--- Bài mới hơn ---
Vấn Nạn Bạo Lực Học Đường: Giải Pháp Nào Để Chấm Dứt?
Nguyên Nhân Và Giải Pháp Về Bạo Lực Học Đường
Giải Pháp Mạng Wifi Cho Nhà Nghỉ, Khách Sạn.
Giải Pháp Wifi Cho Khách Sạn
Wifi Khách Sạn: Giải Pháp Hệ Thống Wi
LUẬN VĂN:
Vấn đề việc làm thêm đối với sinh
viên hiện nay
Lời mở đầu
I. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong xã hội hiện nay vấn đề việc làm luôn luôn là vấn đề nóng bỏng, được
không chỉ báo giới, các cơ quan ban ngành, các doanh nghiệp quan tâm mà nó đã ăn sâu
vào suy nghĩ của rất nhiều sinh viên ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường đang không
ngừng tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm để đạt được mục đích cao đẹp của họ trong tương
lai.
Xét về năng lực hành vi, sinh viên là một phần quan trọng trong độ tuổi lao động.
Họ có thể lực, trí lực rất dồi dào. Xét về mục đích, sinh viên đi học là mong có kiến
thức để có thể lao động và làm việc sau khi ra trường.
Hiện nay, đông đảo sinh viên nói chung đã nhận thức được rằng có rất nhiều
cách thức học khác nhau và ngày càng có nhiều sinh viên chọn cách thức học ở thực tế.
Đó là đi làm thêm. Việc làm thêm hiện nay đã không còn là hiện tượng nhỏ lẻ mà đã trở
thành một xu thế, gắn chặt với đời sống học tập, sinh hoạt của sinh viên ngay khi vẫn
còn ngồi trên ghế giảng đường. Sinh viên đi làm thêm ngoài vì thu nhập, họ còn mong
muốn tích luỹ được nhiều kinh nghiệm hơn, học hỏi thực tế nhiều hơn…. Và sở dĩ việc
làm thêm hiện nay đã trở thành một xu thế là vì đối với sinh viên, đặc biệt khi sống
trong xã hội cạnh tranh như hiện nay, kiến thức xã hội và kiến thức thực tế ảnh hưởng
rất lớn đến khả năng tư duy cũng như khả năng làm việc của họ sau tốt nghiệp.
Với mong muốn đi sâu nghiên cứu vấn đề trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Vấn đề
việc làm thêm đối với sinh viên hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
II. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Đối với Xã hội, Doanh nghiệp: có sự quan tâm hơn nữa đối với thế hệ trẻ; có
sự quản lý, phối kết hợp với Nhà trường nhằm tạo cho sinh viên có nhiều điều kiện học
hỏi, thực hành, cọ xát; phát huy tối đa nguồn lực dồi dào trong sinh viên…
Đối với Nhà trường, tổ chức Đoàn, Hội: kết hợp giảng dạy lý thuyết với thực
tế, giúp cho sinh viên có môi trường học tập mang tính chất mở, tạo nhiều sân chơi bổ
ích cả về bề nổi và bề sâu…
Đối với sinh viên: chỉ ra những tích cực cũng như hạn chế của việc làm thêm
trong sinh viên, giúp sinh viên có sự định hướng nghề nghiệp đúng đắn, hình thành tư
duy chủ động trong việc giải quyết vấn đề, áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn…
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
– Đối tượng nghiên cứu: sinh viên các trường Đại học
– Phạm vi nghiên cứu: tại một trường Đại học ở Hà Nội
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu của đề tài có sự kết hợp giữa phương pháp phân tích, so
sánh, tổng hợp dữ liệu thứ cấp và dữ liệu sơ cấp. Dữ liệu sơ cấp được thu thập qua việc
điều tra nghiên cứu về vấn đề việc làm thêm trong phạm vi một trường Đại học trên địa
bàn Hà Nội.
Thời gian tiến hành nghiên cứu từ 15/10/2004 đến 15/3/2005.
