Top 4 # Xem Nhiều Nhất Giải Pháp Của Suy Giảm Đa Dạng Sinh Vật Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Photomarathonasia.com

Đa Dạng Sinh Học, Nguyên Nhân, Biện Pháp Hạn Chế Suy Giảm Đa Dạng Sinh Học

Đa dạng sinh học là gì?

Đa dạng sinh học là bao gồm nhiều dạng và cá thể của các loài cùng với những biến dị di truyền của thế giới sinh vật, cũng như nhiều dạng của các cấp độ tổ chức sinh giới nhất là dưới dạng hệ sinh thái ở mọi môi trường trái đất, khái niệm này cũng bao gồm cả những mức độ biến đổi trong thế giới tự nhiên mà đơn vị cấu thành là những sinh vật.

Giá trị của đa dạng sinh học(ĐDSH).

Giá trị của ĐDSH trong dịch vụ sinh thái là vô cùng to lớn, có thể phân thành hai loại, giá trị sử dụng trực tiếp (tiêu thụ, sản xuất, sức khỏe, ổn định kinh tế – xã hội) và các giá trị gián tiếp:

Giá trị sử dụng cho tiêu thụbao gồm các sản phẩm tiêu dùng lương thực, thực phẩm, thuốc men, năng lượng, xây dựng là nhu cầu cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, ĐDSH cung cấp phần lớn chất đốt cho nhân loại,

Giá trị sử dụng cho sản xuất:ĐDSH là nguồn cung cấp giống, nguồn gen, cây trồng cho năng suất và tính bền vững trong nông nghiệp. Các sinh vật ký sinh và thiên địch trong các HST trên thế giới đã giúp phòng trừ sâu bệnh hiệu quả. Các loài ong, bướm… và các động vật đã giúp thụ phấn cho hơn 70% cây trồng chủ yếu trên thế giới và 90% thực vật có hoa. Các loài hoang dã đã thuần hóa được coi là các nguyên liệu di truyền cung cấp khả năng kháng bệnh, nâng cao năng suất, cải thiện sự thích nghi đối với các điều kiện môi trường.

ĐDSH cung cấp cơ sở cho sức khỏe con người: ĐDSH góp phần bảo vệ sức khỏe con người. Các cây thuốc và động vật làm thuốc truyền thống là nguồn cung cấp để bảo vệ sức khỏe cho hơn 80% dân số thế giới.

Nguyên nhân gây mất đa dạng sinh học Việt Nam

Nơi sinh cư dần trở nên thiếu hụt và suy giảm chủ yếu là do những hoạt động của con người chính là nguyên nhân mất đi sự đa dạng động thực vật và gây nên những yếu tố tự nhiên, trong đó các hoạt động của con người có thể kể đến như chuyển đối đất sử dụng, đốt rừng làm rẫy hay khai thác thủy hải sản quá mức với xu hướng gia tăng từ đó cũng bùng phát dịch bệnh hay động đất và cả cháy rừng tự nhiên.

Mặc dù Việt Nam ta sở hữu nguồn đa dạng sinh học ở mức cao nhưng chính bởi những hoạt động khai thác quá mức được xem là nguyên nhân sự cạn kiện các loài sinh vật

Ô nhiễm môi trường vẫn đang hàng ngày hàng giờ diễn ra và có chiều hướng gia tăng theo thời gian, nhiều nơi bị ô nhiễm và ảnh hưởng trực tiếp bởi khí thải công nghiệp, chính điều này vô hình dung làm ảnh hưởng đến môi trường sống của những sinh vật, đặc biệt là với những chất thải đô thị.

Giải pháp để bảo vệ đa dạng sinh học ở Việt Nam

Đa Dạng Sinh Học Là Gì? Nguyên Nhân, Biện Pháp Hạn Chế Suy Giảm Đa Dạng Sinh Học

Trong đó các giá trị lợi ích của đa dạng sinh học bao gồm sự đa dạng và tính khác biệt của những loài sinh vật sống bao gồm cả những phức hệ sinh thái được tồn tại trong đó. Ngoài ra tính đa dạng của sinh học cũng được quy ước ở một số lượng xác định với nhiều đối tượng khác nhau, tính giá trị cũng được thể hiện ở tần số xác định của chúng, và đươc biểu trưng bằng nhiều cấp độ khác nhau chính và chúng có những chuyển biến từ phức tạp đến các cấu trúc hóa học là cơ sở phân tử của thế giới di truyền. Chúng ta cũng có thể tìm hiểu thêm về tính đa dạng và phong phú của chúng trên thế giới hay cụ thể hơn là tại Việt Nam.

