Top 4 # Xem Nhiều Nhất Biện Pháp Biến Đổi Khí Hậu Toàn Cầu Và Suy Giảm Tầng Ozon Địa 11 Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Photomarathonasia.com

Suy Giảm Tầng Ozone Và Biến Đổi Khí Hậu

Tầng ozone vốn được xem là tấm áo giáp che chắn các tia bức xạ có hại từ mặt trời và bảo vệ sự sống trên trái đất. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, con người đã sử dụng và thải ra khí quyển một lượng lớn gốc Clo làm suy giảm tầng ozone. Hậu quả là tầng ozone bị bào mỏng, khiến xuất hiện lỗ thủng ở tầng ozone tại Nam cực vào năm 1985 và có nguy cơ lan rộng. Bên cạnh đó, việc suy giảm tấm áo giáp này sẽ làm thay đổi nhiệt độ một số khu vực trên trái đất, làm cho hệ sinh thái các khu vực đó bị thay đổi, đồng thời trở thành một trong những nguyên nhân gây nên hiện tượng biến đổi khí hậu.

Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học ở Trường Khoa học ứng dụng và cơ khí thuộc Đại học Columbia (Mỹ), lỗ thủng tầng ozone khiến Nam cực lạnh thêm, làm gió Nam đổi chiều theo hướng từ Tây sang Đông, khiến vành đai khô hạn ở vùng cận nhiệt đới tiến xuống phía Nam làm lượng mưa tăng lên. Khí hậu toàn cầu cũng có thể bị ảnh hưởng bởi những sự thay đổi của tầng đối lưu. Các nghiên cứu đã cho thấy rằng sự suy giảm gần đây trong tỷ lệ tăng nồng độ khí mê-tan của khí quyển có thể một phần do tăng bức xạ UV-B trong tầng khí quyển thấp.

HCFC vẫn được dùng trong các hệ thống điều hòa, làm lạnh. Ảnh: KIM NGÂN

Một số tia cực tím UV-B có thể tác động lên thực vật trên cạn làm giảm hoạt động quang hợp, chậm phát triển và dễ mắc bệnh, thậm chí có thể làm thay đổi cả hệ sinh thái thực vật. Các tia cực tím cũng làm giảm chất lượng không khí và dẫn đến tác động tiêu cực đối với sức khỏe con người. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng, tầng ozone bị thủng chính là do các chất khí CFC và HCFC, chủ yếu được dùng trong công nghệ làm lạnh gây ra, các hóa chất này là nhân tạo, không tự có trong tự nhiên. Rõ ràng, chính con người là thủ phạm bào mòn tầng ozone. Việc sớm ngừng sản xuất và sử dụng các hóa chất CFC (chlorofluorocacbon) và HCFC (hydrochlorofluorocarbon) là biện pháp hữu hiệu nhất để cứu tầng ozone. Đồng thời, cũng theo nghiên cứu của các nhà khoa học của Trường Đại học Columbia (Mỹ), các chất CFC, HCFC cũng là các loại khí gây hiệu ứng nhà kính, góp phần gây nên sự ấm lên toàn cầu, dẫn đến hiện tượng biến đổi khí hậu.

Ông Hiếu cũng cho biết, theo Nghị định thư Montreal, năm 2013, Việt Nam chỉ được tiêu thụ HCFC ở mức cơ sở (221,2 tấn). Từ tháng 10-2015 đến hết năm 2019 phải giảm 10% mức cơ sở, từ 2020 phải giảm 35% cơ sở và 2030 loại trừ hoàn toàn. Đối với lĩnh vực sửa chữa bảo dưỡng thiết bị, chúng ta được phép sử dụng HCFC đến năm 2040.

Trong những năm gần đây, hiện tượng biến đổi khí hậu và những ảnh hưởng của nó đang ngày một có xu hướng diễn biến tiêu cực và được UNEP (Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc) xếp vào dạng vấn đề an ninh “phi truyền thống” và xem như là một vấn đề mang tính toàn cầu, không của bất kỳ quốc gia đơn lẻ nào, trong đó nỗ lực tiến đến loại bỏ hoàn toàn các chất gây hại cho tầng ozone cần phải được nhiều quốc gia thực hiện đồng bộ, nhất là các nước phát triển.

HIẾU THƯỢNG

Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ozone được thông qua tại Montreal (Canada) vào tháng 9-1987, áp đặt các biện pháp và nghĩa vụ loại trừ hoàn toàn sản xuất, sử dụng các chất làm suy giảm tầng ozone đối với các nước thành viên. Nghị định thư Montreal với sự tham gia của 191 quốc gia nhằm loại trừ các chất có khả năng làm suy giảm tầng ozone như nhóm CFC (clorofluorocarbon dùng trong lĩnh vực làm lạnh, xốp, dung môi, son khí, dập cháy và khử trùng). Đến năm 1990, chất CFC dần được thay thế bằng HCFC (hydrochlorofluorocarbon, chất làm suy giảm tầng ozone thấp hơn CFC nhưng khả năng làm nóng toàn cầu cao gấp 2.000 lần khí CO2).

Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ozone được đánh giá là một định ước quốc tế về môi trường thành công nhất từ trước đến nay với sự tham gia của tất cả các quốc gia, kiểm soát gần 100 chất làm suy giảm tầng ozone thuộc các nhóm chất CFC, HCFC, halon… Tháng 1-1994 Việt Nam chính thức tham gia Nghị định thư Montreal, và tính từ tháng 1-1994 và đến tháng 1-2010 chúng ta đã loại trừ hoàn toàn 500 tấn CFC và 3,8 tấn halon (là lượng tiêu thụ hàng năm ở nước ta) gây thủng tầng ozone.

Biến Đổi Khí Hậu Toàn Cầu Và Suy Giảm Tầng Odon

Bài 3Một số vấn đề mang tính toàn cầuBiến đổi khí hậu toàn cầu và suy giảm tầng ôdôna)Biến đổi khí hậu + Biến đổi khí hậu Trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm: khí quyển, sinh quyển, thuỷ quyển và thạch quyển ở hiện tại và tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo trong một giai đoạn nhất định tính bằng thập kỉ hay hàng triệu nămBiểu hiện của biến đổi khí hậu

+ Sự nóng lên của khí quyển nói riêng và Trái đất nói chung.+ Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển.+ Sự dâng cao mực nước biển do băng tan.+ Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng ngàn năm trên các vùng khác nhau của Trái đất.+ Sự thay đổi cường độ hoạt động của các quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.+ Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển…a)Biến đổi khí hậu Nguyên nhân+ Hoạt động của con người

+ Hiện tượng núi lửa

+ Hiệu ứng nhà kính+ Gây nên thiên tai như: lũ lụt, hạn hán, bão…+Gây hại cho sức khỏe cho con người và sinh vậtHậu quả của biến đổi khí hậu toàn cầub)Suy giảm tầng OzonHoạt động công nghiệpPhá rừngHoạt động GTVTHoạt động nông nghiệpSinh hoạt của con ngườiCác khí nhà kính: CO2, NH4, N2O, HFCs, PFCs và SF6 Nguyên nhânTầng ozon bị mỏng và thủng dần, không còn đủ khả năng thực hiện chức năng của một tấm bảo vệ tất cả các sinh vật trên Trái đất khỏi bức xạ UV, dẫn đến những tác động nghiêm trọng:– Đối với động thực vật: làm giảm số lượng các sinh vật, phá hủy chuỗi thức ăn của các sinh vật, gây một số loài có nguy cơ bị tuyệt chủng.– Đối với con người: tia UV gây ung thư da, đục thủy tinh thể, giảm miễn dịch, xáo trộn các kháng thể chống lại bệnh tật nhất là các bệnh truyền nhiễm.Hậu quả Lỗ thủng tầng OzonGiải phápChặn đứng nạn phá rừng Ứng dụng các công nghệ mới trong việc bảo vệ trái đất:quá trình can thiệp kỹ thuật địa chất, Hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch Hãy tham gia trồng cây, bảo vệ rừng và biển Hãy tham gia và tổ chức các hoạt động bảo vệ môi trường Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe và theo dõiThanks everybody! Good luck!

Giảm Nhẹ Biến Đổi Khí Hậu Toàn Cầu Bằng Biện Pháp Thu Giữ, Sử Dụng Và Lưu Trữ Cacbonic

11/10/2019

Trước yêu cầu về giảm nhẹ biến đổi khí hậu toàn cầu, việc giảm phát thải khí CO 2 trên thế giới hiện nay đang tập trung vào 2 nhóm chính và 4 giải pháp cụ thể gồm:

– Nhóm 1: Không phát tán thêm CO 2 vào khí quyển:

(1) Giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch bằng các chính sách, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong nền kinh tế. ( Chi phí thấp);

(2) Giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch thông qua chuyển đổi sang sử dụng các dạng năng lượng tái tạo, năng lượng mới (gió, mặt trời, thủy điện, thủy triều, địa nhiệt, sinh khối, hạt nhân, năng lượng hydrogen…) thay thế các dạng năng lượng hóa thạch truyền thống. ( Chi phí cao).

(3) Thu giữ, sử dụng tuần hoàn, lưu trữ các-bon (CCUS) bằng các giải pháp kỹ thuật, công nghệ từ các nguồn phát thải lớn, tập trung. ( Chi phí cao).

– Nhóm 2: Làm giảm lượng CO 2 trong khí quyển xuống mức phù hợp:

(4) Tăng cường hấp thụ CO 2 và lưu trữ trong các sinh khối rừng trồng và rừng tự nhiên nhờ quá trình quang hợp tự nhiên của thực vật. ( Chi phí thấp).

