Top 7 # Xem Nhiều Nhất Giải Pháp Cải Thiện Môi Trường Kinh Doanh Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Photomarathonasia.com

7 Giải Pháp Cải Thiện Môi Trường Kinh Doanh

Doanh nghiệp luôn mong muốn môi trường kinh doanh được thông thoáng, thuận lợi. Ảnh: H.Dịu

Theo đó, năm 2020 phấn đấu môi trường kinh doanh theo xếp hạng EoDB (của Ngân hàng thế giới (WB)) lên 10 bậc; năng lực cạnh tranh theo xếp hạng GCI 4.0 (của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF)) lên 5 bậc; đổi mới sáng tạo theo xếp hạng GII (của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO)) – lên 3-4 bậc; Chính phủ điện tử (của Liên Hợp Quốc (UN)) lên 10-15 bậc.

Nghị quyết nêu rõ, 7 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2020 gồm:

1- Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục thực hiện đầy đủ, nhất quán và hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp theo các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể đề ra tại Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 1/1/2019;

2- Các bộ được phân công làm đầu mối theo dõi các bộ chỉ số và các bộ, cơ quan được phân công chủ trì, chịu trách nhiệm đối với các nhóm chỉ số, chỉ số thành phần;

3- Tiếp tục cải thiện điểm số và thứ hạng các chỉ số môi trường kinh doanh;

4- Cải cách thực chất các các quy định về điều kiện kinh doanh;

5- Tiếp tục thực hiện cải cách toàn diện công tác quản lý, kiểm tra chuyên ngành và kết nối Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN;

6- Đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt và cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4;

7- Phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.

Tiếp tục cải thiện thứ hạng các chỉ số môi trường kinh doanh

Với nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục cải thiện điểm số và thứ hạng các chỉ số môi trường kinh doanh, trong đó, về Khởi sự kinh doanh, Bộ Tài chính trong quý I/2020 kiến nghị sửa đổi Nghị định số 139/2016/NĐ-CP ngày 04/10/2016 của Chính phủ quy định về lệ phí môn bài theo hướng lùi thời hạn khai, nộp lệ phí môn bài vào ngày 30/1 của năm kế tiếp; giám sát việc thực thi quy định đối với thủ tục đặt in/ tự in hóa đơn và thông báo phát hành đảm bảo đúng thời hạn 4 ngày theo quy định (trong đó thủ tục đặt in/ tự in hóa đơn là 2 ngày; thông báo phát hành là 2 ngày); đối với thủ tục mua hóa đơn đảm bảo giải quyết ngay trong ngày; đẩy mạnh việc sử dụng hóa đơn điện tử theo Nghị định số 119/2018/NĐ-CP ngày 12/9/2018 của Chính phủ quy định về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu xây dựng Hệ thống thông tin khai trình lao động trực tuyến kết nối với Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Hoàn thành trong quý IV/2020.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục hoàn thiện dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) theo hướng bãi bỏ hoặc đơn giản hóa các thủ tục không cần thiết, không phù hợp nhằm rút ngắn thời gian và chi phí gia nhập thị trường. Hoàn thành và trình Quốc hội vào kỳ họp tháng 5/2020.

Bộ Xây dựng rà soát lại quy trình, thủ tục cấp giấy phép xây dựng nhằm rút ngắn thời gian cấp giấy phép và thanh tra, kiểm tra xây dựng không quá 50 ngày; nghiên cứu, đề xuất áp dụng phương pháp quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư xây dựng nhằm giảm số lượng các cuộc kiểm tra, số lần phê duyệt; hoàn thành trong quý III năm 2020.

Về Tiếp cận tín dụng, Ngân hàng nhà nước Việt Nam tiếp tục triển khai hiệu quả các giải pháp duy trì chỉ số chiều sâu thông tin tín dụng; chỉ đạo các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp được tiếp cận tín dụng công bằng, minh bạch.

Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu khác của Nghị quyết là đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt và cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4.

Trong đó, Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể về cơ chế tài chính của các tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp trong việc chi trả phí dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, đảm bảo áp dụng và thực hiện thống nhất. Hoàn thành trong quý IV/2020.

Hương Dịu

Cải Thiện Môi Trường Đầu Tư Kinh Doanh

Báo cáo Chỉ số thuận lợi kinh doanh của Ngân hàng thế giới được công bố vào cuối năm 2016 cho biết: Môi trường kinh doanh của Việt Nam được ghi nhận có sự cải thiện mạnh mẽ nhất trong vòng một thập kỷ qua.

Theo đó, thứ hạng của Việt Nam hiện đã tăng 9 bậc, từ vị trí 91/189 quốc gia lên vị trí thứ 82 của bảng xếp hạng. Những cải thiện về môi trường kinh doanh của Việt Nam trong những năm qua đã cho thấy thông điệp mạnh mẽ cùng định hướng rõ ràng, đồng bộ từ Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương và Doanh nghiệp.

Đầu tiên phải kể đến việc Thủ tướng Chính phủ ban hành nghị quyết 35/NQ-CP về việc hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, phấn đấu đến năm 2020, xây dựng đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững. Tiếp đó là Nghị quyết 19 về các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia với mục tiêu đến năm 2017 Việt Nam đạt mức trung bình của nhóm nước ASEAN 4 trên một số chỉ tiêu về năng lực cạnh tranh thuộc nhóm chỉ số nâng cao hiệu quả.