Đa dạng sinh học của nước ta không thể hiện trực tiếp ở suy giảm số lượng , thành phần loài, kiểu hệ sinh thái và nguồn gen, không thể hiện ở phân bố sinh vật

Nguy cơ suy giảm đa dạng sinh vật trên thế giới

Nguồn cá biển hay san hô sẽ bị suy thoái và cạn kiệt nghiêm trọng

Nguy cơ này có thể xảy đến trước tiên với khu vực Châu Á và Thái Bình Dương, trong đó dự tính thống kê cho thấy nguồn cá có thể cạn kiệt từ nay cho đến năm 2048 nếu như cách thức đánh bắt cá không thay đổi đồng thời 90% các loài san hô sẽ bị suy thoái nghiêm trọng từ nay cho đến năm 2020 do những yếu tố khách quan của tự nhiên về tình hình biến đổi khí hậu, các bạn có thể tìm hiểu thêm về khái niệm biến đổi khí hậu là gì

Các chủng loại và habitat của chủng loại sẽ biến mất

Song song với đó về tình hình mất đa dạng sinh học trên thế giới chính là sự biến mất của khoảng 45% chủng loại cũng như habitat của những chủng loại này từ nay cho đến thời điểm năm 2020 nếu như xu thế về đa dạng sinh học không được đảo ngược lại trong khoảng thời điểm hướng đến tương lai.

Nguy cơ châu lục mất đi từ khoảng 15% động thực vật

Một số loài chim và động vật có vú giảm đến 50%

Như vậy với tình hình chung về đa dạng sinh học thế giới đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ mất đa dạng giống loài từ thực vật cho đến động vật ở các châu lục khác nhau tính tới thời điểm hiện tại và trong tương lai.

Theo số liệu được đưa ra trong các nghiên cứu gần đây của Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) thì 7.291 trong tổng số 47.677 loài trên thế giới đang bị đe dọa tuyệt chủng, bao gồm 21% động vật có vú, 30% động vật lưỡng cư, 35% động vật không xương sống và 70% loài thực vật.

Thực trạng đa dạng sinh học ở Việt Nam

Bên cạnh đó vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học tại Việt Nam cũng đang gặp nhiều vấn đề nan giải dưới áp lực về dân số mặc dù Việt Nam được xem là một trong những quốc gia có nguồn đa dạng sinh học cao trên thế giới.

Các hệ thống rừng quốc gia và ngập mặn dần suy giảm

Tài nguyên sinh vật và động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng

Đối mặt với nạn săn bắn trái phép cũng chính là nguyên nhân chính giải đáp cho câu hỏi mất đa dạng sinh học là gì ở Việt Nam nguồn tài nguyên sinh vật và động vật hoang dã cũng đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng hoàn toàn. Nguồn gen của những loài thú quý hiếm này cũng đang dần bị thất thoát và mai một.

Hệ sinh thái biển giảm sút

Hệ sinh thái biển ở Việt Nam có sức chịu tải cao và khả năng tái tạo là tương đối lớn, tuy vậy sinh thái biển dù có phong phú cũng đang đứng trước nguy cơ bị giảm sút do tranh chấp lãnh thổ và những nguyên nhân khách quan trong biến đổi khí hậu và thiên tai.

Từ đó cũng khá nhạy cảm dù cho là tác động từ thiên nhiên hay con người.

Những nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học là gì?

Sự suy giảm đa dạng di truyền

Được xem là một trong những nguyên nhân chính làm suy giảm đa dạng sinh học hiện nay trên thế giới, theo thống kế trên toàn thế giới hiện nay có khoảng 492 quần thể khác biệt và loài cây di truyền, sự suy giảm về đa dạng sinh truyền này trên thế giới có thể đẩy đông nghiệp vào tình trạng nguy hiểm, trong đó ở một số nước từ sự mất suy giảm đa dạng di truyền này cũng là nguyên nhân gây nên sâu bệnh ở một số loại cây nông nghiệp và việc bùng nổ bệnh dịch thực vật có thể xảy ra bất kì lúc nào với những loài thực vật có ích cho nông nghiệp.

