Top 12 # Xem Nhiều Nhất Giải Pháp Học Tốt Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Photomarathonasia.com

Những Giải Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Toán

KÍNH CHÀO QUÝ LÃNH ĐẠO CÙNG TẤT CẢ QÚY THẦY CÔ VỀ THAM DỰ GIÁO VIỆN DẠY GIỎI VÒNG HUYỆN CẤP TIỂU HỌC

VÒNG 2: TRÌNH BÀY GIẢI PHÁP

NĂM HỌC: 2020 – 2021NHỮNG GIẢI PHÁP DẠY HỌC GIÚP HỌC SINH LỚP 5 HỌC TỐT MÔN TOÁN

GIÁO VIÊN: HỒ THANH NGẠT

Với những học sinh chậm tiến môn toán thường làm toán rất chậm, tư duy không bằng các em khác, tôi thường giảng giải thêm, cho làm bài với lượng ít hơn những học sinh khác. Khi các em làm bài tôi thường quan sát, theo dõi để hướng dẫn thêm, giảng thêm những chỗ các em còn lúng túng, tính toán sai. Đối với những bài toán có lời văn, tôi thường cho các em đọc đề nhiều lần, gợi ý để các em phân tích được bài toán. Tôi thường dùng các loại sơ đồ, hình vẽ… để các em dễ hiểu bài toán hơn từ đó các em thực hiện được việc giải bài toán. Phát động phong trào “Đôi bạn cùng tiến”, tôi đã xếp chỗ ngồi cho 1 HS khá giỏi ngồi bên cạnh 1 HS chậm tiến và giao nhịêm vụ kèm cặp, giúp đỡ các bạn chậm tiến để cùng tiến bộ. Khi có những bài toán mà bạn chưa hiểu hoặc tính toán sai phải giảng cho bạn nghe, gợi ý để cho bạn tự làm. Phong trào học nhóm ở nhà, cứ 2-3 học sinh gần nhà nhau có thể đến nhà nhau để cùng học, em khá giỏi giúp đỡ bạn chậm tiến. Kết hợp với Tổng phụ trách đội, liên đội để giúp đỡ những HS chậm tiến, HS có hoàn cảnh khó khăn. Tạo điều kiện để các em có thời gian đi học đều và có đầy đủ đồ dùng học tập. Động viên khuyến khích các em khi có những tiến bộ, cố gắng. Mặc dù những tiến bộ nhỏ tôi vẫn động viên kịp thời để các em phấn khởi và hứng thú học tập. Dạy phụ đạo ngoài giờ là một việc làm không thể thiếu đối với những HS chậm tiến. Vào những ngày ít tiết tôi dành thời gian phụ đạo thêm 30 phút cho các em chậm tiến.

Hàng tháng, tôi kiểm tra để nắm tình hình đồng thời báo cho phụ huynh học sinh biết những biểu hiện tiến bộ hay không tiến bộ của con em mình cho phụ huynh biết. Tuyên dương những HS thực hiện tốt phong trào “Đôi bạn cùng tiến”, phong trào “Học nhóm ở nhà”. Cuối tháng động viên khuyến khích bằng những lời tuyên dương trước lớp hay là bằng một lời khen… Một yếu tố quan trọng không kém đó là lòng nhiệt tình, sự gần gũi, tình yêu thương của giáo viên dành cho học sinh. Tôi luôn tin tưởng vào HS, tin tưởng vào sản phẩm của mình, từ sự tự tin và lòng nhiệt tình đó của giáo viên đã làm cho HS thấy được trách nhiệm của mình, trách nhiệm với bản thân, với thầy cô từ đó vượt qua nhiều khó khăn thử thách vươn lên trong học tập. Tuy những giải pháp mà bản thân tôi vừa nêu không to lớn lắm. Nhưng nó chứa đựng nhiều tình cảm, sự yêu thương và lòng nhiệt huyết dành cho HS.

Giải Pháp Giúp Học Sinh Yếu Kém Học Tốt Môn Toán

A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.Về lý luận.

Yêu cầu của công tác giảng dạy đó là trang bị cho học sinh kiến thức và xây dựng, hoàn thiện các phẩm chất đạo đức cho học sinh. Tuy nhiên, tùy vào hoàn cảnh hay khả năng tiếp thu nhanh hay chậm của mỗi học sinh khác nhau sau một thời gian tạo ra các đối tượng học sinh là: khá-giỏi, trung bình, yếu kém.Mỗi đối tượng học sinh lại cần những phương pháp giáo dục riêng đòi hỏi người giáo viên phải xây dựng cho mình cách thức giáo dục thích hợp. Ở đề tài này, tôi sẽ đề cập đến cách học sinh yếu kém môn toán

Học sinh yếu kém về toán là những học sinh có kết quả về môn toán thường xuyên dưới mức trung bình. Đối với diện học sinh này, giáo viên thường gặp rất nhiều khó khăn do càng là học sinh yếu kém thường lại là các học sinh cá biệt, vì một thời gian lâu dần các em chưa thể xây dựng cho mình phương pháp học tập thích hợp, dẫn đến tình trạng chán học , lười học. Do đó việc giúp đỡ lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng cần thiết đối với những học sinh này tất yếu đòi hỏi tốn nhiều công sức và thời gian hơn so với những học sinh khác.

Về mặt lý luận, người thầy phải nắm vững các đặc điểm tâm sinh lí, cũng như năng lực tiếp thu kiến thức của học sinh yếu kém ,để từ đó đề ra các giải pháp phù hợp nhằm khắc phục tình trạng yếu kém trong học toán của học sinh.

2. Thực tiễn.

Cũng như việc bồi dưỡng học sinh giỏi toán, việc giúp đỡ học sinh yếu kém phải được tiến hành ngay cả trong những tiết dạy học đồng loạt bằng các biện pháp phân hoá nội tại thích hợp.

Tuy nhiên, trong thực tế dạy học việc nâng cao hiệu suất giờ lên lớp để giúp đỡ học sinh yếu kém người thầy vẫn cần có sự giúp đỡ tách riêng đối với nhóm học sinh yếu kém (thực hiện chủ yếu ngoài giờ chính khoá).

Lứa tuổi học sinh lớp 7 là khoảng thời gian mà học sinh có những biến đổi tâm lí rõ nét, các em đã mạnh dạn hơn trong các mối quan hệ bạn bè, có nhu cầu trong việc tìm hiểu thế giới bên ngoài,nếu bài học không thú vị, khó hiểu hoặc không phù hợp với trình độ rất dễ gây nên tình trạng chán học,lười học dẫn đến đạt kết quả kém trong học tập.

Trên địa bàn mà trường tôi trực thuộc, học sinh đa số là con em nông thôn, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên việc đầu tư về vật chất cũng như thời gian cho con cái học tập chưa cao, ngoài giờ đến lớp các em còn phải giúp đỡ bố mẹ các công việc gia đình, không có thời gian để tự học. Sự quan tâm kèm cặp con cái của phụ huynh còn hạn chế, hơn nữa hoàn cảnh gia đình một số em do làm ăn không chăm lo con cái , thường không ở nhà kèm cặp. Ý thức học tập của một số em chưa cao, phương pháp học tập chưa phù hợp, dẫn đến chất lượng học tập của học sinh còn yếu vì thế hầu hết các em sợ học môn toán.