V. Nội dung và kết cấu của đề tài:
Đề tài nghiên cứu có các nội dung chính sau:
Lời mở đầu
Phần 1: Việc làm thêm đối với sinh viên dưới góc độ nhìn nhận, đánh giá của
các tổ chức và cộng đồng xã hội
Phần 2: Phương pháp luận
Phần 3: Việc làm thêm đối với sinh viên qua kết quả điều tra xã hội học và phân
tích, đánh giá của nhóm nghiên cứu
Phần 4: Một số giải pháp nhằm khuyến khích và quản lý việc làm thêm đối với
sinh viên hiện nay
Kết luận
Phần 1
Việc làm thêm đối với sinh viên dưới góc độ nhìn nhận, đánh giá của các tổ chức và cộng
đồng xã hội
1.1 Quan niệm về việc làm thêm đối với sinh viên
Với quan niệm “Việc làm thêm”, qua thu thập những thông tin thứ cấp, chúng tôi
xin nêu ra một vài quan niệm như sau:
(1)
“Việc làm cho SV và quan hệ từ ba phía”, Báo Sinh viên Việt
Nam, số 11, năm 2005.
(2)
http://www.vnexpss.net, “Diễn đàn sinh viên – việc làm”,
10/03/2005, 12:04 AM
(3)
“Sinh viên làm thêm”, Báo Tuổi trẻ, số 03, năm 2004.
Bà Đỗ Thị Xuân Phương – Phó Giám đốc Sở LĐTBXH Hà Nội, Phó trưởng ban
tổ chức Hội chợ việc làm Thành phố Hà Nội lần thứ 3 cho biết: “đến hội chợ lần này
chủ yếu là sinh viên chưa hoặc mới tốt nghiệp đại học, cao đẳng. Một thực tế khá buồn:
Người lao động đến hội chợ tìm việc nhưng với thái độ thờ ơ, cẩu thả, không chuẩn bị
kỹ về tâm lý, các loại giấy tờ hồ sơ cũng không đầy đủ. Trong số 400 hồ sơ mà
VINACONEX (Hà Nội) nhận được, không có bộ hồ sơ nào đủ giấy tờ cần thiết (thiếu
bằng tốt nghiệp, thiếu giấy khám sức khoẻ…). Bởi vậy trong 3 ngày Hội chợ, Tổng
Công ty đã không thể tiến hành phỏng vấn, tuyển dụng trực tiếp như kế hoạch” (1).
Cũng tương tự như trên, tại “Ngày tuyển dụng 12/3” do một trường Đại học tổ
chức, so với 1640 chỉ tiêu nhận người của 67 nhà tuyển dụng, con số 214 người lao
động tìm được việc làm là quá nhỏ bé. Điều này không chỉ khiến người lao động nuối
tiếc vì để vuột mất cơ hội tìm việc trực tiếp mà ngay cả nhà tuyển dụng cũng cảm thấy
thất vọng.
Bên cạnh sự thờ ơ, cẩu thả trong chuẩn bị hồ sơ, sau một số cuộc phỏng vấn,
không ít người lao động đã bày tỏ sự “ngỡ ngàng”: “Tưởng phỏng vấn gì, té ra là mấy
câu bâng quơ về gia đình, bạn bè…”; “không ngờ công ty lớn như vậy mà gọi mình tới
chỉ để hỏi về ba loại đặc sản, sở thích và cả…khuyết điểm của mình!”. Tuy nhiên, với
những nhà tuyển dụng, đó là những câu hỏi hoàn toàn không là “bâng quơ”, “chơi chơi”
chút nào. Đó chính là sự kiểm tra phản ứng linh hoạt và kiến thức về cuộc sống của
người lao động. Giám đốc Công ty Phát triển nguồn nhân lực NetViet, ông Dương Xuân
Giao khẳng định, 3 yếu tố quan trọng quyết định sự thành hay bại của các ứng viên lao
động, theo thứ tự như sau: 1-Thái độ; 2-Kinh nghiệm làm việc; 3-Kiến thức chuyên
môn. Ông Giao nói: “Cái người lao động thiếu khi đi phỏng vấn chính là thái độ
(attitude), thể hiện sự nhiệt tâm và trung thực của họ đối với công việc mà họ đang dự
tuyển. Trên thực tế, không ít doanh nghiệp chấp nhận tái đào tạo những người chưa
hoàn thiện lắm về kiến thức, kinh nghiệm, miễn sao họ có thái độ chân thành, đúng đắn
và bản lĩnh” (1).
(1)
“Hội chợ việc làm lần 3-thành phố Hà Nội”, trang 4, Tiền Phong, số 171, 26/8/2004.
LĐ&ĐK.
