Cập nhật nội dung chi tiết về Thuyết Minh Về Cây Lúa Nước Có Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Hay Nhất Lớp 9 mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Hướng dẫn làm bài văn thuyết minh về cây lúa nước có sử dụng biện pháp nghệ thuật lớp 9 hay nhất. Dân tộc ta từ lâu đã gắn bó với nền văn minh lúa nước, cây lúa trở thành một phần không thể thiếu với nhân dân.
BÀI VĂN MẪU SỐ 1 THUYẾT MINH VỀ CÂY LÚA NƯỚC CÓ SỬ DỤNG BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT
Trên triền đê dài miên man, lộng gió của cánh đồng quê nội, tôi chậm rãi ghé sát mình vào một mảnh ruộng để cảm nhận hương thơm dịu ngọt của đất. Văng vẳng bên tai tôi lời nói nhè nhẹ của chị lúa: “Chào bạn! Bạn có biết về cuộc đời họ lúa nước mình không? Mình giới thiệu với bạn này”.
Giọng lúa như tâm tình, thủ thỉ. Tổ tiên của mình bắt nguồn từ xa xưa, được con người phát hiện và thuần chủng nên trở thành cây lúa giống ngày hôm nay đấy. Họ hàng mình đông vui lắm nào là BC, bắc thơm, nếp cẩm, nếp cái nữa… Giống lúa Mộc Tuyền ngày trước phổ biến lắm, bạn biết không cây lúa trưởng thành cao gần bằng đầu người đó. Hạt lúa thơm ngon nhưng chưa đem lại năng suất cao bởi vậy không được bà con nông dân canh tác. Chúng mình là những giống lúa mới được nhà khoa học Lương Đình Của nghiên cứu lai tạo làm tăng thêm sức kháng thể và mang lại năng suất cao hơn, chất lượng cũng được nâng lên. Bạn thấy không, chúng mình thuộc thân cỏ khá mềm yếu, nên mọi người đoàn kết sống gần nhau, nương tựa vào nhau để gió không dễ dàng quật đổ. Lúa nước chúng mình thuộc loại rễ chùm nên đứng khá vững trên mảnh ruộng màu mỡ. Một cây lúa trưởng thành cao khoảng 70- 80 cm và có hệ rễ với tổng chiều dài gần 625km. Những cánh lá của mình dài, có lớp lông phủ trên bề mặt như những lưỡi gươm khua trong gió vậy.
Lúa chiêm lấp ló đầu bờ
Nghe ba tiếng sấm phất cờ mà lên”
Mình nghe chị gió tâm tình, thấy họ hàng lúa nước còn thích nghi với điều kiện khắc nghiệt của ruộng bậc thang, còn dọc dải đất miền Trung có khi mưa bão, bà con bị mất trắng. Bạn biết không, chỉ sau một tháng trên ruộng, lúa chúng mình đang độ thì con gái. Cả cánh đồng lúc ấy căng tràn sức sống, mơn mởn, đó là giai đoạn chúng mình trưởng thành. Lúc này các bác nông dân bón một số loại phân bón như NPK, Kali… Cụm rễ làm việc siêng năng, bấu vào đất mà hút chất dưỡng chất chuẩn bị cho lúa trổ đòng. Những bông lúa trĩu nặng hạt tròn mẩy khiến thân lúa mình uốn cong. Suốt hai thời vụ, người nông dân thường xuyên ra thăm ruộng để kịp thời ngăn chặn dịch bệnh nguy hiểm như bạc lá hay khô vằn. Công việc nặng nhọc, vất vả bởi các bác thường dọn cỏ, bắt sâu trên lá. Thật đúng là:
” Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
Hạt thóc của chúng mình khi vàng ươm được máy gặt về. Những bó lúa dày hạt là thành quả cho cả quá trình lao động miệt mài của người lao động. Sau khi lúa gặt về, chỉ còn lại trên cánh đồng những gốc rạ khẳng khiu. Cả cuộc đời mình gắn bó với người nông dân như thế đấy.
Mình đang sống và cống hiến sức mình cho cuộc đời, bạn ạ. Nhờ có hạt thóc nhỏ giúp nước ta trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu lúa gạo trên thị trường quốc tế. Hạt ngọc thực làm cuộc sống dân ta trở nên no đủ hơn. Nhìn những cô cậu học trò khôn lớn mình cũng thấy phần nào tự hào về đóng góp của mình.
Mặt trời ngả bóng về phía tây, tôi tạm biệt các bạn lúa. Đi trên triền đê lộng gió trở về làng, tôi phóng tầm nhìn rộng hơn, cả cánh đồng vẫn dập dờn trong gió, ghé đầu vào nhau trò chuyện. Qua câu chuyện ngắn ngủi của lúa giúp tôi hiểu sâu sắc hơn về cây lương thực này.
Hình ảnh cây lúa nước Việt Nam gắn liền với người nông dân Việt Nam vất vả nơi ruộng động, hạt lúa như hạt ngọc trời
BÀI VĂN MẪU SỐ 2 THUYẾT MINH VỀ CÂY LÚA NƯỚC CÓ SỬ DỤNG BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT
“Hạt gạo làng ta
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy”
Chắc hẳn mỗi chúng ta, ai cũng có một tuổi thơ êm đềm gắn bó với mái đình, cây đa, bến nước và đặc biệt là triền đê lộng gió bên cánh đồng thẳng cánh cò bay. Cây lúa không chỉ là thứ hạt vàng, hạt ngọc của đất trời đem lại sự sống cho chúng ta mà từ khi nào đã đi vào cả trong nỗi nhớ niềm thương của mỗi người con đất Việt.
Đã bao giờ bưng bát cơm thơm dẻo trên tay, ta tự hỏi cây lúa có từ bao giờ? Phải chăng cây lúa có từ ” ngày xửa ngày xưa”, khi những câu ca bắt lên khắp các nẻo đường rộn rã của những bà, những chị đi thăm đồng? Hay phải chăng cây lúa hoài thai từ thuở hồng hoang dựng nước, khi Lang Liêu biết trồng lúa để làm những bánh vuông tròn mà cúng Tiên vương? Thật khó mà nói được cái nguồn gốc xuất phát của thứ cây dẻo dai mà kiên cường ấy! Chỉ biết rằng, cây lúa hay nghề trồng lúa đã có ở nước ta từ rất lâu đời. Giống như một giá trị trường tồn vĩnh cửu, bốn ngàn năm lịch sử đã qua đi, đất nước từng ngày thay đổi với những diện mạo mới, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp với nghề trồng lúa nước, là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Khắp các làng quê Việt nam, đi đâu ta cũng thấy cánh đồng thẳng cánh với những cây lúa xanh rì trĩu bông. Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là hai vựa lúa lớn nhất nước ta. Lúa nước không chỉ là một nghề giúp người nông dân của ta kiếm sống mà còn làm nên một nền văn hóa của những vùng đất phù sa xứ sở.
Một năm có hai vụ lúa chính: Vụ chiêm và vụ mùa. Người nông dân chọn hạt giống, ngâm thóc giống, nâng niu đến khi đưa những mầm non mới nhú ấy xuống mặt đất, rồi dày công chăm sóc, chăm đồng thăm ruộng, nâng niu chăm sóc như người mẹ chăm con. Phải trải qua cả một quá trình như thế, mới có những cây lúa trĩu bông. Cũng giống như nhiều loại cây khác, lúa nước cũng có nhiều giống lúa như: lúa móng chim, lúa di hương , lúa ba giăng, lúa gié, lúa mộc tuyền,… Nhưng quý nhất vẫn là cây lúa tám xoan, lúa dự, cho những hạt gạo trắng như hạt ngọc trời, ăn dẻo và thơm. Lúa nếp cũng có nhiều loại: nếp cái hoa vàng, thường được các bà các mẹ chọn để đồ xôi, cất rượu; rồi nếp rồng, nếp nàng tiên, nếp mỡ,…
Con trâu, cây lúa, cánh đồng từ bao giờ đã trở thành người bạn của nhà nông. Chẳng phải vì thế mà ta vẫn thường nghe những câu hát:
” Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”
( Ca dao)
Trồng lúa là nghề căn bản của nhà nông. Người nông dân quanh năm dầm sương dãi nắng, cần cù ngày này qua tháng nọ bám lấy ruộng đồng: cày bừa, cấy hái, tát nước, bón phân, làm cỏ, bắt sâu,…Với người dân cày, cánh đồng mảnh ruộng là món gia tài nhỏ nhỏ cả một đời vun vén.