3.Tính cấp thiết:

Trong quá trình giảng dạy đối tượng học sinh yếu kém là một trong những đối tượng thường hay gặp phải, đòi hỏi người thầy phải có những bước đi thích hợp nhanh chóng nhằm khắc phục những thiếu sót về mặt kiến thức, cũng như xây dựng cho học sinh phương pháp học tập ngay từ đầu năm để tránh xảy ra vấn đề bị tụt hậu về mặt kiến thức.

Học sinh yếu kém môn toán ở khối lớp 7 thường gặp phải các vấn đề cơ bản là thiếu kĩ năng tính toán,kĩ năng vẽ hình và suy luận vấn đề một cách logic dẫn đến không thể giải các bài toán thuộc kiến thức chuẩn của bộ môn và bài kiểm tra đạt điểm thấp .

Trong việc áp dụng các biện pháp giáo dục,người thầy phải dựa trên sự phát triển của tâm sinh lí và lứa tuổi cũng như kiến thức chuẩn kĩ năng mà bộ giáo dục đã ban hành,cùng với hoàn cảnh thực tiễn địa phương và gia đình.

4.Lý do về mặt năng lực nghiên cứu:

Qua quá trình giảng dạy, gặp nhiều đối tượng học sinh có những trình độ năng lực khác nhau. Tôi nhận thấy rằng, học sinh yếu kém là một trong những vấn đề quan trọng mà nhiều giáo viên hay lúng túng hoặc có nhiều giáo viên đưa ra một số phương pháp giáo dục song kết quả thu được chưa đáp ứng được mong muốn.

Là một giáo viên cũng đã trải qua rất nhiều khó khăn khi tiếp xúc với bộ môn toán thời còn đi học. Tôi rất hiểu và thông cảm trước những khó khăn của các em. Bởi vậy trong quá trình giảng dạy tôi luôn học hỏi đồng nghiệp và tìm tòi những phương pháp thích hợp để giúp các em học sinh yếu, kém yêu thích và học tốt môn toán.Với mong muốn nâng cao chất lượng dạy học môn toán ở trường THCS và qua thực tế dạy học tôi đã tìm tòi áp dụng một số giải pháp bước đầu đã đem lại thành công nhất định. Vì thế tôi chọn đề tài: “giải pháp giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán “.

II. MỤC ĐÍCH- NHIỆM VỤ – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 1. Mục đích:

Sở dĩ tôi chọn đề tài này là vì mong muốn tìm được một phương pháp tối ưu nhất, để trong quỹ thời gian cho phép hoàn thành được một hệ thống những phương pháp khoa học, nhằm lấp đầy các chỗ hổng kiến thức và từng bước nâng cao thêm về mặt kỹ năng trong việc giải các bài tập Toán cho học sinh. Từ đó phát huy, khơi dậy khả năng sử dụng hiệu quả kiến thức vốn có của học sinh, đồng thời thu hút, lôi cuốn các em ham thích học môn toán, đáp ứng những yêu cầu về đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học hiện nay.

2. Nhiệm vụ.

2.1. Khảo sát chất lượng học sinh về môn toán nhằm xác định đối tượng học sinh yếu kém.

2.2. Tìm hiểu nguyên nhân gây ra sự yếu kém môn toán ở học sinh.

2.3. Phân loại đối tượng học sinh từ đó lựa chọn các biện pháp phù hợp và lập kế hoạch khắc phục hiện trạng yếu kém đó.

2.4. Thực hiện kế hoạch khắc phục yếu kém trong học sinh về môn toán.

2.5. Đúc rút kinh nghiệm trong công tác giảng dạy đối tượng học sinh yếu kém toán.

3. Phương pháp.

Đề tài này được hoàn thành trên phương pháp thống kê tổng hợp, quan sát, phân tích nguyên nhân và phương pháp thực nghiệm sư phạm.

III. PHẠM VI – ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU-KẾ HOẠCH

Kiến thức môn toán bậc THCS như đã trình bày đóng vai trò nền tảng. Vì thế khắc phục tình trạng yếu kém môn toán ở bậc THCS là vấn đề không chỉ của riêng một cá nhân giáo viên dạy toán nào.

Tuy nhiên, để đạt hiệu quả rõ ràng trong việc nghiên cứu và thể nghiệm trong đề tài này tôi chủ yếu tập trung đi sâu vào phương pháp dạy học toán cho học sinh yếu, kém thuộc lớp 7A của trường tôi đang công tác vào các giờ học luyện tập, tự chọn, các buổi học phụ kém, các giờ học ngoại khóa…..Các bài toán được đề cập đến trong đề tài thuộc phạm vi SGK, SBT đảm bảo tính vừa sức đối với các em.

Thời gian nghiên cứu là bắt đầu ngay từ khi tiếp nhận lớp ngay từ đầu năm học đến khi kết thúc năm học 2016-2017. Nghiên cứu trong một năm học

IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT THỰC NGHIỆM:

Học sinh lớp 7A mà tôi đang giảng dạy.

Qua việc nghiên cứu và thực tế giảng dạy cho thấy việc thực hiện đề tài thu được những kết quả khả quan. Chất lượng môn Toán được nâng lên rõ rệt thể hiện qua sổ điểm. Hơn nữa chất lượng học sinh khá cũng tăng lên. Học sinh tỏ ra quan tâm yêu thích học toán hơn trước đây.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận

Như đã đề cập ở trên học sinh yếu kém môn toán là học sinh có kết quả học tập môn toán thấp thể hiện qua sổ điểm, học bạ môn toán

Lứa tuổi THCS là lứa tuổi có bước chuyển biến tâm lý lớn trong đời người, các em có nhu cầu tìm hiểu về thế giới xung quanh, bản chất của hiện tượng mà các em gặp phải, những kiến thức cần và đủ để áp dụng vào cuộc sống đối với môn toán đó là kĩ năng tính toán, suy diễn logic,trí tưởng tượng , khả năng giải quyết vấn dề đây là vấn đề đã được đề cấp rất nhiều trong các sách về giáo dục, tâm lí.

Việc giáo dục và đào tạo học sinh là toàn diện. Người thầy không chỉ giáo dục học sinh về mặt kiến thức mà còn xây dựng cho các em phương pháp chiếm lĩnh lĩnh hội tri thức đồng thời hoàn thiện nhân cách,giúp các em hiểu biết về thế giới bên ngoài và bước vào cuộc sống với sự chuẩn bị tốt nhất.

Học sinh được chia làm 3 đối tượng chủ yếu : khá-giỏi, trung bình, yếu_ kém. Việc phân chia như vậy dựa vào năng lực, kết quả học tập của học sinh, người thầy có thể có những phương pháp giáo dục cho từng đối tượng thích hợp.

II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu

Kết quả tìm hiểu vấn đề thông qua kết quả học tập lớp dưới, kiểm tra khảo sát đầu năm tôi cho làm thấy phần lớn học sinh lớp 7A ở diện yếu kém, số học sinh khá trung bình thấp: 60% học sinh thuộc diện yếu kém, chỉ có không đến 40% học sinh ở mức trung bình và khá, không có học sinh giỏi. Đây là vấn đề đáng báo động thúc đẩy tôi nghiên cứu vấn đề này.

III. CÁC GIẢI PHÁP

1. Khảo sát chất lượng đầu năm của học sinh để tìm đối tượng yếu, kém.

Thông qua học bạ lớp dưới, thông qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm mà tôi cho, kiểm tra vấn đáp những kiến thức cơ bản, trọng tâm mà các em đã được học thông qua kiểm tra bài cũ. Qua đó giúp tôi nắm được những đối tượng học sinh yếu kém và những ”lỗ hổng” kiến thức của các em. Trên cơ sở đó tôi phân lớp thành nhiều nhóm gọi là nhóm ” Tương đồng về kiến thức “. Rồi tìm hiểu nguyên nhân và lập kế hoạch khắc phục.