Bên cạnh đó, nhờ sự nỗ lực vào cuộc của các bộ, ngành, địa phương, hàng nghìn thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, giấy phép con bất hợp lý đã được bãi bỏ… tạo niềm tin cho doanh nghiệp. Năm 2016, lần đầu tiên, số doanh nghiệp thành lập mới tại Việt Nam đạt con số kỷ lục với hơn 110.000 doanh nghiệp. Đây là tín hiệu đáng mừng thể hiện chủ trương cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, phát triển doanh nghiệp của Chính phủ đã đi đúng hướng, phấn đấu đến năm 2020, cả nước có trên 1 triệu doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp có quy mô lớn, nguồn lực mạnh.

Mặc dù đã có sự chuyển biến đáng kể, môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng được cải thiện, tuy nhiên ở một số cơ quan, cơ sở và địa phương, tình hình chuyển biến còn khá chậm, hoạt động đầu tư, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp vẫn còn bị cản trở, gây khó khăn, thậm chí là bị sách nhiễu.

Để xảy ra tình trạng như vậy, ngoài những nguyên nhân khách quan như: trình độ năng lực của cán bộ còn yếu kém, tư duy bảo thủ trì trệ trong lề lối làm việc… thì nguyên nhân chính được chỉ tên đó là: lợi ích cá nhân và cục bộ tràn lan, sự thờ ơ vô trách nhiệm cũng như sự vào cuộc thiếu quyết liệt của các cấp, các ngành.

Đúng 13h30, buổi tọa đàm bắt đầu.

Toàn cảnh buổi tọa đàm

Tham gia tọa đàm có ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng Ban Pháp chế VCCI; ông Nguyễn Minh Phong – Chuyên gia Kinh tế; ông Phan Đức Hiếu – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế TW; Ông Nguyễn Nhân Phượng – Chủ tịch Hiệp Hội Doanh nghiệp tỉnh Bắc Ninh; Ông Nguyễn Văn Thời – Chủ tịch Hiệp Hội Doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên; Ông Hoàng Trần Hiếu – Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu.

Phần 1: Thực trạng tình hình cải cách thể chế và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam

Ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng Ban Pháp chế, VCCI – Điều phối chính buổi tọa đàm: Đối với VN, ít có giai đoạn nào môi trường đầu tư kinh doanh và phát triển DN được nhắc nhiều đến như thời gian qua. Người đứng đầu Chính phủ, các bộ ngành và địa phương đã tổ chức nhiều buổi đối thoại với doanh nghiệp để đưa ra các giải pháp, điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp.

Ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng Ban Pháp chế VCCI

Có thể nói một không khí mới đang bao trùm trong việc xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cũng như các biện pháp nhằm phát triển DN. Xu hướng tìm ra giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách thể chế đang được đẩy mạnh. Có những vấn đề gai góc như thay đổi hạn điền, bãi bỏ điều kiện kinh doanh…đã có những thay đổi lớn. Nhiều địa phương cũng đã có những biện pháp mới để thu hút sự đầu tư của doanh nghiệp nhiều hơn cho địa phương. Vào tháng 4 tới, Thủ tướng Chính phủ sẽ gặp gỡ doanh nghiệp. Việc tổ chức tọa đàm hôm nay cũng như việc VCCI đang triển khai thu thập nhiều ý kiến của DN để đưa ra những hành động nhằm cải thiện môi trường kinh doanh là những tín hiệu rất tích cực.

– Thưa ông Phan Đức Hiếu, Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế TW là đơn vị đầu mối thực hiện Nghị quyết 19, theo ông đâu là điểm tích cực trong việc thực hiện Nghị quyết này?

Ông Phan Đức Hiếu – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế TW: Thông thường, bất kỳ cuộc cải cách nào đó cũng có 2 câu hỏi cơ bản: Làm gì, làm như thế nào? Khi xác định được phương hướng thì tổ chức thực thi, thực hiện ra sao?

Ông Phan Đức Hiếu – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế TW

Chúng ta không nên bàn nhiều về câu hỏi làm gì, làm như thế nào vì Nghị quyết 19 đã trả lời đầy đủ câu hỏi này. Nghị quyết 19 lần này đã xác định 250 giải pháp, có nghĩa là chúng ta có 250 công việc cụ thể để làm nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Không chỉ tính đến biện pháp ngắn hạn là cải thiện trực tiếp chất lượng, Nghị quyết 19 lần này còn tính đến giải pháp dài hạn nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Như vậy, về mặt chủ trương, làm gì, chúng ta đã đi đúng hướng và được xác định. Vấn đề chính nằm ở chỗ chúng ta tổ chức thực thi giải pháp, biện pháp đặt ra thế nào?

Qua theo dõi 3 năm thực hiện Nghị quyết 19 và 1 năm thực hiện Nghị quyết 35, tôi cho rằng thách thức lớn nhất của chúng ta là làm thế nào để thực hiện đúng và đủ. Hiện, tôi vẫn chưa nhìn thấy việc thực hiện có chuyển biến. Cho đến năm 2017, chúng ta mới đạt được chuyển biến về nhận thức. Còn lại, kết quả đạt được còn hạn chế, còn khoảng cách rất lớn so với kỳ vọng của doanh nghiệp và cộng đồng xã hội.

Theo quan sát của tôi, trong thời gian sắp tới chúng ta sẽ gặp thách thức lớn, bởi để đạt được mục tiêu thì chúng ta phải nỗ lực rất nhiều. Nếu cứ duy trì cải cách đều thì thì chúng ta không thể có bước tiến, thậm chí còn có bước đi lùi.

– Từ góc nhìn của mình, TS Nguyễn Minh Phong đánh giá như thế nào về việc tạo dựng môi trường kinh doanh? Đã đạt yêu cầu chưa? Nếu lấy thang điểm 10, ông sẽ đánh giá như thế nào?

