Top 9 # Xem Nhiều Nhất Giải Pháp Thực Hiện Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ Trong Đảng Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Photomarathonasia.com

Thực Hiện Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ Trong Đảng

(TGAG)- Việc giữ vững và tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ (TTDC) một cách đúng đắn và nghiêm ngặt có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy mà Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách…”.

Nguyên tắc TTDC của Hồ Chí Minh thể hiện rõ nhất ở việc thực hành nguyên tắc này “Nghĩa là có việc gì thì ai cũng được được bàn, cũng phải bàn. Khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào nhiều người theo hơn thì được. Ấy là dân chủ. Đã bỏ thăm rồi, thì giao cho hội ủy viên làm, khi ấy thì tất cả hội viên phải tuân theo mệnh lệnh hội ấy. Ấy là tập trung. Ai không nghe lời thì ủy viên hội có quyền phạt”. Hồ Chí Minh còn cho rằng: “Để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ (thật thà tự phê bình và phê bình), thực hành, lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức và kỷ luật”.

Vì sao cần phải cá nhân phụ trách? Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy. Nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả không ai thi hành.

Vì lẽ đó, cho nên lãnh đạo cần phải tập thể, mà phụ trách cần phải cá nhân. Lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau.

Nhưng cũng có những việc bình thường, một người có thể giải quyết thì người phụ trách cứ cẩn thận giải quyết. Những việc quan trọng, mới cần tập thể quyết định.

Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung. Làm mà không theo đúng cách đó, tức là làm trái dân chủ tập trung.

Về khái niệm, trong những tác phẩm của chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như các bản Điều lệ của Đảng có khi ghi là “dân chủ tập trung”, có khi lại ghi là “tập trung dân chủ”. Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua tháng 10-1930, Điều lệ Đảng do Đại hội I (3-1935) và Điều lệ Đảng Lao động Việt Nam (2-1951) đều ghi là “dân chủ tập trung”, nhưng từ Đại hội III của Đảng tới nay thì lại ghi là “tập trung dân chủ”.

Tuy rằng có sự khác nhau trong cách nói, cách viết, song xét về nội dung thì dù gọi là “dân chủ tập trung” hay “tập trung dân chủ” thì đều có nội hàm giống nhau. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó đã được ghi trong Chương II, điều 9 – Điều lệ Đảng: “Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.

Nguyên tắc TTDC là sự kết hợp hài hòa giữa hai mặt tập trung và dân chủ. Cả hai mặt tập trung và dân chủ tạo thành chỉnh thể thống nhất của một nguyên tắc. Dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung; cũng như tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Không được nhấn mạnh một chiều tập trung hay dân chủ hoặc càng không được đối lập giữa hai mặt tập trung và dân chủ với nhau. Vì rằng, trong tập trung chân chính đã chứa đựng dân chủ và trong dân chủ đúng đắn đã có tập trung. Do đó, dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, kỷ cương chặt chẽ. Tập trung không trên cơ sở dân chủ sẽ dẫn đến tập trung quan liêu, độc đoán, gia trưởng; dân chủ không đi đôi với tập trung sẽ dẫn đến dân chủ vô chính phủ, tự do, tùy tiện, làm Đảng mất sức mạnh. Có thể nói nguyên tắc TTDC là mắc xích quan trọng nhất, là điều kiện tồn tại của Đảng cầm quyền.

Những nguyên tắc và điều kiện trên đã được kiểm nghiệm, chứng minh trong suốt quá trình tổ chức và hoạt động của Đảng, cả trong khi chưa có chính quyền cũng như trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Thành tựu to lớn và cả những sai lầm khuyết điểm nghiêm trọng của phong trào cộng sản quốc tế suốt trong lịch sử ra đời và phát triển cho tới ngày nay, càng chứng minh ý nghĩa khách quan và vai trò quyết định của nguyên tắc TTDC. Đánh giá thấp và phủ nhận nguyên tắc TTDC với tính cách là nguyên tắc xây dựng Đảng và xây dựng Nhà nước thực chất là biến Đảng từ một tổ chức thống nhất về chính trị, tư tưởng và hành động, có sức chiến đấu cao của những người có chung một lý tưởng cộng sản và hoài bão phục vụ nhân dân thành một kiểu câu lạc bộ tranh cãi suông, chia rẽ và đối lập; biến Nhà nước của nhân dân thành nơi tranh giành quyền binh của các thế lực thù địch.