2. Tìm hiểu và phân loại các nguyên nhân

Qua thực tế tìm hiểu tôi nhận thấy có các nguyên nhân chủ yếu sau dẫn đến học sinh học yếu đó là:

2.1 Học sinh có nhiều “lỗ hổng” về kiến thức cũng như kỹ năng do:

* Nguyên nhân khách quan:

– Do kinh tế gia đình khó khăn nên điều kiện học tập thiếu thốn về cả vật chất cũng như thời gian, dẫn đến kết quả học tập theo đó bị hạn chế.

– Do học sinh bị ảnh hưởng hoàn cảnh gia đình dẫn đến chán nản học tập.

-Do diễn biến tâm lí tuổi mới lớn.

* Nguyên nhân chủ quan:

– Kiến thức bị hổng do học sinh lười học, phụ huynh thiếu quan tâm kèm cặp.

2.2 Do khả năng tiếp thu chậm. 2.3 Do thiếu phương pháp học tập phù hợp. 2.4 Do giáo viên chưa thật sự tìm ra phương pháp dạy học thích hợp với đối tượng.

3. Lập kế hoạch thực hiện ( Xác định thời gian nội dung chương trình)

4. Thực hiện các biện pháp khắc phục yếu, kém.

4.1. Trước hết, tôi chú trọng khắc phục các yếu tố khách ảnh hưởng đến kết quả học tập của những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với tinh thần trách nhiệm của một người thầy giáo bộ môn toán.

4.1.1. Đối với những em do hoàn cảnh kinh tế gia đình quá khó khăn :

– Ví dụ như các em bị thiếu thốn sách vở đồ dùng học tập. Ngoài các buổi đến lớp các em phải làm phụ giúp kinh tế gia đình ảnh hưởng đến thời gian để học tập. Sau khi tìm hiểu biết được hoàn cảnh của các em tôi kết hợp với giáo viên chủ nhiệm đã có ý kiến đề xuất lên ban lãnh đạo nhà trường có thể miễn giảm cho các em một phần nào các khoản đóng góp có thể được, giảm bớt gánh nặng về sự thiếu thốn vật chất cho các em. Ngoài ra tôi cũng thường xuyên nói chuyện tâm sự với các em để động viên , khích lệ tinh thần vượt lên hoàn cảnh khó khăn để vươn tới thành công trong học tập.

4.1.2. Với đối tượng học sinh gặp sự cố bất thường về tinh thần. 4.1.3Đối với đối tượng nguyên nhân do diễn biến tâm lí:

– Ví dụ như bố mẹ đi làm ăn kinh tế ở xa, hay những trường hợp có những cú sốc về tình cảm trong gia đình mà các em bị ảnh hưởng, có một số em phải ở với ông bà bị thiếu thốn về tình cảm và sự chăm sóc của bố mẹ…Thông qua học sinh và phụ huynh tôi thường xuyên trò chuyện thân mật riêng với các em , động viên an ủi để các em có thể vượt qua cơn khủng hoảng về tinh thần, góp phần nào giúp các em trở lại trạng thái cân bằng về tình cảm và tập trung vào việc học tốt hơn.

4.1.4 Với đối tượng học sinh yếu kém do lười học.

– Độ tuổi học lớp 7 là lứa tuổi có những biến động tâm lí , ở tuổi này các em đã có một thời gian học cùng nhau , làm quen với nhau , với các thầy cô giáo trong nhà trường đồng thời đã có sự phân biệt nam nữ trong các mối quan hệ.Vì vậy, tôi phải thường xuyên quan tâm giúp đỡ uốn nắn các em,giúp các em xây dựng tinh thần trong sáng phù hợp với lứa tuổi,tập trung vào học tập.

Trong khi dạy học tôi thường xuyên lồng ghép cách tiếp cận kiến thức, cách suy luận, tìm hiểu đề bài từ đó đưa ra phương pháp giải bài tập làm toán,đồng thời giải đáp thắc mắc của học sinh,hướng dẫn học sinh xây dựng phương pháp học tập phù hợp với khả năng của mình.

Sau khi tạo được tâm thế thoải mái về tinh thần trong học sinh thì việc tiếp theo đóng vai trò quan trọng và quyết định. Đó chính là thực hiện các biện pháp phù hợp nhằm giúp các học sinh yếu kém có điều kiện về mặt kiến thức để theo kịp yêu cầu chung của những tiết học trên lớp, tiến tới có thể hoà nhập vào việc dạy học đồng loạt.

4.2. Khắc phục các yếu tố chủ quan: 4.2.1 Trước hết cần đảm bảo cho học sinh có trình độ xuất phát cho những tiết lên lớp.

Qua kinh nghiệm giảng dạy tôi đã gặp rất nhiều khó khăn khi giảng dạy kiến thức mới trong điều kiện nền tảng kiến thức cũ rất yếu kém của học sinh. Đây là một nỗi niềm trăn trở day dứt hàng ngày gặm nhấm trái tim nghề nghiệp của tôi, thôi thúc tôi phải làm một điều gì đó để có thể giúp đỡ các em.Và tôi đã thay đổi cách nghĩ và cách làm trong công tác giảng dạy để giúp đỡ các em yếu, kém học tốt môn toán hơn qua các biện pháp cụ thể sau:

Để tiết học trên lớp có kết quả thường đòi hỏi những tiền đề nhất định về trình độ kiến thức, kỹ năng sẵn có của học sinh. Đối với diện học sinh yếu kém thì thiếu hẳn tiền đề này. Vì thế cần giúp nhóm học sinh này có đủ tiền đề dảm bảo trình độ xuất phát cho những tiết lên lớp đạt hiệu quả.

Trước hết, tôi nghiên cứu kỹ nội dung chương trình, vạch rõ khối lượng tri thức và những kỹ năng cần thiết như những tiền đề xuất phát thông qua SGK, SGV, chuẩn chương trình …

Sau đó, phân tích mức độ,năng lực tri thức kỹ năng có sẵn ở học sinh ở trình độ nào (qua quá trình tìm hiểu, quan sát ở học sinh trên lớp, qua các bài kiểm tra, …)

Chẳng hạn: Ví dụ 1:

Tiếp đến, tôi tập trung vào việc tái hiện những tri thức và tái tạo những kỹ năng cần thiết một cách tường minh thông qua việc cho học sinh ôn tập những tri thức, kỹ năng trước khi dạy nội dung mới vào các buổi học ngoài giờ chính khoá.

Bài tập1: Đổi các số thập phân sau ra phân số:

0,6 v à 2,25

HS: ;

Bài tập2: Tính :

Hỏi: Em có nhận xét gì về mẫu số của hai phân số?

Muốn thực hiện phép cộng trên trước hết ta phải làm gì?

(HS: Phải qui đồng mẫu các phân số)

Hỏi: Tiếp theo cộng như thế nào?

(HS: Tử cộng tử, giữ nguyên mẫu)

Hỏi: Nhắc lại cách cộng hai số nguyên?

(HS: Nêu cách cộng hai số nguyên và tiến hành cộng)

Bài tập 3: Tìm x, biết: a)

Hỏi: Vai trò của x trong phép toán trên?

Vậy muốn tìm x ta làm thế nào?