Ông Nguyễn Minh Phong – Chuyên gia Kinh tế

TS Nguyễn Minh Phong – Chuyên gia Kinh tế: Đây là câu hỏi rất hay nhưng cũng rất khó. Tôi đồng tình với ý kiến chia sẻ của anh Hiếu. Tôi bổ sung thêm hai câu hỏi: thứ nhất là mục tiêu của cải cách, hỗ trợ DN và Cách thực hiện như thế nào?

Về mục tiêu cải cách, tôi cho rằng giai đoạn 2011-2015 là giai đoạn cực kỳ quan trọng bởi thời điểm này đã kế thừa những gì của giai đoạn trước đó, DN đổ vỡ hàng loạt, áp lực hội nhập rất lớn và đặt ra yêu cầu phải quyết liệt cải cách với các mục tiêu cụ thể.

Mục tiêu thứ nhất là giảm thiểu gánh nặng cho DN, trong đó giảm thuế, tài chính; chi phí vốn cho DN (lãi suất, điều kiện tiếp cận, yêu cầu thế chấp); thể chế của DN – một gánh nặng tồn tại dai dẳng đối với DN.

Mục tiêu thứ hai là hội nhập quốc tế.

Do đó, chúng ta phải chủ động thích ứng với việc đưa ra các định hướng, quy định theo thông lệ quốc tế. Đây là cái đích để xây dựng cho phù hợp.

Mục tiêu thứ ba và đồng thời cũng là cách làm đó là chúng ta chuyển từ một Nhà nước – nhà đầu tư trở thành 1 Nhà nước kiến tạo, pháp quyền, hành động, liêm chính hỗ trợ cho DN. Chính phủ trong suốt 4 năm qua từ 2011-2016 đều rất nhất quán. Việc đưa ra các Nghị quyết 19 lặp lại 4 lần, nghị quyết 35, các chỉ thị… tạo điểm nhấn, khác biệt và thể hiện quyết tâm nhất quán.

Về kết quả: Rõ ràng về mặt chấm điểm, các tổ chức trong và ngoài nước đều đánh giá là tốt hơn, tiêu biểu là WB và Diễn đàn kinh tế thế giới. Ở góc độ Luật, những ghi nhận trong pháp lý được rõ hơn. Người đứng đầu Chính phủ và hệ thống quản lý Nhà nước đã tỏ ra quyết tâm chính trị cao. Do vậy, chưa bao giờ tâm lý hứng khởi và niềm tin đầu tư vào Việt Nam được thể hiện rõ như vậy.

Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta cũng cần phải thận trọng bởi: Đội ngũ cán bộ thừa hành vẫn như vậy cả về chất lượng, lợi ích nhóm vẫn còn, chưa có nhiều thay đổi trong cải cách tiền lương… , thậm chí các Nghị quyết Chính phủ mới được chép lại vào các chương trình hành động ở địa phương, chứ chưa được cụ thể hoá thành các dự án, kế hoạch, mục tiêu, giải pháp cụ thể để thực hiện.

Chất lượng của các văn bản pháp lý chưa phải là cao, hiện tượng chậm trễ, copy paste… vẫn còn tồn tại. Thậm chí, các chỉ số bôi trơn và tham nhũng còn rất nặng, với trên 80% DN buộc phải bôi trơn và Việt Nam hiện đứng thứ 2 về tham nhũng nhất Châu Á chỉ sau Ấn Độ theo xếp hạng của Tổ chức minh bạch thế giới. Nếu chấm điểm, về pháp lý tôi chấm 7 điểm nhưng về thực tiễn tôi chấm 5 điểm.

– Thưa ông Nguyễn Văn Thời, tại các tỉnh đều có Chương trình hành động về NQ 19 và NQ 35, từ góc nhìn của một doanh nghiệp địa phương đang hoạt động, anh cho biết những cảm nhận, đánh giá về môi trường kinh doanh ở địa phương, các doanh nghiệp của tỉnh Thái Nguyên có ý kiến gì môi trường kinh doanh?

Ông Nguyễn Văn Thời – Chủ tịch Hiệp Hội Doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên.

Ông Đậu Anh Tuấn: Những câu chuyện ông Thời đưa ra tại địa bàn Thái Nguyên đã chuyển tải những thông điệp rất ý nghĩa. Vừa qua Chính phủ đã đưa ra những quyết sách từ những yêu cầu thực tiễn. Trước đây chính quyền địa phương không quan tâm lắm nhưng từ khi có PCI thì chính quyền đã có những hành động thiết thực nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Hay như Nghị quyết 35 cũng xuất phát từ thực tiễn khi trong cuộc gặp gỡ giữa Thủ tướng và DN, nhiều DN đã đưa ra nhiều khúc mắc mà DN đang gặp phải…

– Nghị quyết 35 cũng có đề cập đến vấn đề Lãnh đạo tỉnh phải thường xuyên đối thoại với doanh nghiệp trong năm, tôi muốn đặt câu hỏi với ông Nguyễn Nhân Phượng – Chủ tịch Hội Doanh nghiệp tỉnh Bắc Ninh, tỉnh có nhiều lợi thế trong việc thu hút FDI, vậy trong bối cảnh này, các doanh nghiệp tư nhân có bị mất lợi thế không? Làm thế nào để doanh nghiệp tư nhân có được tiếng nói đối với lãnh đạo tỉnh?

Ông Nguyễn Nhân Phượng, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp tỉnh Bắc Ninh

Ngay sau khi có Nghị quyết, Chủ tịch UBND tỉnh đã tổ chức hội nghị gặp gỡ doanh nghiệp. Hội nghị đã quyết định thành lập tổ công tác giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Lần đầu tiên sau 10 năm hoạt động, Hiệp hội DN tỉnh Bắc Ninh được tỉnh tạo điều kiện đến việc giải quyết khó khăn, kiến nghị. Cụ thể, Chủ tịch tỉnh Bắc Ninh đã chỉ đạo: Các sở, ban ngành phải trả lời tất cả những kiến nghị, khó khăn vướng mắc của DN từ Hiệp hội bằng văn bản. Đây là điểm rất mới và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, tránh tình trạng lảng tránh hoặc chỉ trả lời bằng miệng như trước đây.

