Top 5 # Xem Nhiều Nhất Chức Năng Của Nhà Nước Trong Quản Lý Môi Trường Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Photomarathonasia.com

Khái Niệm, Vai Trò, Chức Năng Của Thuế Trong Quản Lý Nhà Nước

Chức năng của thuế.

Chức năng của một sự vật hay một hiện tượng là sự thể hiện công dụng vốn có của nó. Ðối với một phạm trù kinh tế – xã hội thì chức năng phản ánh sự tác động của nó – là một phương thức đặc biệt biểu hiện những thuộc tính vốn có của phạm trù. Cũng như bản chất, chức năng cũng có tính ổn định tương đối của nó trong suốt thời gian tồn tại của sự vật hay đối tượng.

Thuế là một phạm trù tài chính, nó biểu hiện những thuộc tính chung vốn có của các quan hệ tài chính. Tuy nhiên thuế cũng có những đặc trưng, hình thức vận động và các chức năng riêng bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính.

Căn cứ vào nội dung cùng với qúa trình ra đời, tồn tại và phát triển của thuế, chúng ta thấy rằng thuế thực hiện các chức năng sau đây:

Chức năng phân phối và phân phối lại: là chức năng cơ bản, đặc thù của thuế.

Ngay từ lúc ra đời thuế là phương tiện dùng để động viên nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước (có ở tất cả các kiểu Nhà nước).Về mặt lịch sử, chức năng huy động nguồn tài chính là chức năng đầu tiên, phản ánh nguyên nhân nảy sinh ra thuế.Thông qua chức năng này, các qũy tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình thành để đảm bảo cơ sở vật chất cho sự hoạt động thường xuyên và tồn tại của Nhà nước. Bằng chính chức năng này, Nhà nước tiến hành tham gia phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong xã hội. Chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập của thuế là sự huy động một bộ phận thu nhập quốc dân dưới hình thức tiền tệ vào ngân sách Nhà nước. Phần lớn thuế đánh trên hàng hóa và thu nhập. Người có thu nhập cao và sử dụng nhiều hàng hóa, dịch vụ là người nộp thuế nhiều hơn. Số tiền này sau đó laiỷ được Nhà nước chi nhằm thực hiện chính sách kinh tế-xã hội, tạo ra tính công bằng tương đối cho xã hội.Trong một chừng mực nhất định, chức năng phân phối và phân phối lại đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát huy tác dụng chức năng điều tiết của thuế.

Chức năng phân phối và phân phối lại có vị trí ngày càng quan trọng. Ðiều này được giải thích bởi sự phát triển, mở rộng các chức năng của Nhà nước và việc thực hiện nhiều chính sách khác nhau, trong đó có việc can thiệp của Nhà nước vào các qúa trình kinh tế.

Chức năng điều tiết đối với nền kinh tế.

Chức năng điều tiết của thuế được nhận thức và sử dụng rộng rãi từ những năm đầu của thế kỷ XX và gắn liền với vai trò điều chỉnh của Nhà nước đối với nền kinh tế. Việc tăng cường vai trò kinh tế – xã hội của Nhà nước dẫn đến tốc độ chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên và hậu qủa tất yếu là đòi hỏi Nhà nước phải mở rộng qũy tài chính Nhà nước, hình thành chủ yếu từ việc thu thuế. Nhu cầu về nguồn tài chính càng lớn thì Nhà nước cần phải tăng cường các chức năng của thuế để tác động một cách có hiệu qủa đến nền kinh tế quốc dân. Chính trong qúa trình đó chức năng phân phối và phân phối lại và chức năng điều chỉnh của thuế đã được sử dụng một cách hiện thực.

Ðiều đó có nghĩa là nội dung điều tiết theo một mục tiêu nào đó đã được dự liệu trước vào trong qúa trình huy động tập trung nguồn tài chính. Bằng cách sử dụng nó để kích thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng, tăng cường hoặc làm yếu đi sự tích lũy tiết kiệm, mở rộng hoặc thu hẹp nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư, đẩy nhanh hoặc làm chậm lại chu kỳ khủng hoảng kinh tế, Nhà nước đã thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế – xã hội trong phạm vi quốc gia.

Thực hiện chức năng điều chỉnh của thuế thông qua việc quy định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế; xây dựng chính xác, hợp lý các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp thuế. Trên cơ sở đó Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào qũy đạo chung của nền kinh tế quốc dân, phù hợp với lợi ích của toàn xã hội. Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, vai trò kích thích kinh tế thông qua thuế ngay càng được nâng cao. Nhà nước sử dụng thuế để tác động lên lợi ích kinh tế của các chủ thể vì lợi ích của nền kinh tế quốc dân. Với công cụ thuế, sự can thiệp của Nhà nước không mang tính chất mệnh lệnh, bắt buộc các chủ thể phải kinh doanh hay không kinh doanh mà chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối với các chủ thể kinh doanh.

Giữa hai chức năng trên của thuế có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Chức năng phân phối và phân phối lại của thuế là nguyên nhân ảnh hưởng đến sự vận động và phát triển của chức năng điểu tiết. Nhưng chức năng điều tiết của thuế cũng có tác động ngược lại đến chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập. Nguồn tài chính mà Nhà nước tập trung được dưới dạng thuế là tiền đề của sự can thiệp của Nhà nước trên diện rộng và theo chiều sâu tới qúa trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngược lại, việc điều tiết, sắp xếp sản xuất của Nhà nước nhằm vào việc thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế lại tạo điều kiện để tăng thu nhập của các tầng lớp nhân dân và đây chính là cơ sở quan trọng để mở rộng phạm vi tác động của chức năng phân phối và phân phối lại.

Sự thống nhất nội tại của các chức năng hoàn toàn không loại trừ các mâu thuẩn nội tại trong mỗi chức năng và giữa hai chức năng. Sự tăng cường chức năng phân phối và phân phối lại làm cho nguồn thu của Nhà nước tăng lên. Ðiều đó có nghĩa là mở rộng khả năng của Nhà nước trong việc thực hiện các chương trình kinh tế xã hội. Mặc khác, việc tăng cường chức năng phân phối và phân phối lại một cách qúa mức làm tăng gánh nặng thuế và hậu qủa là làm giảm động lực phát triển kinh tế, trong nhiều trường hợp làm hạn chế vai trò của chức năng điều tiết. Ðó là tính hai mặt của thuế, nó có khả năng làm ảnh hưởng đến nền kinh tế một cách tích cực, nhưng cũng có thể ảnh hưởng một cách tiêu cực. Tính hai mặt của sự tác động đó cần phải được xem xét nghiêm túc kỹ lưỡng trong tiến trình hoạch định, xây dựng, ban hành các chính sách pháp luật về thuế của Nhà nước trong từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội nhất định.

Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường.

Các nhà kinh tế học thường đề cập vai trò của thuế đối với ngân sách Nhà nước và đời sống xã hội. Bởi vì trên thực tế, thông qua hoạt động thu thuế, Nhà nước tập trung được một bộ phận của cải của xã hội từ đó hình thành nên qũy ngân sách Nhà nước và thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội.

