Top 3 # Xem Nhiều Nhất Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Quyết Định Hành Chính Nhà Nước Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Photomarathonasia.com

Bvpl: Bàn Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Ban Hành Quyết Định Hành Chính Trong Lĩnh Vực Đất Đai

Theo đó, để nâng cao nhận thức và bảo đảm chấp hành đúng quy định pháp luật về đất đai; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong việc ban hành quyết định hành chính (QĐHC) trong lĩnh vực quản lý đất đai, hạn chế việc Tòa án hủy QĐHC do có vi phạm pháp luật; cũng như nâng cao chất lượng công tác kiểm sát trong lĩnh vực này. Trên cơ sở các vụ án hành chính Tòa án các cấp trong khu vực tuyên hủy QĐHC, VKSND cấp cao tại TP HCM xây dựng chuyên đề “Một số vấn đề về ban hành quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai tại các tỉnh, thành phố phía Nam thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính từ ngày 1/7/2014 đến 31/6/2019” để rút kinh nghiệm chung.

Dự Hội nghị có các đồng chí: Trần Công Phàn – Phó Viện trưởng VKSND tối cao; Nguyễn Huy Tiến – Phó Viện trưởng VKSND tối cao; Đại diện lãnh đạo Vụ 10, Vụ 14 VKSND tối cao; đại diện UBND các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam; lãnh đạo, phòng nghiệp vụ VKSND các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam; lãnh đạo VKSND cấp cao tại Hà Nội, Đà Nẵng; Đại diện lãnh đạo Trường Đại học kiểm sát Hà Nội và Trường đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại TP HCM; Đại diện lãnh đạo TAND cấp cao tại TP HCM.

Về phía VKSND cấp cao tại TP HCM có đồng chí Nguyễn Đình Trung – Viện trưởng Viện Cấp cao tại TP HCM chủ trì Hội nghị; các đồng chí Phó Viện trưởng cùng đại diện lãnh đạo các Viện nghiệp vụ Viện Cấp cao tại TP HCM.

Phát biểu khai mạc, đồng chí Nguyễn Đình Trung – Viện trưởng VKSND cấp cao tại TP HCM cho biết, theo số liệu thống kê từ ngày 1/7/2014 đến 30/6/2019 cho thấy tổng số vụ án khiếu kiện QĐHC, hành vi hành chính theo thủ tục phúc thẩm thì có đến 89,7% khiếu kiện về giải quyết tranh chấp đất đai; về thu hồi đất; về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

Kết quả xét xử cho thấy có 13,1% bản án phúc thẩm của TAND cấp cao tại TP HCM tuyên hủy quyết định hành chính của UBND và chủ tịch UBND các cấp.

Hội nghị chuyên đề đã nêu ra một số giải pháp nâng cao chất lượng ban hành QĐHC trong lĩnh vực đất đai như: Giải pháp hoàn thiện pháp luật; Giải pháp về cơ chế tham vấn ý kiến, phân công, phối hợp, kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội khi ban hành QĐHC trong lĩnh vực đất đai; Giải pháp về nâng cao trách nhiệm, nhận thức và trình độ năng lực của UBND và cơ quan tham mưu; Giải pháp về công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hành chính và cơ quan hành chính; Giải pháp về cơ sở vật chất, phương tiện, điều kiện làm việc phục vụ công tác xây dựng, ban hành QĐHC trong lĩnh vực quản lý đất đai…

Phát biểu tham luận tại Hội nghị, ông Ngô Minh Châu – Phó Chủ tịch UBND TP HCM cho biết thực trạng khiếu nại về đất đai trên địa bàn TP HCM hiện nay chủ yếu là khiếu nại (KN) về bồi thường, hỗ trợ tái định cư; KN về việc cấp thu hồi GCNQSDĐ; KN việc giải quyết các tranh chấp về đất đai của các cơ quan Nhà nước… Ông Ngô Minh Châu cho rằng, để giải quyết hiệu quả những vấn đề trên cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp cả cấp bách và lâu dài để giải quyết hiệu quả các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai, tránh phát sinh những Quyết định hành chính không đúng về nội dung và hình thức.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai Trần Văn Vĩnh cho rằng để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính cần tăng cường vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong thực hiện nhiệm vụ kiểm sát giải quyết của vụ án hành chính. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn và thường xuyên thông báo, rút kinh nghiệm trong quá trình kiểm sát của VKS cấp trên đối với cấp dưới để nâng cao chất lượng kiểm sát.

