Nhân kỷ niệm 65 năm ngày truyền thống Ban Đối ngoại Trung ương (1/11/1949 – 1/11/2014), nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã có bài viết đánh giá về chặng đường 65 năm xây dựng và trưởng thành của Ban Đối ngoại Trung ương. Thông tấn xã Việt Nam xin trân trọng giới thiệu nội dung bài viết:
“Mở cửa” ngay từ khi nước nhà vừa giành được độc lập
Trước tiên chúng ta phải hiểu bối cảnh ra đời của Ban Đối ngoại Trung ương mà tiền thân là Ban công tác Miên – Lào trực thuộc Ban Thường vụ Trung ương, được thành lập theo Nghị quyết của Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 1/11/1949.
Nhìn lại bối cảnh lịch sử đất nước sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, khi vừa mới giành được độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách, thù trong giặc ngoài đe dọa chính quyền non trẻ. Khi đó, chúng ta vừa phải lập tức bắt tay vào việc giải quyết những khó khăn trước mắt, vừa phải xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, diệt giặc đói, giặc dốt. Đồng thời, quân Tưởng Giới Thạch và thực dân Pháp luôn lăm le hòng xâm chiếm nước ta một lần nữa. Ở thế bị bao vây, cô lập với rất nhiều khó khăn như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tìm mọi cách đấu tranh ngoại giao với mục tiêu kéo dài thời gian hòa bình để củng cố chính quyền non trẻ. Trên kênh ngoại giao chính thức, chúng ta đã có những bước đi khôn khéo, linh hoạt, thể hiện qua Hiệp định Sơ bộ 6/3, Hội nghị Phôngtennơblô, Tạm ước 14/9… Tuy nhiên, mọi nỗ lực của chúng ta đã không ngăn được thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa.
Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ đối ngoại của Đảng, cần có bộ máy chuyên trách tham mưu công tác đối ngoại của Đảng nói chung và thực hiện sự hợp tác giúp đỡ giữa ba nước Đông Dương nói riêng, Ban Thường vụ Trung ương quyết định thành lập Ban Công tác Miên – Lào, tổ chức tiền thân của Ban Đối ngoại Trung ương sau này. Và từ đó, công tác ngoại giao nhân dân hay đối ngoại nhân dân, tổ chức liên lạc với các tổ chức chính trị và chính đảng các nước thông qua các mối quan hệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi hoạt động tại các nước như Lào, Thái Lan, Trung Quốc, Pháp… ra đời chính là từ năm 1949.
Khởi đầu từ cuối năm 1949, vào đầu năm 1950, đối ngoại Đảng trở nên ngày càng sắc nét hơn khi Liên Xô, Trung Quốc và một loạt nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập. Thời kỳ này, dấu ấn của sự lãnh đạo của Đảng thể hiện qua kênh đối ngoại Đảng đã góp phần quan trọng vào thắng lợi trên bàn đàm phán của Hội nghị Giơnevơ năm 1954.
Sau năm 1955, ngoại giao nhà nước và đối ngoại Đảng được phân ra rõ nét hơn, kênh đối ngoại Đảng lúc này có chức năng và nhiệm vụ được mở rộng hơn trước. Đó là giúp Ban Chấp hành Trung ương nghiên cứu, theo dõi tình hình các đảng anh em để học tập kinh nghiệm về cách mạng vô sản và xây dựng chủ nghĩa xã hội; giúp liên lạc với các đảng anh em ở các nước chưa giành được chính quyền để tùy khả năng mà giúp đỡ, xử lý quan hệ với các đảng khác trên thế giới. Qua các tên gọi khác nhau theo từng thời kỳ cách mạng như Ban Lào – Miên Trung ương (1955), Ban Liên lạc Đối ngoại Trung ương (1958), Ban Công tác đối ngoại (1960), Ban Đối ngoại Trung ương dần được bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ về lễ tân đối ngoại Đảng, chủ yếu với Lào và Campuchia, đón các đoàn từ các nước và phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc vào học hỏi kinh nghiệm.
Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, mặt trận ngoại giao nước nhà là sự kết hợp giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Đứng trước mỗi quyết định quan trọng về đường lối, chính sách đối ngoại thì đối ngoại Đảng luôn đi trước, đi tiên phong. Thời kỳ này, nhiệm vụ chính của Ban Đối ngoại Trung ương là thực hiện quan hệ đối ngoại Đảng; thực hiện sự phối hợp và giúp đỡ hai nước Lào, Campuchia anh em và duy trì quan hệ với phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Á, Phi, Mỹ Latinh.
Tôi thấy có thể kể ra một số thành tựu đáng ghi nhận mà Ban Đối ngoại Trung ương đã đạt được trong thời kỳ đổi mới như sau:
Một là, cùng với công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, Ban Đối ngoại Trung ương đã đổi mới tư duy, từ đó đã đổi mới các hoạt động đối ngoại của Đảng ta. Kết quả của quá trình đổi mới tư duy này là Đảng ta đã đổi mới và đa dạng hóa quan hệ đối ngoại Đảng, ngày càng mở rộng quan hệ với các đảng chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa, các đảng cầm quyền, tham chính ở các nước trong khu vực và trên thế giới bên cạnh việc tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng ở các nước láng giềng và bạn bè truyền thống.