Về phương diện Luật học, thuế là một thực thể do Nhà nước đặt ra thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật không chỉ quy định nội dung các loại thuế mà còn xác lập các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể, các biện pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế. Pháp luật thuế là sự thể chế hoá các chính sách kinh tế – xã hội cuả Nhà nước. Chính vì vậy pháp luật thuế là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế – xã hội của thuế và có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.

Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với sự thay đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế đóng vai trò hết sức quan trọng đối với qúa trình phát triển kinh tế – xã hội. Vai trò của thuế được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:

Pháp luật thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước nhằm huy động tập trung một phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước.

Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các pháp nhân và thể nhân trong xã hội.Việc các chủ thể nộp thuế – thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước.

Cũng như pháp luật nói chung, Pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh quan hệ pháp luật thu – nộp thuế là nhằm tạo lập qũy ngân sách Nhà nước. Hầu hết ở các quốc gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để thu ngân sách Nhà nước.

Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng tăng.

Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiện nay nguồn thu nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển thành có vay có trả. Trước tiên, thuế là một công cụ quan trọng để góp phần ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài.

Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế đã điều chỉnh được hầu hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng xã hội. Ðây là nguồn thu chính của ngân sách Nhà nước.

Pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.

Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, pháp luật thuế còn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Ðiều 26 Hiến pháp 1992 ghi nhận: Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hoá và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.

Ðiều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm thuế…Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò này của pháp luật thuế được thể hiện ở chổ pháp luật thuế là công cụ tác động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu dùng của các thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng.

Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp đến cung – cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh cung – cầu của nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Bằng các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến cung – cầu của nền kinh tế trong tất cả các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.

Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuê,ỳ Nhà nước tác động đến các quan hệ tiêu dùng của xã hội. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng hóa, dịch vụ, Nhà nước tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu…đối với việc sản xuất kinh doanh, tiêu dùng các loại hàng hóa đó.

Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.

Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Ðối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp.

Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý và có hiệu qủa các nguồn lực cuả đất nước trong việc điều chỉnh cung – cầu và cơ cấu kinh tế.

Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội.

Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thế nhân và pháp nhân.

Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.

Vai trò điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của pháp luật thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội.

Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục những sự mất cân đối về mặt xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng pháp luật thuế làm công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Sự điều tiết này thể hiện ở chổ thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu nhập của các đối tượng nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế trong hệ thống thuế, vế thuế suất… đều có tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập trong xã hội.

Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm pháp luật thuế theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống thuế và thuế suất…Tuy vậy, việc thực hiện xu hướng chung đó không làm triệt tiêu vai trò của pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường.

Quản Lý Vĩ Mô Của Nhà Nước Trong Nền Kinh Tế Thị Trường

1

* Thời gian giảng: 8 tiết * Đối tượng học viên: Trung cấp lý luận chính trị. * Kết cấu bài giảng I/ Khái niệm và vai trò quản lý Nhà nước về kinh tế ở nước ta 1. Khái niệm 2. Vai trò của quản lý nhà nước về kinh tế II/ Chức năng và nội dung quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay 1. Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế 2. Nội dung quản lý nhà nước về kinh tế III/ Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta 1. Kiểu Nhà nước Việt Nam 2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế IV/ Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 1. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta 2. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế

3

Tiến trình bài giảng I/ KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH

TẾ

NƯỚC

TA

1. Khái niệm 1.1, Quản lý nhà nước Quản lý nhà nước là sự tác động của các cơ quan nhà nước có chức năng, thẩm quyền tới các quá trình kinh tế – xã hội, bằng hệ thống công cụ có tính chất nhà nước nhằm đạt mục tiêu đã định. – Ở đây, chủ thể quản lý nhà nước là các cơ quan nhà nước có chức năng, thẩm quyền nhất định, được luật pháp quy định. Trong các cơ quan nhà nước đó lại chia thành các cấp khác nhau, cụ thể: + Cơ quan nhà nước cấp Trung ương: Thực hiện quản lý vĩ mô trên phạm vi cả nước. + Cơ quan nhà nước ở địa phương, cơ sở: Thực hiện quản lý nhà nước trong phạm vi địa phương, cơ sở. Tuy nhiên, quản lý nhà nước ở cấp cơ sở không được trái pháp luật và quy định của cơ quan nhà nước cấp trên. – Các lĩnh vực mà quản lý nhà nước tác động tới bao gồm rất nhiều lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, môi trường, 4

thổ: Gồm TW, địa phương, cơ sở (xã, phường). * Xét về khách thể của quản lý nhà nước về kinh tế, đó chính là duy trì trật tự mội trường kinh doanh và trật tự trong lĩnh vực quản lý kinh tế. (Cần phân biệt khách thể của quản lý sản xuất kinh doanh là nhằm hướng tới đạt được lợi nhuận cao nhất). * Xét về công cụ của quản lý nhà nước về kinh tế, Nhà nước sử dụng các công cụ mang tính quyền lực nhà nước, đó là luật pháp, các văn bản dưới luật, các chính sách, chiến lược, kế hoạch,… để tác động, điều chỉnh, dẫn dắt, định hướng các hoạt động kinh tế – xã hội nhằm đạt mục tiêu của Nhà nước đề ra. 2. Vai trò của quản lý nhà nước về kinh tế 2.1, Quá trình nhận thức vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong lịch sử

7

Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó ra đời khi xã hội có phân chia giai cấp, nó chính là công cụ để giai cấp thống trị điều hành, quản lý mọi mặt của đất nước, nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp đó. Nhà nước có 2 chức năng: chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Một trong những hoạt động mà nhà nước thực hiện chức năng xã hội là Nhà nước có nhiệm vụ duy trì trật tự xã hội, dần dần do yêu cầu đặt ra, ngoài việc đảm bảo an ninh trật tự xã hội, Nhà nước còn phải đảm nhận duy trì trật tự đối với các hoạt động kinh tế để các hoạt động này diễn ra một cách bình thường, thuận lợi. Càng ngày, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước càng được chú trọng. Cùng với sự biến đổi của chế độ chính trị và trình độ phát triển lực lượng sản xuất cũng như yêu cầu tăng trưởng kinh tế của các nước trong từng giai đoạn lịch sử, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước cũng biến đổi theo cho phù hợp. Cụ thể: * Dưới chế độ Phong kiến, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, Nhà nước thực hiện sự quản lý kinh tế ở việc quản lý ruộng đất (đất đai thuộc sở hữu của Nhà nước phong kiến nhưng được phong cấp cho nông dân – Nhà Lý thế kỷ X; Thế kỷ XIV Hồ Quý Ly ban hành chính sách hạn điền, hạn nô; Thế kỷ XV Nhà Lê thực hiện chế độ quân điền và lộc điền,…); tổ chức thu thuế; đào mương, đắp đập, làm đường sá… * Dưới Chủ nghĩa tư bản, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ở từng thời kỳ có khác nhau. – Khi cơ chế thị trường vận hành, cạnh tranh tăng lên, 8