(1)
http://www.tintucvietnam.com,”Rớt đài” từ những điều sơ đẳng,
kỳ 2, 05/08/2004,13:15 PM
(2)
http://www.tintucvietnam.com,
“Thông
tin
tuyển
dụng”.
07/08/2004, 12:45 PM
(3)
http://www.vietnamnet.vn, “Nhà tuyển dụng chưa hài lòng về chất lượng ứng viên”,
08/03/2005, 11:32 AM
(4)
http://www.tintucvietnam.com, “Th”ng tin tuyÓn dông”, 07/08/2004, 12:45 PM
sâu, đặc biệt là kiến thức thực tế và thiếu kinh nghiệm làm việc” (1) – Giám đốc nhân sự
ở một công ty đa quốc gia về ngành hàng tiêu dùng phát biểu.
Qua những kỳ tổ chức Hội chợ, khá nhiều nhà quản lý nhận định: có nhiều
nguyên nhân chủ quan về phía sinh viên tốt nghiệp đại học khiến cho cánh cửa tìm việc
của các bạn trẻ ngày càng bị thu hẹp như “học chưa đi đôi với hành”, nhà ở, hộ khẩu
thường trú, phương tiện đi lại chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng…
– Hạn chế về kiến thức chuyên môn và ngoại ngữ:
Chị Tuấn Anh, người đảm nhận phụ trách tuyển dụng của Công ty Canon cho
biết: “Suốt buổi sáng phỏng vấn gần 60 ứng tuyển, tôi chỉ chọn được 36 hồ sơ vào vòng
I để ngày mai kiểm tra lần thứ hai tại công ty. Những ứng viên tốt nghiệp đại học thì
trình độ chuyên môn còn được, trong khi những em tốt nghiệp cao đẳng thì chuyên môn
rất kém, nhiều em gần như không biết gì.” (2).
Chị Nguyên Vân Thuỷ – Trưởng phòng Hành chính nhân sự Công ty LG cũng có
nhận xét: “Nhiều người đưa ra nhiều bằng cấp, kiến thức giỏi nhưng lại không chứng tỏ
được khả năng thực tế trong lĩnh vực nào cả” (3).
Các ứng viên trẻ, theo chị Thiên Hương, Trưởng phòng Phân tích và Hỗ trợ
chiến lược của Công ty Bảo hiểm Prudential:”Các trường đại học cũng có dạy nhưng lý
thuyết không cập nhật, không đào tạo sự năng động và xử lý tình huống thực tiễn, nên
các ứng viên trẻ thiếu khả năng phản ứng, trong khi rất nhiều bạn trẻ bây giờ lại quá
nóng vội, chê các vị trí thấp, muốn nhanh chóng thăng tiến, chứng tỏ bản lĩnh mà không
nhận thức đủ điểm mạnh, điểm yếu của mình và vì thế, không đủ tin cậy để những người
lãnh đạo đầu tư đào tạo cho những mục đích lâu dài. Hơn nữa, hiện nay có sự phân hoá
khá lớn trong các ứng viên trẻ, sinh viên mới ra trường. Có một số ít người xuất sắc, bỏ
xa nhóm còn lại thuộc diện “thường thường bậc trung” với những điểm yếu cố hữu như
nhút nhát, thụ động, kỷ luật kém, …” (1).
Bên cạnh sự hạn chế về kiến thức chuyên môn, một điểm quan trọng nữa là khả
năng sử dụng tiếng Anh trong môi trường công việc của thí sinh mới ra trường còn rất
(1)
http://www.24h.com.vn, “Điều tra về ứng viên Việt Nam”, 13/3/2005, 16:30
http://www.tintucvietnam.com, “Thông tin tuyển dụng”, 7/8/2004, 12:45 AM
http://www.tintucvietnam.com, “Rớt đài” từ những điều sơ đẳng, kỳ I,
04/8/2004, 10:15 AM
(3)
(1)
http://www.neutoday.net, “Khan hiếm nhân lực cấp cao”, 07/03/2005, 09:02 AM
kém, do họ chưa có điều kiện để tiếp xúc với tình huống công việc thực tế. Họ thường
bị “khớp”, không biết phải trả lời phàn nàn của khách hàng trên điện thoại như thế nào,
không có kỹ năng đàm phán thuyết phục, hay không thể trình bày vấn đề một cách
logic, chuyên nghiệp và thành thạo bằng tiếng Anh.