Hoặc giáo viên có thể gợi ý cách 2 về quy tác chuyển vế

GV: Hãy nhắc lại qui tắc chuyển vế trong Z

(HS: Nhắc lại qui tắc chuyển vế trong Z)

GV: Tương tự trong Q ta cũng có qui tắc chuyển vế

(HS: Vận dụng qui tắc chuyển vế và thực hiện bài toán

(Theo qui tắc chuyển vế)

x

Vậy:

Tiếp đó tôi đưa ra thêm 1 ví dụ nữa nhằm hướng dẫn, luyện tập cho các em cách làm bài ( hướng dẫn thật chi tiết)

b) ( tương tự câu a áp dụng quy tắc chuyển vế)

Sau khi làm các bài tập co bản trên có thể tiến hành hướng dẫn làm các bài tập nâng cao hơn nữa cho học sinh :

Bài tập có thêm hệ số :

GV : thứ tự thực hiện phép tính trong dãy tính toán ?

(nhấn mạnh yếu tố tìm kết quả của phép tính 2x)

Sau khi học sinh làm thành thạo có thể nâng cao hơn khi cho các dạng bài tập tìm x:

Khi ra đề bài cần đảm bảo tính vừa sức kết hợp vừa có tính nâng cao để học sinh phải chủ động suy nghĩ, đảm bảo tính đa dạng tổng quát vận dụng nhiều kiến thức trong bài tập, ra bài tập vừa đủ không quá nhiều gây tâm lí e ngại khi làm bài.

-Như vậy trong buổi phụ đạo học sinh đã nắm được những kiến thức tiền đề của bài mới. Đảm bảo trình độ xuất phát cho tiết học chính khoá giúp các em tiếp thu bài một cách chủ động và hứng thú hơn, phát biểu xây dựng bài sôi nổi hơn. Hiệu quả giờ học được nâng lên rõ rệt.

Trong bài học mới khi đưa ra yêu cầu thực hiện phép tính

–+ 2,25.

Chỉ với gợi ý nhỏ: Mọi số hữu tỉ đều có thể viết được dưới dạng phân số với a,b Z, b 0. Là học sinh phát hiện được hướng giải quyết vấn đề nhờ bài học phụ đạo đã nắm vững.

*Rèn luyện tính chất giao hoán kết hợp :

Ví dụ : Tính

Với các phép tính và số lượng thành phần ít trong phép tính giúp học sinh dễ dàng nhận ra cách thay đổi vị trí các hạng tử, để hực hiện phép tính một cách đơn giản và nhanh nhất.Sau ki thành thạo hơn ta có thể dưa ra các bài tập đòi hỏi tư duy nhiều hơn. Chẳng hạn :

Bài tập :a)

b)

Đối với tính chất phép nhân phân phối phép cộng: đây là một tính chất khó học sinh rất hay thường nhầm lẫn hoặc lung túng khi được yêu cầu áp dụng vào tính toán

Ví dụ : thực hiện phép tính một cách hợp lí

Học sinh thường mắc sai lầm khi tính toán như sau :

Vì vậy cần nhấn mạnh tính xuất hiện giữa các hạng tử

Ví dụ 2:

Trước khi dạy khái niệm ” đường trung trực của đoạn thẳng” giáo viên cần cho học sinh ôn tập lại các kiến thức, kỹ năng cũ như trung điểm của đoạn thẳng, cách vẽ trung điểm của đoạn thẳng , vẽ đường thẳng vuông góc với đoạn thẳng cho trước qua một điểm cho trước đã được học ở lớp 6, rèn kỹ năng cho học sinh sử dụng thước và ê ke thành thạo thông qua các bài tập sau:

Điền vào chỗ (…) trong phát biểu sau để có định nghĩa đúng.

“Trung đểm của đoạn thẳng AB là …”

Vẽ đoạn thẳng AB dài 4 cm. Vẽ điểm M là trung điểm của đoạn thẳng AB.

Cho M là trung điểm của đoạn thẳng AB. Qua M vẽ đường thẳng xy vông góc với đoạn thẳng AB.

Như vậy khi học sinh đã nắm được khái niệm và kỹ năng nói trên thì việc tiếp thu bài mới không mấy khó khăn.

Trong thực hiện việc tạo tiền đề đảm bảo trình độ xuất phát cần chú ý:

* Mỗi bài toán phải được thực hiện qua nhiều bước, hướng dẫn và yêu cầu cách thực hiện thành thạo từng bước một.

* Tổ chức phân dạng bài tập một cách khoa học, chi tiết, cung cấp cho học sinh các dạng bài tập một cách có hệ thống.

* Soạn thêm nhiều bài tập đơn giản và tương tự cho từng dạng để các em tự làm, qua đó các em được lặp lại nhiều lần, giúp các em dễ khắc sâu kiến thức.

Sau khi kiến thức lớp dưới đã được bù đắp và bằng cách hạ thấp yêu cầu đến mức tối thiểu ở các dạng bài tập tôi nhận thấy các em học sinh đã xích lại gần nhau hơn, tiếp thu bài mới tốt hơn, yêu thích học môn toán hơn.

4.2.2. Thực hiện biện pháp lấp “lỗ hổng” về kiến thức và kỹ năng cho học sinh

Ngoài ra do việc bố trí kiến thức, lúc bình thường các em chủ yếu làm bài tập chỉ áp dụng một hay hai đơn vị kiến thức, cho nên khi gặp những bài toán yêu cầu kết hợp nhiều đơn vị kiến thức học sinh thường cảm thấy lúng túng, không biết bắt đầu trình bày từ đâu, như thế nào cái nao nói trước cái nào nói sau. Vì vậy trong quá trình giảng dạy của mình tôi thường xuyên đưa ra các bài tập ở dạng tổng hợp, hướng dẫn học sinh cách trình bày logic theo thứ tự thích hợp.

Qua tìm hiểu thực tế cho thấy: Kiến thức có nhiều “lỗ hổng” là một “bệnh ” phổ biến của học sinh yếu kém toán. Vai trò của việc đảm bảo trình độ xuất phát là cần thiết nhưng chỉ để phục vụ cho nội dung sắp học . Còn việc lấp lỗ hổng về kiến thức kỹ năng là nhiệm vụ cần thiết nhưng mang tính tổng quát không phụ thuộc ý đồ chuẩn bị cho một bài học cụ thể nào sắp tới.

Trong quá trình dạy học người thầy cần quan tâm phát hiện những lỗ hổng về kiến thức, kỹ năng của học sinh. Tìm ra những “lỗ hổng” điển hình đối với học sinh yếu kém mà ở trên lớp vì điều kiện thời gian chưa khắc phục được để có kế hoạch tiếp tục giúp đỡ.

Trong quá trình giảng dạy, tôi thấy ở học sinh yếu kém toán lớp 7 thường bị hổng kiến thức ở những mặt sau

*Đại số:

-Phần tập hợp số nguyên, các kỹ năng như thực hiện các phép tính trên số nguyên, quy đồng mẫu các phân số…. ở số học nguyên nhân của nó rất đơn giản ,và thường gây bất ngờ với rất nhiều giáo viên đó là các em phụ thuộc quá nhiều vào viêc sử dụng máy tính, dẫn đến khi tính toán rất hay nhầm lẫn sai xót. Tóm lại các em thiếu kỹ năng tính toán.

– Nguyên nhân thứ hai là các em thiếu năng trình bày lời giải dẫn đến khi trình bày lời giải chưa logic hoặc khi trình bày lời giải do trình bày vắn tắt dẫn đến sai xót do chủ quan.