Ngày nay, Đảng ta đang lãnh đạo Nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, điều đó đòi hỏi Đảng phải luôn tự đổi mới, tăng cường công tác xây dựng đảng để đáp ứng với nền kinh tế và cơ chế mới. Những chuyển biến tiến bộ về thực hiện nguyên tắc TTDC được thể hiện qua:

– Dân chủ trong Đảng và dân chủ trong xã hội có bước khởi sắc. Việc bầu cử trong Đảng, các đoàn thể và cơ quan dân cử cũng như phong cách lãnh đạo của Đảng có tiến bộ.

– Dân chủ trong công các tổ chức và cán bộ: đánh giá, tuyển chọn, đề bạt cán bộ được tiến hành công khai, dân chủ, tập thể hơn. Công tác cán bộ được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Tình trạng tùy tiện, cục bộ địa phương, mất đoàn kết nội bộ được chấn chỉnh kịp thời, những tổ chức và cá nhân vi phạm đã được xử lý thích đáng.

– Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đã có chuyển biến rõ rệt trong đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế: đề ra nhiều chủ trương, chính sách về đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng đảng…; bước đầu hình thành một hệ thống quan điểm về quá độ lên CNXH ở nước ta. Sự chuyển hướng này có ý nghĩa hết sức quan trọng để Đảng giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ.

Đại hội XII của Đảng cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong thực hành, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm qua: Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi. “Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”(1).

Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân” (2). Điều đó khẳng định bản chất dân chủ thực sự của Nhà nước ta./.

Thực Hiện Tốt Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ Trong Tổ Chức Và Sinh Hoạt Đảng

Đồng thời, đợt sinh hoạt chính trị này góp phần quan trọng tăng cường xây dựng Đảng về chính trị tư tưởng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; thuyết phục, chấn chỉnh, uốn nắn những nhận thức lệch lạc; đấu tranh có hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch.

Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định: “Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Đây cũng chính là những yếu tố bảo đảm cho sự ổn định và phát triển của Đảng.

Nguyên tắc tập trung dân chủ được V.I.Lê-nin đề xuất từ năm 1901, đến nay tròn 115 năm, nhưng vẫn còn nguyên giá trị. Khi vận dụng vào Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng. Theo Người, dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau. Dân chủ trong Đảng là tất cả đảng viên đều được tự do bày tỏ chính kiến của mình về các vấn đề trong tổ chức và sinh hoạt Đảng để thống nhất về quan điểm, chủ trương và nhân sự lãnh đạo. Vì vậy, dân chủ phải đi đến tập trung, tránh dân chủ phân tán, tùy tiện, vô tổ chức. Về tập trung, sau khi dân chủ (mọi đảng viên được tự do bày tỏ chính kiến) phải đi đến tập trung, tức là biểu quyết để thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động. Sau khi biểu quyết thì thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, mọi đảng viên phải phục tùng nghị quyết của Đảng.

Vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn xác định, tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng (được thể hiện tại Điều 9, Chương II, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam hiện hành). Nguyên tắc tập trung dân chủ có vai trò là kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động tổ chức, sinh hoạt và xây dựng Đảng; xác lập nguyên tắc giải quyết mọi vấn đề trong nội bộ Đảng.

Thực tế qua 86 năm xây dựng, chiến đấu và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên tắc tập trung dân chủ luôn đồng hành và bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Giá trị đích thực của nguyên tắc tập trung dân chủ là bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội. Đây là một giá trị quy tụ đầy đủ hai mệnh đề tập trung và dân chủ. Tập trung là sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội đã được khẳng định trong Hiến pháp. Dân chủ là dân chủ trong Đảng, với tư cách là đội tiên phong của toàn dân tộc.