Cuộc chiến giữa các loài bản địa và nhập nội

Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới đa dạng sinh bị suy giảm là việc phổ cập toàn cầu các giống vật nuôi hay cây trồng gia tăng đã khiến cho các dịch bệnh gia tăng và đồng thời làm suy giảm thực vật động vật trên các đảo và thêm mối đe dọa với các loài trên lục địa, bên cạnh đó việc người Châu Âu đặt trên đến các hòn đảo vô hình chung lảm ảnh hưởng đến tính nhạy cảm của các loài động thực vật với minh chứng là các loài chim hay loài bò sát đã biến mất và sự hủy diệt của những loài chim hồng tước biết bay.

Con người cũng là nguyên nhân góp phần vào sự tuyệt chủng của các loài

Trện thực tế con người không hoàn toàn là nguyên nhân chính dẫn đến sự tuyệt chủng của các loài nhưng với hàng nghìn năm qua đã gây ra những biến đổi quan trọng sinh cảnh với nhiều dộng và thực vật bản địa. Hầu hết các chuyên gia đều cho rằng với nguyên nhân từ con người là do sự phá hủy đất để canh tác nông nghiệp cũng như gây xáo trộn trong việc nhập nội các loài đã tính đa dạng đồng thời còn săn bắn và giết thịt, việc loài người định cư cũng là một trong những nguyên nhân chính cho sự tuyệt chủng của những loài động vật và chim đã tồn tại từ nhiều năm trước đây!

Tốc độ tuyệt chủng hàng loạt giống nòi trong quá khứ

Sự tuyệt chủng hoàng loạt trầm trọng nhất được ước lượng trong khoảng 77 đến 96% đối với số loài xảy ra vào thế kỷ cuối của 250 triệu năm trước đây, và cũng tương tự như vậy, đa dạng sinh vật ở biển cũng đạt đỉnh so với vài triệu năm trước đó.

Nguyên nhân gây mất đa dạng sinh học Việt Nam

Tỉm hiểu thêm về các nguyên nhân gây mất đa dạng sinh học là gì chúng ta có thể tìm hiểu ở phạm vi gần và cụ thể hơn đó là ở nước ta. Trong đó bao gồm những căn nguyên cơ bản sau:

Sự suy giảm và mất đi nơi sinh cư

Nơi sinh cư dần trở nên thiếu hụt và suy giảm chủ yếu là do những hoạt động của con người chính là nguyên nhân mất đi sự đa dạng động thực vật và gây nên những yếu tố tự nhiên, trong đó các hoạt động của con người có thể kể đến như chuyển đối đất sử dụng, đốt rừng làm rẫy hay khai thác thủy hải sản quá mức với xu hướng gia tăng từ đó cũng bùng phát dịch bệnh hay động đất và cả cháy rừng tự nhiên.

Mặc dù Việt Nam ta sở hữu nguồn đa dạng sinh học ở mức cao nhưng chính bởi những hoạt động khai thác quá mức được xem là nguyên nhân sự cạn kiện đặc biệt là đối với những tài nguyên thủy hải sản ven bờ, bên cạnh đó có tồn tại một số phương pháp khai thác và tận thu mang tính hủy diệt gây ảnh hưởng đến giống nòi của các loài sinh vật như nổ mìn hay sử dụng hóa chất.

Mặt khác điểm đáng chú ý hơn cả chính là ô nhiễm dầu lại xảy ra tập trung chủ yếu ở các vùng nước cửa sông ven bờ hay những hoạt động tàu thuyền lớn. Từ đó cũng là nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm sinh học ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn gen bản địa và nơi sinh sống của các loài sinh vật bao gồm thực vật và động vật.

7 Giải pháp suy giảm đa dạng sinh vật ở Việt Nam và trên thế giới

1. Xây dựng các khu bảo tồn đa dạng sinh học Việt Nam

Trong đó việc xây dựng những khu bảo tồn sinh học cũng góp phần duy trì và gìn giữ những quá trình sinh thái, việc thành lập những khu bảo tồn hệ sinh thái cũng là những bước đi đầu tiên cần thiết nếu muốn kiểm soát và duy trì hiệu quả các giống nòi sinh thái, tuy nhiên khó khăn chính là nằm ở mặt kinh phí và nếu không được thực hiện hay lên mô hình nghiên cứu một cách tỉ mỉ cũng không thể thực hiện đúng chức năng như chúng ta mong muốn.