Như vậy, hầu hết các quốc gia như Việt Nam có xu hướng lựa chọn các giải pháp có chi phí thấp số (1) và số (4) để thực hiện trước, từng bước triển khai các giải pháp có chi phí cao phù hợp với điều kiện và quy mô của nền kinh tế. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa ban hành chính sách cụ thể về trách nhiệm, nghĩa vụ giảm phát thải khí nhà kính bắt buộc, chủ yếu đang được lồng ghép trong các chính sách phát triển năng lượng quốc gia như phát triển năng lượng tái tạo và chính sách về sử dụng hiệu quả năng lượng.

Đối với giải pháp số (3) được áp dụng chủ yếu đối với các nguồn phát thải CO 2 lớn, tập trung như các nhà máy nhiệt điện, hóa chất, xi măng, phân bón,… và được tiếp cận qua các bước gồm thu giữ (Carbon Capture), sử dụng (Utilization), lưu giữ (Storage) hoặc kết hợp sử dụng và lưu giữ các-bon gọi chung là CCUS.

CCUS là công nghệ sạch, có thể loại bỏ phát thải CO 2 từ các ngành công nghiệp lớn như nhiệt điện, xi măng, luyện gang thép, sản xuất phân bón và hóa dầu.

CCUS là một phần của nền kinh tế năng lượng mới trong tương lai khi kết hợp với nguồn năng lượng Hydrogen và năng lượng sinh học để tạo ra nguồn năng lượng các-bon trung tính đang là hướng đi được nhiều quốc gia đang triển khai.

CCUS sẽ tạo ra việc làm mới và cộng đồng bền vững trong tương lai. Đây là giải pháp có chi phí thấp hơn so với các chi phí thiệt hại về môi trường và sức khỏe do phát thải gây ra và sẽ tiếp tiếp tục giảm khi các thiết bị được thương mại hóa nhiều hơn.

Cần Giải Pháp Khẩn Cấp Toàn Cầu Về Biến Đổi Khí Hậu

Ngày 16/1, Hội nghị cấp cao các nhà đầu tư toàn cầu về biến đổi khí hậu và các giải pháp năng lượng, diễn ra tại trụ sở Liên hợp quốc ở New York.

Hội nghị khẳng định thách thức về biến đổi khí hậu cần có những giải pháp khẩn cấp mang tính toàn cầu bởi hiện tượng này đã trở thành nhân tố lớn nhất trong các tính toán đầu tư trong tương lai gần.

Thế giới cần một cuộc chạy đua nước rút chứ không chỉ chạy đua marathon về chống biến đổi khí hậu.

Hơn 450 nhà đầu tư toàn cầu hiện đang kiểm soát nguồn vốn hàng chục nghìn tỷ USD nhấn mạnh chưa bao giờ thế giới cần những hành động khẩn cấp để đối phó với biến đổi khí hậu cũng như những hiểm họa của nó như hiện nay.

Mặc dù tổng đầu tư vào năng lượng sạch đã tăng gấp hơn 5 lần kể từ năm 2005 và lên tới 260 tỷ USD năm 2011, nhưng khuôn khổ chính sách trên toàn cầu cần phải thực sự thay đổi về phương thức điều hành nền kinh tế để nâng cao sự chú ý của các nhà hoạch định chính sách và các nhà đầu tư về tính khẩn cấp của giải pháp chống biến đổi khí hậu.

Các nhà đầu tư cần thay đổi phương thức đầu tư và kinh doanh nhằm thúc đẩy các giải pháp năng lượng mới. Công nghệ năng lượng Mặt Trời hiện đang dẫn đầu về tăng vốn đầu tư và đã đạt gần 138 tỷ USD, tăng 36% trong năm 2011.

Bên cạnh đó, Liên hợp quốc cũng cảnh báo nguy cơ “lựa chọn giả” giữa đầu tư kinh tế mạnh và đầu tư môi trường mạnh.

Đầu tư tăng cường sự bền vững không còn là nhân tố ngoại vi của bức tranh hoạt động của các công ty. Công ty nào phớt lờ nguy cơ cao về biến đổi khí hậu đồng nghĩa với bỏ lỡ các tín hiệu thị trường rất hấp dẫn, đồng thời sẽ không tuyển được những tài năng kinh doanh trẻ.

Liên hợp quốc kêu gọi các nhà đầu tư toàn cầu thúc đẩy kế hoạch hành động mới phát triển các công nghệ ít thải khí gây hiệu ứng nhà kính, đồng thời giám sát chặt chẽ hơn nữa các nguy cơ gây biến đổi khí hậu.

Các chuyên gia Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu nhấn mạnh nhu cầu phải có những chuyển đổi quan trọng thông qua các nỗ lực cụ thể để chống tình trạng biến đổi khí hậu vào thời điểm mang tính bước ngoặt là năm 2017.