đòi hỏi giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước, đó là nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh theo mô hình của A.Smith (cuối TK XVIII, TK XIX, đầu TK XX), theo ông, bàn tay vô hình của tự do cạnh tranh sẽ bảo đảm cho xã hội những gì sản xuất ra phù hợp với nhu cầu của các thành viên của nó và theo những số lượng mong muốn, nó sẽ đưa tới kết quả là sự hài hòa xã hội. Lúc này vai trò của Nhà nước chỉ là “người gác đêm” cho Chủ nghĩa tư bản, thể hiện ở khẩu hiệu “Nhà nước tối thiểu” – Nền kinh tế thị trường tự do đã không kéo theo sự hài hòa xã hội, mà dẫn đến suy thoái, khủng hoảng chu kỳ, mất cân đối về cơ cấu kinh tế, cạnh tranh gay gắt dẫn đến độc quyền, phân hóa giàu nghèo, ô nhiễm môi trường và hàng loạt các vấn đề xã hội nảy sinh, kết cục là các cuộc đấu tranh xã hội, làm cho địa vị giai cấp Tư sản bị lung lay. Đến đây, buộc các nhà kinh tế tư sản phải nhìn nhận lại học thuyết kinh tế của mình và điều chỉnh cho thích hợp. Lúc này Nhà nước buộc phải can thiệp sâu hơn vào nền kinh tế để khắc phục những mặt tiêu cực do tự do cạnh tranh gây ra và bảo vệ lợi ích cho giai cấp mình. Lý thuyết kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước của J.M.Keynes (đầu TK XX) đáp ứng yêu cầu đó. Ông chủ trương “mở rộng những chức năng của Nhà nước”, đề xuất một chính sách xã hội cao do Nhà nước thực hiện như: phát tiền các trợ cấp gia đình, bảo đảm sức mua của tiền công và hưu bổng, thuế đánh vào tư bản,…thực hiện “Nhà nước

9

phúc lợi”. Tuy nhiên, những cải cách này không hề đi ngược lại quyền lợi của các tập đoàn tư bản độc quyền, mà trái lại, làm cho tư bản độc quyền tiếp tục tồn tại và phát triển, đồng thời cứu Chủ nghĩa tư bản thoát khỏi đổ vỡ. Chính vì vậy lý luận của Keynes chiếm vị trí thống trị trong hệ thống tư tưởng kinh tế ở các nước tư bản từ những năm 30 TK XX đến sau Chiến tranh thế giới thứ II. – Sau CTTG II, với sự phát triển vũ bão của cách mạng khoa học – công nghệ và xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa ngày càng gia tăng, các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia, đa quốc gia ngày càng chiếm địa vị khống chế trên thị trường thế giới thì vai trò điều tiết nền kinh tế thị trường có lúc vượt ra ngoài tầm tay của các nhà nước tư sản. Lúc này lý luận của Keynes không còn phù hợp; các nhà kinh tế học sau Keynes đã đưa ra lý luận về “Chủ nghĩa tự do mới” hay còn gọi là “Chủ nghĩa tự do cổ điển mới”: kết hợp chủ nghĩa tự do cổ điển của A.Smith với trường phái trọng thương cũ và mới, trường phái Keynes mới. Khẩu hiệu của họ là “thị trường nhiều hơn, Nhà nước can thiệp ít hơn”, nghĩa là mở rộng tự do cạnh tranh trên thị trường, tăng cường vị trí của khu vực tư nhân, giảm vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước xuống mức thấp, giảm tỷ lệ chi tiêu công cộng, điều chỉnh phân phối thu nhập có lợi cho chủ tư bản, thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư trên phạm vi thế giới. Nhà triết học Pháp Coóc-nê-li-út Ca-xtơ-ri-a-đi cho 10

rằng “với việc áp dụng Chủ nghĩa tự do mới, Nhà nước trút bỏ trách nhiệm của mình và tự đặt cho mình dưới sự chi phối của các thị trường tiền tệ”. Mô hình này được nhiều nước tư bản phát triển áp dụng như Mỹ (thời Tổng thống Rigân), Anh (thời Thủ tướng Thát-Chơ) và các nước đang phát triển như Braxin,… Sau khoảng trên dưới 1 thập kỷ áp dụng, mô hình này đã để lại hậu quả nghiêm trọng: khủng hoảng, rối loạn, thất nghiệp, đói nghèo,… tạo ra một xã hội lưỡng cực: sự giàu có và sự nghèo khổ. Ví dụ: Năm 1960, khoảng cách thu nhập giữa 20% người giàu nhất và 20% nghèo nhất của dân số thế giới là 30 lần; năm 1991 tăng lên 61 lần. 12 nước EC (gia nhập trước 1994), số người nghèo tăng từ 38 triệu năm 1975 lên 53 triệu năm 1992. – Như vậy với nền kinh tế được điều tiết hoàn toàn bởi bàn tay thị trường, hay với nền kinh tế có sự can thiệp quá lớn của bàn tay nhà nước thì đều dẫn đến nền kinh tế rơi vào tình trạng hoạt động không hiệu quả. Để khắc phục khiếm khuyết đó, nhà kinh tế học người Mỹ P.Samuelson đã đưa ra lý thuyết “2 bàn tay”, đó là nền kinh tế được vận hành với sự kết hợp vài trò của thị trường và của nhà nước (nền kinh tế hỗn hợp). Do đó không thể loại trừ hay xem nhẹ một trong hai yếu tố đó. Hiện nay trên thế giới, hầu hết các nước tư bản đều đánh giá cao lý thuyết này. * Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, vào cuối những 11

năm 20 TK XX, với mục tiêu xây dựng Chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nên các nước đã thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ, Nhà nước có vai trò to lớn , can thiệp sâu vào các hoạt động kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính, tuyệt đối không chấp nhận thị trường. Với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, Nhà nước của các nước xã hội chủ nghĩa đã thực hiện được những mục tiêu kinh tế – xã hội quan trọng, đó là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho phát triển kinh tế, tăng cường an ninh, quốc phòng; chăm lo đến các chính sách xã hội: giáo dục, y tế; thực hiện công bằng xã hội, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. – Tuy nhiên, do duy trì một nền kinh tế phi hàng hóa với cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung lâu dài đã phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực, như: khủng hoảng kinh tế – xã hội, sử dụng lãng phí các nguồn lực, nền kinh tế không xuát phát từ thị trường, thiếu hàng hóa trầm trọng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn; bộ máy nhà nước cồng kềnh, quan liêu, kém hiệu quả; mọi động lực phát triển đều bị triệt tiêu,… Thêm vào đó, tình hình thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc, buộc các nước phải đổi mới tư duy kinh tế, tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Song trong quá trình chuyển đổi, một số nước đã có những cách làm không phù hợp, không tuân thủ đúng nguyên tắc cho nên dẫn tới thất bại, đổ vỡ, không giữ vững mục tiêu chính trị, đã chuyển sang phát triển nền kinh tế thị