Bắc Ninh có nhiều DN nước ngoài đầu tư, hoạt động trên địa bàn tỉnh, Hiệp hội đã nhiều lần kiến nghị với tỉnh tạo điều kiện cho doanh nghiệp làm công nghiệp phụ trợ và cung cấp các dịch vụ nhà ở, ăn nghỉ,…phục vụ cho người nước ngoài.

Việc cung cấp các dịch vụ hiện đã thực hiện tốt, các doanh nghiệp đã được tham gia. Tuy nhiên, về công nghiệp phụ trợ hiện còn khó khăn. Bởi riêng việc DN gặp gỡ được người có quyền trong DN nước ngoài đã là rất khó khăn, đa phần chỉ thông qua đại diện người Việt, mà người Việt thường đã có những mối làm ăn của người Việt rồi, khó để DN tỉnh tham gia vào. Do đó, việc gắn kết và quan hệ giữa DN trong địa bàn tỉnh với DN nước ngoài còn khó khăn. Đặc biệt, thực hiện Nghị NQ 35, sau khi thực hiện tổ công tác, tỉnh Bắc Ninh đã thành lập đề án “Bác sĩ doanh nghiệp”. Thậm chí, những khó khăn của doanh nghiệp có thể báo trực tiếp đến chủ tịch tỉnh. Đây là việc làm có tác dụng tốt.

DN trên địa bàn còn gặp khó về thủ tục hành chính. Cụ thể, DN phải thực hiện một “chặng đường dài” của những thủ tục. Ví dụ 1 DN có thủ tục xin đất được chủ tịch tỉnh đồng thuận, mà đây lại là dự án xử lý nước thải và chuyển đổi từ đất công mà cũng mất đến 1 năm dài để thực hiện cấp đất. Trong rất nhiều biện pháp Nhà nước đề ra, khó nhất với DN vẫn là vấn đề đất. Nhà nước nếu đứng ra hỗ trợ doanh nghiệp giải phóng mặt bằng thì sẽ đơn giản hơn. Nhưng Nhà nước lại “đá bóng” sang chân DN, mà DN tự thỏa thuận với dân là việc vô cùng khó khăn. Vì vậy, tôi mong nhà nước có chính sách giúp đỡ DN, để hiện thực hóa mục tiêu 1 triệu DN của Thủ tướng CP.

Chúng ta muốn phát triển DN mà không có đất thì phát triển vào đâu. Nếu để từng DN xin thuê ở địa phương sẽ thành manh mún sau xử lý môi trường rất khó, thậm chí một số dự án giao DN đền bù nhưng nhiều yếu tố dẫn đến viêc không thể thực hiện dự án.

Chúng tôi rất mong Nhà nước, Sở Kế hoạch Đầu tư, Sở Công thương cùng giúp sức cho doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV. Bên cạnh đó, chúng tôi mong muốn sau khi có đơn thì chậm nhất là 3 tháng cơ quan nhà nước cấp huyện có thể có quyết định cho chúng tôi. Nếu có 1 đơn vị dịch vụ giúp DN làm thủ tục thì tiến trình phát triển DN sẽ nhanh lên. Còn thủ tục hành chính là cả 1 chuỗi nên dẫn đến chậm trễ cho tiến độ triển khai dự án của DN.

Từ thực trạng trên, tôi xin đề xuất các ngân hàng cần có chính sách hỗ trợ cho DN, đối ứng vốn cho DN vay vốn, đầu tư vốn vay khi DN có dự án tốt và khả thi. Cụ thể, khi DN có 30% vốn, các đơn vị tín dụng, ngân hàng nên quan tâm, tạo điều kiện hỗ trợ tạo nguồn vốn cho DN triển khai dự án.

– Ở góc độ của một doanh nghiệp, ông Hoàng Trần Hiếu, Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu có những đánh giá gì về môi trường kinh doanh trong năm qua?

Ông Hoàng Trần Hiếu – Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu.

Ông Hoàng Trần Hiếu – Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu: Là một doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm sạch, chúng tôi đánh giá Nghị quyết 35 của Chính Phủ đã mang lại lợi thế cho DN trẻ. Tuy nhiên đi vào đầu tư cho lĩnh vực này, chúng tôi thấy nảy sinh một số vấn đề về nguồn cung và cầu. Cụ thể, nhu cầu thực phẩm sạch cao, nguồn cung cao nhưng lại tồn tại mức mong muốn. Về phía DN, để cung cấp được thực phẩm sạch, chúng tôi phải đầu tư sản xuất, đầu tư kinh doanh. Về phía người tiêu dùng có thể bỏ nhiều tiền để mua thực phẩm sạch nhưng không có căn cứ để xác định thực phẩm đó sạch và bản thân người nông dân cũng không tự tin để cam kết cung cấp dài hạn thực phẩm sạch bởi làm thực phẩm sạch cần phải đầu tư cao.

Để giải quyết vấn đề này, tôi nghĩ cần sự vào cuộc của Chính phủ định hướng, tổ chức giúp DN, người nông dân hay nhà sản xuất sản xuất tập trung, quy mô hơn. Và để làm được điều này, tôi cho rằng, lợi ích, đạo đức và luật pháp và là 3 yếu tố luôn đồng hành và cần đồng bộ với nhau. Hiện nay, thủ tục hành chính đã có thay đổi và đi vào thực tế. Tuy nhiên, nhà nước sẽ quản lý vĩ mô còn việc thực hiện cụ thể cần có các Hiệp hội, tổ chức tiêu dùng.

