Đề Xuất 5/2023 # Thực Trạng Về Thực Hiện Dân Chủ Cơ Sở Ở Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Và Đơn Vị Sự Nghiệp Công Lập Của Nước Ta Hiện Nay (Qua Số Liệu Điều Tra Xã Hội Học) # Top 6 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 5/2023 # Thực Trạng Về Thực Hiện Dân Chủ Cơ Sở Ở Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Và Đơn Vị Sự Nghiệp Công Lập Của Nước Ta Hiện Nay (Qua Số Liệu Điều Tra Xã Hội Học) # Top 6 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Thực Trạng Về Thực Hiện Dân Chủ Cơ Sở Ở Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Và Đơn Vị Sự Nghiệp Công Lập Của Nước Ta Hiện Nay (Qua Số Liệu Điều Tra Xã Hội Học) mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

– Phát huy quyền làm chủ của CB,CC,VC và nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị;

– Góp phần xây dựng đội ngũ CB,CC,VC  là công bộc của nhân dân, có đủ phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển và đổi mới của đất nước;

– Phòng ngừa, ngăn chặn và chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu nhân dân.

Hiệu quả thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan, đơn vị được đánh giá thông qua các tiêu chí cụ thể sau:

– Nhận thức, năng lực thực hành dân chủ của đội ngũ CB,CC,VC. Muốn thực hiện dân chủ trong cơ quan, đơn vị, trước hết người công chức, viên chức phải nắm bắt và hiểu biết về dân chủ cơ sở, bao gồm những việc công khai để cán bộ, công chức, viên chức được biết; những việc cán bộ, công chức, viên chức tham gia ý kiến và những việc CB,CC,VC được giám sát, kiểm tra. Điều này đóng vai trò quyết định trong việc tổ chức thực hiện dân chủ cũng như kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện dân chủ.

– Kết quả phát huy quyền làm chủ của CB,CC,VC. Đánh giá hiệu quả thực hiện dân chủ ở cơ quan, đơn vị còn được thể hiện qua kết quả thực hiện quyền làm chủ của CB,CC,VC, thể hiện qua việc CB,CC được trình bày ý kiến, đề xuất việc giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của mình khác với ý kiến của người phụ trách trực tiếp trong khi thi hành công vụ, nhưng vẫn phải chấp hành sự chỉ đạo và hướng dẫn của người phụ trách trực tiếp, đồng thời có quyền bảo lưu ý kiến và báo cáo lên cấp có thẩm quyền. Hoặc đối với viên chức, họ được quyền từ chối thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ trái với quy định của pháp luật, được quyết định vấn đề mang tính chuyên môn gắn với công việc hoặc nhiệm vụ được giao. Người CB,CC,VC được thẳng thắn đóng góp ý kiến để xây dựng nội bộ cơ quan, đơn vị trong sạch, vững mạnh. 

– Kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, thể hiện qua năng suất, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển và đổi mới của đất nước. Kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ hàng năm của các cơ quan, đơn vị sẽ phản ánh được sự chủ động trong xây dựng và thực hiện kế hoạch công tác; sắp xếp tổ chức bộ máy, bố trí sử dụng biên chế hợp lý, tiết kiệm, nâng cao chất lượng, hiệu suất lao động, hiệu quả trong sử dụng kinh phí, thực hành tiết kiệm, tăng thu nhập cho CB,CC,VC. Kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị cũng thể hiện chất lượng của việc ban hành quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế quản lý và sử dụng tài sản công; việc thực hiện quản lý thu, chi tài chính tại đơn vị; việc tiết kiệm chi thường xuyên theo định mức biên chế và chi bổ sung thu nhập cho CB,CC,VC và người lao động… Nếu quyền dân chủ của CB,CC,VC được đảm bảo và không ngừng phát huy thì kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị sẽ không ngừng được củng cố, nâng cao.

 - Kết quả phòng ngừa, ngăn chặn và chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu nhân dân trong cơ quan, đơn vị. Đây là tiêu chí quan trọng nhằm đánh giá được hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ trong cơ quan, đơn vị. Thực hiện tốt dân chủ sẽ tạo điều kiện để các CB,CC,VC cũng như toàn xã hội tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước; CB,CC,VC  sẽ dễ dàng nhận biết và chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, buộc các CB,CC,VC phải có ý thức hơn trong việc thực hiện chức trách, công vụ, nhiệm vụ của mình theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà pháp luật quy định bởi, mọi hành vi vi phạm, phiền hà, sách nhiễu hay lợi dụng chức trách để tư lợi đều có thể bị phát hiện và xử lý.

– Mức độ tham gia kiểm tra, giám sát trong việc tổ chức thực hiện dân chủ của các tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể như tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Ban Thanh tra nhân dân… Các tổ chức đoàn thể trong cơ quan, đơn vị có vai trò quan trọng, tạo sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong CB,CC,VC, tạo mọi điều kiện thuận lợi để động viên họ phát huy quyền làm chủ của mình. Do vậy, việc củng cố, kiện toàn các đoàn thể trong các cơ quan, đơn vị là yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ cơ sở.