Miền Nam thường sạ lúa thì người miền Bắc kì công lại gieo mạ và cấy lúa. Khi vụ mùa vừa kết thúc, vào tiết lập xuân, người nông dân tiến hành chọn hạt giống, ngâm thóc giống rồi quăng bùn gieo mạ. Khi cây mạ non cao chừng mười phân và thời tiết thuận lợi, người nông dân sẽ đem mạ ấy cấy xuống đồng ruộng đã được cày xới tơi xốp. Công việc giản dị ấy đã đi vào lời một bài hát ru của tuổi thơ như thế:
” Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con bấy lần”
Lúa thì con gái xanh ngắt một màu. Những cơn mưa rào cuối xuân đầu hè được gọi là cơn mưa vàng, làm cho đồng lúa tốt bời bời:
” Lúa chiêm đứng nép đầu bờ
Nghe ba tiếng sấm phất cờ mà lên”.
Lúa đứng cây rồi lúa có đòng đòng. Lúa trổ bông tỏa hương thơm thoang thoảng. Hoa lúa màu trắng nõn. Rồi lúa ngậm sữa, lúa uốn câu. Chừng độ nửa tháng sáng, đồng lúa ửng vàng rồi chín rộ. Cả cánh đồng lúa mênh mông như một tấm thảm nhung mau vàng khổng lồ. Đường quê thôn xóm thêm nhộn nhịp. Người ta đi hái lúa, tuốt lúa rồi đem phơi. Những khoảng sân nhà đầy ăm ắp những thóc, những rơm. Nắng vàng, rơm vàng, màu thóc vàng,… tất cả như tô điểm cho những thôn xóm những chiếc áo rực rỡ sắc màu của niềm vui và sự sung túc đủ đầy!
Cây lúa thật quý giá vô cùng! Hạt thóc người ta đem xay ra hạt gạo trắng ngần. Lớp vỏ bị tróc ra thường được gọi là trấu, dùng để nhóm lửa hoặc ủ phân cho cây trái trong vườn. Giữa lớp vỏ trấu ấy và hạt gạo trắng nõn ngọt lành là một lớp vỏ dinh dưỡng, khi xát lúa người ta thu được gọi là cám, dùng trong chăn nuôi rất thuận lợi. Đến phần thân cây lúa khi gặt về, cũng được đem ra phơi nắng thành rơm thành rạ để nhóm bếp. Những bông lúa nếp sau khi tuốt hạt thì được chọn lọc kĩ càng và dùng để làm chổi.
Hạt lúa là hạt vàng, Hạt gạo là hạt ngọc. Từ hạt gạo có thể chế biến được nhiều món ăn. Gạo xây giã thành bột để làm bánh, làm bánh đúc, bánh cuốn, bánh đa:
“Bánh đúc thiếp đổ ra sàng
Thuận thiếp thiếp bán, thuận chàng chàng mua”
Bánh chưng, bánh dày, bánh ú, bánh gai, bánh xèo,…. Hàng trăm thứ bánh, hàng trăm thức quà đều làm từ hạt gạo dẻo thơm. Ngoài ra hạt gạo ở một số vùng qua còn được dùng để làm những thức quà riêng đặc sản của vùng miền như cốm làng Vòng.
Nâng bông lúa trên tay, ta càng thêm mến yêu mến và trân trọng! Màu xanh của lá lúa là màu xanh của sự sống, là sự trường tồn mãi mãi như câu ca dao xưa:
” Khi nào cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”.
Thuyết Minh Về Cây Bút Bi Có Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Lớp 9 Hay Nhất
Nếu như học sinh thời xưa sử dụng bút mực hay còn gọi là bút máy với lọ mực luôn bên cạnh thì học sinh thời này thường chỉ sử dụng bút bi rất ít người còn sử dụng bút mực vì tính tiện dụng cũng như giá thành và sự sạch sẽ gọn gàng của bút bi. KHông chỉ trong học tập, bút bi cũng được sử dụng rất nhiều trong các công việc hằng ngày để ghi chép đánh dấu dù ngày càng bị các thiết bị công nghệ máy tính điện thoại cạnh tranh và hay thế.Bút bi cũng có rất nhiều hãng sản xuất khác nhau trong đó nổi tiếng nhất là bút bi Thăng Long với chất lượng khá tốt và giá thành cũng chấp nhận được. Nếu bạn đang cần làm 1 bài văn về thuyết minh bút bi thì cần tìm hiểu thông tin về chiếc bút bi trước khi làm ngoài ra cũng có thể tham khảo một số bài văn mãu để có những ý văn hay nhất và đạt điểm cao.
BÀI VĂN MẪU SỐ 1 THUYẾT MINH VỀ CÂY BÚT BI CÓ SỬ DỤNG BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT
Suốt quãng đời cắp sách đến trường, người học sinh luôn bầu bạn với sách, vở, bút, thước… và coi đó là những vật dụng không thể thiếu được. Trong số những dụng cụ học tập ấy thì tôi yêu quý nhất là cây bút bi, một vật đã gắn bó với tôi nhiều năm và chắc trong tương lai sẽ còn hữu ích với tôi lắm! Hồi còn ở cấp một, tôi dùng bút máy viết mực và chữ tôi khá đẹp, nhưng khi vào cấp hai thì nó lại gây cho tôi khá nhiều phiền toái. Tôi phải vừa viết vừa nghe Thầy, cô giảng bài với tốc độ khá nhanh nên bút máy không thể đáp ứng được yêu cầu này. Chữ viết lộn xộn và lem luốc rất khó coi! Lúc ấy thì Ba mua tặng tôi một chiếc bút bi với lời khuyên: “con hãy thử xài loại bút này xem sao, hy vọng nó có ích với con”. Kể từ đó tôi luôn sử dụng loại bút này để rồi hôm nay có dịp nhìn lại, tìm hiểu đôi điều về nó
Chiếc bút bi đầu tiên, được một nhà báo Hungary làm việc tại Anh tên Laszlo Biro giới thiệu vào năm 1938. điều khiến Ông nghĩ ra việc sáng chế ra loại bút này là vì những cây bút máy luôn gây cho Ông thất vọng, chúng thường xuyên làm rách, bẩn giấy tờ, phải bơm mực và hay hư hỏng… Vào ngày 15 tháng 6 năm 1938 ông Biro được nhận bằng sáng chế Anh quốc. Từ khi bút bi được ra đời nó đã được cải tiến nhiều để phù hợp với người dùng và đã trở nên thông dụng khắp thế giới. Tuy có khác nhau về kiểu dáng như chúng đều có cấu tạo chung giống nhau. Bút bi có ruột là một ống mực đặc, đầu ống được gắn với một viên bi nhỏ có đường kính khoảng từ 0,7 đến 1 milimet, được coi như là ngòi bút. Khi ta viết mực được in lên giấy là nhờ chuyển động lăn của viên bi này và loại mực dùng cho bút khô rất nhanh.
Con người thường ít nghĩ đến những gì quen thuộc, thân hữu bên mình. Họ cố công tính toán xem trung bình một đời người đi được bao nhiêu km hay một người có thể nhịn thở tối đa bao nhiêu phút nhưng chắc chưa có thống kê nào về số lượng bút họ dùng trong đời! Một cây bút cũng giống như cơ thể con người vậy, ruột bút là phần bên trong cơ thể, đầu bi chính là trái tim và mực chứa trong bút được ví như máu, giúp nuôi sống cơ thể. Còn vỏ bút giống như đầu, mình, tứ chi vậy… chúng phải cứng cáp thì bút mới bền, hoạt động tốt cũng như tạo cho người sử dụng cảm giác thoải mái. Màu sắc và hình dáng bên ngoài giống như quần áo, làm tăng thêm vẽ đẹp cho bút. Các chi tiết của bút dù quan trọng hay thứ yếu đều góp phần tạo nên một cây bút. Như một kiếp tằm rút ruột nhả tơ, âm thầm giúp ích cho đời để rồi khi cạn mực, chúng bị vứt bỏ một cách lạnh lùng. Mấy ai nhớ đến công lao của chúng!
Bước vào năm học mới, các nhà sản xuất bút bi như Bến Nghé, Đông Á, Thiên Long, Hán Sơn… đã lần lượt cho ra đời hàng loạt mẫu mã từ đơn giản cho đến cầu kỳ như bút bấm, bút xoay, bút hai màu, ba màu… đủ chủng loại khác nhau nhằm đáp ứng như cầu người sử dụng. Các cậu nam sinh thì chỉ cần giắt bút lên túi áo đến trường nhưng nhiều bạn gái lại thích “trang điểm” cho bút các hình vẽ, hình dáng xinh xắn lên thân hay đầu bút còn được đính thêm con thú nhỏ ngộ nghĩnh… Thế là những chiếc bút bi lại theo chân trò nhỏ đến trường, giúp các cô, cậu lưu giữ những thông tin, kiến thức vô giá được thầy cô truyền đạt lại với cả tấm lòng
Cùng với sách, vở… bút bi là dụng cụ học tập quan trọng của người học sinh, vì vậy chúng ta cần phải bảo quản bút cho tốt. dùng xong phải đậy nắp ngay để tránh bút rơi làm hư đầu bi, bộ phận quan trọng nhất của bút. Đặc biệt là luôn để bút ở tư thế nằm ngang giúp mực luôn lưu thông đều, không bị tắc. Một số loại bút bi có thể thay ruột khi hết mực và mình xin mách các bạn một mẹo nhỏ là nếu để bút bi lâu ngày không xài bị khô mực thì đừng vội vứt bỏ mà chỉ cần lấy ruột bút ngâm trong nước nóng độ 15 phút… cây bút của bạn có thể được phục hồi đấy!