Ngoài ra việc xây dựng các hệ thống khu quốc gia bảo tồn là việc làm cần thiết nhưng cần có những hoạch định cụ thể.

2. Xây dựng vành đai khu đô thị, làng bản

Chúng ta cần có giới hạn phân chia cụ thể để phân chia khu vực thành thị nông thôn để không làm ảnh hưởng xấu từ khí thải hay khói bụi của đô thị đến với môi trường tự nhiên, từ đó chúng ta cũng có thể dễ dàng hơn trong việc xác định khoang vùng cần bảo vệ đa dạng sinh học là gì.

3. Kiểm soát chặt chẽ những cây con biến đổi gen

Mặc dù đây được xem là một việc làm tương đối cần thiết nhưng lại rất được chú trọng với những cây con biến đổi gen cần lập bảng theo dõi chu trình tiến triển của chúng hay nhân giống theo biện phái, và không chỉ đối với những loài thực vật, động vật cũng cần được áp dụng quy trình kiếm soát chặt chẽ sát sao và tương tự.

4. Lập danh sách và phân nhóm để quản lý theo mức độ quý hiếm, bị đe dọa tuyệt chủng

Với thời điểm hiện tại sự suy giảm giống nòi của sinh vật bao gồm thực vật và động vật cũng đang dần mất đi, điều cấp thiết chính là chúng ta cần lập danh sách và phân nhóm để có những hoạt động cụ thể trong quá trình phân nhóm theo mức độ khác nhau, đặc biệt là với những loài đang có nguy cơ đi đến bờ đe dọa bị tuyệt chủng.

5. Tổ chức các hoạt động du lịch thân thiện với môi trường

Việc phát triển đa dạng sinh học cũng cần song song với với đề du lịch và quản lý môi trường bao gồm tổ chức các hoạt động du lịch gần gũi tự nhiên và nói không với săn bắn đồng thời các hoạt động bổ ích như loại bỏ rác thải ở các vùng bồ biển nhằm đem đến hệ sinh thái tươi xanh và phong phú trong thời điểm hiện tại cũng như tương lai.

7. Tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý đa dạng sinh học

Tìm hiểu về những biện pháp cải tạo đa dạng sinh học là gì chúng ta cần có những cách tiếp cận hệ sinh thái kết hợp với việc quản lý đa dạng sinh học, tuy nhiên ở Việt Nam việc tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý đa dạng sinh học còn là một bài toán khá mới mẻ cần có áp dụng với một số địa phương những môi trường sinh thái cụ thể như vườn quốc gia U Minh Hạ hay Cầu Hai, Phá Tam Giang, khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ.

Đồng thởi cách tiếp cận này cũng giúp mở rộng quy mô bảo tồn khỏi những vùng lõi đá bị đóng khuôn qua nhiều năm, kết hợp với việc làm cần thiết là trồng hành lang xanh.

Ngăn Chặn Suy Giảm Và Suy Thoái Đa Dạng Sinh Học Ở Việt Nam

Việt Nam rất nỗ lực từ chủ trương, chính sách đến hành động nhưng thực tế hệ sinh thái, đa dạng sinh học của Việt Nam liên tục bị suy giảm và suy thoái với tốc độ rất nhanh.

Theo Cục Bảo tồn Thiên nhiên và Đa dạng sinh học, Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam là một trong 12 trung tâm đa dạng sinh học của thế giới, có tiềm năng đa dạng sinh học rất phong phú và sự đa dạng cao về các nguồn gen quý, hiếm.

Mặc dù, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực từ chủ trương, chính sách đến hành động nhưng thực tế hệ sinh thái, đa dạng sinh học của Việt Nam liên tục bị suy giảm và suy thoái với tốc độ rất nhanh.

Suy giảm và suy thoái tốc độ nhanh

Theo thống kê, Việt Nam có khoảng 20.000 loài thực vật, trên 10.500 loài động vật trên cạn, trên 2.000 loài động vật không xương sống và cá ở nước ngọt, trên 11.000 loài sinh vật biển và khoảng 7.500 chủng vi sinh vật.

Tiến sỹ Nguyễn Thành Vĩnh, Phó Cục trưởng Cục Bảo tồn Thiên nhiên và Đa dạng sinh học, cho biết dưới áp lực của sự gia tăng dân số đã và đang tạo ra một nhu cầu lớn về tiêu thụ tài nguyên.

