, ông bà là những người thầy đầu tiên dạy dỗ, nuôi dưỡng tâm hồn, phát triển tư duy và từng bước giáo dục hình thành nhân cách cho mỗi con người. Qua lao động, qua việc xử lý các mối quan hệ hằng ngày, gia đình đã truyền thụ cho con trẻ những nét đẹp của truyền thống gia đình, dòng họ, truyền thống văn hóa dân tộc. Từ đó mỗi cá nhân hình thành và bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tình cộng đồng, lòng nhân ái, tinh thần tự lực, tự cường, anh hùng trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, chăm chỉ cần cù trong lao động sản xuất… Đảng ta chỉ rõ: Trong giai đoạn hiện nay để “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” cần sự chung tay góp sức của toàn xã hội, mà xét đến cùng, đó là trách nhiệm của mỗi gia đình, mỗi con người cụ thể.

Để xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay

Để đạt được mục tiêu: ” Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong thời gian tới ngoài nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, chú ý đến kinh tế trang trại và kinh tế hộ, Đảng ta chỉ rõ cần tập trung vào một số khâu chủ yếu sau:

Một là, sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ(4). Để hoàn thiện Chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, cần làm rõ một số nội dung sau:

– Nâng cao nhận thức của toàn xã hội cũng như mỗi cá nhân về vai trò, vị trí đặc biệt của gia đình đối với xã hội và trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực trong gia đình, ngăn chặn sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào gia đình. Cấp ủy và chính quyền các cấp phải đưa nội dung công tác xây dựng văn hóa gia đình và gia đình văn hóa vào chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và chương trình kế hoạch công tác hằng năm của các bộ, ngành, địa phương.

– Xây dựng gia đình Việt Nam phải trên cơ sở kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của thời đại về gia đình. Đề cao trách nhiệm của mỗi gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng nhân cách cho mỗi thành viên trong gia đình nhằm hướng tới những phẩm chất của con người Việt Nam mà Đại hội XI của Đảng đã chỉ ra.

Hai là,xây dựng gia đình văn hóa phải gắn với các phong trào khác, như xây dựng khu dân cư văn hóa, làng, xóm văn hóa… Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp… tạo điều kiện cho mọi người được tiếp cận với các kiến thức kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học, kỹ thuật và phúc lợi xã hội, giúp các gia đình có kỹ năng sống, chủ động phòng, chống sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội, kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam(5). Đây là điểm mới trong nhận thức của Đảng ta về nhiệm vụ xây dựng, phát triển nguồn lực con người trong bối cảnh hiện nay.

Ba là, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân và công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Để mỗi tế bào xã hội mạnh khỏe thì công tác chăm sóc sức khỏe, trước hết là sức khỏe của bà mẹ, trẻ em, thực hiện gia đình ít con là biện pháp quan trọng cần được quan tâm. Về vấn đề này, Đảng ta chỉ rõ: Thực hiện nghiêm chính sách và pháp luật về dân số, duy trì mức sinh hợp lý, quy mô gia đình ít con. Có chính sách cụ thể bảo đảm tỷ lệ cân bằng giới tính khi sinh. Tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức và huy động sự tham gia của toàn xã hội vào công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ, trẻ em, giảm mạnh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, góp phần nâng cao chất lượng dân số…(6). Đồng thời, phải tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác dân số, gia đình và trẻ em các cấp; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác gia đình.

Bốn là, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật xây dựng gia đình văn hóa. Chúng ta đã có Luật Hôn nhân và Gia đình (năm 2000); Luật Bình đẳng giới (năm 2007); Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (năm 2008); Pháp lệnh Dân số – Kế hoạch hóa gia đình; Chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020… Tuy nhiên, gia đình luôn vận động và biến đổi theo sự vận động của xã hội, vì vậy, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục ban hành, bổ sung một số chính sách mới phù hợp với điều kiện xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Đồng thời, phải đổi mới nội dung và giải pháp truyền thông về gia đình, nâng cao hiểu biết về các văn bản luật này, cùng các kiến thức, kỹ năng về cuộc sống gia đình.