Có thể nói rằng bút bi là một trong những phát minh quan trọng của con người. Ngày nay cứ 1 giây lại có 57 cây bút bi được bán ra trên thế giới, chứng tỏ tầm ảnh hưởng quan trọng của nó. Khoa học tiến bộ, nhiều công cụ ghi chép tinh vi hơn, chính xác hơn lần lượt xuất hiện nhưng bút bi vẫn được nhiều người sử dụng bởi nó rẽ và tiện lợi. Cầm cây bút bi trên tay, nắn nót từng chữ viết cho người thân yêu, chúng ta mới gửi gắm được trong đó bao nhiêu tình cảm, hơn hẳn những dòng e-mail vô hồn. Bây giờ lật lại từng tờ lưu bút, từng trang vở cũ, ta mới cảm nhận được những gì quý giá của thời học sinh đã qua cũng như thấy được giá trị của cây bút bi phải không bạn!
BÀI VĂN MẪU SỐ 2 THUYẾT MINH VỀ CÂY BÚT BI CÓ SỬ DỤNG BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT
Bút bi là một vật dụng gần gũi, gắn bó và vô cùng cần thiết trong đời sống con người. Bút bi không thể thiếu đối với những bạn học sinh đang ngày ngày cắp sách đến trường.
Cho đến nay, chưa ai biết chính xác thời gian chiếc bút ra đời. Từ xa xưa, ông cha ta thường dùng bút lông để viết rất bất tiện khi phải mài mực, chấm mực thường xuyên. Sau đó chiếc bút máy ra đời với nhiều ưu điểm hơn hẳn. Người sáng chế ra chiếc bút bi là một nhà báo người Hung-ga-ri tên là Bi-rô. Điều thôi thúc ông sáng chế ra chiếc bút bi là để thuận lợi cho công việc làm báo của mình vì bút máy làm giấy nhoè mực. Bi-rô nhận bằng sáng chế Anh Quốc vào năm 1938. Từ khi ra đời đến nay, chiếc bút bi luôn tục được cải biến để phù hợp hơn với người dùng và trở nên thông dụng trên toàn thế giới. Bút bi du nhập vào nước ta từ thế kỉ XX.
Chiếc bút bi có rất nhiều chủng loại phong phú và đa dạng nhưng phổ biến nhất là loại có nắp đậy và loại nút bấm. Nhưng dù là loại nào thì về cơ bản bút bi cũng có hai bộ phận chính là ruột bút và vỏ bút. Vỏ bút được làm bằng nhựa cứng với hình dạng, màu sắc rất phong phú nhưng đa phần là màu trong suốt để người viết nhìn thấy ruột bút bên trong. Vỏ bút có độ dài từ 14 đến 15 cm, hình thụ và thon dần về phía đầu bút. Vỏ bút có loại bề mặt trơn nhẵn, chỗ cầm để viết có khứa thành các rãnh ngang hoặc được lắp một lớp cao su để không bị trơn tay khi viết. Có loại có hình lục giác hoặc bát giác đều. Để góp phần làm cho chiếc bút bi đẹp hơn các cơ sở sản xuất thay đổi mẫu mã, màu sắc và các hoa văn trang trí để thu hút khách hàng. Với chiếc bút bi đậy nắp, vỏ bút thường có cấu tạo đơn giản. Vỏ bọc thường bằng nhựa hình trụ, chỗ tiếp giáp với tay người viết thường làm bằng cao su mềm hoặc rãnh mềm, tạo ma sát giúp việc cầm bút dễ dàng hơn. Nắp đậy ôm khít vào ngòi bút, ở đỉnh nắp có gắn một con chíp nhỏ có tác dụng bảo vệ ngòi bút. Nắp đậy còn có khuy cài để cài bút vào vở, sách, túi để bút không bị rơi. Riêng với loại bút có nút bấm thì phần đầu của bút bi gắn liền với bộ phận ruột bút bên trong gọi là lẫy bút. Khi viết, ấn vào phía đầu trên của bút bi thì ngòi bút sẽ ra, không muốn viết nữa thì ấn vào cái lẫy để ngòi bút thụt vào.
Bộ phận quan trọng nhất của chiếc bút bi là ruột bút. Ruột bút thường được làm bằng nhựa, dài từ 10 đến 12 cm, dùng để đựng mực nên còn gọi là ống mực. Thông thường ruột bút có màu trong suốt để người viết có thể biết còn bao nhiêu lượng mực bên trong. Có những loại ốn mực không trong suốt mà có màu trắng sứ với những đường kẻ màu bên trên để giúp người viết nhận diện được màu mực bên trong. Gắn với ống mực là ngòi bút. Đầu ngòi bút có gắn một viên bi nhỏ tầm 0,7 đến 1mm. Viên bi nhỏ đó có khả năng chuyển động đều, tạo ra khe hở cho mực thoát ra ngoài. Một số loại bút có phần lò xo nhỏ làm bằng kim loại hình xoắn ốc. Lò xo này kết hợp với đầu bấm ở cuối than bút và hai gờ nhỏ trên ruột bút để điều khiển ngòi bút lộ ra hay thụt vào trong vỏ. Bút bi có nhiều loại mực: mực nước, mực khô, mực nhũ, mực dạ quang,… kiểu dáng ngày càng đẹp. Có chiếc bút có nhiều ngòi với nhiều màu khác nhau xanh, đỏ, vàng, đen, tím, hồng… rất tiện lợi cho người sử dụng. Một cây bút cũng giống như cơ thể con người vậy, ruột bút là phần bên trong cơ thể, đầu bi chính là trái tim và mực chứa trong bút được ví như máu, giúp nuôi sống cơ thể. Còn vỏ bút giống như đầu, mình, tứ chi vậy… chúng phải cứng cáp thì bút mới bền, hoạt động tốt cũng như tạo cho người sử dụng cảm giác thoải mái. Màu sắc và hình dáng bên ngoài giống như quần áo, làm tăng thêm vẽ đẹp cho bút. Các chi tiết của bút dù quan trọng hay thứ yếu đều góp phần tạo nên một cây bút, như một kiếp tằm rút ruột nhả tơ, âm thầm giúp ích cho đời.
Bút bi từ khi sáng chế đến nay ai cũng công nhận ưu điểm của nó. Chiếc bút bi viết nhanh, không mất thời gian bơm mực, mực khô nhanh, không nhoè, không dây bẩn ra sách vở. Tuy vậy vì viết nhanh nên bút bi làm chữ người viết có phần xấu đi nhiều so với viết bút mực. Do vậy mà học sinh cấp một, các thầy cô giáo vẫn bắt buộc học sinh phải dùng bút mực để luyện nét chữ cho thành thục rồi mới được sử dụng bút bi. Chiếc bút bi là một vật dụng cần thiết, là người bạn không thể thiếu đối với mỗi học sinh, sinh viên. Bút bi được dùng trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề: bút bi theo chân các kĩ sư đến với công trình kiến trúc, là phương tiện để các nhà văn nhà thơ, nhạc sĩ thoả sức sáng tạo, là chiếc cầu nối giúp học sinh tiếp cận bến bờ tri thức.
Chiếc bút bi có nhiều công dụng như thế, vì vậy cần phải bảo quản bút bi đúng cách để chiếc bút được bền lâu. Khi viết xong cần phải đậy nắp bút hoặc bấm nút để ngòi bút thụt vào bên trong, tránh dây mực ra xung quanh và ngòi bút được bảo quản. Cần tránh để rơi bút hoặc để đầu bút cắm xuống đất thì sẽ hỏng ngòi. Khi mua phải thử xem mực bút có ra đều không. Tránh để hỏng hóc hay mất mát thì nên để bút trong hộp bút hoặc ống bút. Khi chiếc bút lâu ngày không được sử dụng thì hãy ngâm vào nước nóng để mực ra đều. Chiếc bút bi có thể thay ngòi nên khi sử dụng hết mực thì chớ vứt cả bút đi mà chỉ nên thay ngòi mới để tiết kiệm chi phí.