Ông Nguyễn Văn Thời: Hiện nay, các rào cản đối với DNVVN vẫn đang còn như: Việc áp dụng bộ luật thuế với DNVVN như hiện tại không hợp lý. Hơn nữa, đăng ký kinh doanh đã có đăng ký điện tử rồi nhưng nếu có quy trình, phần mềm thống nhất thì tốt hơn. Một số DN không hiểu rõ về việc đăng ký kinh doanh điện tử, nên có DN làm, DN không làm. Do vậy, cơ quan quản lý cần đưa ra chế tài bắt buộc đăng ký kinh doanh phải điện tử thì sẽ nó thành mệnh lệnh và buộc các DN phải làm.

Bên cạnh đó, cơ chế một cửa cũng xuất phát từ việc ban hành chính sách nhưng không quy định cụ thể. Ví như trong cuộc họp, các lãnh đạo Sở ngành không họp cùng DN mà để cho thư ký đi, sau đó thư ký gửi lại biên bản họp cho lãnh đạo tỉnh xem xét. Chính việc lòng vòng này khiến DN phải đợi, mất nhiều thời gian. Thiết nghĩ, nên có chế tài phạt những đơn vị thực hiện không tốt.

Phần 2: Các giải pháp giúp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam

Qua quan sát của địa phương cho thấy chỉ cần có một sự thay đổi nhỏ về cơ chế chính sách đã có thể tạo thuận lợi cho DN rất nhiều. Xin hỏi ông Phan Đức Hiếu về việc đơn giản hóa thủ tục kinh doanh?

Hiện nay, những địa phương tích cực đang xử lý vấn đề một cách rất cơ học. Cụ thể, với mục tiêu như vậy, họ ép cơ học đối với các cơ sở, phòng ban hoàn thành bằng cách nhanh nhất…. Như vậy rất áp lực và tốn kém nhân sự. Tôi cho rằng về lâu dài, nhà nước phải rút dần và trao lại quyền cho xã hội, đặc biệt là các hiệp hội doanh nghiệp. Hiện, nhiều địa phương tổ chức đối thoại giữa chính quyền và doanh nghiệp, nhưng đối thoại vẫn mang tính hình thức, chưa hiệu quả, nhiều kiến nghị không được xử lý. Theo tôi, chúng ta nên giao cho một cơ quan độc lập tổ chức buổi đối thoại. Cơ quan này có trách nhiệm nghiên cứu, tập hợp kiến nghị của doanh nghiệp và cập nhật các giải pháp của chính quyền. Mọi doanh nghiệp có kiến nghị đều được giải quyết như nhau.

Đối với các địa phương chưa tích cực, không tích cực, cần tạo ra một môi trường làm việc minh bạch, công bằng trong việc đánh giá hiệu quả của công chức. Có như vậy mới thu hút được những công chức có tâm vào làm việc, tránh tình trạng đặt người không đúng chỗ.

Tôi thấy hiện nay duy nhất chỉ có VCCI là có 1-2 chỉ số là đánh sát, giám sát quá trình thực thi. Con số này quá ít, cần phải tăng cường vai trò của xã hội để tăng cường phản biện xã hội. Hiện, phản biện của doanh nghiệp còn rời rạc, thiếu chuyên nghiệp. Ở nước ngoài, bản kiến nghị của doanh nghiệp thường mang tính xây dựng rất cao, là tập hợp ý kiến của nhiều doanh nghiệp về các nhóm vấn đề. Vì vậy, tôi kêu gọi các hiệp hội doanh nghiệp, các địa phương nên tập hợp lại với nhau, hành xử một cách chuyên nghiệp để gia tăng sức ép đối với nhà nước. Có như vậy, các kiến nghị của doanh nghiệp mới có cơ hội được giải quyết, qua đó cải thiện được môi trường kinh doanh tại các địa phương.

– Thưa ông Nguyễn Minh Phong, ông có thấy sự chuyển động chưa đồng đều ở các bộ ngành hay không trong việc thực hiện NQ 19 và NQ 35?

Chuyên gia Kinh tế Nguyễn Minh Phong

Tôi cho rằng, độ chuyển động có đồng đều hay không phụ thuộc vào quy chuẩn và quy trình được đưa ra. Ví dụ có địa phương đưa ra một số quy định rất là tốt và được ban hành thực hiện từ trên xuống dưới như: với một vấn đề nếu quá 3 ngày không có phản hồi thông tin thì coi như là đồng ý; đi họp thay thì ý kiến phát biểu đại biểu chính là là ý kiến của Giám đốc Sở.

Thực tế ghi nhận những thành tựu thấy rõ: thời gian nộp thuế giảm, điện tử hoá rất nhiều…đặc biệt ở một số địa phương và Hà Nội đã xây dựng được bộ tiêu chí điện tử rất cao. Chính điều này góp phần giảm thiểu thời gian của Nhà nước và tạo điều kiện hỗ trợ cho DN.

Ngành Thuế đã có sự cải thiện rất tốt từ 28% xuống 20%. Thậm chí nhiều DN còn cho rằng cải tiến như thế là được rồi. Tuy vậy, ở một số lĩnh vực khác như đất đai chẳng hạn sẽ gặp khó khăn hơn. Do đó, khi chấm điểm chỉ số cũng phải xem xét đối với từng lĩnh vực và mức độ khó khăn riêng để đánh giá mức độ chuyển động. Tôi cho rằng mức độ đồng đều còn phụ thuộc vào trách nhiệm của người đứng đầu. Nếu họ có chế tài lớn, chiến dịch cao điểm như bầu cử thì mức độ chuyển động cũng khác nhau.