Quá trình đô thị hóa nhanh, phát triển thiếu quy hoạch, thay đổi phương thức sử dụng đất, xây dựng nhiều kết cấu hạ tầng cơ sở… làm giảm đáng kể diện tích sinh cảnh tự nhiên, tăng sự chia cắt các hệ sinh thái, suy giảm môi trường sống của nhiều loài động vật, thực vật hoang dã.

Các loại tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên sinh vật đang bị khai thác quá mức, nhất là thủy, hải sản, lâm sản gỗ và phi gỗ.

Sự du nhập của các loài ngoại đang tác động trực tiếp đến đa dạng sinh học của Việt Nam. Mới đây nhất, ngày 28/12/2018, tôm hùm nước ngọt được Bộ Tài nguyên và Môi trường xếp vào danh sách các loài có nguy cơ xâm hại, cần tăng cường kiểm soát, ngăn chặn sự phát tán của loài này ra môi trường tự nhiên.

Nhiều loài sinh vật, đặc biệt là các loài quý, hiếm, đang trở nên tuyệt chủng ngoài tự nhiên hoặc đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Nhiều loài dược liệu quý trước đây rất sẵn ở Vườn quốc gia Hoàng Liên như bảy lá một hoa, nấm linh chi, tam thất… mấy năm gần đây khi đi khảo nghiệm thực tế đã không còn nhìn thấy.

Tình trạng khai thác, săn bắn, buôn bán và tiêu thụ trái phép động, thực vật hoang dã ngày càng diễn biến phức tạp gây ra mối đe dọa lớn tới đa dạng sinh học cũng như ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế.

Theo Hiệp hội Bảo tồn động vật hoang dã Việt Nam, từ 1/2013-12/2017, cả nước có 1.504 vi phạm; 41.328kg cá thể và sản phẩm, 1.461 đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật; 432 bị cáo bị xét xử trong các vi phạm hình sự về động vật hoang dã.

Ngoài ra, những tác động bất lợi từ biến đổi khí hậu, nước biển dâng đã xuất hiện và có xu hướng ngày càng nghiêm trọng, để lại những hậu quả nặng nề, thậm chí không còn khả năng phục hồi đối với đa dạng sinh học, các hệ sinh thái tự nhiên trên cạn cũng như dưới nước.

Các nguồn gene hoang dã cũng đang trên đà suy thoái nhanh và thất thoát nhiều. Suy thoái đa dạng sinh học dẫn đến mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống và sinh kế của con người, đe dọa sự phát triển bền vững.

Bảo tồn có hiệu quả

Thực tế, hiện nay nhận thức của nhiều cấp ủy đảng, chính quyền cũng như người dân về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác bảo tồn các loài động, thực vật hoang dã chưa đầy đủ và đúng mức.

Việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ các loài động, thực vật hoang dã chưa thực sự được coi trọng, chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục.

Trong nhân dân, còn khá phổ biến tư tưởng muốn sử dụng các sản phẩm từ động, thực vật hoang dã làm thực phẩm, thuốc chữa bệnh, đồ trang sức, thời trang, mỹ nghệ, quà biếu, tặng. Kinh phí cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học còn dàn trải, thiếu trọng tâm, thiếu cơ chế khuyến khích đầu tư, phát triển đa dạng sinh học từ trung ương đến địa phương…

Để bảo tồn có hiệu quả hệ sinh thái và đa dạng sinh học, Cục Bảo tồn Thiên nhiên và Đa dạng sinh học cho rằng, cần tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu đối với công tác bảo vệ môi trường nói chung và công tác bảo tồn đa dạng sinh học nói riêng.

Công tác điều hành phải luôn tính đến yếu tố bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, đánh giá tác động môi trường của các dự án phát triển kinh tế – xã hội; cân nhắc và chú trọng ngay từ đầu việc đánh giá những ảnh hưởng của các chính sách phát triển, các dự án kinh tế tới đa dạng sinh học…

Việc kiểm điểm đánh giá kết quả thực hiện các chương trình, kế hoạch hành động về bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học phải được xem là một trong những tiêu chí để xếp loại và đánh giá cán bộ hàng năm, là cơ sở để xem xét đánh giá bổ nhiệm cán bộ.

Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật đa dạng sinh học theo hướng thống nhất quản lý về đa dạng sinh học; đề xuất ban hành chỉ thị hoặc nghị quyết riêng về bảo tồn đa dạng sinh học nhằm tạo sự thông suốt về nhận thức, tư tưởng và hành động của toàn Đảng, các cấp, các ngành và sự đồng thuận trong nhân dân; hoàn thiện thể chế nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đa dạng sinh học; tăng cường việc thực thi chính sách, pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học; tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đa dạng sinh học; tạo cơ chế huy động sự tham gia và hợp tác đa bên trong bảo tồn đa dạng sinh học.

Công tác truyền thông và xây dựng năng lực về bảo tồn đa dạng sinh học cần được đẩy mạnh; đồng thời triển khai một số mô hình lồng ghép bảo tồn đa dạng sinh học trong phát triển kinh tế-xã hội, du lịch sinh thái địa phương; bảo tồn gắn với sinh kế, dựa vào cộng đồng; xây dựng mô hình chi trả dịch vụ môi trường và mô hình chia sẻ lợi ích từ việc phát sinh sử dụng nguồn gen.

Các bộ, ngành cần kịp thời cung cấp các thông tin về các vụ việc có xung đột môi trường nói chung, bảo tồn đa dạng sinh học nói riêng để kịp thời chỉ đạo và định hướng tuyên truyền.

Việt Nam tiếp tục xây dựng Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học giai đoạn 2021 – 2030; quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia giai đoạn 2021-2030; đề án điều tra cơ bản về quản lý tài nguyên, môi trường và lập cơ sở dữ liệu quốc gia về đa dạng sinh học; triển khai các chương trình, đề án về bảo tồn các loài nguy cấp, quý, hiếm; chương trình bảo tồn nguồn gene.

Ông Nguyễn Thành Vĩnh, Phó Cục trưởng Cục Bảo tồn Thiên nhiên và Đa dạng sinh học nhấn mạnh: Cần sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành tuyên giáo với các cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp trong định hướng, tuyên truyền với nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Có thể đưa nội dung tuyên truyền về bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, bảo tồn các loài hoang dã, nguy cấp quý hiếm vào các nội dung sinh hoạt chi bộ, đặc biệt phát huy vai trò của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên từ trung ương đến cơ sở. Đồng thời, xây dựng cơ chế cung cấp thông tin giữa ngành tuyên giáo với các cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp về bảo tồn đa dạng sinh học.

Từ những định hướng về bảo tồn đa dạng sinh học, các cấp ủy đảng sẽ tập trung chỉ đạo, xây dựng chương trình hành động, kế hoạch bảo tồn phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, đơn vị, góp phần thiết thực thực hiện có hiệu quả Công ước Quốc tế về đa dạng sinh học và các cam kết về bảo tồn đa dạng sinh học mà Việt Nam tham gia.

Khắc Phục Suy Thoái Đa Dạng Sinh Học

Nhận định về những nguyên nhân đã và đang gây suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam, các nhà khoa học chuyên ngành cho rằng, nguyên nhân chính yếu là do việc sử dụng, khai thác bất hợp pháp, không khoa học đa dạng sinh học vốn có.

Đó là khai thác bừa bãi mang tính hủy diệt nguồn lợi, chuyển đổi sự dụng đất lâm nghiệp tràn lan chia cắt nơi ở, vùng phân bố của sinh vật, gây ô nhiễm các nguồn nước, đất và không khí…Vì vậy, cần có định hướng cụ thể về chiến lược bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học có hiệu quả rõ ràng, để khắc phục các nguyên nhân suy thoái và giảm thiểu tác hại của biến đổi khí hậu, trên cơ sở mối quan hệ qua lại chặt chẽ của đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.

Tổng diện tích rừng tự nhiên của Việt Nam năm 1943 có 14,3 triệu ha, với tỷ lệ che phủ là 43,8%, trên mức an toàn sinh thái là 33%, nhưng đến năm 1999 chỉ còn 10,88 triệu ha. Nguyên nhân chính làm mất rừng là do dân số tăng nhanh, nạn đốt nương làm rẫy tràn lan, quá trình khai hoang lấy đất trồng cây công nghiệp như cà phê, chè, cao su và khai thác gỗ xuất khẩu. Tổng diện tích rừng ngập mặn cũng trong năm 1943 có tới 400.000ha, hiện chỉ còn 155.000ha, trong đó rừng nguyên sinh chiếm tỷ lệ rất thấp. Còn diện tích các rạn san hô (chưa kể hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) năm 2001 có 110.000ha, đến năm 2010 còn 14.000ha, chất lượng các rạn san hô cũng rất kém, nhiều loài đã chết.