Chiếc bút bi là người bạn nhỏ, luôn sát cánh đồng hành trong công việc, học tập của mọi người, không tốn kém nhiều chi phí lại có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh, điều kiện ở mọi lúc mọi nơi. Chúng ta hãy biết ơn những người đẽ chế tạo ra cây bút để nhở đó chúng ta có sự hỗ trợ đắc lực trong học tập và trong công việc hiện nay vẫn đáp ứng được theo xu hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Hy vọng qua 2 bài văn mẫu thuyết minh về cây bút bi trên thì các bạn sẽ có cái nhìn tổng quan hơn về cách làm 1 bài văn thuyết minh về cây bút bi có sử dụng các biện pháp nghệ thuật như nhân hoá, tượng tượng… ngoài ra các bạn cũng có thể tham khảo những câu văn, ý văn hay để bổ sung vào bài viết về cây bút bi của mình sao cho bài văn hay và ấn tượng nhất có thể. Các bài văn đều do chúng tôi biên soạn các bạn sao chép vui lòng copy nguồn các em học sinh không nên chép toàn bộ mà chỉ nên tham khảo Nguồn chúng tôi
Dàn Ý Và Những Bài Văn Hay Thuyết Minh Về Cây Lúa Lớp 9
Dàn ý thuyết minh về cây lúa – Tham khảo hướng dẫn lập dàn ý về cây lúa nước – văn thuyết minh – văn mẫu 9 thuyết minh về cây lúa nước chọn lọc
Dàn ý tham khảo thuyết minh về cây lúa nước
Dàn ý 1 thuyết minh về cây lúa
I. Mở bài: Giới thiệu về cây lúa nước
II.Thân bài
1. Khái quát
Lúa là một cây trồng thuộc nhóm ngũ cốc và rất quan trọng đối với người dân Việt Nam
Là cây lương thực chủ yếu của người dân Việt Nam và các nước trên thế giới
2. Chi tiết về cây lúa
Cây lúa sống ở dưới nước
Thuộc loại cây một lá mầm
Là loài cây tự thụ phấn
Cấu tạo của cây lúa: 3 bộ phận
– Rễ:
Bộ rễ lúa thuộc loại rễ chùm. Những rễ non có màu trắng sữa, rễ trưởng thành có màu vàng nâu và nâu đậm, rễ đã già có màu đen.
Thời kỳ mạ: Rễ mạ dài 5-6 cm
Thời kỳ sau cấy: Bộ rễ tăng dần về số lượng và chiều dài ở thời kỳ đẻ nhánh, làm đòng
Thời kỳ trổ bông: Bộ rễ đạt giá trị tối đa vào thời kỳ này,chiều dài rễ đạt 2- 3 km/ cây
– Thân lúa: Thân lúa gồm lá lúa, bẹ lúa, lá thìa và tai lá
Bẹ lá: Là phần đáy lá kéo dài cuộn thành hình trụ và bao phần non của thân.
Phiến lá: Hẹp, phẳng và dài hơn bẹ lá (trừ lá thứ hai).
Lá thìa: Là vảy nhỏ và trắng hình tam giác.
Tai lá: Một cặp tai lá hình lưỡi liềm
– Chức năng của thân:
Chống đỡ cơ học cho toàn cây, dự trữ tạm thời các Hydratcacbon rước khi lúa trỗ bông. Lá làm nhiệm vụ quang hợp, chăm sóc hợp lí, đảm bảo cho bộ lá khoẻ, tuổi thọ lá lúa sẽ chắc hạt, năng suất cao.
Ngọn: Đây là nơi bông lúa sinh trưởng và trở thành hạt lúa. Lúa chín có màu vàng và người nông dân gặt về làm thực phẩm.
Cách trồng lúa:
Hạt lúa ủ thành cây mạ
Mạ lúa cấy xuống thành cây lúa
Chăm sóc tạo nên cây lúa trưởng thành và trổ bông
Lúa chín gặt về tạo thành hạt lúa
– Vai trò của lúa: Lúa cho hạt
– Trong cuộc sống thường ngày: Chế biến thành cơm và các loại thực phẩm khác
– Trong kinh tế: Buôn bán và xuất khẩu lúa gạo
– Thành tựu về lúa:
Ngày nay, Việt Nam đã lai tạo hơn 30 loại giống lúa khác nhau và được công nhận là giống lúa quốc gia.
Từ một nước nghèo đói, lạc hậu. Việt Nam nay là nước thứ 2 xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, chỉ đứng sau Thái Lan.
III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ và ý nghĩa của cây lúa
Dàn ý thuyết minh về cây lúa số 2
I) Mở bài:
Từ bao đời nay, cây lúa đã gắn bó và là một phần không thể thiếc của con người Việt Nam
Cây lúa đồng thời cũng trở thành tên gọi của một nền văn minh – nền văn minh lúa nước.
II) Thân bài:
Cây lúa là cây trồng quan trọng nhất thuộc nhóm ngũ cốc.
Là cây lương thực chính của người dân Việt Nam nói chung và của Châu Á nói riêng.
a. Đặc điểm, hình dạng, kích thước:
Lúa là cây có một lá mầm, rễ chùm.
Lá bao quanh thân, có phiến dài và mỏng.
Có 2 vụ lúa: Chiêm, mùa.
b. Cách trồng lúa: Phải trải qua nhiều giai đoạn:
Từ hạt thóc nảy mầm thành cây mạ.
Rồi nhổ cây mạ cấy xuống ruộng
Ruộng phải cày bừa, làm đất, bón phân.
Ruộng phải sâm sấp nước.
Khi lúa đẻ nhánh thành từng bụi phải làm có, bón phân, diệt sâu bọ.
Người nông dân cắt lúa về tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành hạt gạo…
c. Vai trò của cây lúa và hạt gạo:
Vấn đề chính của trồng cây lúa là cho hạt lúa, hạt gạo.
Có nhiều loại gạo: Gạo tẻ, gạo nếp (dùng làm bánh chưng, bánh dày)…
– Gạo nếp dùng làm bánh chưng, bánh dày hay đồ các loại xôi.
– Lúa nếp non dùng để làm cốm.
Lúa gạo làm được rất nhiều các loại bành như: Bánh đa, bánh đúc, bánh giò, bánh tẻ, bánh phở, cháo,…
Nếu không có cây lúa thì rất khó khăn trong việc tạo nên nền văn hóa ẩm thực độc đáo của Việt Nam.
Ngày nay, nước ta đã lai tạo được hơn 30 giống lúa được công nhận là giống lúa quốc gia.
Việt Nam từ một nước đói nghèo đã trở thành một nước đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan về sản xuất gạo.
Cây lúa đã đi vào thơ ca nhạc họa và đời sống tâm hồn của người Việt Nam
III) Kết bài:
Cây lúa vô cùng quan trọng đối với đời sống người Việt
Cây lúa không chỉ mang lại đời sống no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt.
Dàn ý số 3 thuyết minh về cây lúa
I. MỞ BÀI
Dẫn dắt, giới thiệu chung về đối tượng thuyết minh- cây lúa Việt Nam (cây lương thực chính quan trọng, một trong những biểu tượng của nền nông nghiệp nước ta,…).
II. THÂN BÀI
Giới thiệu khái quát về cây lúa Việt Nam:
Lúa nước là loại cây quen thuộc với người dân nước ta, có lịch sử trồng trọt và canh tác lâu đời.
Là thế mạnh của xuất khẩu lương thực Việt Nam trên thị trường thế giới.
Giới thiệu chi tiết về cây lúa:
Cây tự thụ phấn, rễ chùm, một lá mầm,…
Môi trường sống: ngập nước
Số vụ gieo trồng: thường là 2 vụ/năm.
Vai trò của cây lúa trong đời sống người Việt Nam:
Làm ra gạo tạo nguồn lương thực chính trong các bữa ăn.
Xay thành bột dùng làm nguyên liệu chính cho nhiều loại bánh.
Cho ra những phụ phẩm sau hạt gạo (cám, tấm, vỏ trấu,…) dùng trong chăn nuôi và các việc khác.
Tạo nguồn thu nhập cho người trồng lúa.
Trở thành chủ lực mang lại lợi nhuận xuất khẩu, danh tiếng và cơ hội tiến xa hơn cho nước ta trên thị trường lương thực thế giới.
III. KẾT BÀI
Nêu kết luận, nhận định chung về cây lúa Việt Nam (quan trọng, mang lại nguồn lợi to lớn,…).
Những bài văn mẫu thuyết minh về cây lúa nước hay
Gợi ý thêm cho các bạn bài văn mẫu 9 thuyết minh về cây lúa bằng phương pháp tự thuật, qua đó hiểu hơn về cách sử dụng những biện pháp nghệ thuật vào văn miêu tả.
Bài văn mẫu 1
Bài văn thuyết minh về cây lúa lớp 9
“Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn”
Từ xa xưa, cây lúa đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân Việt. Lúa không chỉ là nguồn thức dưỡng nuôi sống con người mà còn trở thành biểu tượng của làng quê yên bình, là nét văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam.