Tập trung dân chủ trong Đảng là nguyên tắc có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Đảng. Thực tiễn đã chứng minh, ở đâu nguyên tắc tập trung dân chủ được cấp ủy, người chỉ huy và cán bộ, đảng viên hiểu một cách đầy đủ, thì ở đó dân chủ được phát triển, tập trung càng vững chắc, sức mạnh của Đảng càng được khẳng định. Ngược lại, nếu nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng không được tôn trọng thì sẽ rất nguy hại. Những người đã tự nguyện viết đơn đứng vào hàng ngũ của Đảng thì phải chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ. Tổ chức Đảng tổ chức cho đảng viên thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình, nghĩa là mỗi đảng viên phải tự kiểm điểm lại mình, thấy rõ ưu điểm để phát huy, khuyết điểm để khắc phục, sửa chữa; đồng thời góp ý cho đồng chí, đồng đội trên tinh thần xây dựng. Do vậy, Đảng không chấp nhận cách nói thiên lệch, một chiều, nói ngoài tổ chức, không đúng với bản chất tập trung để dân chủ và dân chủ để đi đến tập trung.

Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp biện chứng giữa hai thành tố: Dân chủ và tập trung. Việc phát huy dân chủ phải đi đôi với việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo tập trung. Nếu tuyệt đối hóa dân chủ sẽ dẫn đến tình trạng vô tổ chức, xem thường kỷ cương, phép nước. Nếu tuyệt đối hóa tập trung sẽ dẫn đến quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. Tuy nhiên, do điểm xuất phát, điều kiện hoàn cảnh, phẩm chất và năng lực từng đảng viên khác nhau, nên để đạt được sự đồng thuận cao về chủ trương, quan điểm là việc làm không đơn giản; đòi hỏi các tổ chức đảng phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, quản lý, rèn luyện đảng viên về mọi mặt.

Quân ủy Trung ương đã ban hành “Quy định một số vấn đề cơ bản về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam”. Các quân khu, quân đoàn, quân, binh chủng… cũng ban hành “Quy định một số vấn đề cơ bản về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. Đó là những quy định hết sức cần thiết để cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng vào mọi hoạt động của quân đội; xác lập sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội; nghĩa là ở đâu có hoạt động của bộ đội thì ở đó có sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo đó thể hiện trên mọi nhiệm vụ, mọi lĩnh vực; lãnh đạo mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi đơn vị; lãnh đạo trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, tư tưởng, tổ chức; trên cả các mặt công tác: Quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật; trong tất cả các nhiệm vụ: Chiến đấu, huấn luyện, xây dựng, lao động sản xuất. Nguyên tắc này ràng buộc và ngăn chặn sự gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền của một bộ phận người chỉ huy, khi không hiểu, hoặc cố tình không tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ.

Chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng có giá trị vĩnh hằng, quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Những giá trị đích thực trong nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng ta có vai trò quan trọng, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, chống phá Đảng, Nhà nước và thực hiện “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch, phản động; đồng thời có ý nghĩa sâu sắc trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nguyên tắc tập trung dân chủ tồn tại, phát triển thực sự trở thành lực lượng vật chất, vũ khí sắc bén trên mọi phương diện trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Thượng tá NGUYỄN XUÂN HÙNG, Phó chính ủy Trường Trung cấp Quân y 2