Hai là, Ban Đối ngoại Trung ương đã biết nắm bắt tình hình và tham mưu cho Đảng ta tích cực tham gia vào các diễn đàn đa phương, các phong trào cộng sản, công nhân, cánh tả, các phong trào nhân dân vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội trên thế giới. Đảng ta cũng tiếp tục thông qua các hoạt động tại các diễn đàn này, một mặt, đã làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn về lập trường của Đảng ta, không ngừng nâng cao uy tín, vị thế của Đảng và đất nước ta trên trường quốc tế, mặt khác, có nhiều đóng góp cho các diễn đàn đa phương chính đảng.
Ba là, là cơ quan được giao nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn công tác đối ngoại nhân dân, Ban Đối ngoại Trung ương đã góp phần thúc đẩy các hoạt động đối ngoại nhân dân ngày càng phát triển. Không chỉ các tổ chức đoàn thể chính trị – xã hội, mà cả các đoàn thể nghề nghiệp cũng phát triển các hoạt động đối ngoại, giao lưu và trao đổi với các nước. Những kết quả đáng ghi nhận của công tác phi chính phủ nước ngoài cũng được chú trọng, có những đóng góp nhất định vào công cuộc phát triển đất nước.
Bốn là, quan hệ hữu nghị, hợp tác đặc biệt với Lào không ngừng được củng cố, ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả. Quan hệ hữu nghị, lâu dài, toàn diện với Campuchia tiếp tục được củng cố. Những thành tựu này có sự đóng góp quan trọng của Ban Đối ngoại Trung ương.
Phát huy hơn nữa truyền thống vẻ vang 65 năm qua
Tuy nhiên, để thực hiện tốt hơn nữa chức năng, nhiệm vụ được giao, theo tôi, Ban Đối ngoại Trung ương cần thực hiện tốt một số việc sau:
Thứ nhất, tổ chức lực lượng, nghiên cứu bài bản, đặt hàng, chắt lọc, tổng hợp, khâu nối kết quả nghiên cứu của các cơ quan, bộ, ngành hữu quan, các học viện, nhà trường… nhằm phục vụ đắc lực công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Theo tôi, Ban Đối ngoại Trung ương cần nâng tầm công tác nghiên cứu, tham mưu lên. Cần chủ động nghiên cứu để nắm bắt được xu thế phát triển của tình hình, từ đó có tham mưu chính xác, kịp thời cho lãnh đạo. Bên cạnh đó, cần chủ động đặt hàng các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học, điều phối và huy động lực lượng nghiên cứu với thái độ trân trọng, cầu thị và lắng nghe nhiều hơn.
Thứ hai, đa dạng hóa quan hệ với các đảng, các diễn đàn đa phương chính đảng nhưng vẫn phải có trọng tâm trọng điểm, nhằm phục vụ cho lợi ích dân tộc và nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ, trong đó đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cần linh hoạt điều chỉnh quan hệ với các đối tác tùy vào mục tiêu đặt ra cho từng thời kỳ. Việc xác định trọng tâm, trọng điểm trong quan hệ đối ngoại Đảng cũng cần uyển chuyển, linh hoạt, tránh cứng nhắc và cần phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ cho ngoại giao Nhà nước để tạo thành sức mạnh tổng hợp trên mặt trận ngoại giao nước nhà.
Thứ tư, cần nâng cao hơn nữa chất lượng công tác dự báo tình hình quốc tế và khu vực. Để dự báo được sắc sảo, chính xác thì phải có sự nghiên cứu, đúc kết, tích lũy trong một thời gian dài và trong cả một quá trình, từ đó có cái nhìn tổng quan và đưa ra dự báo phù hợp với những diễn biến mau lẹ trên thế giới.
Thứ năm, không ngừng xây dựng, kiện toàn bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ của Ban có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực, nghiệp vụ cao, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao phó. Bên cạnh đó, cán bộ làm đối ngoại nói chung cần rèn luyện và nắm vững các kỹ năng cơ bản. Như tôi đã nhiều lần nói chuyện ở các lớp bồi dưỡng kiến thức đối ngoại, nếu hoạt động ngoại giao được ví như một cái cây cổ thụ thì cái gốc là công tác nghiên cứu, cái thân là giao tiếp, đàm phán, xử lý tình huống; còn các công việc nghiệp vụ như lễ tân, phiên dịch, tuyên truyền báo chí… là những cái cành, cái lá. Các cán bộ làm công tác đối ngoại, trong đó có cán bộ công tác tại Ban Đối ngoại Trung ương, cần ra sức học tập, rèn luyện và trau dồi các kỹ năng đó để nhanh chóng trưởng thành và đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao.
Nhân dịp này, tôi cũng xin chúc mừng những thành tích mà các thế hệ cán bộ Ban Đối ngoại Trung ương đã đạt được trong 65 năm qua. Đồng thời, tôi cũng tin tưởng rằng, trước yêu cầu nhiệm vụ và tình hình mới, Ban Đối ngoại Trung ương sẽ có những đóng góp xứng đáng vào thành tựu đối ngoại chung của Đảng và Nhà nước, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao phó.