Nhiều nhà khoa học cho rằng quê hương của cây lúa nước là vùng Đông Nam Á. Ở Việt Nam, từ thời Hùng Vương, nhân dân ta đã biết cấy lúa. Nghề trồng lúa nước đã truyền từ đời này sang đời khác, là ngành nông nghiệp chính của đất nước ta.
Lúa nước là cây lương thực chính của Việt Nam cũng như nhiều nước châu Á khác, trong khi châu u lại là lúa mì. Lúa thuộc loài thân thảo, có nhiều lóng và mắt. Chiều cao của thân được tính từ gốc đến cổ bông còn chiều cao của cây được tính từ gốc đến bông cao nhất. Lá lúa dài trông như lưỡi kiếm, khi lúa chín ngả sang vàng. Gân lá chạy song song với phiến lá, phiến lá mỏng và có nhiều lông ráp. Rễ lúa là rễ chùm, bám sâu xuống lòng đất để giữ cho cây khỏi đổ và hút dưỡng chất nuôi cây. Hoa lúa cũng chính là hạt lúa sau này. Lúa là loại cây tự thụ phấn, sau thụ tinh phôi nhũ phát triển thành hạt, chất tinh bột từ dạng lỏng qua một thời gian từ 2-3 tháng thành dàn đặc.
Ở miền Bắc thường có hai vụ lúa chính là vụ chiêm và vụ mùa, còn ở miền Nam một năm có 3 vụ lúa. Trồng lúa có nhiều công đoạn. Đầu tiên, người nông dân phải ngâm cho hạt lúa nảy mầm, nhà nông có câu “tốt giống tốt má, tốt mạ tốt lúa”, hạt giống có tốt thì cây lúa sau này mới có năng suất cao. Tiếp theo là công đoạn gieo mạ. Những cây mạ non ban đầu yếu ớt hấp thụ những gì tinh túy nhất của đất trời dần trở nên cứng cáp và xanh tươi mơn mởn. Lúa lúc xanh còn được gọi là lúa đương thì con gái. Đây là giai đoạn người nông dân phải chăm sóc tốt cho lúa: bón phân, làm cỏ, diệt côn trùng gây hại. Rồi lúa đẻ nhánh, lúa làm đòng, hương lúa thoang thoảng khắp cả cánh đồng. Lúa chín, bông lúa vàng trĩu hạt làm cả cây oằn xuống. Giờ đã đến giai đoạn thu hoạch lúa, các bác nông dân gặt lúa, tuốt hạt, phơi cho khô và bảo quản lúa ở nơi khô ráo, thoáng mát.
Lúa có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của chúng ta. Không chỉ cung cấp một lượng tinh bột lớn duy trì năng lượng cho con người, từ hạt gạo, người ta có thể chế biến ra vô vàn món ăn. Bánh chưng, bánh dày được Lang Liêu làm ra từ gạo nếp để dâng vua Hùng là hai loại bánh truyền thống trong ngày tết. Bánh dày tượng trưng cho trời còn bánh trưng tượng trưng cho đất. Lúa nếp non được rang thành cốm- là một thức quà quen thuộc của người Hà Nội mỗi khi mùa thu tới. Gạo nếp còn được nấu thành xôi- là món đồ không thể thiếu trong mâm cơm của người Việt vào ngày giỗ tổ tiên hay lễ, tết. Ngoài ra, chúng ta còn có biết bao loại bánh khác nhau được làm từ gạo: bánh cuốn, bánh đa, bánh nếp, bánh tẻ, bánh đúc…. Thân lúa sau khi thu hoạch được phơi khô có thể làm chất đốt hoặc thức ăn cho trâu, bò… Vỏ lúa được dùng làm trấu. Cám là một sản phẩm sau khi người ta xát gạo, dùng làm thức ăn cho gia súc, gia cầm.
Lúa có hai loại chính là lúa nếp và lúa tẻ. Ngày nay, nhờ sự phát triển của khoa học- kĩ thuật, người ta đã tạo ra nhiều loại lúa cho chất lượng và năng suất cao hơn. Đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long là hai vựa lúa lớn nhất nước ta. Việt Nam từ một đất nước đói nghèo đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới. Những cánh đồng lúa rộng bát ngát thẳng cánh cò bay là biểu tượng cho sự bình yên của làng quê, tô điểm cho vẻ đẹp của quê hương đất nước.
Ngày nay, nhiều tòa cao ốc mọc lên thay thế đồng ruộng nhưng cây lúa vẫn chiếm một vị trí quan trọng không thể thay thế trong đời sống của người dân Việt Nam. Cây lúa sẽ mãi là người bạn thân thiết của người nông dân, là nét đẹp bình dị của quê hương yêu dấu
Bài văn mẫu 2
Văn mẫu 9 thuyết minh về cây lúa
Việt Nam là đất nước có nền văn minh lúa nước từ bao đời nay. Nghề trồng lúa được xem là nghề chính và là niềm tự hào của cha ông ta, là thước đo giá trị tinh thần và kinh tế của Việt Nam. Cho đến bây giờ mặc dù công nghiệp hóa hiện đại hóa song nghề trồng lúa vẫn được coi trọng và đầu tư. Cây lúa nước cũng vì thế mà đi vào đời sống của mỗi con người như một lẽ sống, có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Ở Việt Nam nghề trồng lúa nước có từ rất lâu, kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mỗi thời kỳ lại có những bước tiến và phát minh mới để nâng cao năng suất của cây lúa nước.
Cây lúa nước là cây lương thực chủ đạo của Việt Nam, mặc dù bên cạnh nó còn có các loại cây khác như ngô, khoai, sắn…nhưng không loại cây nào có thể thay thế được vị trí, vai trò quan trọng của lúa nước. Lúa chính là thành quả của một quá trình lao động sản xuất nhiều công đoạn, trải qua nhiều nắng mưa, nhiều mồ hôi và lo toan của người nông dân. Bởi thế người ta vẫn bảo nhau rằng:
Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
“Cuộc đời” của cây lúa nước cũng như sự phát triển của một đời người, đều có quá trình, có những vất vả và gian nan. Lúa được hình thành nên bởi bàn tay vất vả, khéo léo, hai sương một nắng của người nông dân. KHông phải cứ gieo xuống bùn, cấy xuống bùn là chờ đến ngày trổ bông. Mỗi giai đoạn phát triển của cây lúa nước không chỉ phụ thuộc vào người nông dân mà còn bị chi phối bởi thời tiết.
Từ một hạt lúa sẽ tạo nên thành nhiều hạt lúa chắc mẩm chính là quá trình sinh sôi và phát triển của cây lúa nước. Người nông dân sẽ lựa chọn những hạt lúa tròn và chắc để làm giống, ủ vào nơi kín gió với nhiệt độ phù hợp, tránh sự xâm nhập của sâu bọ, chuột gián. Ủ trong một thời gian vài ngày thì hạt thóc giống sẽ có độ ấm và bắt đầu nhú lên những mầm trắng nhỏ xinh. Những mầm trắng ấy rất yếu ớt nên người nông dân khéo léo không làm gãy chúng, bởi đó chính là cây mạ non sau này khi cấy xuống bùn. Ngay từ công đoạn đầu đã bắt buộc kinh nghiệm, sự khéo léo và tỉ mỉ của bàn tay người nông dân đê tạo ra những cây mạ cứng cáp.
Họ sẽ dùng những hạt tròn nảy mầm đó gieo xuống luống đất sền sệt, vừa đủ nước ở ngoài cánh đồng. Chờ đến một thời đủ dài để hạt giống đó tạo thành những cây mạ non nằm sát vào nhau, màu xanh rất mượt mà. Lúc ấy cả cánh đồng đều bị sắc xanh của đám mạ non bao phủ lấy, tạo nên sự yên bình và êm ả giữa chốn quê nhà.
Khi cây mạ non đã đến thì có thể cấy được thì người nông dân lại thêm một công đoạn tiếp theo. Ruộng đồng được cày bừa và lấy nước đủ đầy thì họ bắt đầu mang đám mạ non đó cấy xuống bùn. Bàn tay khéo léo, thoăn thoắt của các mẹ, các chị đã tạo nên những hàng lúa thẳng tắp, nhìn rất đẹp mắt.
Vậy là đã hoàn thành công đoạn cấy lúa, tiếp sau đó đến giai đoạn chăm sóc lúa theo từng thời kỳ thích hợp nhất. Sau khi cấy thì người nông dân đã phun thuốc để phòng trừ sâu bệnh gây hại, vì đây là thời kỳ lúa còn non, rất dễ bị sâu bệnh xâm nhập. Người nông dân đã trải qua bao nhiêu nắng mưa, nhiều đêm lo âu nghĩ mọi cách tìm ra cách phòng chống sâu bệnh hiệu quả nhất và tiết kiệm nhất. Trồng được một hạt lúa là cả một nỗi dài nhọc nhằn, lo toan. Để chúng ta ta giờ ăn một bát cơm cần phải nâng niu và trân trọng.