Mấy Suy Nghĩ Về Thực Hiện Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ

Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực; thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng…”. Nhận rõ tình hình, Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư khoá XI đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW, Ngày 16-01-2012 về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Mục đích của Nghị quyết nhằm phát huy dân chủ trong Đảng, giúp cho mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên tự giác, trung thực, xem xét, nhìn lại mình để phát huy ưu điểm, tự thấy rõ khuyết điểm, yếu kém và tự mình sửa chữa; trọng tâm là ngăn chặn, đẩy lùi, khắc phục tình trạng suy thoái, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ; xác định trách nhiệm của tập thể, của cá nhân trong việc thực hiện nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng đảng viên phải được đặt trong một chỉnh thể toàn diện dựa trên cơ sở thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao tính tự phê bình và phê bình, kỷ luật nghiêm minh và tự giác. Trong đó, lấy nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng làm vị trí chi phối có tính quyết định nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng là cơ sở, là tiền đề để thực hiện dân chủ ngoài xã hội. Song, thực tiễn đã chỉ ra vấn đề dân chủ trong Đảng và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng ở nơi này, nơi khác, có lúc có việc trên từng lĩnh vực chưa được đề cao, thậm chí còn bị lợi dụng, có nơi vi phạm khá nghiêm trọng, làm vô hiệu hoá sức mạnh của tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ). Đối với một số TCCSĐ trong cơ quan làm công tác tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể, do không thực hiện tốt dân chủ nên trên một số lĩnh vực chưa thể hiện đầy đủ cơ sở khoa học và tư duy chính trị đúng đắn trong một số quyết sách dẫn đến việc phát triển kinh tế-xã hội chưa đạt được chỉ tiêu đã đề ra, như việc lựa chọn phương án đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, xây dựng môi trường văn hoá, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực, trong đề bạt, bố trí, tuyển dụng cán bộ, thực thi pháp luật và một số lĩnh vực khác. Điều đáng lo ngại hiện nay là ở một số nơi trong từng lĩnh vực đã có những nhận thức, vận dụng trong việc làm, ban hành những quy định trái với chủ trương, định hướng của Đảng. Thậm chí, vi phạm nguyên tắc, Điều lệ và các Quy định của Đảng làm ảnh hưởng đến quyền làm chủ và sức sáng tạo của mỗi người, đang tồn tại ở một số ít tư tưởng có khuynh hướng thiên về quyền tập trung. Theo tư tưởng chính trị của Đảng dân chủ là để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung, chứ không phải là dân chủ theo kiểu phân tán, tùy tiện, vô tổ chức. Tập trung là tập trung dựa trên cơ sở dân chủ, chứ không phải tập trung quan liêu theo kiểu độc đoán, chuyên quyền, của một nhóm người nào có chung lợi ích. Thực tế, vì thiếu dân chủ nên năng lực và sức chiến đấu của nhiều TCCSĐ rất hạn chế, thậm chí có nơi bị tê liệt. Một số vấn đề nhân dân và công luận phát hiện nhưng tổ chức đảng không biết hoặc có biết nhưng không dám đấu tranh. Do đó nói và làm còn khác biệt và có khoảng cách. Nguy hại hơn là có một số phần tử cơ hội, sống lựa chiều, miễn là để tạo dựng uy tín cá nhân. Nguyên nhân tình trạng nầy thì có nhiều nhưng nguyên nhân cơ bản vẫn là các cấp uỷ đảng, đặc biệt là những người đứng đầu ở một số cơ quan, đơn vị chưa tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng, chưa thực sự phát huy dân chủ, ban hành và thực thi đồng bộ những quy tắc, quy định và các chế tài cụ thể, có cơ sở khoa học để tạo sự kết dính, ràng buộc giữa tổ chức với tổ chức, cấp dưới và cấp trên, giữa tổ chức và cá nhân trong mỗi tổ chức.