12

trường tư bản chủ nghĩa (các nước Đông Âu). Còn một số nước (trong đó có Trung Quốc, Việt Nam) đã có những bước chuyển đổi phù hợp, vừa tiến hành xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, vừa đảm bảo giữ vững mục tiêu Chủ nghĩa xã hội. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng trong suốt 20 năm qua kể từ khi chúng ta tiến hành sự nghiệp đổi mới, bộ mặt đất nước đã thay đổi, nền kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ cao, an ninh – chính trị được giữ vững, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, dân chủ ngày càng được phát huy, công bằng xã hội đang dần được thiết lập. Như vậy, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, có thể khẳng định rằng cho dù ở các nước có chế độ chính trị khác nhau, đều phát triển nền kinh tế thị trường – một thành quả của nền văn minh nhân loại, coi đó là phương tiện để thúc đẩy kinh tế phát triển, đi liền với nó là sự điều tiết của nhà nước. Tuy nhiên, không hẳn sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế ở các nước đều như nhau, mà ở mỗi nước, do mục đích, động lực, bản chất xã hội của từng nhà nước mà sự quản lý, điều 2.2, Tính tất yếu khách tiết nền kinh tế là khác nhau. quan của quản lý nhà nước

Trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay, chúng

về kinh tế trong nền kinh tế ta coi trọng vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà thị trường định hướng xã nước đối với nền kinh tế thị trường để đảm bảo định hội chủ nghĩa

hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 13

– Thứ nhất, Nhà nước ta đại diện cho sở hữu công cộng và nắm giữ tài sản cho toàn dân, là chủ thể quản lý cao nhất đối với các hoạt động kinh tế – xã hội của đất nước.

Quản lý nhà nước nói chung, đặc biệt quản lý vĩ mô của Nhà nước ta trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, vì:

Trong thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội, vấn đề tổ chức quản lý của nhà nước được đặt lên hàng đầu là quản lý kinh tế. Lênin cho rằng: “Nhiệm vụ quản lý nhà nước trước hết và trên hết được quy lại thành nhiệm vụ thuần tuý kinh tế … nói tóm lại nhiệm vụ đó được quy thành nhiệm vụ tổ chức lại nền kinh tế” Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là người đại diện chủ sở hữu tài sản công, vừa là người đại diện cho lợi ích – Thứ hai, sự phát triển mạnh của nhân dân lao động, vì thế chức năng quản lý kinh tế mẽ của khoa học, công nghệ là một tất yếu khách quan. Chỉ có sự quản lý của nhà hiện đại làm nảy sinh nhiều nước, nền kinh tế mới có thể phát triển bền vững, chế vấn đề đòi hỏi nhà nước và 14

chỉ nhà nước mới có chức độ người bóc lột người và bất công xã hội mới được năng, thẩm quyền thực hiện xóa bỏ, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. giải quyết.

Tuy nhiên vai trò của nhà nước có được phát huy hay không còn tuỳ thuộc vào phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ trong bộ máy quản lý kinh tế – xã hội các cấp.

– Thứ ba, sự đa dạng về sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở nước ta đòi hỏi nhà nước phải tăng cường vai trò quản lý.

Sự phát triển của KH – CN hiện đại sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt cơ cấu ngành, vùng và cơ cấu sản phẩm, đồng thời, cơ cấu lao động cũng thay đổi. Điều đó cần phải có một sự định hướng chiến lược của nhà nước trong chính sách ưu đãi ngành, vùng, trong chính sách giáo dục – đào tạo, cũng như nghiên cứu KH-CN.

– Thứ tư, toàn cầu hóa, quốc tế

Nếu như trước đổi mới, nền kinh tế nước ta với 2

hóa nhiều lĩnh vực đòi hỏi nhà hình thức sở hữu (toàn dân và tập thể), tương ứng với nước phải tăng cường vai trò nó là 2 thành phần kinh tế (quốc doanh và HTX), thì quản lý của mình.

cho đến nay, với các hình thức sở hữu khác nhau (toàn 15

dân, tập thể, tư nhân, hỗn hợp) và 6 thành phần kinh tế hoạt động đan xen nhau, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, nếu không tăng cường vai trò nhà nước thì không thể bảo đảm cho các thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng, tuân thủ đúng pháp luật…

Trong xu thế quốc tế hóa, TCH đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, chúng ta không thể đứng ngoài vòng xoáy – Thứ năm, những khuyết tật đó, mà phải tích cực chủ động hội nhập vào nền kinh tế của kinh tế thị trường đặt ra thế giới. Tuy nhiên, đối với một nước kinh tế kém phát yêu cầu phải có sự quản lý, triển, pháp luật chưa hoàn thiện, khả năng thua thiệt, yếu thế là khó tránh khỏi (vụ cá tra, cá ba sa, tôm xuất điều tiết của nhà nước. khẩu, thương hiệu nước mắm Phú Quốc…). Chính vì vậy, nếu không có bước đi, lộ trình thích hợp, không có các chính sách, chiến lược kinh tế đúng đắn, không có sự định hướng phát triển thì thách thức trong quá trình hội nhập ngày càng lớn.

Nền kinh tế thị trường là phương tiện để các nước đạt được sự tăng trưởng cao. Song, kinh tế thị trường không phải là chìa khóa vạn năng để giải quyết tốt mọi vấn đề. Bên cạnh mặt tích cực, nó cũng chứa đựng những hạn chế, tiêu cực như: cạnh tranh gay gắt dẫn 16

– Thứ sáu, tăng cường quản lý đến độc quyền, hiện tượng buôn lậu, trốn thuế, làm nhà nước về kinh tế để giữ hàng giả, phân hóa giàu nghèo, môi trường sinh thái bị vững định hướng xã hội chủ hủy hoại cạn kiệt, tệ nạn xã hội nảy sinh, lối sống chạy nghĩa.

theo đồng tiền,… Đối với Việt Nam, chúng ta vẫn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy sự điều tiết của nhà nước là hết sức cần thiết để giảm bớt những khuyết tật của kinh tế thị trường, phát huy tối đa mặt tích cực để phục vụ cho phát triển kinh tế.

Chúng ta xác định mục tiêu cuối cùng là xây dựng 2.3, Vai trò * Đảm bảo cho nền kinh tế ổn định và phát triển bền vững

thành công Chủ nghĩa xã hội, cho nên phát triển kinh tế chính là nhằm phục vụ cho mục tiêu đó. Mặc dù hiện nay chúng ta đang trong TKQĐ lên CNXH, nhưng trong từng bước phát triển đều phải đảm bảo giữ vững định hướng XHCN. Trong điều kiện một nền kinh tế nhiều thành phần, nhà nước đảm bảo định hướng XHCN thông qua vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước – lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế. Đồng thời hướng các thành phần vào làm ăn có hiệu quả, thực hiện tốt các chính sách xã hội.

17

Thể hiện: – Đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô: Đảm bảo giá trị * Đảm bảo hiệu quả kinh tế –

đồng tiền; đảm bảo những cân đối lớn của nền kinh

xã hội

tế như: cân đối hàng hóa – tiền tệ, cung – cầu, xuất khẩu – nhập khẩu, đầu tư cá nhân – đầu tư cộng đồng, cân đối giữa các ngành,… – Đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế liên tục: Tổng sản phẩm quốc dân và thu nhập bình quân đầu người năm sau tăng hơn năm trước. – Đảm bảo sự phát triển kinh tế giai đoạn trước không gây tổn hại đến giai đoạn sau, môi trường sinh thái được bảo vệ.