Trải qua một quá trình chăm sóc, vun trồng, tưới tiêu và thời tiết ưu ái thì người nông dân sẽ có một vụ mùa thắng lợi, gánh về sân những hạt thóc tròn vàng ươm.
Lúa ở Việt Nam có hai loại chủ yếu là lúa nếp và lúa tẻ. Lúa tẻ là loại lúa hạt dài mà người dân vẫn thường dùng trong các bữa cơm, còn lúa nếp là loại lúa mình tròn nẩy người ta thường dùng để làm xôi, làm bánh. Mỗi loại lúa đều có vai trò và chức năng riêng của nó.
Lúa nước Việt Nam có vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của mỗi gia đình, là “gia vị” không thể thiếu trong mỗi bữa cơm người Việt. Mỗi khi chúng ta ăn hạt cơm trắng tròn, dẻo thơm vẫn không quên được công lao, gian nan của những người nông dân đã làm ra chúng. Trong những bữa tiệc quan trọng thì gạo vẫn chiếm vai trò quan trọng không thể thiếu. Đặc biệt với sự tích Bánh chưng bánh giầy từ thời Hùng Vương đã đề cao vai trò của cây lúa đối với đời sống chúng ta.
Cho đến nay, Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn trên thị trường thế giới. Đây là điều khiến cho chúng ta và hơn hết là người nông dân tự hào vì công sức mà mình bỏ ra được đền đáp. Việt Nam phát triển lên từ ngành trồng lúa nước, và nó mãi mãi là nghề truyền thống không thể thay thế.
Bài văn mẫu 3
Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam lớp 9
“Việt Nam đất nước quê hương tôi Mía ngọt chè xanh qua những nương đồi Đồng xanh lúa rập rờn biển cả”
Từ bao đời nay, cây lúa đã gắn bó tha thiết với đất nước và con người Việt Nam. Hình ảnh của cây lúa cùng với hình ảnh người nông dân đã trở thành những mảnh ghép không thể thiếu trong bức tranh về làng quê Việt Nam thanh bình xưa và nay.
Lúa là một loài thực vật quý giá, có nguồn gốc từ giống lúa dại và bắt đầu xuất hiện ở Đông Nam Châu Á. Cây lúa trồng ngày nay có thể được thuần hóa từ nhiều nơi khác nhau thuộc Châu Á, trong đó phải kể đến Myanma, Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ. Có nhiều loại lúa: lúa tẻ, lúa nếp, lúa tám thơm, tạp giao, quy năm… Mỗi loại có hình dáng, hương vị khác nhau. Lúa là cây trồng quan trọng nhất trong nhóm các loài cây ngũ cốc. Đây là cây lương thực chính của người Việt Nam nói riêng và người dân Châu Á nói chung.
Hình dáng cây lúa rất quen thuộc với người dân Việt Nam. Lúa thuộc loài cây thân thảo. Thân cây lúa thường mọc thẳng, được nối với nhau bằng nhiều đốt rộng 2-3cm, cao khoảng 60-80 cm. Bên trong thân cây rỗng và mền, dùng tay cũng có thể bóp nát một cách dễ dàng. Lá lúa có phiến dài và mỏng, sắc, mọc bao quanh thân, mặt lá nhám sờ vào có cảm giác ram ráp, gân lá chạy song song hai bên. Ở các giai đoạn khác nhau, lá lúa lại mang một màu sắc riêng biệt. Khi chỉ là những cây mạ non, lá màu xanh non mơn mởn. Lúa sáng thì con gái, lá chuyển màu xanh thẫm. Lúa chín, lá lại nhanh chóng chuyển màu vàng. Rễ của cây lúa thường mọc thành chùm, bám chặt vào bùn để giữ cho thân lúa thẳng đồng thời hút dưỡng chất nuôi cây. Hạt lúa có hai phần là vỏ và ruột. Vỏ trấu thô ráp bao bọc lấy hạt sữa ngọt ngào, trắng tinh. Hấp thụ đủ tinh hoa của đất trời, dưới đôi bàn tay của bác nông dân, những giọt sữa ấy đông đặc lại thành hạt gạo trắng ngần.
Ở Việt Nam có hai vụ lúa chính là vụ chiêm và vụ mùa. Vụ chiêm thu hoạch vào độ tháng 5 – 6, vụ mùa vào độ tháng 8 -9 (âm lịch). Tuy nhiên nhờ khoa học phát triển, ngày nay ở nhiều nơi cũng có những vụ mùa nối tiếp nhau. Để có một mùa lúa bội thu phải trải qua nhiều giai đoạn. Đầu tiên người nông dân cần chọn giống tốt, phù hợp với đất canh tác và khí hậu trong năm. Giống lúa chọn xong được ngâm nước đến khi nảy mầm, người ta lại cất công làm bùn để gieo những hạt giống đó, chăm sóc, che nắng chắn mưa chờ đến ngày mầm xanh nhú lên, những cây mạ non xanh mơn mởn. Sau đó, cày bừa, làm đất, bón phân rồi đem cây mạ cấy xuống ruộng. Ngày ngày làm cỏ, bón phân, diệt sâu bọ từ khi lúa còn non đến khi trổ đòng, chín. Người nông dân cắt lúa chín về tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành hạt gạo… Từ những hạt thóc vàng ươm đến những hạt gạo trắng, những bát cơm dẻo thơm, người nông dân phải trải qua bao khó khăn, vất vả mới có thể làm ra. Vậy nên hãy nhớ:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần…”
Cây lúa có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của con người. Bát cơm ngày ngày ta ăn, bát cơm không bao giờ vắng mặt trong mâm cơm mỗi gia đình chính là sản phẩm từ cây lúa. Hạt gạo cung cấp chất dinh dưỡng thiết yếu vô cùng cần thiết cho sự sống của con người. Gạo nếp dùng gói bánh chưng, làm cốm. Những tấm bánh chưng được gói trong lá dong xanh trở thành nét đẹp văn hóa ẩm thực truyền thống của dân tộc Việt Nam. Gạo nếp non được gói gọn trong lá sen thơm ngát đã trở thành một món quà thanh lịch của người Hà Nội. Bánh chưng, bánh giầy, bánh trôi, bánh giò…rất nhiều loại bánh đã thu hút bạn bè năm châu tìm đến đất Việt. Gạo nếp còn dùng để đồ các loại xôi – món đồ lễ không thể thiếu trên bàn thờ của người Việt Nam trong ngày Tết và những ngày lễ quan trọng. Ngày nay còn có cả kem xôi – loại kem được các bạn trẻ yêu thích. Đặc biệt, cây lúa còn là biểu tượng cho dân tộc Việt – quốc gia có nền văn minh lúa nước lâu đời. Cây lúa đi vào trong thi ca, hội họa vẽ lên hình ảnh về đất và người Việt vô cùng đẹp đẽ.
Thời gian trôi qua, cây lúa dần trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người Việt Nam. Không chỉ có giá trị vật chất quan trọng, cây lúa còn lưu giữ giá trị tinh thần quý giá của dân tộc. Để rồi dù có xa quê hương Việt Nam, người ta vẫn luôn tự hào:
Top 6 Bài Soạn “Sử Dụng Một Số Biện Pháp Nghệ Thuật Trong Văn Bản Thuyết Minh” Lớp 9 Hay Nhất 2022
Nội Dung Chính Của Bài Viết
I. Tìm hiểu việc sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh. 1. Ôn tập văn bản thuyết minh.
– Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản thường gặp trong mọi lĩnh vực đời sống, có chức năng cung cấp tri thức về đặc điểm, tính chất, nguyên nhân,… của các hiện tượng, sự vật trong tự nhiên, xã hội bằng cách trình bày, giới thiệu, giải thích.
– Các phương pháp thuyết minh thường dùng: phương pháp định nghĩa, phân loại, nêu ví dụ, liệt kê, nêu số liệu, so sánh…
2. Viết văn bản thuyết minh có sử dụng một số biện pháp nghệ thuật.
– Đối tượng thuyết minh: Đá và nước tạo nên sự kì lạ vô tận của vịnh Hạ Long.
– Văn bản cung cấp cho người đọc những hiểu biết về vẻ đẹp của một di sản văn hóa thế giới.
– Phương pháp thuyết minh chủ yếu: nêu định nghĩa, giải thích, liệt kê.
– Biện pháp nghệ thuật được vận dụng: ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, liên tưởng.
II. Luyện tập Trả lời câu 1 (trang 13 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
a.
– Tính chất thuyết minh thể hiện ở chỗ giới thiệu loài ruồi rất có hệ thống: những tính chất chung về họ, giống, loài, về các tập tính sinh sống, sinh đẻ, đặc điểm cơ thể, cung cấp các kiến thức chung đáng tin cậy về loài ruồi, thức tỉnh ý thức giữ gìn vệ sinh, phòng bệnh, ý thức diệt ruồi.