2. Thực trạng tình hình thực hiện dân chủ ở cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập của nước ta hiện nay

Nhằm cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện các chủ trương, chính sách nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ cơ sở (dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn và dân chủ ở cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập), năm 2017, Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ đã thực hiện điều tra Dự án: “Điều tra thực trạng, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở”. Với quy mô điều tra gần 1.500 CB, CC, VC ở các cơ quan, đơn vị một số Bộ, ngành và địa phương về tình hình thực hiện dân chủ trong các cơ quan, đơn vị theo phương pháp lựa chọn mẫu, báo cáo tổng hợp kết quả cho thấy (đơn vị tính: tỷ lệ %):

Biết rất rõ

Biết sơ qua

Không biết

76.0

23.1

0.9

          * Hình thức tiếp cận thông tin:

Tự tìm hiểu

Từ cơ quan, đơn vị

Qua thông tin đại chúng

Khác

10.4

79.6

8.4

1.6

2.2. Việc tổ chức hội nghị cán bộ, công chức, viên chức hàng năm

Tổ chức đều đặn hàng năm

Có năm không tổ chức

Chưa bao giờ tổ chức

93.3

5.9

0.8

          2.4. Ý kiến nhận xét của CB, CC, VC về tình hình thực hiện việc công khai thông tin ở cơ quan, đơn vị (Theo quy định, thời hạn công khai văn bản chậm nhất là 03 ngày làm việc, trường hợp đặc biệt không quá 05 ngày kể từ ngày văn bản được ban hành hoặc kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan, đơn vị cấp trên).

Không công khai

Có được công khai

Khó trả lời

Kịp thời

Không kịp thời

1.6

93.4

3.2

1.8

4.2. Kế hoạch công tác hàng năm, hàng quý của cơ quan, đơn vị

1.4

95.0

2.6

1.0

4.3. Tài sản, trang thiết bị; kinh phí hoạt động và quyết toán hàng năm

2.6

82.6

8.4

6.4

4.4. Các chế độ, chính sách đối với CB, CC, VC

1.5

90.7

5.7

2.2

4.5. Bản kê khai tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ phải kê khai theo quy định

4.4

84.8

5.7

5.1

4.6. Các vụ việc tiêu cực, tham nhũng trong cơ quan đã được kết luận (nếu có)

3.7

59.5

3.7

33.1

4.7. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong nội bộ cơ quan, đơn vị (nếu có)

3.2

65.5

3.8

27.5

4.8. Kết quả tiếp thu ý kiến (khi lấy ý kiến) của CB, CC, VC về những vấn đề thuộc thẩm quyền của người đứng đầu cơ quan, đơn vị

3.1

82.2

5.3

9.4

2.5. Nguyên nhân của tình trạng một số thông tin chưa hoặc chậm công khai là do:

          * Nguyên nhân khác: Do ý chí cá nhân người đứng đầu và sự chậm trễ trong công việc của cơ quan, đơn vị.

2.6. Hình thức thường được thực hiện để công khai thông tin cho CB,CC,VC biết

Chế độ, chính sách

Không công khai

Có công khai

Khó trả lời

Kịp thời

Không kịp thời

7.1. Về tuyển dụng

3.7

84.6

4.7

7.0

7.2. Về đào tạo, bồi dưỡng

1.3

89.8

6.0

2.9

7.3. Điều động, bổ nhiệm, luân chuyển, biệt phái

2.3

85.1

5.6

7.0

7.4. Thay đổi vị trí làm việc hoặc chức danh nghề nghiệp

1.9

84.2

6.0

7.9

7.5. Đi công tác nước ngoài

2.7

73.1

4.4

19.8

7.6. Về nâng bậc lương, nâng ngạch

1.3

92.9

3.7

2.1

7.7. Về đánh giá, xếp loại và khen thưởng CB, CC, VC

1.1

93.0

3.7

2.2

   

Chưa  

58.2

41.8

* Việc bố trí lịch hẹn có dễ dàng, thuận lợi hay không

Rất dễ dàng, thuận lợi

Có một chút khó khăn

Rất khó khăn

90.4

9.0

0.6

* Ý kiến phản ánh hay phê bình của CB, CC, VC có được người đứng đầu cơ quan/ đơn vị quan tâm, lắng nghe hay không

Không  

98.2

1.8

* Người đứng đầu cơ quan/ đơn vị sau đó có phản hồi/giải thích cho CB, CC, VC được biết hay không

Không

97.3

2.7

2.10. Đánh giá về mức độ dân chủ trong việc tham gia ý kiến của CB,CC,VC

         * Về ý thức, trách nhiệm của CB,CC,VC trong việc tham gia ý kiến

* Về sự tiếp thu ý kiến của người đứng đầu cơ quan, đơn vị

2.11. Những nội dung ở cơ quan/ đơn vị CB, CC, VC cần phải được thực hiện dân chủ hơn

2.12. Phản ứng của CB, CC, VC khi không hài lòng về tình hình thiếu dân chủ ở cơ quan/ đơn vị

          2.13. Đánh giá chung về tình hình thực hiện dân chủ ở cơ quan/đơn vị CB, CC, VC công tác