Năm là, tiếp tục sự nghiệp giải phóng phụ nữ nhằm thực hiện bình đẳng giới. Hiện nay, phụ nữ còn chịu nhiều thiệt thòi, bất bình đẳng so với nam giới, do vậy, họ chưa phát huy hết vai trò của bản thân trong xây dựng gia đình, đồng thời hạn chế sự đóng góp của họ cho toàn xã hội. Phụ nữ cần tiếp tục được giải phóng, được chia sẻ về công việc gia đình, hỗ trợ về các dịch vụ gia đình để họ có thời gian phát triển sự nghiệp.

Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: Xây dựng và triển khai chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ, tập trung ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong gia đình. Tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ(7). Đồng thời, phải nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện pháp luật, chính sách đối với lao động nữ. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình; tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy và bộ máy quản lý nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ(8).

Qua hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu và toàn cầu hóa hiện nay, Đảng ta càng nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của gia đình với tư cách là “tế bào” vững chắc của xã hội, là môi trường lành mạnh để xây dựng nguồn lực con người; coi xây dựng gia đình văn hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020. Với tinh thần, nhận thức và biện pháp đó, chúng ta hy vọng trong thời gian tới vị trí, vai trò của gia đình ngày càng được khẳng định và các gia đình Việt Nam ngày càng “khỏe mạnh” hơn để giữ vững nền tảng xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo đà cho Việt Nam “cất cánh” nhanh và bền vững

Xây Dựng Gia Đình Văn Hóa

Thành tựu đạt được

Những năm gần đây, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” nói chung, công tác xây dựng gia đình văn hoá (GÐVH) nói riêng trên địa bàn tỉnh phát triển cả về lượng và chất. Hàng năm, bình quân tỷ lệ GÐVH của tỉnh tăng từ 2 đến 3%. Tính đến đầu năm 2012, Thái Bình hiện có 385.458/506.916 hộ GÐ đạt chuẩn GÐVH, đạt tỷ lệ 76%. Những thành tựu đạt được từ công tác GÐ và xây dựng nếp sống văn hoá GÐ đã và đang khẳng định vị thế, vai trò đối với phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Công tác xây dựng GÐVH – một trong những nội dung quan trọng, cốt lõi của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” ngày càng nhận được nhiều hơn sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể các cấp và sự hưởng ứng tích cực của đông đảo các tầng lớp nhân dân, tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. Quá trình triển khai cuộc vận động cũng là quá trình tiếp tục làm chuyển đổi cơ bản về mặt nhận thức, vị trí, vai trò của văn hoá GÐ trong sự nghiệp CNH, HÐH của đông đảo cán bộ và nhân dân trong tỉnh.

Những kết quả, thành tựu từ xây dựng GÐVH chính là gốc rễ bền vững để giữ gìn và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; là môi trường hoàn thiện nhân cách con người; là pháo đài vững chắc phòng chống tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, ngăn chặn sự rình rập xâm nhập của tệ nạn xã hội, tội phạm, ma tuý, mại dâm… Thành quả của phong trào cũng như thành tích của các hộ GÐ đạt được đã tác động lớn đến sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, trong đó tác động cụ thể, trực tiếp đến phong trào xây dựng nông thôn mới hiện nay.

Thách thức và giải pháp

Bên cạnh những kết quả đạt được, còn nhiều khó khăn, thách thức trong công tác quản lý nhà nước về GÐ và xây dựng GÐVH. Ðó chính là tác động của mặt trái cơ chế thị trường cùng lối sống thực dụng, sự xâm nhập của sản phẩm văn hoá độc hại từ bên ngoài, tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp tấn công mạnh vào các GÐ. Những giá trị đạo đức tốt đẹp như kính trên nhường dưới, hiếu nghĩa thủy chung đang bị mai một. Sự suy thoái về đạo đức lối sống đang bộc lộ ngày càng rõ nét. Tình trạng bạo lực GÐ đang diễn biến khó lường, đặc biệt là bạo lực với phụ nữ, trẻ em và người cao tuổi. Tình trạng ly hôn, ly thân, quan hệ tình dục và nạo phá thai trước hôn nhân không giảm; các tệ nạn xã hội như ma tuý, cờ bạc, mại dâm đang đe doạ tới hạnh phúc và sự phát triển bền vững của nhiều GÐ. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống tốt đẹp trong GÐ còn hạn chế. Vấn đề giáo dục trong GÐ đang bị buông lỏng dẫn đến nguy cơ trẻ em sa vào các tệ nạn xã hội…