– Các phương pháp thuyết minh được sử dụng là:
+ Định nghĩa.
+ Phân loại.
+ Số liệu.
+ Liệt kê.
b.
– Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng là:
+ Nhân hóa
+ Có tình tiết.
c. Các biện pháp nghệ thuật có tác dụng gây hứng thú cho bạn đọc nhỏ tuổi: vừa vui, vừa có thêm tri thức.
Trả lời câu 2 (trang 14 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Các biện pháp nghệ thuật được sứ dụng là: đoạn văn thuyết minh chim cú gắn với hồi ức tuổi thơ, với nhận thức mê tín từ thuở bé. Tri thức khoa học đã đẩy lùi sự ngộ nhận ngây thơ ấy.
Câu 1 (trang 12 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
– Văn bản thuyết minh cung cấp tri thức khách quan về sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội. Có tính xác thực, khoa học, ngôn ngữ chính xác, cô đọng, chặt chẽ, sinh động.
– Các phương pháp thuyết minh thường dùng :
+ Phương pháp nêu định nghĩa, giải thích.
+ Phương pháp liệt kê.
+ Phương pháp nêu ví dụ.
+ Phương pháp dùng số liệu.
+ Phương pháp so sánh.
+ Phương pháp phân loại, phân tích.
Câu 2 (trang 12 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Văn bản “Hạ Long – đá và nước” :
– Đối tượng thuyết minh : Đá và nước tạo nên cái đẹp lì lạ của Hạ Long.
– Văn bản cung cấp tri thức khách quan, khoa học, chính xác.
– Phương pháp thuyết minh chủ yếu : nêu định nghĩa, giải thích, liệt kê.
– Biện pháp nghệ thuật được vận dụng : tưởng tượng, nhân hóa. Tưởng tượng các cuộc dạo chơi, khơi gợi những cảm giác có thể có, phép nhân hóa tả các đảo.
Luyện tập Câu 1 (trang 13 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
a. – Văn bản có tính chất thuyết minh, thể hiện qua lời cáo trạng và lời bào chữa để nêu lên đặc điểm của ruồi xanh (họ, giống loài, tập tính sinh sống, sinh đẻ, cấu tạo,…)
– Phương pháp thuyết minh sử dụng : nêu định nghĩa (thuộc họ côn trùng,…), phân loại các loại ruồi, nêu số liệu (số vi khuẩn,…), liệt kê (mắt lưới,…).
b. Nét đặc biệt của văn bản : thuyết minh về loài ruồi dưới hình thức tự sự, kể lại một phiên tòa xử tội ; có sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, miêu tả, ẩn dụ.
c. Các biện pháp nghệ thuật làm nổi bật nội dung thuyết minh và gây hứng thú cho người đọc, cả các bạn đọc nhỏ tuổi.
Câu 2 (trang 14 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
– Nghệ thuật kể chuyện được sử dụng. Lấy việc ngộ nhận hồi nhỏ làm đầu mối câu chuyện, từ đó nói về tập tính của chim cú dưới hình thức câu chuyện bà kể.
– Phương pháp thuyết minh: giải thích.
I. Tìm hiểu việc sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh
Câu 1 trang 12 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Ôn tập văn bản thuyết minh
Văn bản thuyết minh có những tính chất gì? Nó được viết ra nhằm mục đích gì? Cho biết các phương pháp thuyết minh thường dùng.
Trả lời:
– Văn bản thuyết minh là văn bản thông dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống nhằm cung cấp tri thức khách quan về đặc điểm, tính chất, nguyên nhân của các hiện tượng và sự vật trong tự nhiên, xã hội bằng phương thức trình bày, giới thiệu, giải thích.– Mục đích của văn bản thuyết minh là cung cấp tri thức khách quan về sự vật, hiện tượng, vấn đề được chọn làm đối tượng để thuyết minh.– Các phương thức thuyết minh thường dùng là: Định nghĩa, nêu ví dụ, liệt kê, dùng số liệu, phân loại, so sánh.
Câu 2 trang 12 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Viết văn bản thuyết minh có sử dụng một số biện pháp nghệ thuật
Đọc văn bản “Hạ Long đá và nước SGK trang 12 Ngữ văn 9 tập 1” và cho biết: Văn bản này thuyết minh đặc điểm của đối tượng nào? Văn bản có cung cấp được tri thức khách quan về đối tượng không? Văn bản đã vận dụng phương pháp thuyết minh nào là chủ yếu? Đồng thời, để cho sinh động, tác giả còn vận dụng biện pháp nghệ thuật nào?Trả lời:
– Văn bản thuyết minh về “Sự kì lạ của Hạ Long”– Văn bản đã cung cấp được những tri thức khách quan về đối tượng– Văn bản sử dụng phương pháp thuyết minh giải thích là chủ yếu– Văn bản vận dụng phương pháp miêu tả, so sánh, liệt kê, nêu triết líGhi nhớ:
– Muốn cho văn bản thuyết minh được sinh động, hấp dẫn, người ta vận dụng thêm một số biện pháp nghệ thuật như kể chuyện, tự thuật, đối thoại theo lối ẩn dụ, nhân hoá hoặc các hình thức vè, diễn ca…
– Các biện pháp nghệ thuật cần được sử dụng thích hợp, góp phần làm nổi bât đặc điểm của đối tượng thuyết minh và gây hứng thú cho người đọc.
II. Luyện tập:
Câu 1 trang 13, 14 SGK Ngữ văn 9 tập 1. Đọc văn bản “Ngọc Hoàng xử tội ruồi xanh” trang 14 SGK Ngữ văn 9 tập 1 và trả lời câu hỏi:a) Văn bản có tính chất thuyết minh không? Tính chất ấy thể hiện ở những điểm nào? Những phương pháp thuyết minh nào đã được sử dụng?b) Văn bản thuyết minh này có nét gì đặc biệt? Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào? c) Các biện pháp nghệ thuật ở đây có tác dụng gây hứng thú và làm nổi bật nội dung cần thuyết minh hay không?Trả lời:
a, – Văn bản trên có tính chất thuyết minh – Tính chất ấy được thể hiện + Nêu ra các chủng loại: Ruồi xanh, ruồi trâu, ruồi vàng, ruồi giấm + Nêu ra nơi ở: Bất kì chỗ nào có thức ăn đều lấy làm nơi sinh sống + Thời kì sinh nở và tác hại của ruồi: “Bên ngoài mang 6 triệu vi khuẩn… môi trường sinh thái” + Đặc điển tiêu biểu: “măt ruồi như mắt lưới… không trượt chân” – Biện pháp thuyết minh, giải thích, nêu số liệu, so sánh được sử dụngb, – Văn bản thuyết minh này đặc biệt ở chỗ + Về hình thức: Giống như văn bản tường thuật một phiên tòa + Về cấu trúc: Giống cuộc tranh luận về mặt pháp lí + Về nội dung: Giống câu chuyện kể về loài ruồi – Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật: kể chuyện, miêu tả, ẩn dục, Các biện pháp nghệ thuật có tác dụng gây hứng thú và làm nổi bật nội dung cần thuyết minh
Câu 2 trang 15 SGK Ngữ văn 9 tập 1:
Đọc đoạn văn sau và nêu nhận xét về biện pháp nghệ thuật được sử dụng để thuyết minh: Bà tôi thường kể cho tôi nghe rằng chim cú kêu là có ma tới. Tôi hỏi vì sao thì bà giải thích: “Thế cháu không nghe tiếng cú kêu thường vọng từ bãi tha ma đến hay sao?”. Sau này học môn Sinh học tôi mới biết là không phải như vậy. Chim cú là loài chim ăn thịt, thường ăn thịt lũ chuột đồng, kẻ phá hoại mùa màng. Chim cú là giống vật có lợi, là bạn của nhà nông. Sở dĩ chim cú thường lui tới bãi tha ma là vì ở đó có lũ chuột đồng đào hang. Bây giờ mỗi lần nghe tiếng chim cú, tôi chẳng những không sợ mà còn vui vì biết rằng người bạn của nhà nông đang hoạt động. Trả lời: Biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn văn này là nghệ thuật kể chuyện kết hợp với giải thích: Kể câu chuyện ngày bé nghe bà kể chuyện về chim cú (chim cú kêu là có ma tới). Sau này học môn sinh vật mới biết là không phải như vậy.
– Đặc điểm, tính chất của văn bản thuyết minh;
– Mục đích của văn bản thuyết minh (chú ý phân biệt với mục đích của các phương thức biểu đạt khác như tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận);
– Những phương pháp thuyết minh thường dùng.
Gợi ý :
– Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản thường gặp trong mọi lĩnh vực đời sống, có chức năng cung cấp tri thức về đặc điểm, tính chất, nguyên nhân,… của các hiện tượng, sự vật trong tự nhiên, xã hội bằng cách trình bày, giới thiệu, giải thích.