Tôi cho rằng có 4 vấn đề ảnh hưởng đến xu hướng, tốc độ và kết quả thực tế của những chuyển động về cải cách. Thứ nhất là nội dung yêu cầu và lộ trình hội nhập. Thứ hai là vai trò của người đứng đầu thực sự quan trọng. Nếu người đứng đầu (Thủ tướng, Bộ trưởng, Chủ tịch tỉnh, Bí thư…) nghiêm túc và trực tiếp chỉ đạo thì có sự đẩy nhanh trong việc thực hiện. Thứ ba là xây dựng về quy trình khi được chuẩn hoá, thể chế hoá sẽ đi vào hành động. Thứ tư là dựa trên nền tảng phát triển công nghệ thông tin để quản lý dữ liệu thông tin trong tỉnh và trên cả nước.

Ông Đậu Anh Tuấn: Ông Phong có nhắc đến cải cách của ngành thuế. Vừa qua tôi có tham dự một hội thảo về vấn đề này. Điều tôi bất ngờ là khi Bộ Tài chính sử dụng điều tra sự hài lòng của DN về cải thiện ngành thuế đều phải công khai, xây dựng nhật ký điện tử khi đến làm việc với DN…Tôi cũng rất bất ngờ với quy định thanh tra công vụ và không công nhận tranh tra viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nếu phát hiện có chi phí bôi trơn…Hy vọng những chỉ đạo, quy định này sẽ được thực hiện trong thời gian tới.

– Trong Nghị quyết 35 có nội dung phải cắt giảm chi phí cho DN, ông Nguyễn Văn Thời có đánh giá thế nào về chi phí kinh doanh, đặc biệt đối với hoạt động xuất nhập khẩu của VN như thế nào? Có cách nào để cắt giảm chi phí kinh doanh cho DN trong thời gian tới?

Tuy nhiên để đạt được điều kiện của Thông tư 72 thì DN phải tốt thực sự. Còn nếu đánh giá chung về mặt xu hướng, thì xu hướng chi phí giảm là rõ ràng. Ví dụ như ngành thuế áp dụng hoàn thuế điện tử, theo đó nếu DN có đủ chứng từ kê khai thì tiền về ngay, không bị tồn đọng. Đây cũng là chi phí giảm. Còn các thủ tục hành chính thì khi có Nghị quyết 19, Nghị quyết 35 và các chỉ thị, nghị quyết riêng của tỉnh thì rất tốt cho DN. Chi phí đầu vào, chi phí gia nhập thị trường cho DN đã giảm rõ rệt.

– Một trong những xu hướng và đã được các địa phương tổ chức khá tốt như xây dựng trung tâm tỉnh, cắt giảm TTHC, việc này đã tạo động lực cho lãnh đạo địa phương. Xin hỏi ông Hiếu, với DN trẻ, việc chuyển động ấy đã làm hài lòng DN?

Ông Hoàng Trần Hiếu – Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu: Nghị quyết 35 có đề cập đến vấn đề giảm chi cho DN. Về mặt chủ trương điều này rất có lợi cho DN từ chính sách về thuế, lương theo năng suất lao động, phí đường bộ,…Nhưng yếu tố quan trọng nhất tôi nghĩ đó là giảm phí cơ hội thời gian và thủ tục hành chính. Tôi rất quan tâm tới yếu tố thời gian 48h của anh Phượng, việc giảm chi và “quy trình 3-5 ngày”, “1 dừng” của anh Phong vừa đề cập. Về chủ trương, đứng ở góc độ doanh nghiệp tôi rất hài lòng.

– Năm ngoái tôi có tham gia một hội đồng đo thời gian giải phóng hàng và thấy tỷ lệ doanh nghiệp giải phóng hàng tương đối ít. Cụ thể, tỷ lệ doanh nghiệp giải phóng hàng dưới 48 giờ thì chỉ có 38,5% lô hàng được giải quyết. Điều này cho thấy việc rút ngắn thời gian thông quan vẫn còn lớn. Tôi muốn hỏi ông Phượng, với doanh nghiệp đang hoạt động, ông đánh giá thế nào về chi phí kinh doanh trong thời gian vừa rồi, làm thế nào để cắt giảm hơn nữa?

Ông Nguyễn Nhân Phượng: Nói về chi phí kinh doanh, đối với doanh nghiệp chúng tôi quan tâm nhất đến là chi phí thời gian. Để giảm được chi phí, trong thời gian gần đây, các doanh nghiệp đều chú trọng tới đổi mới công nghệ bởi việc đổi mới công nghệ giúp làm tăng năng suất lao động, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm và gia tăng sức cạnh tranh. Song song với đó là chi phí đối với lao động, thị trường lao động hiện rất được quan tâm. Trong đó, DNNVV cũng song song cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài về lực lượng lao động, kéo theo chi phí lao động tăng lên. Nhưng bản thân doanh nghiệp luôn xác định đó là chi phí thiết yếu và vẫn được duy trì bởi chi phí lao động tăng sẽ nâng cao được chất lượng và năng suất sản phẩm, như vậy vẫn đảm bảo sự phát triển cho doanh nghiệp và giảm giá thành sản phẩm, đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng

– Vậy giải pháp như thế nào để thực hiện hiệu quả Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35?