Đồng chí Phạm Hồng Phong – Phó chánh án TAND cấp cao tại TP HCM cho rằng vấn đề khiến kiện trong vấn đề đất đai hiện nay rất phức tạp. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ này cần thực hiện một số giải pháp về nâng cao năng lực của cơ quan tố tụng và cơ quan quản lý Nhà nước.

Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giải Quyết Thủ Tục Hành Chính Trên Địa Bàn Tỉnh Bắc Giang

Trong thời gian qua, chất lượng giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) cho người dân, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã có nhiều chuyển biến, mang lại kết quả tích cực, nâng cao chất lượng phục vụ và sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp khi giao dịch với các cơ quan hành chính nhà nước, thông qua các giải pháp chủ yếu như sau:

Hằng năm, UBND tỉnh đã ban hành và chỉ đạo thực hiện tốt Kế hoạch kiểm soát TTHC theo Nghị định số 63/2010/NĐ-CP, Nghị định số 48/2013/NĐ-CP, Nghị định số 92/2017/NĐ-CP của Chính phủ. Hiện nay, toàn tỉnh có 2.003 TTHC thuộc thẩm quyền, trong đó: cấp tỉnh 1.577 TTHC, cấp huyện 298 TTHC, cấp xã 128 TTHC.

Kịp thời chỉ đạo việc rà soát, đánh giá và thực hiện đơn giản hóa TTHC. Giai đoạn 2016-2020, các sở, ngành đã rà soát 157 TTHC thuộc 10 nhóm lĩnh vực, đề nghị thông qua phương án đơn giản hóa 89 TTHC thuộc 14 lĩnh vực. Hằng năm, thường xuyên rà soát, cắt giảm thời gian giải quyết từ 25-30% đối với các TTHC có thời hạn từ 15 ngày trở lên; năm 2017 cắt giảm thời gian đối với 162/1.799 TTHC, năm 2018 và 2019 cắt giảm thời gian đối với 626/2.166 TTHC trong các lĩnh vực như: kế hoạch và đầu tư, xây dựng, công thương, tư pháp, y tế, giáo dục và đào tạo … Thực hiện số hóa, mẫu hóa với 2.200 TTHC thường xuyên phát sinh hồ sơ.

Thực hiện tốt việc công bố, công khai TTHC: Từ năm 2016 đến nay, Chủ tịch UBND tỉnh ban hành 102 quyết định công bố công khai 8.748 TTHC áp dụng trên địa bàn tỉnh, đạt tỷ lệ 100%, trong đó: ban hành mới: 5.345 TTHC; sửa đổi, bổ sung, thay thế: 822 TTHC; hủy bỏ, bãi bỏ: 2.130 TTHC. Các TTHC sau khi công bố được cập nhật, công khai đầy đủ, kịp thời trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC, Trang thông tin điện tử và Phần mềm một cửa điện tử. Niêm yết công khai tại Trung tâm phục vụ hành chính công, Bộ phận một cửa cấp huyện, cấp xã theo quy định.

Từ ngày 01/9/2016, Trung tâm hành chính công tỉnh được thành lập và đưa vào hoạt động. Trung tâm là nơi tiếp nhận và trả kết quả của 18 sở, cơ quan thuộc UBND tỉnh, 04 cơ quan Trung ương ngành dọc (Bảo hiểm xã hội tỉnh 09 TTHC, Công an tỉnh 22 TTHC, Cục Thuế tỉnh 163 TTHC, Điện lực 26 TTHC). Năm 2019, các cơ quan, đơn vị đã cung cấp thêm 03 dịch vụ (tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp thuộc Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh; thu ngân sách nhà nước thuộc Ngân hàng Quân đội MB; bộ phận hỗ trợ TTHC) để phục vụ người dân, doanh nghiệp. Hiện nay có 06 cơ quan thực hiện giải quyết TTHC “4 tại chỗ”, “5 tại chỗ” với 67 TTHC gồm: Sở Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Xây dựng, Lao động – Thương binh và Xã hội, Bảo hiểm xã hội, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Triển khai ứng dụng Zalo trong giải quyết TTHC tại Trung tâm, đến nay, thu hút trên 18.000 lượt quan tâm và sử dụng.