Cùng với tiếp tục đẩy mạnh và không ngừng nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, cần có cơ chế chính sách khuyến khích động viên kịp thời những hạt nhân – GÐVH tiêu biểu; tuyên truyền nhân rộng những GÐ nhiều thành tích; phê phán những biểu hiện tiêu cực trong việc xây dựng GÐVH, phòng chống quyết liệt những biểu hiện tiêu cực xâm hại; có biện pháp loại trừ những sản phẩm văn hoá độc hại tác động ảnh hưởng đến GÐ. Các cấp ủy, chính quyền chú trọng, quan tâm đến công tác xây dựng GÐVH, coi đó là cốt lõi của phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, đồng thời chỉ đạo sát sao, thường xuyên, huy động và tạo sức mạnh chung tay, góp sức, vào cuộc của các ban, ngành và toàn xã hội.

Bên cạnh các giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác GÐ, tại hội nghị biểu dương GÐVH tiêu biểu toàn tỉnh vừa qua, đồng chí Trưởng ban Chỉ đạo phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa của tỉnh giao nhiệm vụ cụ thể cho cơ quan thường trực là Sở VHTT và DL: Tham mưu với UBND tỉnh ban hành kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển GÐ Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030; phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể trình UBND tỉnh phê duyệt Ðề án truyền thông giáo dục đạo đức, lối sống trong GÐ đến năm 2020; Kế hoạch phòng chống bạo lực GÐ giai đoạn 2012 – 2016, đồng thời tổ chức các hội thảo, nghiên cứu khoa học về GÐ, sự thay đổi lối sống, nếp sống trong GÐ ở Thái Bình trong thời kỳ hiện nay.

Những Biến Đổi Của Gia Đình Việt Nam Hiện Nay Và Một Số Khuyến Nghị Chính Sách

Trước tác động của bối cảnh mới hiện nay, các giá trị gia đình Việt Nam đang có những biến đổi nhất định cần được nhận biết, đánh giá, từ đó đưa ra những khuyến nghị chính sách phù hợp nhằm xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc, góp phần vào thành công của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.

Xu hướng biến đổi giá trị đạo đức, tâm lý và tình cảm của gia đình Việt Nam đương đại

Trong những thập niên qua, gia đình Việt Nam đã trải qua những biến chuyển quan trọng, từ gia đình truyền thống sang gia đình với những đặc điểm mới, hiện đại và tự do hơn. Quá trình hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập và giao lưu văn hóa làm xuất hiện những quan điểm cởi mở hơn về hôn nhân và gia đình Việt Nam.

Gia đình là giá trị quan trọng hàng đầu

Người dân Việt Nam vốn coi gia đình là ưu tiên hàng đầu trong cuộc sống, sau đó là sức khỏe, việc làm, thu nhập, bạn bè, học vấn, thời gian giải trí, địa vị, tín ngưỡng tôn giáo và chính trị (Biểu 1). Khái niệm gia đình ở đây là mô hình gia đình truyền thống được xây dựng trên cơ sở hôn nhân.

Biểu 1. Sắp xếp thứ tự ưu tiên trong cuộc sống theo giới tính (1)

Gia đình Việt Nam trong quá trình vừa bảo lưu các giá trị truyền thống, vừa tiếp thu yếu tố hiện đại

Trong số các giá trị đạo đức, tâm lý, tình cảm của gia đình, giá trị chung thủy là giá trị rất được coi trọng trong quan hệ hôn nhân và gia đình, được người dân đánh giá cao nhất, sau đó là đến các giá trị tình yêu thương, bình đẳng, có con, chia sẻ việc nhà, hòa hợp, có thu nhập. Kết quả khảo sát cho thấy, có tới 41,6% coi chung thủy là “quan trọng”, và 56,7% coi chung thủy là “rất quan trọng” trong hôn nhân. Đồng thời, nghiên cứu cho thấy hiện tượng bảo lưu những tiêu chuẩn kép khắt khe với phụ nữ và xu hướng vị tha hơn cho nam giới trong vấn đề chung thủy (giá trị “chung thủy quan trọng hơn với phụ nữ” có tỷ lệ đồng ý cao là 66,2%). Điều này cho thấy, chung thủy vẫn là thước đo phẩm giá của người phụ nữ khi họ được kỳ vọng là nhân tố giữ gìn cho sự êm ấm, tốt đẹp của gia đình và xã hội.