Ví dụ : khi thực hiện phép tính:

(sai do tính toán và trình bày vắn tắt mà chưa thành thạo trong tính toán)

Hoặc

ở đây học sinh ra đến kết luận bài toán nhưng lại không thực hiện nốt phép tính, bài toán là minh chứng cho việc học sinh chủ quan,cẩu thả trong khi làm bài.

*Hình học:

– Học sinh thường vẽ hình theo diễn đạt còn kém. các khái niệm về trung điểm của đoạn thẳng,tia phân giác của góc còn chưa nắm vững…thiếu kĩ năng vẽ hình

– Chưa biết sử dụng kí hiệu toán học để thay thế lời nói trong khi giải bài tập hình

Bởi thế tôi tập trung thời gian và sức lực cho việc bù đắp những lỗ hổng này cho các nhóm học sinh vào các buổi học phụ kém và cả giao bài về nhà.a

Ở các buổi học phụ kém, tôi đã hệ thống hoá những kiến thức, kỹ năng còn hổng cho học sinh và đặc biệt chú ý đến hệ thống các bài tập chứa đựng nội dung kiến thức và kỹ năng cần bù đắp.

Chẳng hạn:

-Với nhóm học sinh yếu về kỹ năng cộng trừ số nguyên thì một mặt ở giờ học phụ kém tôi giúp các em nhớ lại cách thực hiện đồng thời cho các em thực hành nhiều lần với bài tập đơn giản vừa sức để các em mau chóng lấy lại được kiến thức và kỹ năng cơ bản. Mặt khác tôi giao bài tập về nhà và phân công học sinh khá kiểm tra giúp đỡ, hướng dẫn thêm cho nhóm.

Ở các nhóm khác tôi cũng tiến hành tương tự.

4.3 Giúp học sinh yếu kém luyện tập đảm bảo vừa sức

Ngoài ra, thông qua quá trình học lí thuyết và làm bài tập của học sinh tôi đã cố gắng tập cho học sinh có ý thức tự phát hiện những lỗ hổng của mình và biết cách tra cứu sách vở, tài liệu để tự mình lấp những “lỗ hổng” đó.

Đối với học sinh yếu kém, thầy giáo nên đặt quan điểm đảm bảo tính vững chắc của kiến thức lên hàng đầu. Việc luyện tập theo trình độ chung sẽ không phù hợp với học sinh yếu kém, vì vậy nhóm này cần nhiều thời gian luyện tập hơn.

Trước hết phải làm cho các em hiểu rõ đề bài: Đề bài cho biết cái gì? yêu cầu cái gì?

Nếu học sinh không hiểu đề bài thì không thể tiếp tục quá trình giải toán để đưa lại kết quả đúng được. Do đó giáo viên cần dành nhiều thì giờ giúp các em vượt qua được vấp váp đầu tiên này.

Để rèn một kiến thức hay kỹ năng nào đó thì số lượng bài tập cùng mức độ cùng thể loại đối với các em yếu kém cần nhiều hơn bình thường, cùng mức độ . Do đó giáo viên cần chú ý gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại . Ngoài ra các bài tập phải được phân bậc với mức độ gần nhau (phân bậc mịn)

Khi dạy bài : “Cộng, trừ số hữu tỉ “. Phần bài tập về nhà cho đối tượng học sinh yếu, kém tôi ra các dạng như sau:

a) ;

b) ;

a) ;

b) ;

Bài 3: Tìm x, biết

a) ;

b) ;

Thông thường khi ra bài tập cho đối tượng học sinh yếu , kém không nên ra quá nhiều và khó, các dạng bài tập phải vừa sức với các em đặc biệt là có kiểm tra, chấm, chữa và cho điểm để động viên, khuyến khích các em.

Được bước đi theo từng bậc thang vừa sức với mình, các em yếu kém sẽ tự tin hơn, không còn cảm giác bị hụt hẫng và sợ ngã. Sự tự tin giúp các em có thể tự leo hết các nấc thang dành cho mình. Từ đó dần dần chiếm lĩnh tri thức và kỹ năng cơ bản cần thiết. Các bậc thang dù có thấp song sự kiên trì và nghị lực mới là điều quan trọng giúp các em vượt qua tình trạng yếu kém hiện tại.

4.4. Giúp đỡ học sinh rèn luyện .kỹ năng học tập,có phương pháp học tập phù hợp.

Trong quá trình dạy học tôi cho rằng việc dạy nhiều bài tập chưa chắc đã hiệu quả hơn bằng việc dạy một số ít bài, có trọng tâm và dành nhiều thời gian nhất cho học sinh có thể tự làm được hiểu được bài, kết hợp với việc lồng ghép chơi các trò chơi toán họcgiúp học sinh không bị gò bó nhàm chán trong tiết học,

Một thực tế vẫn xảy ra thường xuyên là học sinh không biết cách học như thế nào cho có hiệu quả. Các em do không có kỹ năng học tập nên thường chưa học kỹ, thậm chí chưa hiểu lý thuyết đã lao vào làm bài tập, đọc chưa kỹ đề đã đặt bút vào làm bài, trong khi làm bài các em thường vẽ hình cẩu thả, viết nháp lộn xộn…Vì thế việc hướng dẫn các em phương pháp học cũng đóng vai trò hết sức quan trọng.

Trước hết cần nói rõ yêu cầu sơ đẳng của việc học tập toán:

– Phải nắm vững lý thuyết trước khi làm bài tập.

-Trước một bài tập cần đọc kỹ đầu bài, vẽ hình rõ ràng, viết nháp cẩn thận.

– Sau khi học xong một chương cần giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức (tốt nhất là bằng bảng hoặc bằng sơ đồ). Tóm tắt lý thuyết cơ bản và các công thức quan trọng cũng như cách giải một số dạng toán cơ bản và dán vào góc học tập.

IV. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM

Trong quá trình giảng dạy, tôi thường xuyên giới thiệu cho các em một số cách ghi nhớ kiến thức cơ bản : dùng sơ đồ tư duy dể ghi nhớ hoặc hệ thống hóa kiến thức. Hướng dẫn các em tự thiết lập cho mình cách học phù hợp với trình độ cũng như lối tư duy, cách sử dụng một số dụng cụ học tập hiệu quả nhanh chóng như : sử dụng máy tính cầm tay,sử dụng phần mềm vẽ hình sketpad, cách sử dụng thước compa sao cho hiệu quả.

Quá trình thực hiện nêu trên đối với học sinh lớp 7 ở trường mà tôi đang giảng dạy đã đạt kết quả đáng lưu tâm.

Khi năm học mới bắt đầu lớp có tới 60% học sinh yếu, kém. Nhưng với cách làm này cuối năm học chỉ còn 5% học sinh học. yếu, không có học sinh học sinh học kém.

Hơn thế nữa qua cách làm này, các em rất hứng thú và yêu thích môn toán hơn, tự tin hơn trong học tập.