Ông Nguyễn Văn Thời: DN chúng tôi đang tự thân đề xuất, tự thân kiến nghị. Chúng tôi có thể tiếp cận những DN phát triển nhất trên thế giới, sau đó chúng tôi cũng mày mò, học tập và làm theo. Ngành may đã xây dựng chương trình kiến nghị để báo cáo chủ tịch nước. Từ đó nhà nước ban hành chính sách. Tuy nhiên khó khăn lớn nhất của ngành dệt may hiện nay là chất lượng nguồn nhân lực để tạo ra sản phẩm, mẫu mã tốt nhất, trong khi nguyên liệu kém. Để ngành dệt may dần dần phát triển, từng DN phải đặt ra lộ trình xây dựng thương hiệu trong nước và tiến ra nước ngoài. Chính vì mục tiêu như vậy mà thấy vướng mắc gì chúng tôi kiến nghị Nhà nước cái đó Những năm tới chúng tôi cần cơ quan quản lý ra “thước đo”, Hiệp hội DN và VCCI sẽ là người “đo” kết quả hoạt động, từ đó sẽ thúc đẩy sự phát triển.

Ông Hoàng Trần Hiếu: Phải chuyển từ việc chủ động của Nhà nước đối thoại với doanh nghiệp thành việc đề xuất của tổ chức nghề nghiệp, doanh nghiệp gặp gỡ cơ quan Nhà nước. Có thể là đối thoại trong phạm vi nhỏ, giúp doanh nghiệp và các hiệp hội doanh nghiệp dễ dàng chia sẻ và đề xuất với cơ quan chức năng. Đặc biệt, để NQ 35 đi vào đời sống phải chú trọng, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu từ phía các Hiệp hội và cơ quan Nhà nước. Phải có cơ chế giám sát và kiểm điểm với người đứng đầu các đơn vị này.

Ông Nguyễn Minh Phong: Chúng tôi tin rằng sắp tới tinh thần nghị quyết 19, nghị quyết 35 sẽ tiếp tục được lặp lại, thậm chí ở mức độ cao hơn với tinh thần Chính phủ kiến tạo. Do đó, vấn đề làm thế nào để tăng hiệu quả vẫn sẽ phải tiếp tục. Như tôi đã nói từ đầu với những kết quả thực hiện bước đầu, chúng ta hãy bám vào đó để thực hiện tiếp. Các cấp, ngành, VCCI cần chủ động rà soát lại cái văn bản hội nhập để xây dựng và tạo thuận lợi cho DN. Chính phủ cần họp định kỳ và những nội dung của nghị quyết phải được đưa ra để nghe, báo cáo và kịp thời giải quyết cho DN. Bên cạnh đó, xác lập tốt hơn vai trò của người đứng đầu (Thủ tướng, Quốc hội, Bộ trưởng…) để có răn đe thực sự mạnh mẽ tạo ra sức ép mạnh cho người thừa hành; đồng thời sẽ lan toả tới từng nhân viên thấp nhất. Và chỉ khi nào sự lan toả này tới được tới người cuối cùng thì mới giải quyết được vấn đề. Đồng thời, xây dựng được hệ thống thông tin, tiện cho tiếp cận và chia sẻ thông tin, khiếu nại đơn, kêu cứu của DN và được truyền tải trực tiếp thì những điểm cần phải gỡ sẽ nhận diện rất nhanh. Ngoài ra, vai trò của cơ quan báo chí, thanh kiểm tra, hiệp hội, quần chúng… là rất quan trọng. Nếu nhìn ở cấp độ khái quát có 3 việc phải làm: thứ nhất, xây dựng giá trị chuẩn quốc gia cho bộ, ngành, doanh nghiệp khi đó mới tạo ra thước đo đúng để nhận diện những cái sai loại bỏ. Thứ hai, xây dựng cơ chế tốt bảo vệ tốt lợi ích quốc gia và lợi ích công cộng. Thứ ba, xây dựng một đội ngũ cán bộ.

Ông Đậu Anh Tuấn: Tôi đồng tình với quan điểm từ thực tiễn của anh Thời. Theo tôi muốn thay đổi việc gì đều phải có động lực. Đề xuất của anh Thời khiến tôi nhớ đến câu nói của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: “Cái gì không đo được tức là không cải cách mạnh mẽ được”. Đây là đòi hỏi cơ quan chiến lược như anh Hiếu đó là cần những thước đo cụ thể.

Nhóm PV

Tiếp Tục Đề Xuất Giải Pháp Cải Thiện Môi Trường Kinh Doanh

Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư là đầu mối chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ và các bộ, cơ quan trong việc thu thập thông tin, dữ liệu, trao đổi với Ngân hàng Thế giới trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Báo cáo môi trường kinh doanh 2020; làm việc với Bộ Tài chính để xác định cơ quan chủ trì theo dõi về chỉ số mua sắm công, báo cáo Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo.

Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam trong quá trình đánh giá các hoạt động cải cách, cải thiện môi trường kinh doanh, bảo đảm tính bền vững của những cải cách này tại Việt Nam; tiếp tục đề xuất những giải pháp cải cách mạnh mẽ các chỉ số môi trường kinh doanh trong những năm tiếp theo.

Văn phòng Chính phủ đôn đốc thực hiện kịp thời, đầy đủ Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 1/1/2019 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021; kiểm tra việc chuẩn bị chu đáo báo cáo về môi trường kinh doanh 2020 do Ngân hàng Thế giới thực hiện.

Giá vàng bật tăng khi đề xuất của ông Trump hỗ trợ người dân bị từ chối

Kinhtedothi – Sáng nay (30/12), giá vàng thế giới và trong nước cùng bật tăng sau khi đề xuất của Tổng thống Mỹ Donald Trump hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 từ 600 USD lên 2.00…

[Infographic] Vốn FDI vào Việt Nam giảm 25%

Kinhtedothi – Theo số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê, năm 2020, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 28,53 tỷ USD, giảm 25% so…

Thương hiệu Việt khác Made in Vietnam

Giá lợn hơi hôm nay 30/12: 2 miền Trung – Nam tiếp tục tăng 1.000 – 2.000 đồng/kg

Kinhtedothi – Theo ghi nhận, giá lợn hơi hôm nay (30/12), tại miền Bắc đi ngang, trong khi 2 miền Trung – Nam tiếp tục tăng 1.000 – 2.000 đồng/kg so với phiên giao dịch hôm qua. Hiện, giá lợn hơi c…

Giá tiêu hôm nay 30/12: Tiếp tục tăng nhẹ, giá tiêu Việt vẫn tăng trưởng tốt trong năm Covid

Kinhtedothi – Giá tiêu hôm nay 30/12 trong khoảng 52.000 – 54.000 đồng/kg. Qua kỳ nghỉ lễ Giáng sinh, giá tiêu Ấn Độ tăng nhẹ phiên thứ 2 liên tiếp.