Văn bản thuyết minh không giống với các văn bản thuộc loại tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận vì kiểu văn bản này không nhằm kể chuyện, tái hiện, biểu lộ tình cảm hay nghị luận mà nhằm cung cấp tri thức về các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội một cách khách quan, chân thực, có ích cho con người.
– Để việc giao tiếp gắn với mục đích của ngôn ngữ đặc trưng, văn bản thuyết minh phải đảm bảo tính khoa học, chính xác, rõ ràng, chặt chẽ và hấp dẫn.
b) Đọc văn bản thuyết minh Hạ Long – Đá và Nước (SGK Ngữ văn 9, tập một, tr.12 -13) và trả lời câu hỏi:
– Đối tượng thuyết minh của văn bản là gì ?
– Mục đích của văn bản thuyết minh là cung cấp tri thức khách quan về đối tượng, văn bản có thể hiện điều này không ?
Gợi ý :
– Chủ đề của văn bản : sự kì lạ vô tận của vịnh Hạ Long.
– Văn bản cung cấp cho người đọc những hiểu biết về vẻ đẹp của một di sản văn hoá thế giới. Để khám phá ra vẻ kì lạ vô tận của Hạ Long, người ta phải có được sự tinh tế, lịch lãm trong cảm nhận, thưởng thức. Bằng sự tinh tế, lịch lãm ấy, Nguyên Ngọc đã đem đến cho chúng ta những tri thức về sự kì lạ của Hạ Long.
c) Nhận xét về phương pháp thuyết minh của văn bản Hạ Long – Đá và Nước. Ngôn ngữ, cách diễn đạt của văn bản này có gì khác so với các văn bản thuyết minh em đã được đọc ?
Gợi ý : Tuỳ từng đốì tượng mà người ta lựa chọn cách thuyết minh cho phù hợp, nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp cao nhất. Văn bản Hạ Long – Đá và Nước thuyết minh về sự kì lạ vô tận của vịnh Hạ Long. Để thuyết minh vẻ đẹp sinh động, kì thú, biến ảo của Hạ Long, người viết không thể chỉ sử dụng các biện pháp thuyết minh thông dụng. Cái “vô tận, có tri giác, có tâm hồn” của Hạ Long không dễ thấy được chỉ qua cách đo đếm, liệt kê, định nghĩa, giải thích, nêu số liệu,… mà phải kết hợp với trí tưởng tượng, liên tưởng.
Tìm các hình ảnh ẩn dụ, so sánh, nhân hoá, liên tưởng trong bài văn.
Gợi ý : Văn bản trên có phải là văn bản thuyết minh không ? Nó cung cấp cho chúng ta những kiến thức gì ?
2. Người viết đã sử dụng những phương pháp thuyết minh nào trong văn bản Ngọc Hoàng xử tội ruồi xanh ?
Gợi ý : Văn bản thuyết minh trên đã sử dụng các biện pháp định nghĩa, phân loại, phân tích, liệt kê, nêu số liệu,… như thế nào ?
3. Trong văn bản trên, người viết có sử dụng các biện pháp nghệ thuật không ? Đó là những biện pháp nào ? Hãy phân tích tác dụng thuyết minh của các biện pháp ấy.
Gợi ý :
– Mượn hình thức kể chuyện để thuyết minh ; sử dụng triệt để biện pháp nhân hoá ;
– Việc mượn hình thức kể chuyện để thuyết minh có tác dụng gì ? Người viết đã sử dụng biện pháp nhân hoá để làm gì ? Hình thức kể chuyện và biện pháp nhân hoá tạo ra sức hấp dẫn cho văn bản thuyết minh như thế nào ?
4. Đọc lại văn bản Phong cách Hồ Chí Minh và nhận xét về việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong thuyết minh.
Gợi ý : Tìm các yếu tố miêu tả, so sánh,… trong văn bản này và cho biết chúng có tác dụng như thế nào trong việc khắc hoạ phong cách kết hợp hài hoà giữa truyền thống văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại, giữa vĩ đại và giản dị ở Hồ Chí Minh ?
I. Tìm hiểu việc sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh. 1. Ôn tập văn bản thuyết minh.
– Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản thường gặp trong mọi lĩnh vực đời sống, có chức năng cung cấp tri thức về đặc điểm, tính chất, nguyên nhân,… của các hiện tượng, sự vật trong tự nhiên, xã hội bằng cách trình bày, giới thiệu, giải thích.
– Văn bản thuyết minh không giống với các văn bản thuộc loại tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận vì kiểu văn bản này không nhằm kể chuyện, tái hiện, biểu lộ tình cảm hay nghị luận mà nhằm cung cấp tri thức về các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội một cách khách quan, chân thực, có ích cho con người.
– Các phương pháp thuyết minh thường dùng: phương pháp định nghĩa, phân loại, nêu ví dụ, liệt kê, nêu số liệu, so sánh,..
2. Viết văn bản thuyết minh có sử dụng một số biện pháp nghệ thuật.
– Đối tượng thuyết minh: Đá và nước tạo nên sự kì lạ vô tận của vịnh Hạ Long.
– Văn bản cung cấp cho người đọc những hiểu biết về vẻ đẹp của một di sản văn hóa thé giới. Bằng sự tinh tế, nhạy cảm của mình, Nguyên Ngọc đã đem đến cho người đọc những tri thức về sự kì lạ của Hạ Long.
– Phương pháp thuyết minh chủ yếu: nêu định nghĩa, giải thích, liệt kê.
– Biện pháp nghệ thuật được vận dụng: ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, liên tưởng: “… con thuyền của ta mỏng như lá tre tự nó bập bềnh lên xuống theo con triều”, “Và cái thập loại chúng sinh Đá chen chúc khắp vịnh Hạ Long kia, già đi, trẻ lại, trang nghiêm hơn hay bồng nhiên nhí nhanh, tinh nghịch hơn, buồn hơn hay vui hơn…”, “…tất cả bọn người đá ấy lại hối hả trở về vị trí của họ”…
II. Luyện tập Câu 1
a.
– Tính chất thuyết minh thể hiện ở chỗ giới thiệu loài ruồi rất có hệ thống: những tính chất chung về họ, giống, loài, về các tập tính sinh sống, sinh đẻ, đặc điểm cơ thể, cung cấp các kiến thức chung đáng tin cậy về loài ruồi, thức tỉnh ý thức giữ gìn vệ sinh, phòng bệnh, ý thức diệt ruồi.
– Các phương pháp thuyết minh được sử dụng là:
+ Định nghĩa: thuộc họ côn trùng hai cánh, mắt lưới…
+ Phân loại: các loại ruồi.
+ Số liệu: số vi khuẩn, số lượng sinh sản của một cặp ruồi.
+ Liệt kê: mắt lưới, chân tiết ra chất dính…
b.
– Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng là:
+ Nhân hóa
+ Có tình tiết.
c. Các biện pháp nghệ thuật có tác dụng gây hứng thú cho bạn đọc nhỏ tuổi: vừa vui, vừa có thêm tri thức.
Câu 2
Đoạn văn này nhằm nói về tập tính của chim cú dưới dạng một ngộ nhận (định kiến) thời thơ ấu, sau lớn lên đi học mới có dịp nhận thức lại sự nhầm lẫn cũ. Biện pháp nghệ thuật ở đây chính là lấy ngộ nhận hồi nhỏ làm đầu mối câu chuyện.
A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
Muốn cho văn bản thuyết minh được sinh động, hấp dẫn, người ta vận dụng thêm một số biện pháp nghệ thuật như kể chuyện, tự thuật, đối thoại theo lối ẩn dụ, nhân hóa hoặc các hình thức vè, diễn ca…Các biện pháp nghệ thuật cần được sử dụng thích hợp, góp phần làm nổi bật đặc điểm của đối tượng thuyết minh và gây hứng thú cho người đọc.Các phương pháp thuyết minh thường dùng:Phương pháp nêu định nghĩa, giải thích.Phương pháp liệt kê.Phương pháp nêu ví dụ.Phương pháp dùng số liệu.Phương pháp so sánh.Phương pháp phân loại, phân tích.
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1 (Trang 14 – SGK) Đọc văn bản Ngọc Hoàng xử tội ruồi xanh và trả lời các câu hỏi:a. Văn bản có tính chất thuyết minh không? Tính chất ấy thể hiện ở những điểm nào? Những phương pháp thuyết minh nào đã được sử dụng?b. Văn bản thuyết minh này có nét gì đặc biệt? Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào? c. Các biện pháp nghệ thuật ở đây có tác dụng gây hứng thú và làm nổi bật nội dung cần thuyết minh hay không?
Bạn đang đọc nội dung bài viết Thuyết Minh Về Cây Lúa Nước Có Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Hay Nhất Lớp 9 trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!