Bảng so sánh:

Kết quả kiểm tra 2016-2017

Học kì

Điểm dưới 4

Điểm từ 4đến dưới 5

Điểm trên 5

Biểu đồ điểm kiểm tra 2016-2017 :

%

55

40

20

5

Điểm trên 5 Điểm từ 4 đến dưới 5 Điểm dưới 4 Học kì I Học kì II

Kết quả học tập 2016-2017

Học kì

Kém

Yếu

Trung bình

Khá giỏi

I

0%

15%

45%

40%

II

0%

5%

45%

55%

Biểu đồ kết quả học tập 2016-2017:

Học kì I học kì II 5 Yếu Khá giỏi C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN Trung bình 15

%

55

45

40

Học kì I Học kì II

Sau một thời gian áp dụng đề tài , rôi đã thu đuợc những kết quả khả quan và đạt được những mục tiêu nhất định ,học sinh thấy hứng thú , yêu thích môn học,khả năng học và tự học tiến bộ hơn. Cụ thể thông qua bài khảo sát mà cá nhân tôi thực hiện như sau

Điểm dưới 4 Điểm trên 5 Điểm từ 4 đến dưới 5

Học kì

Điểm dưới 4

Điểm từ 4đến dưới 5

Điểm trên 5

Biểu đồ điểm khảo sát :

II. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ

60 %

45

40

35

15

5

Tài liệu tham khảo 1.2.3. Hoàng Ngọc Diệp- Thiết kế bài giảng Toán 7 tập 1,2- NXBHN 4. Nhóm tác giả: Lê Văn Hồng – Phạm Đức Quang – Nguyễn Thế Thạch – Nguyễn Duy Thuận – Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III ( 2004 – 2007), NXB Giáo dục, 2007. DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT Phan Đức Chính – Tôn Thân-SGV Toán 7 tập 1 – NXBGD Phan Đức Chính – Tôn Thân-SGK Toán 7 tập 1 – NXBGD

Như vậy việc giúp đỡ học sinh yếu , kém học tốt môn toán là việc làm rất khó khăn lâu dài đòi hỏi giáo viên phải có tình thương, một chút hy sinh và tinh thần trách nhiệm.

Việc sắp xếp thời gian thích hợp ngoài giờ lên lớp để bổ trợ kiến thức bị hổng cho học sinh yếu, kém đó là một khó khăn không phải ai cũng làm được. Mà phải có sự tận tâm hy sinh cao cả của người thầy tất cả vì tương lai các em. Do vậy rất cần đến sự chia sẻ từ phía lãnh đạo và các cấp ngành giáo dục.

Mỗi người thầy có một cách làm riêng, song với cách làm nêu trên với thành công ban đầu thiết nghĩ đó là kết quả đáng phấn khởi đối với người thầy dạy toán. Việc làm này không dễ thành công trong ngày một ngày hai mà phải là sự cố gắng bền bỉ và tận tuỵ thì mới mong mang lại kết quả tốt.

Với vốn kiến thức của mình còn hạn hẹp, bề dày kinh nghiệm còn khiêm tốn, nên không tránh khỏi những hạn chế khiếm khuýêt. Vậy rất mong hội đồng xét duyệt góp ý, `bổ sung để kinh nghiệm giảng dạy của chúng tôi ngày càng phong phú và hữu hiệu hơn.

Để thực hiện đề tài có hiệu quả cần:

– Nhà trường cần tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm để xác định đối tượng học sinh yếu kém.

– Có kế hoạch phụ kém kịp thời.

– Nâng cao chất lượng đại trà của các khối lớp bằng các buổi học ngoài giờ chính khoá và đặc biệt tăng cường các buổi phụ đạo cho học sinh yếu kém.

– Tăng cường phối hợp giữa gia đình với nhà trường, giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm để tạo ra một sức mạnh tổng hợp.

– Phát động các đợt thi đua học tập trong công tác Đội. Tổ chức các câu lạc bộ giúp nhau học tập….

Nội dung viết tắt

Ý nghĩa

Thuộc

Một Số Giải Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Hơn Môn Mĩ Thuật Ở Cấp Học Tiểu Học

Như chúng ta đã biết “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, đó là mục tiêu của Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra, nhằm để đáp ứng được mục đích yêu cầu của giáo dục nước nhà. Đưa nền giáo dục nước nhà xứng tầm với quốc tế, thì việc đầu tiên là phải tìm ra những biện pháp, giải pháp cụ thể về Chân – Thiện -Mĩ giúp học sinh có cái nhìn bao quát chung và học tốt hơn, hiểu hơn về cái đẹp Môn Mĩ thuật ở bậc học tiểu học .

Cùng với sự phát triển của giáo dục hiện nay, cộng thêm sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam. Thì việc đưa môn Mĩ thuật vào trong 9 môn học bắt buộc trong nhà trường là rất quan trọng và cần thiết. Nhằm giáo dục thẩm mĩ cho học sinh trong những năm đầu đi học, và từng bước giúp học sinh hòa nhập thế giới xung quanh, cũng như biết suy xét và mong muốn làm theo cái đẹp chính là giúp học sinh tự hoàn thiện mình, và có tính độc lập cho bản thân để có nền tảng cho những nhân tài của đất nước, cũng như trở thành những công dân có ích cho xã hội. Giúp xã hội ngày càng vươn cao và vươn xa hơn nữa trong giáo dục thì việc hòa nhập với Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước cùng góp phần làm nên một xã hội vững mạnh, văn minh và giàu đẹp hơn.

Là người giáo viên dạy Mĩ thuật, tôi luôn mong với kiến thức của mình có thể giúp học sinh nhìn nhận và thể hiện cái đẹp thông qua các bài vẽ làm sao cho đúng và giống với mẫu hơn. Cũng như giúp các em tìm hiểu thêm về những cảnh thiên nhiên mà học sinh thấy được từ thực tế, từ những cuộc đi tham quan những danh lam thắng cảnh muôn màu, muôn vẻ mà vốn có từ trên mọi miền đất nước Việt Nam cũng như những cảnh vật xung quanh nơi mà học sinh sinh sống và học tập. Bên cạnh đó tôi muốn giúp học sinh nhận biết được những điều thú vị từ những dáng đi của các con vật cũng như những nét vẽ tự tin và hồn nhiên, ngây thơ của học sinh. là giáo viên dạy môn Mĩ thuật tôi rất trăn trở là làm sao để giúp học sinh có trí tưởng tượng phong phú và có óc sáng tạo, độc lập trong học tập, giúp cho các em có được sự tự tin trong cái nhìn tổng thể về cái đẹp từ thế giới thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Giúp cho học sinh vẽ được đúng, đẹp theo mẫu, cũng như là học sinh hiểu được cách chọn nội dung trong tiết vẽ tranh đề tài sao cho phong phú và biết cách vẽ hình ảnh chính, phụ trong bức tranh để cho nổi rõ được về hình cũng như màu sắc trong tranh. Song cũng nhằm giúp cho học sinh tìm hiểu thêm về các hoạ sĩ lớn trong làng hội hoạ Việt Nam cũng như trên thế giới chẳng hạn như phân môn thưởng thức mĩ thuật và tạo đựơc những gam màu đẹp cũng như tìm ra được những hoạ tiết phong phú và đa dạng trong tiết vẽ trang trí. Là giáo viên nhiều năm giảng dạy, được học hỏi ở thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp với chút kinh nghiệm tích lũy được xuất phát từ thực tế cũng như những gì tôi đã làm, tôi luôn tâm niệm làm sao để giúp cho học sinh có hứng thú học tập, không bị chán nản trong tiết học mĩ thuật. đó là nguyện vọng của bản than tôi muốn góp một phần nhỏ bé vào nhà trường hoàn thành tốt mục tiêu vào sự nghiệp giáo dục, đổi mới Đất nước hiện nay. Với ý tưởng như thế tôi đã nghiên cứu và viết đề tài: “Một số giải pháp giúp học sinh học tốt hơn môn Mĩ thuật ở cấp học

1. Giải pháp thứ nhất: Giáo viên giúp học sinh đi từ vẽ đúng đến vẽ đẹp. Muốn học sinh vẽ đúng và vẽ đẹp thì người giáo viên cần phải nắm vững mục tiêu

Mục đích giúp học sinh vẽ đúng, vẽ đẹp ở trong mỗi bài vẽ, tạo sự hào hứng khi các em được học ở trong môn Mĩ thuật.