Điểm qua các doanh nghiệp mà việc tuyển dụng chú trọng vào tiếng Anh, vào
trình độ và chỉ số thông minh của sinh viên qua các bài test phải kể đến Nestle Việt
Nam. Họ chỉ cần có 2 ngày cho việc tìm 10 người phù hợp từ hơn 400 ứng viên. Cách
của họ là đến một trường đại học tiếng tăm có nhiều chuyên ngành họ cần, tổ chức một
buổi hội thảo nghề nghiệp vài giờ đồng hồ cho tất cả các ứng viên là sinh viên năm cuối
các trường thuộc khối kinh tế. Bài test IQ được đưa ra cho những người tham gia, kết
thúc buổi hội thảo cũng là lúc họ chọn được 28 người có chỉ số cao nhất. Và ngay chiều
hôm đó các nhóm tìm giải pháp và bảo vệ giải pháp của mình. 10 người sẽ được chọn.
Với cung cách tuyển dụng như vậy, nếu chỉ có duy nhất kiến thức học được trong sách
vở chắc chắn chúng ta sẽ không nằm trong số những người được chọn (2).
Qua thực tế trên có thể thấy rằng không phải sinh viên nào sau khi ra trường
cũng có thể sẵn sàng tiếp nhận công việc. Điều này có vẻ mâu thuẫn vì lẽ ra sau cả một
quá trình học tập tại trường đại học, được trang bị một lượng lớn kiến thức, những tân
cử nhân phải có thể đảm trách được mọi công việc theo chuyên ngành đào tạo…, vậy
mà họ lại lúng túng, ngỡ ngàng trong các cuộc phỏng vấn, cẩu thả và thiếu nghiêm túc
khi tới tuyển dụng. Phong thái tự tin, sự năng động và tác phong công nghiệp vẫn chưa
hình thành trong họ. Dường như với một bộ phận các bạn sinh viên ra trường, niềm tin
vào kiến thức là duy nhất thành công. Thực tế không phải vậy. Kiến thức là điều rất
quan trọng, nhưng để có thể làm việc tốt chúng ta cần phải có thêm những điều kiện
khác nữa.
Không phải ngẫu nhiên những tân cử nhân chấp nhận mất thời gian để thu nạp lại
những kiến thức mà họ đã có từ suốt những năm tháng còn học ở giảng đường đại học.
Đây không phải là công việc thừa. Lý do vì kiến thức tại trường và kiến thức thực tế
hiện nay còn có khoảng cách khá xa, cũng một phần do không được thực hành nên
lượng kiến thức được học đã rơi rụng nhiều.
(2)
“Kiểu tuyển dụng mới, bạn có biết?”, trang 5, Sinh viên Việt
Nam, số 07, 25/02/2004, L.Tùng
http://www.neutoday.net,
07/03/2005, 09:02 AM
“Khan
hiếm
nhân
lực
cấp
cao”,
doanh này sẽ cho sinh viên khả năng quan sát và thực tế hơn, biết cách tính toán, biết
chi tiêu hơn. Khó khăn gặp phải không ít nhưng nó sẽ giúp các bạn thấy tự tin hơn (1).
Hai bạn Hà và Minh (tại một trường ở Hà Nội) là một ví dụ điển hình. Khi đi
“cất hàng” ở chợ Đồng Xuân, người bán hàng biết là sinh viên gắt lên không bán lẻ. Lại
phải trổ tài “diễn thuyết”: cháu cũng “dân buôn” mới lấy được hàng. Hà kể: “Người bán
hàng cũng giảm giá hơn khi thấy bộ dạng tất bật và sự tính toán mà theo họ là “cò
con” vì sinh viên vốn ít, hàng mua cũng đơn giản”(2).