Lạng Sơn: Đẩy Mạnh Giải Pháp Cải Thiện Môi Trường Đầu Tư Kinh Doanh Phát Triển Doanh Nghiệp

(khoahocdoisong.vn) – Những năm qua, cấp ủy, chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh đã tập trung chỉ đạo, thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp về cải cách hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư. Qua đó, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.

Báo cáo của UBND tỉnh Lạng Sơn tại Hội nghị bàn giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) tỉnh Lạng Sơn diễn ra ngày 30/11 cho biết, trong những năm qua, tỉnh đã triển khai đồng bộ và quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nhằm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, thu hút đầu tư trên địa bàn như đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tổ chức Hội nghị gặp mặt, đối thoại với doanh nghiệp, tập trung giải quyết kịp thời các kiến nghị của doanh nghiệp, hợp tác xã, xây dựng đề án tạo quỹ đất, đề án phát triển doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, quy hoạch và thu đầu tư, phát triển các khu, cụm công nghiệp, xây dựng cơ chế chính sách thu hút đầu tư trên địa bàn, chính sách đặc thù khuyến khích đầu tư, phát triển hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2020 – 2025…

Nhờ đó, đã có nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đến tìm hiểu đầu tư trên địa bàn tỉnh như Sun Group, FLC, TMS, Công ty Cổ phần đầu tư châu Á – Thái Bình Dương (Apec), TNG Holdings…

Đến nay, trên địa bàn tỉnh có trên 3.300 doanh nghiệp hoạt động với tổng vốn đăng ký trên 29.000 tỷ đồng, tạo việc làm cho trên 50.000 lao động với thu nhập bình quân từ 5 đến 6 triệu đồng/người/tháng.

Giai đoạn 2016 – 2020, tỉnh đã phê duyệt chủ trương đầu tư 110 dự án với tổng vốn đăng ký trên 20.300 tỷ đồng.

Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn Hồ Tiến Thiệu cho biết, để có kết quả đó phải kể đến sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị trong việc cải cách hành chính, đơn giản hóa mọi thủ tục đầu tư, giúp các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn; định hướng, khuyến khích doanh nghiệp tham gia các hoạt động xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước để tìm kiếm cơ hội, đối tác đầu tư có tiềm lực tài chính mạnh cùng hợp tác triển khai thực hiện dự án; mở rộng hoạt động đối ngoại, thông qua các chương trình hợp tác song phương giữa tỉnh với các tổ chức tín dụng lớn như: Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam; Ngân hàng phát triển Việt Nam; Ngân hàng phát triển châu Á…

Theo kết quả công bố chỉ số PCI năm 2019 của VCCI, Lạng Sơn đạt 63,9 điểm (tăng 9,18 điểm so với năm 2015); xếp hạng 50/63 tỉnh, thành phố (tăng 7 bậc so với năm 2015) – là tỉnh đứng đầu trong nhóm các tỉnh thành phố đạt điểm trung bình…

Tuy nhiên, theo Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Vũ Tiến Lộc, sự phát triển trên của Lạng Sơn vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh.

Cụ thể, với lợi thế nằm trên hành lang kinh tế Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh – là cửa ngõ quan trọng ở khu vực Đông Bắc Việt Nam, Lạng Sơn cần xây dựng và phát triển Khu kinh tế cửa khẩu thực sự trở thành “cầu nối” trung tâm xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ lớn của cả nước và khu vực.

Lạng Sơn có tiềm năng, lợi thế lớn về du lịch và kinh tế cửa khẩu, nhưng chỉ số phát triển doanh nghiệp của Lạng Sơn chỉ đang duy trì ở mức 5, 6, 7 trong 14 tỉnh miền núi phía Bắc, tức là ở dưới mức trung bình. Do đó, Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc cho rằng, tỉnh Lạng Sơn không nên tập trung quá nhiều đến việc phát triển doanh nghiệp lớn và vừa mà phải lưu ý đến các hộ kinh doanh nhỏ, bởi đây cũng là một nguồn lực kinh tế quan trọng.

Đồng thời, cần xây dựng chương trình để hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân nhỏ, siêu nhỏ và vừa, thúc đẩy chuyển đổi hộ kinh doanh lên thành doanh nghiệp; tăng cường gặp mặt, đối thoại doanh nghiệp ở nhiều cấp độ; tăng cường các hoạt động liên kết vùng và chia sẻ kinh nghiệm giữa các tỉnh trong vùng miền núi phía Bắc…

Ghi nhận những góp ý của VCCI, Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn Lâm Thị Phương Thanh cho biết, lãnh đạo tỉnh sẽ tiếp tục tìm những giải pháp, chia sẻ, trao đổi thông tin về xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, những cơ chế chính sách linh hoạt, chuyển đổi số vào quản lý điều hành… để Lạng Sơn xác định lộ trình, định hướng thực hiện trong thời gian tới.

(khoahocdoisong.vn) – Trong những năm qua, ngành giáo dục Lạng Sơn trên cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu nhân lực của tỉnh trong bối cảnh kinh tế xã hội của tỉnh phá triển mạnh mẽ.