Muốn hình thành được một bài vẽ theo mẫu thì học sinh cần biết ®­îc c¸c b­íc vÏ nh­:

Ví dụ: Bài 9 vẽ theo mẫu : Vẽ cái Mũ của lớp 2. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh trình tự theo các bước sau:

Bước 1: Phác khung hình

Bước 2: Vẽ nét thẳng

Bước 3: Vẽ nét cong

Bước 4: Vẽ chi tiết cho giống mẫu và hoàn chỉnh

Bước 5: Vẽ màu

Tôi đưa ra ví dụ trên là nhằm chứng minh rằng với những phương pháp trên và áp dụng vào bài dạy sao cho phù hợp, hiệu quả hơn trong từng bài học.

– Qua thực tế điều tra cơ bản, tôi thấy học sinh rất thích học vẽ, và hăng say phát biểu, có sự hứng thú được thể hiện trong bài vẽ của mình. Bên cạnh đó còn có một số học sinh còn nhút nhát, chưa mạnh dạn phát biểu những suy nghĩ mà mình muốn nói, một số học sinh còn chán nản với việc học môn này, nên có ảnh hưởng rất lớn đến việc dạy của giáo viên cũng như việc học tập của các em. Vì vậy tôi đã tiến hành điều tra một số lớp nhìn chung các em chưa hoàn thành là khá cao, từ đó tôi đã tìm ra hướng khắc phục nhằm tạo ra không khí vui tươi thoái mái, nhẹ nhàng và có sức hấp dấn lôi cuốn trong sự hướng dẫn của giáo viên kèm theo những câu hỏi gợi mở tạo không khí vui tươi và hào hứng cho các em trong tiết học. Bên cạnh đó đồ dùng trực quan là cần thiết và quan trọng để giúp cho học sinh thích thú và làm bài có hiệu quả hơn.

Ví dụ như: Bài thưởng thức Mĩ thuật xem tranh thiếu nhi vui chơi của hoc sinh lớp 1, giáo viên tạo những câu hỏi hấp dẫn như: Trong tranh vẽ những hình ảnh gì? Màu sắc trong tranh có những màu gì? Em cảm nhận như thế nào về bức tranh? Học sinh trả lời được giáo viên kịp thời khen gợi và gợi ý cho những học sinh khác cũng có tinh thần như bạn đó.

Tôi cũng thường xuyên cho học sinh ra ngoài lớp để vẽ thực tế như bài vẽ tranh trường em ở lớp 2, Để học sinh có cái nhìn thực tế hơn khi vẽ cảnh trường mà mình hằng ngày học sao cho đúng và đẹp.

Giáo viên kịp thời động viên tinh thần học tập của các em trong tiết học, tạo cho học sinh có tính mạnh dạn hơn khi xung phong phát biểu, xây dựng bài. Tránh tình trạng, chê những học sinh bài làm chưa được tốt. Mà giáo viên cần trao đổi riêng với học sinh đó, và chỉ ra những điểm tốt ở trong bài của em để khích lệ động viên em làm bài sau cho tốt hơn.

Với môn học này yêu cầu giáo viên phải là người trực tiếp và giúp học sinh có cái nhìn tổng thể, từ hình vẽ cũng như cách sắp xếp bố cục sao cho vừa với phần giấy quy định

– Giúp học sinh có hứng thú trong khi vẽ, cũng như có tinh thần hăng say phát biểu ở những bài như thưởng thức mĩ thuật..

– Tạo được sự thoải mái trong khi vẽ, cũng như giúp học sinh có óc tư duy, sáng tạo,

cũng như óc tưởng tượng của học sinh, nhằm giúp học sinh có những bài vẽ có kết quả cao, cũng như sự tự tin trong các sản phẩm mà mình làm ra.

Vì thế trong mỗi bài dạy, tôi phải tìm ra những biện pháp sao cho học sinh có sức hấp dẫn, cũng như giúp học sinh thèm muốn được học vẽ trong mỗi giờ học vẽ.

Như các phân môn vẽ tranh đề tài, thưởng thức mĩ thuật tuỳ theo bài học giáo viên có thể chia nhóm ra để học sinh tích cực hơn, và muốn thể hiện trước nhóm một cách thật tốt để mỗi nhóm có sự tư duy sáng tạo một cách bất ngờ trong mỗi phân môn đó.

Với cách làm này, thì mỗi học sinh tự phân ra nhóm trưởng, cũng như tạo được một guồng máy làm việc của nhóm, có sự lôgic hơn trong cùng một nhóm, và tôi tin rằng cách làm việc nhóm có hiệu quả hơn vì ai cũng muốn thể hiện mình một cách tốt nhất.

Trong thực tế nếu muốn đạt được một tiết học lôi cuốn, hấp dẫn cũng như sự tìm tòi, khám phá thì người giáo viên cần phải biết cách giúp học sinh tìm ra cũng như vận dụng vào bài học một cách hiệu quả và truyền thụ cho học sinh hiểu thêm về mục đích, yêu cầu cũng như mục tiêu của đề bài thì mới có một sản phẩm tốt. Và giáo viên cần phải khích lệ và động viên kịp thời để cho bài vẽ của học sinh đạt hiệu quả một cách tốt nhất.

Giải pháp thứ ba: Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, để giúp học sinh có những hình ảnh học tốt hơn môn Mĩ thuật.

Với Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước hiện nay, thì công nghệ thông tin không thể thiếu trong giáo dục, nhất là trong giảng dạy Mĩ thuật cũng như một số môn học khác. Với bản thân tôi qua nhiều năm giảng dạy tôi thấy được việc ứng dụng, công nghệ thông tin vào môn Mĩ thuật rất hiệu quả như: giáo viên không phải hoạt động nhiều như khi dạy bằng bảng, mà giáo viên có thể dạy bằng giáo án điện tử để giúp học sinh có sự thích thú, say mê với tiết dạy có sử dụng công nghệ thông tin vì có rất nhiều hình ảnh phong phú, đa dạng và đẹp mắt tạo được sự chú ý cho học sinh nên bài vẽ của học sinh cũng như sự truyền thụ của giáo viên rất hiệu quả. Giúp cho giáo viên cũng như học sinh thấy thoải mái và có nhiều hình ảnh đẹp để học sinh thích thú hơn.

Dạy học là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người giáo viên. Muốn dạy học trở thành niềm vui, niềm đam mê thì người thầy cần phải có tâm huyết với nghề. Vì vậy, chúng ta phải luôn tìm tòi phát hiện những phương pháp mới, tích cực và có tính điển hình để giảng dạy nhằm trang bị cho mọi đối tượng học sinh. Cần tìm tòi và nghiên cứu thêm nhiều phương pháp để giúp học sinh học tốt hơn và vận dụng vào làm thực hành có hiệu quả thì giáo viên sẽ thành công trong sự nghiệp giảng dạy của mình.

Người giáo viên cần phải có sự phối hợp chặt chẽ và có sự phối hợp nhẹ nhàng trong mỗi bài học

Tạo không khí thoải mái và vui tươi trong giờ học

Luôn tạo cho học sinh thành lập nhóm để học sinh trong nhóm có cơ hội thể hiện khả năng của mình trong nhóm.