Giá trị tình yêu là một giá trị bảo đảm sự bền vững của hôn nhân, nhất là hôn nhân hiện đại dựa trên tình yêu để kết hôn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, không có sự khác biệt theo giới tính, tuổi, học vấn trong đánh giá tầm quan trọng của tình yêu với sự gắn kết hôn nhân (trong số người được khảo sát có 89,7% số người được hỏi cho rằng tình yêu là quan trọng và rất quan trọng). Thực tế khảo sát cũng cho thấy tỷ lệ người đánh giá thấp tiêu chí này nhất thuộc về nhóm người trẻ nhất, người dân tộc Kinh, người đi làm, người sống ở đô thị, ở các khu vực có đời sống kinh tế phát triển và mức độ hiện đại hóa cao.

Hiện nay, các gia đình ngày càng nhận thức cao về tầm quan trọng của trách nhiệm, chia sẻ trong đời sống gia đình. Đó là việc chia sẻ những mối quan tâm, lắng nghe tâm tư, suy nghĩ của các thành viên trong gia đình. Các gia đình có mức độ hiện đại hóa càng cao, mang nhiều đặc điểm hiện đại, như sống ở đô thị, có việc làm, có học vấn cao, mức sống cao, các khu vực kinh tế phát triển hơn thì các giá trị chia sẻ và trân trọng càng được các cặp vợ chồng thể hiện rõ. Tuy nhiên thực tế cho thấy, người phụ nữ vẫn chưa bình đẳng thực sự với nam giới, thể hiện trong tỷ lệ được người chồng chia sẻ, lắng nghe tâm tư và chia sẻ suy nghĩ. Các gia đình được khảo sát ở khu vực Đông Nam Bộ đạt điểm số trung bình cao nhất trong các hoạt động chia sẻ, lắng nghe những mối quan tâm, tâm tư của vợ/chồng. Còn nhóm nữ giới, dân tộc thiểu số, có mức sống thấp, ở nông thôn, học vấn thấp thì có tỷ lệ cao trong việc cho rằng bạn đời coi thường hoặc đánh giá thấp việc ứng xử hằng ngày hoặc đóng góp của họ đối với gia đình.

Như vậy, có thể thấy, nếu chia tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời theo nhóm giá trị cá nhân (tình yêu, hình thức, thu nhập, công việc, học vấn) và giá trị tập thể (gia đình tương đồng, sự chấp thuận của bố mẹ, cùng địa phương, cùng dân tộc) thì các giá trị cá nhân trong chọn lựa bạn đời là xu hướng nổi bật hiện nay, nhất là với nhóm có đặc điểm hiện đại, như học vấn cao, sống ở thành thị.

Gia đình truyền thống và mức độ chấp nhận cởi mở dần với một số hiện tượng hôn nhân gia đình mới

Các kiểu loại gia đình mới như hôn nhân đồng giới, chung sống không kết hôn, làm mẹ đơn thân, tùy từng giai đoạn, thường rất hiếm hoặc không có trong truyền thống nhưng lại có xu hướng gia tăng trong các xã hội đang chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp, hiện đại. Ở Việt Nam hiện nay, một bộ phận người dân, chủ yếu là người dân tộc Kinh, trẻ tuổi, học vấn cao, ở thành thị có tỷ lệ chấp nhận những kiểu loại gia đình mới cao hơn, tuy rằng có thể chưa thực sự hiểu rõ những hệ quả tiêu cực của nó.

Trong xã hội Việt Nam truyền thống, người phụ nữ không lấy chồng nhưng có con thường phải chịu sự lên án gay gắt của xã hội, cộng đồng và gia đình. Hiện nay, hôn nhân vẫn là quyết định hệ trọng trong cuộc đời của người phụ nữ. Tuy vậy, cùng với sự tiếp nhận văn hóa phương Tây cộng với quyền cá nhân ngày càng được pháp luật bảo vệ, người phụ nữ ngày càng có quyền quyết định việc kết hôn và có con. Quyền làm mẹ không chỉ thể hiện sự biến đổi trong nhận thức mà còn là biểu hiện của sự nhân văn trong bảo vệ quyền của phụ nữ.