Khi được hỏi “kinh doanh như thế thì học vào đâu?” Hà nở nụ cười rất duyên
khẳng định: “Phải biết hài hoà chứ. Kinh doanh cũng là học mà”. Hà luôn đứng trong
“top five” về học tập của lớp. Còn Minh thì cho biết: “Trước đây với số tiền bố mẹ gửi,
mình mua cái này thì phải nhịn cái kia. Từ khi bán hàng, có thêm được một khoản để
mình mua sách tham khảo, rồi cũng sắm được một số đồ dùng cá nhân nữa”. Hai cô
còn đang dự định sẽ làm “hàng xén trong cặp sách” với các loại đa dạng nhỏ gọn lúc
nào cũng có thể cung cấp ngay tức thì: bút, giấy, băng dính…
Hồng Lê (bạn cùng ký túc xá của Hà và Minh) nói: “Các bạn bán những thứ nhu
yếu phẩm không thể thiếu trong đời thường, bọn em còn dặn nếu có thêm khăn mùi xoa,
găng tay, dây buộc tóc… thì bọn em sẽ mua. Mua của bạn mình bán vừa tiện lại vừa rẻ
hơn dù chỉ là vài trăm đồng. Các bạn ấy cũng phải học như bọn em nhưng thật là năng
động”.
Gần đây, một công việc đang được sinh viên ưa chuộng đó là làm nhân viên
Marketing. Hiện nay nhiều doanh nghiệp đã sử dụng một lượng lớn học sinh, sinh viên
làm cộng tác viên. Nhiều trung tâm ngoại ngữ đã tuyển đội ngũ tư vấn viên rất đông
đảo, toả đi khắp các khu vực. Nhiệm vụ của họ không chỉ là giới thiệu về trung tâm của
mình mà còn khuyến khích để học viên đến học ở trung tâm với nhiều hình thức giảm
giá, quà tặng hấp dẫn…. Hãng mỹ phẩm oriflame, hãng điện thoại S-Fone hay hãng
Unilever cũng đã có một lượng lớn nhân viên bán hàng là sinh viên. Doanh thu bán
hàng thu được từ lực lượng này cũng không hề nhỏ. Làm việc kiểu này mất khoảng 2-3
tiếng/ngày, thậm chí 3-5 tiếng/ngày. Tuy nhiên đây là công việc mang lại cho số đông
sinh viên sự năng động, nhanh nhẹn, mở rộng các mối quan hệ xã hội. Và đặc biệt là
(1)
“Sinh viên làm thêm”, trang 7, Báo Tuổi trẻ, số 03, 23/09/04, Linh Hương.
http://www.vietnamnet.vn,
“Mở
hàng
trong
ký
túc”,
12/03/2005, 08:40 AM
(1)
“Những sinh viên kiêm doanh nhân”, trang 6, Thanh niên, số
75, 16/03/2005, Trương Công Khả
http://www.neutoday.net, “Xin việc bằng cách đi đường vòng”,
04/03/2005, 13:22 PM
(1)
.
…và cũng vất vả việc làm thêm
Mikhailik – sinh viên một trường Đại học ở Hà Nội – bảo: “Làm thêm là một
(1)
http://www.vietnamnet.vn, “Sinh viên quốc tế: sôi động tìm bài
học ngoài giảng đường”, T.Tú
thuộc tính của sinh viên Ucraina”
(1)
. Đó không phải là lời nói suông, bởi cậu cũng là
(1)
http://www.sinhvienvietnam.com, “Chuyện ít người biết về sinh
viên Tây”, 15/03/2005, S.V
Phần 2
Phương pháp nghiên cứu
Đối với những người đã đi làm thêm, chúng tôi sẽ có những căn cứ lập các câu
hỏi như: bạn làm thêm vì lý do gì?, bạn làm thêm từ khi nào?, bạn làm những công việc
gì? thu nhập thế nào?….
Đối với những người chưa đi làm thêm, chúng tôi tập trung vào lý do không đi
làm và dự báo trong tương lai về đối tượng này.
Để đảm bảo tính chặt chẽ của việc nghiên cứu, chúng tôi tiến hành thiết kế 2 lần
phiếu với mục đích: phiếu lần 1 bổ sung cho phiếu lần 2 (chính thức) và so sánh, kiểm
nghiệm thông tin qua 2 giai đoạn khác nhau.
Lần 1: Thiết kế phiếu điều tra có nhiều câu hỏi mở nhằm gợi cho người được
hỏi nêu lên những suy nghĩ của bản thân. Những thông tin này sẽ được cập nhật cho
phiếu điều tra lần 2. Dung lượng phiếu lần 1 không dài (2 trang), bao gồm 13 câu,
chia làm 3 phần: dành cho người đã đi làm thêm, chưa đi làm thêm và phần chung (xem
phụ lục Mẫu phiếu điều tra lần 1).