Tức là nền kinh tế có sự tăng trưởng liên tục, đi liền với nó là những tiến bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiến bộ xã hội. * Thúc đẩy nhanh sự phát triển

+ Tiến bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện ở chỗ: Tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng; tỷ trọng ngành nông nghiệp ngày càng giảm trong GDP. + Tiến bộ về mặt xã hội thể hiện: Về lao động: Tỷ lệ lao động trong CN và DV ngày càng tăng; tỷ lệ lao động trong NN ngày càng giảm; Tỷ lệ lao động được 18

* Đảm bảo định hướng xã hội đào tạo tăng lên; Môi trường sinh thái được bảo vệ; Đời chủ nghĩa

sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng lên.

Nhà nước xác định các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tăng cường và khuyến khích đầu tư để tạo động lực cho sự phát triển nhanh.

NỘI hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định

DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC hướng XHCN, cùng với sự tác động mạnh mẽ của các TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

ĐỊNH

HƯỚNG

XHCN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1. Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế

yếu tố bên ngoài đã và đang tạo ra những cơ hội và thách thức to lớn đối với nước ta. Để phát huy tối đa mặt tích cực, nắm bắt nhanh cơ hội và đẩy lùi nguy cơ, hạn chế tiêu cực, điều đó đòi hỏi cần có sự quản lý, điều tiết, can thiệp của nhà nước trong nền kinh tế. Do

1.1, Quan niệm chức năng vậy phải đánh giá đúng và ngày càng tăng cường vai quản lý nhà nước về kinh tế trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế thị 19

Chức năng quản lý nhà trường định hướng XHCN. nước về kinh tế là những hoạt động quản lý kinh tế mà nhà nước phải thực hiện để đạt tới các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ.

Từ cách hiểu trên, có thể thấy chức năng quản lý kinh tế của nhà nước là các hoạt động quản lý kinh tế mang tính tất yếu khách quan do bản chất, vai trò của nhà nước quy định. Mục tiêu của việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Do vậy, cơ sở để xác định chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là: + Chức năng của quản lý kinh tế nói chung. + Bản chất, vai trò của nhà nước trong nền kinh tế. + Mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước qua các giai 20

Vai Trò Chức Năng Của Nhà Nước Trong Quản Lý Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