Gia đình hiện đại và xu hướng suy giảm tính tập thể, tính cộng đồng

Quan hệ của gia đình với dòng họ trong xã hội Việt Nam hiện nay còn khá chặt chẽ, gắn kết, mức độ gắn kết mạnh mẽ hơn ở nhóm mang những đặc điểm truyền thống (như cao tuổi, học vấn thấp, nghèo, cư trú ở nông thôn); thể hiện ở số gia đình đồng ý cao với nhận định mỗi gia đình, thành viên cần luôn gắn kết với dòng họ để giúp đỡ lẫn nhau, đạt điểm trung bình 4,04 theo thang đo 5 điểm, coi trọng việc giữ gìn nền nếp gia phong cho con cháu, đạt điểm trung bình 4,17 theo thang đo 5 điểm.

Thực tế cho thấy có xu hướng suy giảm tính tập thể, tính cộng đồng theo mức độ hiện đại hóa. Ở một chừng mực nhất định, những giá trị truyền thống về tình làng nghĩa xóm vẫn được duy trì. Điều này cho thấy tính liên tục của các giá trị văn hóa nhưng cũng đã có những biểu hiện mới ở thế hệ trẻ về thái độ đối với quan hệ tình cảm và quan hệ vật chất giữa các thành viên trong gia đình và cộng đồng. Trong khi người cao tuổi đề cao việc ứng xử có lễ nghĩa, có trước có sau trong mọi hoàn cảnh thì nhiều thanh niên lại gắn khía cạnh kinh tế với khía cạnh tình cảm, hạnh phúc gia đình. Họ cho rằng không thể có hạnh phúc nếu khó khăn về kinh tế.

So với điểm trung bình về mức độ gắn kết với dòng họ, mức độ gắn kết giữa gia đình với cộng đồng thấp hơn. Chẳng hạn, điểm trung bình về nhận định “bạn bè xóm giềng giúp đỡ bất cứ khi nào tôi cần” là 3,52/5 điểm, khá thấp so với nhiều giá trị về quan hệ gắn kết với cha mẹ, anh chị em và dòng họ. Một chiều quan hệ khác của gia đình với cộng đồng là mức độ tham gia các hoạt động cộng đồng của gia đình và thành viên gia đình. Kết quả cho thấy, điểm trung bình tham gia các hoạt động cộng đồng là 3,54, trên ngưỡng trung bình một chút, cho thấy, tính cộng đồng của người dân Việt Nam đang trên đà suy giảm.

Tình làng nghĩa xóm theo nghĩa được giúp đỡ, hỗ trợ thể hiện nhiều hơn ở nhóm các gia đình mang đặc điểm hiện đại thấp hơn. Điểm trung bình về mức độ sẵn sàng hy sinh lợi ích vì cộng đồng của gia đình Việt Nam trong diện được khảo sát là 3,60, không quá cao, nhưng cũng không quá thấp. Điều đáng chú ý là, mức độ sẵn sàng vì tập thể, vì cái chung cao hơn ở khu vực có mức độ hiện đại thấp hơn, tức là khu vực còn duy trì tính cộng đồng cao hơn. Mức độ sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì cái chung giảm dần theo đoàn hệ tuổi, cho thấy càng nhóm trẻ, mức độ chấp nhận tính cộng đồng, tính tập thể càng thấp, tính cá nhân càng cao. Chiều hướng này cũng tương tự nếu nhìn theo mức độ chấp nhận hy sinh lợi ích cá nhân vì cái chung theo trình độ học vấn của người trả lời và mức sống. Sự chấp nhận giá trị cộng đồng, giá trị tập thể cao hơn ở những nhóm có đặc điểm truyền thống hoặc yếu thế hơn.

Như vậy, các kết quả nghiên cứu về giá trị gia đình Việt Nam hiện nay cho thấy có sự dịch chuyển từ các giá trị gia đình truyền thống sang giá trị gia đình hiện đại, đồng thời có sự bền vững tương đối của văn hóa trong quá trình hiện đại hóa.