UBND tỉnh đã kịp thời ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm phục vụ hành chính công; UBND cấp huyện, cấp xã đã ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Bộ phận một cửa cấp huyện, cấp xã bảo đảm đúng quy định của Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018 của Chính phủ về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC (trước đây là Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg).

Năm 2019, tỉnh Bắc Giang đã xây dựng Cổng Dịch vụ công (DVC) cấp tỉnh đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của Chính phủ. Chủ tịch UBND tỉnh đã công bố và đưa vào thực hiện 176 DVC trực tuyến mức độ 3, mức độ 4, trong đó: có139 DVC của các sở, ngành, 29 DVC cấp huyện và 08 DVC cấp xã, đồng thời tích hợp liên thông với Cổng DVC quốc gia. Tính đến tháng 9/2020, tổng số hồ sơ tiếp nhận trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 tại Trung tâm Phục vụ hành chính công là 78.025 hồ sơ, đã giải quyết 21.502 hồ sơ, đạt tỷ lệ 27,6% (vượt chỉ tiêu quy định là 25%). Một số cơ quan có số lượng hồ sơ trực tuyến cao như: Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Công Thương, Sở Giao thông vận tải, Sở Tài chính …

Ngay sau khi Quyết định số 45/2016/QĐ-TTg ngày 19/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ được ban hành, Chủ tịch UBND tỉnh đã sớm ban hành văn bản chỉ đạo các sở, ngành, cấp huyện, cấp xã triển khai thực hiện việc tiếp nhận, trả kết quả giải quyết TTHC qua dịch vụ Bưu chính công ích. Đồng thời, ban hành các quyết định công bố TTHC tiếp nhận, trả kết quả giải quyết qua dịch vụ bưu chính với tổng số 1.742 TTHC (cấp tỉnh: 1.506 TTHC, cấp huyện: 161 TTHC, cấp xã: 75 TTHC). Kết quả đến nay, đã tiếp nhận 70.566 hồ sơ và trả kết quả 204.752 hồ sơ qua dịch vụ bưu chính công ích.

UBND tỉnh đã quan tâm đầu tư cải tạo, nâng cấp, mở rộng, trang bị đầy đủ thiết bị, máy móc, phương tiện làm việc hiện đại tại Trung tâm phục vụ hành chính công, Bộ phận một cửa cấp huyện, cấp xã để nâng cao chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp khi đến giải quyết TTHC.

Chỉ đạo các sở, ngành, UBND cấp huyện, cấp xã xem xét, lựa chọn, bố trí công chức có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm, kỹ năng giao tiếp ứng xử tốt, có tinh thần trách nhiệm cao, thái độ, tác phong phục vụ để làm việc tại Bộ phận một cửa các cấp. Tính đến tháng 6/2020, toàn tỉnh có 881 công chức làm việc tại Bộ phận một cửa các cấp (100% đạt chuẩn trình độ chuyên môn theo quy định từ trung cấp trở lên), trong đó: Trung tâm Phục vụ hành chính công 27 người, Bộ phận một cửa cấp huyện 136 người, Bộ phận một cửa cấp xã 718 người. UBND tỉnh đã trình HĐND tỉnh ban hành nghị quyết nâng mức phụ cấp và hỗ trợ trang phục cho công chức làm việc tại Bộ phận một cửa ở địa phương.

Hằng năm, Ban Chỉ đạo CCHC của tỉnh thường xuyên đi kiểm tra, đôn đốc các cơ quan, địa phương, trong đó, tập trung kiểm tra việc giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp, khắc phục tình trạng giải quyết TTHC quá hạn.Chủ tịch UBND tỉnh giao Sở Nội vụ kiểm tra đột xuất việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính trong thi hành nhiệm vụ, công vụ. Các cuộc kiểm tra đều được lập biên bản, ghi rõ những ưu điểm, kết quả đạt được, những hạn chế và kịp thời có kiến nghị xử lý những trường hợp vi phạm quy định để nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ nhân dân.