Vai Trò Chức Năng Của Nhà Nước Trong Quản Lý Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Quán Điểm Của Chủ Nghĩa Mác Lênin Về Bản Chất Chức Năng Của Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa Và Sự Vận Dụng, Các Kiểu Quan Hệ Lợi ích Kinh Tế Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xhcn, Trong 30 Năm Đổi Mới Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hộ Chủ Nghĩa Việt Nam Tửng Bước Được Hình, Vai Trò Của Nhà Nước Pháp Quyền Đối Với Kinh Tế Thị Trường Và Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội C, Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Pdf, Tình Huống Quản Lý Nhà Nước Chuyên Viên Văn Hóa Công Sở Trong Trường Học, Khái Niệm Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Quá Trình Đảng Chỉ Đạo Xây Dựng Nền Kinh Tế Thị Trương Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Đảng Lãnh Đạo Xây Dựng Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Thực Trạng Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam, Tiểu Luận Xây Dựng Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Nghị Quyết Về Hoàn Thiện Thể Chế Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Nghị Quyết Số 11-nq/tw Về Hoàn Thiện Thể Chế Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-lênin Về Bản Chất Chức Năng Của Xã Hội Chủ Nghĩa Và Sự Vận Dụng Của Đảng, Sự Hình Thành Và Phát Triển Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Cần Làm Gì Để Hoàn T, Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chỉ Nghĩa ở Việt Nam Bao Hàm Những Đặ Trưng Có Tính Phổ Biến Củ, Sự Hình Thành Và Phát Triển Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Cần Làm Gì Để Hoàn T, Tại Sao Phải Thống Nhất Nhận Thức Về Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Tiểu Luận Đảng Chỉ Đạo Phát Triển Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Tiểu Luận Đảng Lãnh Đạo Xây Dựng Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Từ Năm 1986 Đến, Tiểu Luận Đảng Lãnh Đạo Xây Dựng Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Từ Năm 1986 Đến , Hãy Phân Tích Vai Trò Của Chức Năng Kiểm Soát Trong Công Tác Quản Trị ở Các Tổ Chức, Kỹ Năng An Toàn Trong Môi Trường Nước, Độc Quyền Nhà Nước Trong Nền Kinh Tế Thị Trường, Chuyên Đề 3 Quản Lí Giáo Dục Và Chính Sách Gd Trong Cơ Chế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghãi, Hướng Dẫn Về Tổ Chức Và Nội Dung Hội Nghị Cán Bộ Công Chức Trong Cơ Quan, Phương Pháp Kinh Tế Trong Quản Lý Nhà Nước, Phân Tích Các Chức Năng Của Vai Trò Kiểm Tra Trong Công Tác Quản Trị ở Các Tổ Chức, Định Nghĩa ô Nhiễm Môi Trường Nước, Sách Giáo Khoa Dạy Trong Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, Nghị Định Quy Định Tiêu Chuẩn Chức Danh Lãnh Đạo Quản Lý Trong Các Cơ Quan Hà, 3 Kỹ Năng Quan Trọng Của Kế Toán Trưởng, Sáng Kiến Kinh Nghiệm Trong Quản Lý Nhà Nước Về Chăn Nuôi, Định Nghĩa Nào Đúng Với Chức Phán Sự Trong Chuyện Chức Phán Sự Đền Tản Viên, Hãy Phân Tích Vai Trò Của Chức Năng Kiểm Soát Trong Công Tác Quản Trị, Quy Định Về Thực Hiện Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ Trong Tổ Chức Đảng Trong Quân Đội, Định Nghĩa Nào Đúng Với Chức Phán Sự Trong Truyện, Định Nghĩa Nào Đúng Với Chức Phán Sự Trong Chuyện Chức Phán Sự, Tình Huống Trong Quản Lý Nhà Nước, Định Nghĩa Nào Sau Đây Về Tăng Trưởng Kinh Tế Là Không Đúng, Tiểu Luận Về Tình Huống Trong Quản Lý Nhà Nước, Tiểu Luận Xử Lý Tình Huống Trong Quản Lý Nhà Nước, Mối Quan Hệ Giữa Cạnh Tranh Và Độc Quyền Trong Nền Kinh Tế Thị Trường, Quyết Định Các Vấn Đề Quan Trọng Của Đất Nước, Tình Huống Quản Lý Nhà Nước Chuyên Viên Về Học Online Trường, ý Nghĩa Tầm Quan Trọng Của Quy Định Số 08, Định Nghĩa Công Trong Trường Hợp Tổng Quát, Chuyên Đề Xây Dựng Mối Quan Hệ Trong Và Ngaoif Nhà Trường Để Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Và Phát Tr, Tác Động Của Chức Năng Phương Tiện Cất Trữ Đến Biến Động Thị Trường Vàng Trong Giai Đoạn Thế Giới Ch, Tác Động Của Chức Năng Phương Tiện Cất Trữ Đến Biến Động Thị Trường Vàng Trong Giai Đoạn Thế Giới, Tiểu Luận Về Mối Quan Hệ Giữa Cạnh Tranh Và Độc Quyền Trong Nền Kinh Tế Thị Trường, Con Lắc Đơn Dao Động Nhỏ Trong Một Điện Trường Đều Có Phương Thẳng Đứng Hướng Xuống, Vật Nặng Có Điệ, Con Lắc Đơn Dao Động Nhỏ Trong Một Điện Trường Đều Có Phương Thẳng Đứng Hướng Xuống, Vật Nặng Có Điệ, Quy Định 59 Về Tổ Chức Đảng Trong Quân Đội, Huong Dan To Chuc Dang Ky Cong Dan Trong Do Tuoi Tham Gia Dan Quan Tu Ve, Thông Tư Hướng Dẫn Sử Dụng Kinh Phí Thực Hiện Công Tác Y Tế Trong Các Trường, Tiểu Luận Tình Huống Quản Lý Nhà Nước Xử Lý Hành Chính Trong Lĩnh Vự Y Tế, Tiểu Luận Tình Huống Quản Lý Nhà Nước Xử Lý Hành Chính Trong Lĩnh Vự Y ế, Mẩu Số 02/uq-cn( Dành Cho Các Hộ, Thành Viên Trong Gia Đình,hộ Kinh Doanh,tổ Chức Khac Không Co Tư C, Mẩu Số 02/uq-cn( Dành Cho Các Hộ, Thành Viên Trong Gia Đình,hộ Kinh Doanh,tổ Chức Khac Không Co Tư C, Sự Phối Hợp Giữa Nhà Trường Với Địa Phương, Gia Đình Và Các Tổ Chức Khác Trong Công Tác Giáo Dục Kns, Một Số Kinh Nghiệm Tổ Chức Hoạt Động Cho Trẻ Tham Quan Dã Ngoại, Trải Nghiệm ở Trường Mầm Non, Tiểu Luận Tình Huống Trong Quản Ly Môi Trường, Thông Tư 111/2009/tt-bqp Quy Định Về Tổ Chức Và Hoạt Động Của Hội Đồng Quân Nhân Trong Quân Đội, Thông Tư 111/2009/tt-bqp “quy Định Về Tổ Chức Và Hoạt Động Của Hội Đồng Quân Nhân Trong Quân Đội Nhâ, Thông Tư 111 Của Bộ Quốc Phòng Quy Định Về Tổ Chức Và Hoạt Động Của Hội Đồng Quân Dân Trong Quân Đội, Thông Tư 111/2009/tt-bqp “quy Định Về Tổ Chức Và Hoạt Động Của Hội Đồng Quân Nhân Trong Quân Đội Nhâ, Thông Tư Quy Định Về Tổ Chức Và Hoạt Động Của Tổ Công Tác Dân Vận ở Đơn Vị Cơ Sở Trong Quân Đội Nhân, Quy Định Tổ Chức Và Hoạt Động Của Tổ Công Tác Dân Vận ở Đơn Vị Cơ Sở Trong Quân Đội Nhân Dân Việt Na, Quy Định Một Số Vấn Đề Cơ Bản Về Thực Hiện Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ Của Tổ Chức Đảng Trong Quân, Quy Định Một Số Vấn Đề Cơ Bản Về Thực Hiện Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ Của Tổ Chức Đảng Trong Quân , Tổ Chức Bộ Máy Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa Hiện Nay, Semina Tổ Chức Bộ Máy Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa, Hoàn Thiện Thể Chế Kinh Tế Thị Trường Định Hướng, Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xhcn ở Việt Nam, Phát Triển Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng, Vị Trí, ý Nghĩa, Tầm Quan Trọng Của Việc Bảo Vệ An Toàn An Ninh Mạng Trong Quân Độ, Vị Trí ý Nghĩa Tầm Quan Trọng Của Nhiệm Vụ Bảo Vệ An Toàn An Ninh Mạng Trong Quân Đội, Quy Định Một Số Vấn Đề Thực Hiện Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ Của Tổ Chức Đảng Trong Quân Đội Nhân D, Vai Trò Quan Trọng Nhất Trong Quản Lý Hành Chính Nhà Nước, Phát Triển Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xhcn, Đo Lường Sự Hài Lòng Của Người Dân, Tổ Chức Đối Với Sự Phục Vụ Của Cơ Quan, Đơn Vị Có Chức Năng Giải, Đo Lường Sự Hài Lòng Của Người Dân, Tổ Chức Đối Với Sự Phục Vụ Của Cơ Quan, Đơn Vị Có Chức Năng Giải, Chủ Nghĩa Mác Có Chức Năng Gì, Chuyên Đề 7 Dạy Học Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Học Sinh ở Trường, Dạy Học Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Học Sinh ở Trường Thpt, Bản Chất Và Chứac Năng Của Nhà Nước Chủ Nghĩa Xã Hội, Tiểu Luận Hoàn Thiện Thể Chế Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ N, Nghị Định Quy Định Chức Năng Nhiệm Vụ Quyền Hạn Và Cơ Cấu Tổ Chức Của Bộ Công An, – Thực Hiện Đổi Mới Căn Bản Khi Thực Hiện Một Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Một Đơn Vị Trong Trường Đh., Chức Năng Của Hành Chính Nhà Nước, Khái Niệm Vai Trò Và Chức Năng Của Nhà Nước, Vị Trí Pháp Lí Và Chức Năng Của Chủ Tịch Nước, Quyết Định 2530 Của Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Trong Quân Đội, Chuyên Đề 7 Dạy Học Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Học Sinh ở Trường Thpt, Chuyên Đề 7 Dạy Học Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Học Sinh ở Trường Phổ Thông, Chuyên Đề 7 Dạy Học Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Học Sinh ở Trường Tiểu Học, Tiểu Sửluận Về Chức Năng Tổ Chức Của Quản Lý,