Có những đồ dùng trực quan hấp dẫn cũng như những vật mẫu thật đẹp mắt…

Nhằm hướng cho học sinh từ cái nhìn tổng thể và giúp học sinh hướng đến Chân – Thiện -Mĩ.

Hướng cho học sinh có tính tự lập, cũng như giúp các em dần dần hình thành về cái đẹp, và tạo cho học sinh có cách sống, cách nhìn thế giới xunh quanh một cách tích cực và người giáo viên phải là một tấm gương sáng để cho học sinh noi theo.

Cũng như trước kghi lên lớp cần phải tìm hiểu bài thật kĩ từng mục tiêu cũng như đồ dùng trực quan đẹp mắt và hấp dẫn.

Phải nghiên cứu và tìm ra những biện pháp, giải pháp cụ thể để truyền đạt cho học sinh một cách tối ưu nhất cũng như những kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm qua.

Phải biết khai thác và gợi mở cho học sinh trả lời những câu hỏi mà giáo viên đưa ra sao cho phù hợp với nội dung của từng bài học.

Giúp học sinh nắm được các bước vẽ cơ bản cũng như cách vẽ thể nào cho phù hợp với phần giấy qui định, màu sắc hài hòa và tạo được những hình chính, phụ cho sinh động trong mỗi bài vẽ.

Kịp thời động viên, khích lệ học sinh khi học sinh nhận xét sản phẩm của bạn cũng như khi học sinh trả lời đúng những câu hỏi mà giáo viên nêu ra.

Cũng cần tránh chỉ trích học sinh trong khi học sinh trả lời những câu hỏi mà giáo viên nêu ra. Giáo viên cần phải gọi một học sinh nhắc đúng và cho học sinh đó nhắc lại cho đúng.

Giáo viên cần phải biết phối hợp tích hợp môi trường biển đảo quê hương cũng như nói thêm cho học sinh hiểu về biển đối khí hậu.

Tôi còn hướng cho học sinh thực hiện đúng với khẩu hiệu ” Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cưc”.

Trong những bài học về giữ gìn vệ sinh sạch sẽ tôi còn nhắc nhở học sinh rằng hãy thân thiện với môi trường và tạo một không khí trường học ” Xanh – Sạch – Đẹp” hướng tới cho học sinh có sự tích cực trong việc giữ gìn vệ sinh hơn.

Giáo viên cũng phải là người tìm hiểu về sở thích cũng như niềm đam mê học vẽ của các em và nhằm nâng cao được tầm quan trọng của môn Mĩ thuật trong 9 môn học mà Bộ Giáo Dục đã đưa vào để giúp học sinh cũng như một số phụ huynh và giáo viên chủ nhiệm quan tâm hơn về môn học này. Và không xem môn học này là môn phụ nữa.

Ngoài những kiến thức mà tôi giảng dạy, thì tôi cũng giúp học sinh hiểu thêm về kĩ năng sống cho học sinh để học sinh hình thành được một nhân cách tốt cho mình cũng như xã hội tốt hơn. Nhằm lồng ghép, tích hợp dạy học với môi trường biển đảo, biến đổi khí hậu…

Giáo viên cần phải nắm rõ được kĩ phương pháp dạy học một cách tốt nhất để giúp học sinh nắm rõ được các bước cũng như cách tìm tòi và sáng tạo theo cách học với phương pháp mới nhất để đạt hiệu quả tốt nhất.

Bấm vào đây để tải về

Phương Pháp Học Tốt Môn Văn

Trung tâm gia sư Tâm Đức nhận giảng dạy tại nhà môn văn trong toàn khu vực TPHCM sẽ chia sẻ cho các bạn phương pháp học tốt môn văn

Để có được một bài văn đạt điểm cao trong kỳ thi ĐH không đơn giản. Nếu chỉ có sự chăm chỉ, niềm đam mê, sự quyết tâm cao độ thôi chưa đủ. Muốn có điểm số đẹp, chúng ta phải trang bị thêm cho mình kỹ năng, phương pháp học văn đúng với đặc trưng bộ môn.

 

Biến tiết học Văn trở nên thú vị Tiết Văn chán ư? Không hề! Hãy “hô biến” tiết Văn trở thành một tiết học lý thú bằng cách tạo dựng các nhóm thi đua với nhau, cùng nhau xây dựng bài học. Các bạn có thể thể hiện diễn xuất, giọng kể của mình qua các văn bản được học trên lớp. Môn Văn trở nên dễ nuốt hơn bao giờ hết vì chính các bạn đã tạo bầu không khí vui vẻ cho tiết văn. Soạn bài trước ở nhà Việc soạn bài ở nhà cũng rất quan trọng vì khi đó các bạn đã đọc bài và tham khảo trước. Khi vào lớp, mọi câu hỏi được đặt ra, bạn đều có thể dễ dàng trả lời và dễ dàng trở thành “ngôi sao” của tiết học Văn hôm đó. Nghe thầy cô giảng Tập trung chú ý nghe thầy cô giảng bài cũng là một cách hữu ích giúp  chúng mình học giỏi môn Văn hơn đấy! Chăm chú nghe giảng sẽ học được nhiều điều hay từ thầy cô mà cũng có khi thấy học trò chăm chú lại càng giúp thầy cô thêm hứng thú để truyền đạt các kiến thức mà mình có nữa đấy. Khảo sát thực tế Nguồn cảm hứng văn học lúc nào cũng từ thực tế đời sống. Cố gắng quan sát những cử chỉ, hành động và sự việc xảy ra xung quanh chúng ta, bạn sẽ nhận rõ những ý tưởng cần thiết trong bài văn của mình. Nhất là về khoảng văn nghị luận, thuyết minh và chứng minh thì các bạn càng cần phải trau dồi vốn kiến thức sâu rộng bên ngoài rất nhiều. Đọc truyện ngắn, tiểu thuyết Đây là cách học hỏi tốt nhất để các bạn có một bài văn hay và sâu sắc. Đọc nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết không những giúp  chúng ta hiểu từ  ngữ tiếng Việt mà còn giúp rèn luyện khả năng sáng tạo và trí tượng tưởng trong môn Văn. Hiện nay, khi ra nhà sách không chỉ có các tác phẩm trong nước mà các tác phẩm kinh điển của nước ngoài cũng được bày bán càng hỗ trợ cho các bạn có thêm kinh nghiệm trong lối viết văn của mình. Nghỉ ngơi Học Văn luôn kèm theo đó là sự nghỉ ngơi, chỉ khi được nghỉ ngơi thư giãn thật sự thì bạn mới có thể học tốt hơn, nhớ bài lâu hơn và sự sáng tạo phong phú hơn. Nghỉ ngơi sau khi học không chỉ giúp bạn nạp thêm năng lượng để tiếp tục chiến đấu môn Văn mà còn cho các môn học khác nữa. Đây là một bí quyết học giỏi văn cho những bạn nào đang xem Văn là một môn cực hình đấy . Môn Văn học cực dễ đối với các bạn bẩm sinh đã yêu Văn, nhưng nếu hiểu và cần cù học hỏi thì bỗng dưng các tiết Văn trở nên dễ dàng, thú vị đối với những bạn sợ nó .

Ngoài ra trung tâm dạy kèm Tâm Đức cũng có một đội ngũ gia sư môn văn có kinh nghiệm và uy tín sẽ đáp ứng nhu cầu dạy kèm tại nhà cho các bạn trong toàn khu vực tphcm