Chỉ đạo các cơ quan, địa phương thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền bằng nhiều hình thức như: trên cổng thông tin điện tử tỉnh; trang thông tin điện tử cơ quan, địa phương; trên Báo Bắc Giang, Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về TTHC và Dịch vụ công trực tuyến; phát hành các đoạn phim ngắn hướng dẫn thực hiện TTHC… để nâng cao nhận thức, thái độ ứng xử, tác phong, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh.

Sự quan tâm, chú trọng nâng cao chất lượng giải quyết TTHC trong thời gian qua đã góp phần nâng cao Chỉ số hài lòng của người dân, doanh nghiệp đối với sự phục vụ của cơ quan nhà nước (SIPAS) trong tỉnh Bắc Giang, cụ thể như:

– Chỉ số SIPAS cấp tỉnh năm 2018 đạt 82,45%, xếp thứ 30/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; năm 2019 đạt 89,18%, xếp thứ 09/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương..

– Chỉ số SIPAS bình quân năm 2018 của các sở, cơ quan thuộc UBND tỉnh đạt 98,54%, các huyện, thành phố đạt 97,97%; SIPAS bình quân năm 2019 của các sở, cơ quan thuộc UBND tỉnh đạt 89,87%, cấp huyện đạt 86,33%. Tính đến năm 2019, mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp về TTHC đạt tỷ lệ 94,8%; sự hài lòng của người dân đối với lĩnh vực giáo dục công đạt 84,89%; lĩnh vực y tế công đạt 82%./.

Nguyễn Duy Đoàn – Phó Trưởng phòng, Phòng Cải cách hành chính, Sở Nội vụ tỉnh Bắc Giang

Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực Hành Chính Cấp Xã Ở Nước Ta Hiện Nay

Ngày đăng: 02/11/2016 02:57

1. Nâng cao chất lượng tuyển dụng nguồn nhân lực hành chính nhà nước cấp xã

Tuyển dụng tốt sẽ góp phần hình thành đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng, là yếu tố quan trọng để quản lý, sử dụng và phát triển nguồn nhân lực theo mục tiêu đề ra; góp phần làm tăng lòng tin của người dân vào nền hành chính và mức độ hài lòng của người dân khi giải quyết các thủ tục hành chính. Tuyển dụng được những cán bộ, công chức có ý thức, khả năng tự học tập để thích ứng với công việc sẽ giảm chi phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đào tạo.

Tuyển dụng phải được tổ chức công khai, minh bạch, khách quan, thông báo rộng rãi về nhu cầu, thông tin về tuyển dụng, thu hút nhiều người tham gia dự tuyển và tuyển được người có ưu điểm vượt trội trong các ứng cử viên để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ. Chú trọng tới tiêu chuẩn cán bộ, công chức cho vị trí cần tuyển dụng, phù hợp với công việc, đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ. Không tuyển dụng theo mối quan hệ “thân quen” với người trong cơ quan nhà nước.

Tổ chức tuyển dụng phải khách quan, công bằng để tuyển dụng được những người có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ của chức danh công chức cấp xã cần tuyển dụng. Đặc biệt, cần xử lý nghiêm những tiêu cực trong công tác tuyển dụng cán bộ, công chức của các xã,phường, thị trấn.

Hoạt động tập sự của người mới được tuyển dụng cũng làm gia tăng kiến thức, kinh nghiệm thực tế cho cán bộ, công chức, giúp họ làm quen với công việc và góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mới tuyển dụng. Vì vậy, phải khắc phục tình trạng tập sự mang tính hình thức, để tập sự thực sự đóng vai trò là giai đoạn thử việc và đánh giá khả năng thực sự của người mới được tuyển dụng. Sau tập sự phải đánh giá đúng, nếu cán bộ, công chức mới được tuyển dụng không đáp ứng được yêu cầu công việc được giao thì phải mạnh dạn chấm dứt hợp đồng.

2. Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hành chính nhà nước cấp xã

Đây là bước cập nhật, trang bị cho cán bộ, công chức các xã, thị trấn những kiến thức, kỹ năng để ngày càng hoàn thành tốt hơn công việc của mình.