Vai Trò Chức Năng Của Nhà Nước Trong Quản Lý Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Quán Điểm Của Chủ Nghĩa Mác Lênin Về Bản Chất Chức Năng Của Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa Và Sự Vận Dụng, Các Kiểu Quan Hệ Lợi ích Kinh Tế Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xhcn, Trong 30 Năm Đổi Mới Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hộ Chủ Nghĩa Việt Nam Tửng Bước Được Hình, Vai Trò Của Nhà Nước Pháp Quyền Đối Với Kinh Tế Thị Trường Và Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội C, Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Pdf, Tình Huống Quản Lý Nhà Nước Chuyên Viên Văn Hóa Công Sở Trong Trường Học, Khái Niệm Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Quá Trình Đảng Chỉ Đạo Xây Dựng Nền Kinh Tế Thị Trương Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Đảng Lãnh Đạo Xây Dựng Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Thực Trạng Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam, Tiểu Luận Xây Dựng Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Nghị Quyết Về Hoàn Thiện Thể Chế Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Nghị Quyết Số 11-nq/tw Về Hoàn Thiện Thể Chế Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-lênin Về Bản Chất Chức Năng Của Xã Hội Chủ Nghĩa Và Sự Vận Dụng Của Đảng, Sự Hình Thành Và Phát Triển Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Cần Làm Gì Để Hoàn T, Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chỉ Nghĩa ở Việt Nam Bao Hàm Những Đặ Trưng Có Tính Phổ Biến Củ, Sự Hình Thành Và Phát Triển Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Cần Làm Gì Để Hoàn T, Tại Sao Phải Thống Nhất Nhận Thức Về Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Tiểu Luận Đảng Chỉ Đạo Phát Triển Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Tiểu Luận Đảng Lãnh Đạo Xây Dựng Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Từ Năm 1986 Đến, Tiểu Luận Đảng Lãnh Đạo Xây Dựng Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Từ Năm 1986 Đến , Hãy Phân Tích Vai Trò Của Chức Năng Kiểm Soát Trong Công Tác Quản Trị ở Các Tổ Chức, Kỹ Năng An Toàn Trong Môi Trường Nước, Độc Quyền Nhà Nước Trong Nền Kinh Tế Thị Trường, Chuyên Đề 3 Quản Lí Giáo Dục Và Chính Sách Gd Trong Cơ Chế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghãi, Hướng Dẫn Về Tổ Chức Và Nội Dung Hội Nghị Cán Bộ Công Chức Trong Cơ Quan, Phương Pháp Kinh Tế Trong Quản Lý Nhà Nước, Phân Tích Các Chức Năng Của Vai Trò Kiểm Tra Trong Công Tác Quản Trị ở Các Tổ Chức, Định Nghĩa ô Nhiễm Môi Trường Nước, Sách Giáo Khoa Dạy Trong Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, Nghị Định Quy Định Tiêu Chuẩn Chức Danh Lãnh Đạo Quản Lý Trong Các Cơ Quan Hà, 3 Kỹ Năng Quan Trọng Của Kế Toán Trưởng, Sáng Kiến Kinh Nghiệm Trong Quản Lý Nhà Nước Về Chăn Nuôi, Định Nghĩa Nào Đúng Với Chức Phán Sự Trong Chuyện Chức Phán Sự Đền Tản Viên, Hãy Phân Tích Vai Trò Của Chức Năng Kiểm Soát Trong Công Tác Quản Trị, Quy Định Về Thực Hiện Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ Trong Tổ Chức Đảng Trong Quân Đội, Định Nghĩa Nào Đúng Với Chức Phán Sự Trong Truyện, Định Nghĩa Nào Đúng Với Chức Phán Sự Trong Chuyện Chức Phán Sự, Tình Huống Trong Quản Lý Nhà Nước, Định Nghĩa Nào Sau Đây Về Tăng Trưởng Kinh Tế Là Không Đúng, Tiểu Luận Về Tình Huống Trong Quản Lý Nhà Nước, Tiểu Luận Xử Lý Tình Huống Trong Quản Lý Nhà Nước, Mối Quan Hệ Giữa Cạnh Tranh Và Độc Quyền Trong Nền Kinh Tế Thị Trường, Quyết Định Các Vấn Đề Quan Trọng Của Đất Nước, Tình Huống Quản Lý Nhà Nước Chuyên Viên Về Học Online Trường, ý Nghĩa Tầm Quan Trọng Của Quy Định Số 08, Định Nghĩa Công Trong Trường Hợp Tổng Quát, Chuyên Đề Xây Dựng Mối Quan Hệ Trong Và Ngaoif Nhà Trường Để Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Và Phát Tr,

Chức Năng Quản Lý Kinh Tế Của Nhà Nước Ta Trong Giai Đoạn Hiện Nay

Lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều không thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước. Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng dưới tác động bên ngoài ngày một phức tạp nên sự can thiệp của Nhà nước xuất hiện như một yêu cầu tất yếu cho sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan niệm về chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước

Theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật trong nền kinh tế thị trường và pháp quyền, các chức năng của Nhà nước thường được xem xét dưới góc độ chủ quyền và do đó được phân thành hai chức năng: đối nội và đối ngoại. Chức năng đối nội gồm: chức năng kinh tế; chức năng xã hội; chức năng giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân; trong đó, chức năng kinh tế là một chức năng cơ bản, là phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bao gồm hai mặt: mặt “tổ chức kinh tế” với vai trò là chủ sở hữu, chủ đầu tư tham gia hoạt động trong nền kinh tế như một chủ thể kinh tế lớn và mặt “quản lý kinh tế” với vai trò là bộ máy quản lý nhà nước cho kiến tạo phát triển, bộ máy quản lý hành chính nhà nước về kinh tế 1. Chức năng đối ngoại gồm: chức năng bảo vệ đất nước; chức năng củng cố, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Nhà nước thực hiện quyền sở hữu của mình với vai trò là một chủ thể kinh tế lớn. Bên cạnh hoạt động quản lý nền kinh tế quốc dân, Nhà nước còn thông qua doanh nghiệp Nhà nước để tiến hành các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh, cũng như thực hiện các hoạt động quản trị, khai thác, sử dụng tài sản công. Các hoạt động này thể hiện ở mặt “tổ chức kinh tế” trong chức năng kinh tế của Nhà nước. Nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy, việc quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh sao cho có hiệu quả là vấn đề rất khó khăn và phức tạp 3.

Nhà nước quản lý về kinh tế thông qua chức năng kinh tế và chức năng quản lý kinh tế. Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước biểu thị sự tác động có chủ đích của Nhà nước đối với các mối quan hệ kinh tế, hoạt động kinh tế của các cá nhân, pháp nhân, các cộng đồng, tổ chức kinh tế, các ngành, khu vực kinh tế trong một quốc gia nhất định.

Nhà nước quản lý kinh tế là xu hướng tất yếu ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới bởi phát triển kinh tế là điều kiện, mục tiêu hàng đầu để phát triển đất nước. Mọi nhà nước ra đời đều phải nắm giữ quyền lực chính trị và sử dụng sức mạnh kinh tế của mình để định hướng và điều chỉnh mối quan hệ kinh tế – xã hội sao cho có hiệu quả, vì lợi ích chung của quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc gia cần có một nhà nước thực sự mạnh, một nhà nước thông minh để tận dụng tối đa nền kinh tế tri thức, kiến tạo, phục vụ, hành động, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho xã hội, doanh nghiệp và người dân. Để giải quyết vấn đề đó, Nhà nước cần triển khai thực hiện quản lý nhà nước trong mọi lĩnh vực của xã hội, nhất là quản lý nền kinh tế quốc dân.

Theo nghĩa rộng, chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước được thực hiện thông qua hoạt động của ba cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo nghĩa hẹp, chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước là hoạt động điều hành nền kinh tế và được thực hiện bởi cơ quan hành pháp, cơ quan quản lý hành chính nhà nước cao nhất là Chính phủ.

Nghiên cứu chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước có thể tiếp cận trên cơ sở các quan điểm, trường phái nghiên cứu kinh tế khác nhau như trường phái kinh tế thị trường tự do, trường phái kinh tế kế hoạch hóa tập trung, trường phái kinh tế hỗn hợp và trường phái nhà nước kiến tạo phát triển.

Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết đề cập trực tiếp đến chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước nói chung và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng, đó là:

Tại Hội thảo lý luận lần thứ tám giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, tác giả Trần Du Lịch cho rằng: “Nhà nước phải thực sự đảm nhận chức năng bổ khuyết và xử lý những thất bại của thị trường”, “chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước là tạo ra các yếu tố dẫn dắt thị trường phát triển” 6. Đặc biệt, trong cuốn sách Thể chế phát triển nhanh – bền vững, kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong giai đoạn mới xuất bản năm 2019, các tác giả nhấn mạnh: “Làm rõ chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước trong điều kiện vận hành của cơ chế thị trường ở cấp Trung ương và địa phương” và “Để tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng trước hết cần nhận thức lại chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với thuộc tính của cơ chế thị trường” 7.

Khi bàn về “sức mạnh của tư duy đổi mới”, tác giả Nguyễn Mại đưa ra quan điểm: “Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước không những cần làm tốt chức năng quản lý kinh tế, sửa chữa thất bại của thị trường, ví dụ đối với gia tăng sự bất bình đẳng xã hội, mà còn đóng vai trò hỗ trợ các thể chế phi thị trường để bảo đảm thực hiện tốt nhất cả các mục tiêu kinh tế và xã hội” 8.

Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta nhấn mạnh: “Đổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… Phân định rõ hơn chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước và chức năng của các tổ chức kinh doanh vốn và tài sản nhà nước” 12.

Nhà nước quản lý nền kinh tế quốc dân bằng Hiến pháp, các đạo luật và các quy định dưới luật. Để đưa ra khái niệm về chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước, cần xuất phát từ các quy định của Hiến pháp năm 2013 về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, cũng như trong mối quan hệ giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong bộ máy nhà nước, mà trực tiếp ở đây là Quốc hội, Chính phủ và Tòa án nhân dân tối cao.

Nền kinh tế nước ta được xác định “là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” (khoản 1, Điều 51 Hiến pháp năm 2013). Trong đó, “Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật” (khoản 2, Điều 51 Hiến pháp năm 2013). Theo quy định của Hiến pháp, Nhà nước có trách nhiệm trong việc “khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước” (khoản 3, Điều 51 Hiến pháp năm 2013). Việc “xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế” của Nhà nước phải được dựa trên cơ sở “tôn trọng các quy luật thị trường; thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân”.

Cùng với đó, Hiến pháp cũng quy định “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác” (Điều 59, Khoản 2). Vấn đề về bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên và phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu cũng được đề cập trong các trách nhiệm của Nhà nước được quy định tại Điều 63 13. Trách nhiệm của Nhà nước trong các vấn đề nêu trên chính là trách nhiệm khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường khi sản xuất, kinh doanh, nhà đầu tư có xu hướng chỉ quan tâm đến lợi nhuận.

(1) Chức năng kinh tế của Nhà nước. Ở đây, chức năng kinh tế của Nhà nước bao gồm hai mặt hoạt động là tổ chức kinh tế và quản lý kinh tế, có nội hàm rộng hơn chức năng quản lý kinh tế. Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước chỉ là mặt hoạt động tập trung vào quản lý nhà nước, không phải là hoạt động quản trị đầu tư hay kinh doanh, chức năng này được coi là một “tập con” của chức năng kinh tế của Nhà nước.

(2) Chức năng tự điều tiết của thị trường. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế theo nguyên tắc chỉ làm những công việc xã hội, thị trường không làm; tập trung làm tốt công việc quản lý nhà nước về kinh tế, giải quyết những vấn đề kinh tế – xã hội then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển bền vững của nền kinh tế đất nước. Nhà nước tăng cường chức năng quản lý kinh tế vĩ mô, tiến tới xóa bỏ chức năng quản lý vi mô. Thay vì trực tiếp tổ chức, điều hành nền kinh tế và tham gia vào đời sống kinh tế, Nhà nước thực hiện vai trò kiến tạo phát triển, thiết lập môi trường ổn định, thuận lợi, phục vụ, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp phát triển đầu tư, sản xuất, kinh doanh.

(3) Chức năng đại diện sở hữu toàn dân và chức năng quản trị phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp. Nhà nước thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản công và đóng vai trò là chủ sở hữu, chủ đầu tư tham gia hoạt động kinh tế. Chức năng quản lý kinh tế được Nhà nước thực hiện với tư cách là bộ máy kiến tạo phát triển, bộ máy hành chính nhà nước quản lý các hoạt động kinh tế đặt trong mối quan hệ toàn diện với các chức năng khác của Nhà nước như chức năng chính trị, chức năng xã hội (thể hiện qua các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học – công nghệ, bảo vệ môi trường và sinh thái theo định hướng phát triển bền vững).

Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước cần chủ động tập trung cho kiến tạo phát triển, thông qua việc triển khai chức năng quản lý vĩ mô của mình về kinh tế, chủ yếu là: (i) tạo lập khung khổ pháp luật về kinh tế, bảo đảm môi trường và điều kiện thuận lợi để phục vụ người dân, doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh; (ii) quản lý, điều hành nền kinh tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, linh hoạt, chủ động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng về kinh tế – xã hội – môi trường, dẫn dắt và hỗ trợ phát triển thông qua chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, chương trình kinh tế – xã hội, bảo đảm cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước; (iii) tăng cường thanh tra, giám sát, kiểm soát, bảo đảm các hoạt động kinh tế diễn ra theo quy định pháp luật.

Tóm lại, chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là những phương diện hoạt động chủ yếu của Nhà nước trong vai trò kiến tạo phát triển, chủ động tác động tới các ngành, lĩnh vực, khu vực khác nhau của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội đã đề ra trong từng giai đoạn phát triển đất nước. Theo đó, nội hàm của chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước ta chủ yếu bao gồm các nội dung cơ bản sau: xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật về kinh tế; triển khai thực thi pháp luật về kinh tế; xử lý các vi phạm pháp luật về kinh tế và giải quyết các xung đột, tranh chấp kinh tế; giải quyết các khuyết tật của kinh tế thị trường; bảo đảm hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy kinh tế đối ngoại.

Hội đồng Lý luận Trung ương

1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Nhà nước và Pháp luật Việt Nam (Giáo trình cao cấp lý luận chính trị), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2018, tr. 17-19.

2. Nguyễn Đức Minh: “Quyền tự do kinh doanh của công dân trong Nhà nước thuế”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9/2009, tr. 54-59.

3. Trần Thái Dương: Chức năng kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Hà Nội, 2002, tr. 103.

4. Từ điển luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 1999, tr. 98.

5. Trần Nhâm (Chủ biên): Có một Việt Nam như thế – Đổi mới và phát triển kinh tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 59-60.

6. Hội đồng Lý luận Trung ương: Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam và chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế ở Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 179-181.

7. Trần Quốc Toản (Chủ biên): Thể chế phát triển nhanh – bền vững, kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong giai đoạn mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 587-597.

8. Nguyễn Mại: Đọc và suy ngẫm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015, tr. 18.

9. Trường Đại học Kinh tế quốc dân: Giáo trình quản lý nhà nước về kinh tế, Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2008, tr. 20.

10. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Những điều kiện để Việt Nam phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh mới, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2017, tr. 35.

11. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Giáo trình cao cấp lý luận chính trị), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2018, tr. 210.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 214-215.

13. Quốc hội: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 24-30.