Hiện nay, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có những ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ hôn nhân và gia đình Việt Nam. Việc bùng nổ các thiết bị thông minh khiến cá nhân dễ dàng chìm đắm trong thế giới ảo và giảm các giao tiếp trực tiếp trong gia đình, trong xã hội, khiến lối sống, cảm xúc, ứng xử, hệ giá trị của con người và đặc biệt là sự duy trì các quan hệ xã hội có thể bị đảo lộn. Trí tuệ nhân tạo và tự động hóa, một mặt, mang lại tiềm năng lớn giải phóng sức lao động của con người, mặt khác, tạo nên một thế giới tình yêu, hôn nhân ảo, như hẹn hò trực tuyến, thậm chí là rô-bốt tình dục,… dẫn đến nguy cơ tạo ra một thế hệ trẻ không cần tình yêu, không cần gia đình, không cần con cái, từ đó đe dọa trực tiếp đến sự tồn tại và bền vững của các quan hệ gia đình trong thế giới thực. Thực tế, một số quốc gia trên thế giới đã ghi nhận hiện tượng nam giới hẹn hò và cưới rô-bốt tình dục hoặc một thế hệ trẻ đắm chìm trong thế giới công nghệ mà lảng tránh đời sống thực. Số liệu khảo sát những biến đổi về quan niệm hôn nhân trong xã hội hiện đại cho thấy 28,4% muốn sống chung trước khi kết hôn và 13,3% thích sống độc thân và không có ý định kết hôn. Đây là một nét rất mới của bối cảnh chuyển đổi khiến cho cấu trúc của gia đình, dòng họ và mối quan hệ gia đình có nhiều biến đổi.

Trong bối cảnh các giá trị gia đình vẫn là giá trị được người dân ưu tiên hàng đầu trong cuộc sống cũng như quy mô, cơ cấu, chức năng gia đình đang thay đổi theo hướng hiện đại hóa, cá nhân hóa, hạt nhân hóa, cần đẩy mạnh thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, tăng cường các hoạt động tuyên truyền, truyền thông về bình đẳng giới.

Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến và hỗ trợ phụ nữ tự thoát khỏi các định kiến xã hội từ cộng đồng và từ chính bản thân về những khắt khe trong hành vi hôn nhân và gia đình, hướng phụ nữ tới những giá trị được tôn trọng, được bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục, được tự thể hiện bản thân, được hạnh phúc, đồng thời đóng góp ngày càng nhiều cho xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa…

Hai là, xây dựng chính sách và dịch vụ xã hội bảo đảm sự tiếp cận công bằng, bình đẳng giữa các hình thức gia đình hiện nay, như chung sống không kết hôn, gia đình đơn thân, gia đình đồng tính, gia đình có hôn nhân với người nước ngoài, gia đình ly hôn/ly thân…

Bốn là, xem xét xây dựng nội hàm mới cho mục tiêu xây dựng gia đình trong thời kỳ tới trên cơ sở những giá trị gia đình đã được định hình thông suốt và thống nhất về mặt nhà nước là “ấm no”, “bình đẳng”, “chung thủy”, “tiến bộ” và “hạnh phúc”. Trên thực tế, các giá trị này mang hàm nghĩa rộng mà đời sống xã hội hay trong quan niệm của nhân dân có thể còn những biểu hiện cụ thể hơn nữa, như giá trị của hôn nhân, gia đình, các biểu hiện của bền vững gia đình, giá trị con cái, tình thương yêu, hiếu thảo, đoàn kết cộng đồng, đồng thời bao hàm cả những biến đổi mạnh mẽ theo mức độ hiện đại hóa của các gia đình hiện nay. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021 – 2030 nên xem xét bổ sung nội hàm mới cho mục tiêu xây dựng gia đình. Trong giai đoạn tới, Việt Nam nên chuyển mục tiêu từ ” xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội” sang ” xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc, phồn thịnh, là thiết chế quan trọng của các quá trình kinh tế – xã hội và nguồn nhân lực ổn định, chất lượng ” để tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của gia đình trong sự phát triển của xã hội, đặt gia đình trong mối quan hệ “động” hơn với các quá trình kinh tế – xã hội chung./.

Chú thích

(*) Tất cả các số liệu trong bài viết đều dựa trên kết quả khảo sát của đề tài khoa học: “Các giá trị cơ bản của gia đình Việt Nam” của tác giả bài viết, thực hiện trong giai đoạn 2017 – 2019, với mẫu khảo sát 1.759 đại diện các hộ gia đình, tuổi từ 16-70, được chọn theo tiêu chí đại diện vùng, giới tính, nông thôn/đô thị, tuổi, tại 9 xã, phường thuộc 6 tỉnh, thành phố (Yên Bái, Hà Nội, Thừa Thiên Huế, Đắk Lắk, Thành phố Hồ Chí Minh, Cà Mau) (1) Sắp xếp theo thứ tự ưu tiên từ 1 (rất có ý nghĩa) đến 10 (rất không có ý nghĩa).