Trong điều kiện hiện nay, trước những yêu cầu ngày càng cao của công việc, của quá trình cải cách hành chính nhà nước, để đổi mới, nâng cao chất lượng của công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hành chính nhà nước ở các xã, phường, thị trấn cần triển khai một số nội dung sau:

2.1 Đổi mới tư duy về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Cán bộ, công chức phải thay đổi cách nghĩ, cách nhìn nhận về đào tạo, bồi dưỡng, chủ động học tập, bồi dưỡng vì mục đích nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc cho chính bản thân. Tránh xem công tác đào tạo, bồi dưỡng theo hướng bị động; phải thực hiện học và bồi dưỡng theo nhiệm vụ. Đặc biệt, cần loại bỏ những trường hợp đi học hình thức, chỉ vì cần bằng cấp để hợp thức hóa tiêu chuẩn.

Phải xác định mục đích của đào tạo, bồi dưỡng là làm cho cán bộ, công chức ngày càng hoàn thiện hơn về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu của công việc được giao. Do đó, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng phải xuất phát từ những yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ mà cán bộ, công chức phải đảm nhiệm, gắn liền với đòi hỏi về mức độ hoàn thiện và sự gia tăng hiệu quả công việc của cán bộ, công chức so với trước khi được đào tạo.

Nâng cao ý thức tự giác học tập nâng cao trình độ của chính bản thân cán bộ, công chức. Khuyến khích họ đề nghị những mong muốn cần được đào tạo, bồi dưỡng để hoàn thiện bản thân và những kỹ năng, kiến thức cần được đào tạo, bồi dưỡng để có thể nâng cao hiệu quả công việc, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Nhận thức đúng đắn và có động lực từ bên trong bản thân cán bộ, công chức sẽ thúc đẩy cán bộ, công chức nỗ lực học tập, phấn đấu trước hết vì bản thân mình, từ đó góp phần vào việc thực hiện tốt hơn công việc và nhiệm vụ được giao.

2.2 Xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức ở các xã, phường, thị trấn

Căn cứ vào vị trí việc làm, chức vụ quản lý lãnh đạo và yêu cầu phát triển nguồn nhân lực hành chính nhà nước của các xã, phường, thị trấn để xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn nghiệp vụ, chức danh của cán bộ, công chức đã được quy định; nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng nhằm giúp cho cán bộ, công chức và UBND các xã, thị trấn thực hiện công việc tốt hơn, hiệu quả hơn; nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, về kỹ năng, về thực tiễn, tin học,…

Đây là một trong những nội dung quan trọng để triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hiệu quả theo nhu cầu thực tế. Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng là cơ sở triển khai thực hiện việc lập kế hoạch, quy hoạch công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Nhờ đó công tác đào tạo, bồi dưỡng sẽ mang tính chủ động, sáng tạo hơn, giảm bớt tính thụ động.

Điều đó thể hiện ở việc đổi mới đào tạo, bồi dưỡng công chức theo hướng đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức cán bộ, công chức cần, không đào tạo, bồi dưỡng theo những kiến thức mà cơ sở đào tạo có. Nghĩa là, phải căn cứ vào thực tế đặt ra nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cái gì, không áp đặt từ trên xuống để giao cho công chức phải học cái gì. Thực hiện được như vậy công chức mới có thể bổ sung kiến thức, hoàn thiện bản thân để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao.

2.3 Đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng

Ngoài đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, về lý luận chính trị, còn cần đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, nâng cao ý thức trách nhiệm, đào tạo các kỹ năng cần thiết như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý tình huống, qua đó góp phần khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, cục bộ, lãng phí của một số cán bộ, công chức cấp xã. Cùng với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở trường lớp, cần mở rộng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ chính thực tiễn công việc của cơ quan, đơn vị. Qua thực tế cho thấy, đây là hình thức đào tạo, bồi dưỡng chưa phổ biến nhưng đem lại kết quả thiết thực cho mỗi cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn. Đó là quá trình nỗ lực làm việc, giải quyết tình huống trong thực tế công việc hàng ngày và tích lũy kinh nghiệm để nâng cao trình độ. Ngoài ra, còn học hỏi từ những chuyến đi thực tế, từ kinh nghiệm thực tiễn của các địa phương về các lĩnh vực.