Hiện nay chất lượng sinh hoạt của một số tổ chức đảng còn yếu, nội dung nghèo nàn, hình thức, chiếu lệ, gần như chỉ là “cái đuôi” của chuyên môn. Do đó, sức chiến đấu giảm và nguyên tắc tập trung dân chủ bị coi nhẹ. Người đứng đầu (bí thư, thủ trưởng cơ quan) phải thực sự cầu thị, biết phát động, lắng nghe, chắt lọc và kết luận vấn đề khách quan, khoa học. Chống các biểu hiện dân chủ hình thức, bên trong hô hào nghe có vẻ rất dân chủ nhưng hành động trù dập, định kiến với những người trung thực, nói thẳng; sử dụng vũ khí dân chủ như một “thủ thuật” để hợp thức hoá những vấn đề mang tính áp đặt cá nhân, hoặc ẩn bóng dưới danh nghĩa dân chủ để kích động, gây nghi kỵ, hiểu nhầm, mất đoàn kết nội bộ, là những khuynh hướng hoàn toàn xa lạ và trái với bản chất giai cấp và lợi íchcủa Đảng, như lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: Ngoài lợi ích của Đảng, của giai cấp và của dân tộc Việt Nam, Đảng ta không có lợi ích nào hết.

Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ phải gắn với thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Dân chủ trong Đảng tốt là điều kiện để phát huy dân chủ ngoài xã hội, dân chủ ngoài xã hội tốt là cơ sở để thực hiện tốt dân chủ trong Đảng. Do đó, từng cấp uỷ đảng và thủ trưởng cơ quan căn cứ vào nội dung Nghị định số 71-NĐ/CP ngày 8-9-1998 của Thủ tướng Chính phủ để cụ thể hoá thành các quy định trong mỗi cơ quan, đơn vị, đảm bảo quyền được thông tin, được bàn, được quyết định và được kiểm tra, giám sát của mọi người đối với các vấn đề thực hiện nhiệm vụ chính trị; tham gia quy trình bố trí cán bộ, khen thưởng, kỷ luật; tham gia xây dựng các quy chế, quy định quản lý, xây dựng cơ quan, quản lý lao động; công khai hoá các chế độ chính sách, quản lý tài chính và tài sản công…

Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng ở các TCCSĐ là yêu cầu cấp thiết để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ, phát huy bản chất cách mạng và dân chủ của Đảng, đẩy lùi mọi biểu hiện quan liêu, cửa quyền, làm tổn hại đến uy tín và sức mạnh vốn có của Đảng. Mặt khác, phải cụ thể hoá các quy định, chế tài thể hiện quy trình phát huy tập trung, mở rộng dân chủ thực chất và quyền tập trung trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế-xã hội, tổ chức, cán bộ… để TCCSĐ thật sự là hạt nhân chính trị lãnh đạo ở cơ sở.

Gia Bảo

Những Biến Dạng Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ Và Giải Pháp Khắc Phục

Tập trung dân chủ (TTDC) là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong hoạt động của Đảng. Nguyên tắc này được ví như xương sống làm cho Đảng luôn vững mạnh trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức; đảm bảo thống nhất ý chí và hành động. Đây là tiêu chí để phân biệt chính đảng cách mạng với các đảng cơ hội khác. Thực tiễn thời gian qua cho thấy không ít tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ nội dung, bản chất của nguyên tắc TTDC, do đó khi vận dụng nguyên tắc này đã có những biến dạng, làm ảnh hưởng tiêu cực đến việc xác định, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, tổ chức sinh hoạt đảng và những sai lệch trong công tác tổ chức cán bộ. Vì vậy, nhận diện đúng những biến dạng, tìm ra giải pháp khắc phục có ý nghĩa thực tiễn bức xúc đối với Đảng ta.