Một chỉ số hiển thị suy thoái về đa dạng sinh học các loài là số các loài được ghi trong Sách đỏ. Qua 2 lần điều tra năm 1992 và năm 2007, số lượng các loài được ghi trong Sách đỏ đã tăng lên 1,5 lần. Trong đó thực vật có 37 loài rất nguy cấp, 178 loài nguy cấp. Động vật có 4 loài tuyệt chùng, 5 loài tuyệt chủng trong thiên nhiên, 48 loài rất nguy cấp và 113 loài nguy cấp. Bên cạnh đó, số lượng các giống, chủng động vật, thực vật được nuôi trồng phục vụ cho sản xuất nông, lâm, thủy sản, y tế…đã mất đi khá nhanh, trong số này có rất nhiều gốc bản địa quý. Giai đoạn điều tra từ năm 1997-2006, về giống lúa từ 156 còn 75 giống; đậu tương 22 còn 9; lạc 14 còn 4; cà chua 14 còn 7; cao su 14 còn 2; cà phê 14 còn 5. Rất nhiều giống vật nuôi bản địa như lợn, gà, vịt, bò…nay đã mất giống.

Ngoài các nguyên nhân do con người gây ra, ngày càng rõ nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam là do biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan. Các nhà sinh thái học trên thế giới đã xác nhận tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đối với đa dạng sinh học gồm: Tăng áp lực tiêu diệt các loài quý hiếm, phân bố hẹp, số lượng cá thể ít. Làm biến đổi, phân mảnh (do nước biển dâng cao) các hệ sinh thái biển, nhấn chìm một số đảo và dải bờ ven biển… Làm thay đổi vùng phân bố của các loài “nhạy cảm” với các yếu tố của biến đổi khí hậu như nhiệt độ, lượng mưa, lũ, hạn…

Các loài thích ứng với biến đổi khí hậu (giới hạn sinh thái phù hợp) sẽ có ưu thế trong cạnh tranh nơi ở và dinh dưỡng. Sự xâm hại gia tăng của các loài sinh vật ngoại lai. Tăng khả năng cháy rừng. Những tác động của biến đổi khí hậu lên đa dạng sinh học sẽ ngày càng nguy cấp, đe dọa đa dạng sinh học ở Việt Nam nói riêng và trên toàn cầu nói chung.

Phải chặn đứng các nguyên nhân

Các nhà khoa học của Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE) khẳng định, theo yêu cầu của phát triển bền vững (kinh tế, xã hội, môi trường), cả 3 nội dung là đa dạng sinh học-biến đổi khí hậu-phát triển bền vững phải được xử lý, điều chỉnh, phối hợp đạt hiệu quả cao nhất. Theo đó, muốn mối quan hệ giữa 3 nội dung được tốt nhất, cần phải làm cho tác động của biến đổi khí hậu đến đa dạng sinh học và phát triển bền vững đến mức thấp nhất. Đa dạng sinh học có thể giảm thiểu biến đổi khí hậu và tác động tích cực đến phát triển bền vững. Còn phát triển bền vững hạn chế được tác hại của biến đổi khí hậu và đóng góp tích cực cho đa dạng sinh học.

Muốn chặn đứng các nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp gây hại đến đa dạng sinh học, cần thực hiện đầy đủ và có hiệu quả nội dung yêu cầu của Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 do Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định phê duyệt số 1250 ngày 31/7/2013.

Chiến lược đã đề ra 5 nội dung nhiệm vụ Chủ yếu: Bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên; Bảo tồn các loài hoang dã và các giống vật nuôi, cây trồng nguy cấp, quý, hiếm; Sử dụng bền vững và thực hiện cơ chế chia sẻ hợp lý lợi ích từ dịch vụ hệ sinh thái và đa dạng sinh học; Kiểm soát các hoạt động gây tác động xấu đến đa dạng sinh học; Bảo tồn đa dạng sinh học trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Đây chính là định hướng đặc biệt quan trọng nhằm khắc phục suy thoái đa dạng sinh học ở nước ta.