2.4 Đào tạo, bồi dưỡng chú trọng chất lượng, không chạy theo chỉ tiêu về số lượng

Cần coi trọng khâu đánh giá chất lượng của cán bộ, công chức sau đào tạo, bồi dưỡng. Đánh giá sự gia tăng về kiến thức, kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ và khả năng giải quyết tình huống, đáp ứng yêu cầu của công việc đảm nhiệm.

3. Thực hiện chương trình bồi dưỡng kỹ năng thực tế, nâng cao năng lực thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý hành chính cấp xã và công chức chuyên môn trong thực hiện nhiệm vụ

Đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức, kỹ năng thực tế để thực hiện các công việc trong chỉ đạo, điều hành hoạt động của UBND các xã, phường, thị trấn, như:

– Bồi dưỡng kiến thức về tầm nhìn, về quản lý nhà nước trong lĩnh vực chuyên môn của cán bộ lãnh đạo, quản lý để từng bước nâng tầm, chất lượng, hiệu quả hoạt động.

– Nhóm kỹ năng quan hệ giao tiếp, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng tiếp dân.

– Kỹ năng chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ của UBND xã, phường, thị trấn, kỹ năng điều hành cuộc họp, kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng ra quyết định.

– Kỹ năng quản lý: kỹ năng xây dựng văn bản, thuyết trình, lập kế hoạch; có năng lực tổ chức thực tiễn, tập hợp và vận động nhân dân tổ chức thực hiện các chính sách, quyết định của các cấp lãnh đạo, quản lý.

Những kỹ năng này có vai trò nâng cao chất lượng hoạt động của UBND các xã, phường, thị trấn, nhất là hoạt động điều hành, chỉ đạo của tập thể UBND các xã, phường, thị trấn, đặc biệt là trong các khâu lập kế hoạch, định hướng, dự báo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ để phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương. Đây là nội dung rất phức tạp và khó định lượng để đào tạo, bồi dưỡng nhưng lại cần thiết cho cán bộ, công chức trong quá trình làm việc, nên phải triển khai thực hiện từng bước mới đạt kết quả mong muốn.

Đội ngũ công chức chuyên môn ở các xã, phường, thị trấn đa số trẻ tuổi, được đào tạo theo quy định nên có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tương đối tốt. Tuy nhiên, trong thực tiễn công việc vẫn còn nhiều công chức chưa đáp ứng được yêu cầu, việc tham mưu cho lãnh đạo xử lý công việc chuyên môn chưa tốt.

Các kiến thức, kỹ năng cơ bản cần bồi dưỡng cho đội ngũ công chức chuyên môn ở các xã, phường, thị trấn gồm:

– Bồi dưỡng kỹ năng hoạt động tham mưu và các văn bản pháp luật, kỹ năng tin học văn phòng cho 100% cán bộ, công chức.

– Các kỹ năng tác nghiệp cá nhân như kỹ năng viết báo cáo, kỹ năng bố trí lịch công tác, kỹ năng lắng nghe.

1. Chính phủ, Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, H.2011.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, H.2011.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Kết luận số 24-KL/TW ngày 05/6/2012 Về đẩy mạnh công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo.

5. Quốc hội khóa XIII, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

6. Quốc hội khóa XIII, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.

tcnn.vn

Một Số Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Cải Cách Hành Chính

Thời gian qua, Trung ương và địa phương đã ban hành nhiều văn bản thực hiện công tác cải cách hành chính như:Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2015; Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 22/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020;Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016 – 2020; Nghị quyết số 01-NQ/ĐH ngày 18/10/2015 của Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015 – 2020…

Để thực hiện tốt các văn bản trên, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 587/QĐ-UBND ngày 29/02/2012 về việc ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2012 – 2020. Trong đó, xác định các mục tiêu cụ thể như sau: “Đẩy mạnh thực hiện CCHC toàn diện trên tất cả 06 nhiệm vụ chung, đặc biệt tập trung cao thực hiện có hiệu quả 04 nhiệm vụ đột phá của giai đoạn 2016 – 2020 là: Cải cách tổ chức bộ máy; cải cách thủ tục hành chính; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; hiện đại hóa nền hành chính nhằm đảm bảo xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước các cấp hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước; hệ thống quản lý cán bộ, công chức, viên chức tại các cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp được cải cách cơ bản; xây dựng nguồn nhân lực có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác CCHC”.