1. Những biến dạng chủ yếu trong việc thực hiện nguyên tắc TCDC.

Trong việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng. Là người khởi xướng những nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới, V.I.Lê-nin yêu cầu người đảng viên phải luôn chấp hành kỷ luật đảng và sinh hoạt trong một tổ chức của Đảng. Đây là nhân tố đảm bảo cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, giữ vững vai trò lãnh đạo, giữ vững phẩm chất tư cách của người cộng sản. Đại hội lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Có tình trạng vừa kém dân chủ vừa thiếu kỷ luật, kỷ cương. Một số cán bộ cấp ủy chưa tôn trọng và thực hiện đúng nguyên tắc TTDC”(2). Nguyên tắc TTDC rất quan trọng, nhưng khi đi vào cuộc sống, nếu chủ thể không biết cách vận dụng hoặc thực hiện tùy tiện thì nó có thể bị lợi dụng, bóp méo. Do đó, khi quán triệt, vận hành nguyên tắc TTDC trong thực tiễn cần chú ý cơ sở, điều kiện để bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc. Cần nhìn nhận một thực tế là “Trong một tổ chức, một tập thể lãnh đạo nếu đa số tốt, thiểu số cơ hội, tham nhũng, thoái hóa biến chất thì thực hiện nguyên tắc TTDC sẽ loại bỏ được những phần tử cơ hội, tham nhũng, thoái hóa biến chất ra khỏi Đảng; trái lại khi đa số cơ hội, tham nhũng, thoái hóa, chỉ có thiểu số tốt – theo quy định thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức – thì kết quả sẽ ngược lại: Những người tốt, trong sáng, liêm khiết sẽ bị loại”(3). Hiện tượng con dao hai lưỡi trong việc thực hiện nguyên tắc TTDC chính là chỗ đó. ở những đảng bộ trong sạch, vững mạnh, nội bộ đoàn kết thống nhất thì việc thực hiện nguyên tắc TTDC rất thuận lợi, đạt kết quả tốt. Ngược lại, ở những nơi mất đoàn kết nghiêm trọng, kéo dài, đa số thành viên trong cấp ủy có khuyết điểm, sai lầm, nếu đảng viên kém tính đảng, giác ngộ kém thì nguyên tắc TTDC sẽ bị vô hiệu, kết quả thực hiện sẽ ngược lại với mong muốn, mục tiêu lý tưởng của Đảng. Chất lượng tự phê bình, phê bình trong Đảng hiện nay vẫn còn là khâu yếu. Hiện tượng chê trách “sau lưng”, chỉ phê bình những cái thứ yếu vẫn chưa được khắc phục. Thậm chí có đảng viên lợi dụng phê bình để moi móc khuyết điểm với khẩu khí nặng nề, thiếu văn hóa để nhằm hạ uy tín của người khác. Một số đảng viên trong sinh hoạt đảng thì không phê bình, do động cơ không trong sáng nên đã viết đơn, thư nặc danh tố cáo, vu khống để bôi nhọ nhằm “hạ bệ” đồng chí mình. Hiện tượng cán bộ lãnh đạo độc đoán, mệnh lệnh, trù dập, ức hiếp quần chúng còn xảy ra ở một số nơi, có khi rất trắng trợn. Mất đoàn kết nội bộ, “bằng mặt không bằng lòng”, kéo bè, kéo cánh là những biểu hiện xấu diễn ra ở không ít tổ chức đảng. Những căn bệnh này nếu không có giải pháp chữa trị hữu hiệu thì ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, làm suy giảm năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, dung dưỡng cho những phần tử cơ hội chống phá Đảng. Sinh thời V.I.Lê-nin đã cảnh báo rằng “Nếu như nó không tẩy sạch khỏi bản thân nó những đảng viên tuyên truyền quan điểm chống Đảng thì nó không tránh khỏi tan rã, trước tiên là tan rã về tư tưởng, sau sẽ tan rã cả về mặt vật chất”(4).

2. Để khắc phục những biến dạng trong việc thực hiện nguyên tắc TTDC, theo chúng tôi cần thực hiện tốt mấy vấn đề sau:

Nâng cao nhận thức trách nhiệm cho các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về nội dung, bản chất nguyên tắc TTDC. Tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên có nhận thức đúng mới có cơ sở để vận dụng thực hiện nguyên tắc TTDC có hiệu quả, không chệch hướng. Tập trung và dân chủ là hai thành tố cấu thành một chỉnh thể thống nhất của nguyên tắc. Hai thành tố này ràng buộc, chế ước lẫn nhau, tập trung phải dựa trên cái nền dân chủ và dân chủ phải dưới sự chỉ đạo của tập trung, dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Dân chủ càng được tăng cường thì càng có sự thống nhất tập trung cao. Tuyệt đối hóa, nhấn mạnh một yếu tố nào đều không đúng, trái với bản chất của nguyên tắc TTDC.

Nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt cấp ủy và chi bộ, coi trọng việc quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên. Trên cơ sở những nguyên tắc mà Điều lệ Đảng quy định, mỗi cấp ủy đảng cần xây dựng quy chế làm việc của mình, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp ủy viên. Tổ chức, chuẩn bị kỹ nội dung, hình thức sinh hoạt, thực hiện phương châm của Bác Hồ: Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi, khi đã quyết định rồi thì phải tìm cách thi hành cho nhanh, cho có hiệu quả.

Thường xuyên duy trì tốt chế độ sinh hoạt chi bộ. Chất lượng sinh hoạt chi bộ được đo ở việc chuẩn bị nội dung, hình thức sinh hoạt, luôn đảm bảo ba tính chất. Phấn đấu không để một đảng viên nào đứng ngoài sự quản lý của tổ chức đảng. Khi cán bộ, đảng viên ở tầm cao của văn hóa sẽ đủ sức miễn dịch với những cám dỗ của cuộc sống đời thường, với những độc tố phản văn hóa. Đồng thời tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, bởi đây là căn nguyên gây ra những mầm họa kìm hãm sự phát triển của cơ thể Đảng và cán bộ, đảng viên.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật nghiêm minh những tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thông qua kiểm tra, kịp thời phát hiện những sơ hở của các chủ trương, nghị quyết để bổ sung hoàn thiện phù hợp với quy luật khách quan; đồng thời giáo dục ngăn chặn kịp thời các khuyết điểm, sai phạm của đảng viên. Cấp ủy, UBKT cần hướng vào kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi dấu hiệu vi phạm mới manh nha, để giáo dục, ngăn chặn, không chờ vụ việc vỡ lở mới kiểm tra, nhất là những nơi có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc TTDC. Mặt khác phải coi trọng việc xem xét xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời với những tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cố tình không chấp hành chỉ thị, nghị quyết, tham nhũng, gây chia rẽ, bè phái làm suy yếu khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tổ chức đảng cấp trên cần có biện pháp mạnh để củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy, đề bạt, luân chuyển cán bộ.

Coi trọng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tạo sự thống nhất về quan điểm trong toàn Đảng. Công tác này phải tiếp tục hướng vào luận giải con đường đi lên CNXH; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; kinh tế nhiều thành phần nhưng kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; vấn đề đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân, những biến dạng trong việc thực hiện nguyên tắc TTDC trên bình diện rộng… Bám sát thực tiễn, tổng kết thành lý luận đúng đắn mới dẫn dắt được hành động đi tới kết quả mong muốn.

Có cơ chế cho quần chúng tham gia xây dựng Đảng, giám sát tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Bác Hồ chỉ rõ: Nếu không có nhân dân giúp sức thì Đảng không làm được việc gì. Do đó, bên cạnh việc cụ thể hóa quan điểm của Đảng về công tác quần chúng trong tình hình mới, cần xây dựng cơ chế quy định để nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên. Bởi “Họ chẳng những trông thấy những người tốt, việc tốt mà họ cũng trông thấy những người xấu, việc xấu trong Đảng”(5). Cuộc đấu tranh chống các loại “quốc nạn” trong cơ chế thị trường hiện nay đòi hỏi không thể thiếu một loại vũ khí sắc bén thông qua công luận và dư luận xã hội – đó là tiếng nói của nhân dân.

(1) Văn kiện hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, NXBCTQG, H.2004, tr.124. (2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXBCTQG, H.1996, tr.138. (3) GS,TS. Nguyễn Phú Trọng, PGS, TS. Tô Huy Rứa, PGS, TS. Trần Khắc Việt: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới (sách tham khảo), NXBCTQG, H.2004, tr.209. (4) V.I.Lê-nin toàn tập, NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1979, tr.125-126. (5) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2002, tập 5, tr.262.

TS. NGUYỄN THẾ TƯ Học viện Chính trị khu vực III