Lần 2: Tận dụng những thông tin có ích, loại bỏ những thông tin thừa từ phiếu
lần 1 để xây dựng phiếu chính thức. Phiếu lần 2 có dung lượng dài hơn (3 trang) và một
số câu hỏi đi sâu hơn về mức độ tác động đối với người trả lời. Phiếu lần 2 gồm 13 câu
chia làm 2 phần: cho người đã đi làm thêm và cho người chưa đi làm thêm (xem phụ
lục Mẫu phiếu điều tra lần 2).
2.2.1.2 Thiết kế chọn mẫu
Để tiến hành chọn mẫu chúng tôi sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên,
chọn ra 150 người để nghiên cứu (phiếu điều tra lần 1), và chọn ra 250 người để nghiên
cứu (phiếu chính thức). Những người được chọn, mỗi người sẽ được phát 01 phiếu điều
tra và tự trả lời.
Để đảm bảo tính đại diện của mẫu, chúng tôi chọn cả từ những sinh viên năm thứ
nhất đến những sinh viên năm cuối.
Với 150 phiếu điều tra phát ra và thu về 150 phiếu (lần 1), tương ứng có 150
người đã cộng tác trả lời.
Với phiếu điều tra chính thức, số lượng phát ra là 250 phiếu, thu về 241 phiếu,
trong đó có 5 phiếu không hợp lệ. Tổng cộng có 236 phiếu hợp lệ.
2.2.1.3 Điều tra thử và tiến hành điều tra
Sau khi thiết kế xong phiếu điều tra lần 1 và chọn mẫu nghiên cứu, chúng tôi tiến
hành điều tra thử để kiểm tra tính chính xác, hoàn thiện của phiếu điều tra cũng như
mong muốn có được những thông tin ban đầu phục vụ cho việc nghiên cứu. Thời gian
điều tra phiếu lần 1 là từ 15/10 đến 26/10/2004.
Chúng tôi tiến hành điều tra chính thức từ 3/3 đến 15/3/2005.
2.2.2 Phương pháp xử lý số liệu
Kết thúc từng giai đoạn điều tra, công việc tiếp theo là tiến hành tổng hợp các dữ
liệu thu được.
Trước tiên phải hiệu chỉnh dữ liệu bằng việc kiểm tra xem người trả lời đã trả lời
đúng theo yêu cầu chưa, gạn lọc ra những câu trả lời không logic, những câu trả lời
không đúng do người trả lời điền nhầm chỗ…
Bằng phần mềm SPSS, chúng tôi đã tổng hợp số liệu của cả 2 phiếu điều tra
(xem phụ lục Bảng tổng hợp số liệu Phiếu điều tra lần 1, 2).
phần 3
việc làm thêm đối với sinh viên qua
kết quả điều tra xã hội học và phân tích,
đánh giá của nhóm nghiên cứu
3.1 Một số thống kê mẫu
Qua điều tra và tổng hợp số liệu lần 2, tương quan giữa các thống kê về giới tính
và về năm học được biểu thị qua bảng sau:
Bảng 3.1: Tương quan giữa sinh viên đã và chưa đi làm thêm
phân chia theo giới tính và theo năm học
Tiêu chí (phân theo giới tính)
1. Đã làm
2. Chưa bao giờ
Tổng
Tiêu chí (phân theo năm học)
1. Đã làm
2. Chưa bao giờ
Tổng
Số lượng (người)
Giới tính
%
77
Nam
46.95
87
Nữ
53.05
32
Nam
44.44
40
Nữ
55.56
109
Nam
46.19
127
Nữ
53.81
164
72
236
Số lượng (người)
164
72
236
Năm thứ
%
45
27.44
54
3
32.93
46
2
28.05
19
1
11.58
6
8.33
28
3
38.89
30
2
41.67
8
1
11.11
51
21.61
82
3
34.75
76
2
32.20
--- Bài cũ hơn ---
Giải Pháp Cho Nhu Cầu Vừa Học Vừa Làm Của Sinh Viên
Một Số Biện Pháp Về Công Tác Chủ Nhiệm Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Học Tập
Các Giải Pháp Ứng Dụng Công Nghệ Trong Dạy Học
Một Số Giải Pháp Hiệu Quả Ứng Dụng Công Nghệ Trong Trường Thcs
Các Biện Pháp Ứng Dụng Công Nghệ Trong Dạy Học