Một là, tiếp tục thực hiện tốt công tác chỉ đạo, nâng cao trách nhiệm người đứng đầu.Công tác CCHC phải được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của các cơ quan, đơn vị. Theo đó, thủ trưởng các đơn vị cần tổ chức hiệu quả các nhiệm vụ về CCHC được giao tại chương trình, kế hoạch hàng năm. Theo đó, việc xây dựng kế hoạch phải đảm bảo chất lượng. Xác định rõ kết quả đối với từng nhiệm vụ cụ thể gắn với trách nhiệm của từng đơn vị, lãnh đạo đơn vị và công chức được giao nhiệm vụ. Trên cơ sở đó thường xuyên đôn đốc, kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện để chấn chỉnh kịp thời hạn chế, thiếu sót.

Hai là, phát huy tính sáng tạo, nâng cao chất lượng công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (QPPL).Hệ thống văn bản QPPL của tỉnh phải đảm bảo tính hơp Hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất và tính khả thi. Muốn vậy phải thực hiện nghiêm túc quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Mặt khác, các sở, ngành, địa phương cần thực hiện tốt công tác tự kiểm tra, rà soát văn bản QPPL theo quy định. Thực hiện nhiệm vụ cải cách thể chế hướng tới tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp đồng thời cũng phải đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước thông qua các cơ chế phối hợp, kiểm tra, giám sát, hậu kiểm.

Ba là, tiếp tục thực hiện tốt công tác cải cách thủ tục hành chính (TTHC).

Tiếp tục triển khai, đẩy mạnh công tác cải cách TTHC để tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh. Kiểm soát việc ban hành các TTHC mới, thực hiện nghiêm việc đánh giá tác động TTHC tại các văn bản quy phạm pháp luật; Tiếp tục rà soát, kiến nghị cắt giảm, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính, trên cơ sở đó kiến nghị sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật không phù hợp. Thực hiện tốt việc công bố, công khai các quy trình, TTHC trong từng lĩnh vực.

Năm là, tiếp tục quan tâm xây dựng đội ngũ công chức, viên chức đủ phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ. Đây là nhiệm vụ luôn được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh đặc biệt quan tâm. Theo đó, Tỉnh đã có chủ trươngtập trung kiện toàn đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài, đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, đảm bảo trình độ chuyên môn cao, nâng cao chất lượng, năng lực cho cán bộ, công chức, viên chức, nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách, theo đó tập trung thực hiện các nhiệm vụ đổi mới mạnh mẽ, hiệu quả công tác cán bộ; Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo quá trình, đảm bảo tính liên tục, đa chiều, theo nhiều tiêu chí và mức độ hoàn thành công việc được giao.

Tiếp tục thực hiện nghiêm các quy định trong công tác cán bộ về quản lý công chức, viên chức; Công tác luân chuyển, định kỳ chuyển đổi vị trí công tác; Về trình tự, thủ tục bổ nhiệm cán bộ, về trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị, cấp ủy trong công tác cán bộ, về tiêu chuẩn chức danh cán bộ theo quy định…

Sáu là, chủ động triển khai, tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng 4.0.Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành của các đơn vị; Chú trọng việc xử lý công việc, công tác báo cáo và giải quyết TTHC được thực hiện trên môi trường mạng qua đó nâng cao hiệu quả giải quyết công việc trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị theo quy định.

Bảy là, tiếp tục làm tốt công tác theo dõi, đánh giá chấm điểm Chỉ số CCHC của tỉnh hàng năm.Tổ chức triển khai công tác chấm điểm công khai, minh bạch và chính xác nhằm đánh giá kết quả thực hiện của các đơn vị và kịp thời đề ra các giải pháp khắc phục tồn tại, hạn chế trong triển khai công tác CCHC.

Để góp phần hoàn thành các mục tiêu về công tác cải cách hành chính theo các văn bản, các kế hoạch của tỉnh thì cần thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp. Với góc độ là một cán bộ tham mưu công tác pháp luật, chúng tôi mạnh dạn kiến nghị một số giải pháp như trên nhằm góp phần tiếp tục thực hiện tốt công tác cải cách hành chính của tỉnh nhà, qua đó từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập của đất nước./.

Thạc sỹ Nguyễn Thị Hoa Phượng