2.14. Nguyên nhân chính của tình trạng chưa dân chủ trong các cơ quan/ đơn vị hiện nay là do:

Tỷ lệ %

14.1. Sự ràng buộc từ các mối quan hệ

52.2

14.2. Lợi ích nhóm

32.6

14.3. Quy định về dân chủ chưa rõ, không phù hợp

32.8

14.4. Quy chế dân chủ còn thiếu các chế tài cần thiết đảm bảo thực hiện

52.7

14.5. Sự thiếu trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị

29.0

14.6. Sự thiếu trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức

38.8

14.7. Sự phối hợp chưa tốt giữa các tổ chức trong cơ quan

47.0

14.8. Thiếu sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của tổ chức Đảng về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan, đơn vị

17.8

14.9. Điều kiện vật chất, trang thiết bị còn hạn chế

28.4

14.10. Chưa phát huy hết vai trò của Ban Chấp hành Công đoàn cơ quan

33.2

14.11. Chưa phát huy hết vai trò của Ban Thanh tra nhân dân ở cơ quan

32.7

14.12. Việc thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm chưa được coi trọng

32.8

      * Lý do khác: Sự phối hợp chưa tốt giữa các thành viên trong cơ quan; Nhân viên không dám phê bình cấp trên; Chưa nắm bắt kịp thời văn bản quy định.

III. Kết luận

Có thể nói rằng, việc thực hiện dân chủ trong các cơ quan, đơn vị ở Việt Nam hiện nay là tương đối tốt (thể hiện trong biểu đồ số liệu điều tra tại mục 2.13). Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế như việc thực hiện dân chủ vẫn còn hình thức, thậm chí ở một số cơ quan, đơn vị sự nghiệp vẫn còn tồn tại tình trạng chưa dân chủ trong một số hoạt động. Nguyên nhân của nó cũng đã được thể hiện qua đánh giá của CB,CC,VC tại bảng số liệu mục 2.14.

Cũng trong khuôn khổ Dự án điều tra năm 2017, Viện Khoa học tổ chức nhà nước đã trưng cầu ý kiến của gần 1.500 CB,CC,VC về giải pháp cần phải tập trung nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập. Số liệu cụ thể như sau:

Giải pháp

Tỷ lệ %

15.1.Sửa đổi văn bản pháp luật

24.9

15.2. Quy định cụ thể hơn trong việc phối hợp giữa các tổ chức trong cơ quan, đơn vị

65.6

15.3. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị

59.8

15.4. Đề cao tinh thần và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức

61.4

15.5. Đề cao vai trò của Ban Chấp hành Công đoàn cơ quan

36.9

15.6. Đề cao vai trò của Ban Thanh tra nhân dân ở cơ quan

28.1

15.7. Đề cao tinh thần gương mẫu của đảng viên

24.6

15.8. Đổi mới nhận thức của người đứng đầu CQ, đơn vị và CB, CC, VC

34.3

15.9. Tăng cường điều kiện vật chất, trang thiết bị

24.1

15.10. Kiểm tra và xử lý kịp thời những biểu hiện thiếu dân chủ

50.4

Mặc dù số liệu và kết quả điều tra về dân chủ trong cơ quan, đơn vị như đã trình bày ở trên là cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc đề xuất cơ chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả trong việc tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, điều này vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu, làm sâu sắc hơn trong thời gian tới bởi dân chủ nói chung và thực hiện dân chủ ở cơ sở nói riêng là một vấn đề phức tạp và luôn nảy sinh những vấn đề mới trong điều kiện, hoàn cảnh mới. Trong phạm vi bài viết của mình, sau đây là một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện dân chủ ở cơ quan, đơn vị:

Một là, hoàn thiện các quy định về dân chủ.

– Chính phủ đã ban hành NĐ số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, nên có văn bản quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở riêng cho cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp vì mỗi loại hình có những đặc điểm riêng trong tổ chức, hoạt động cũng như nội dung thực hiện dân chủ.

– Các văn bản quy định về dân chủ cơ sở cần được bổ sung thêm các chế tài về việc thực hiện quy chế đối với người đứng đầu đơn vị cũng như cán bộ, công chức, viên chức khi không thực hiện đúng các nội dung mà dân chủ quy định nhằm đảm bảo cho quy chế dân chủ ở cơ sở được thực hiện nghiêm minh, đúng quy định. 

Hai là, chú trọng tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động về vai trò, tầm quan trọng cũng như các nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở

Ba là, nâng cao chất lượng Hội nghị CB,CC,VC

– Người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần chủ động trong việc chuẩn bị nội dung, bố trí đủ thời gian và phối hợp với Chủ tịch công đoàn chỉ đạo Hội nghị  CB,CC,VC theo quy định. Bên cạnh việc lắng nghe ý kiến đóng góp, phê bình của CB,CC,VC; giải đáp những thắc mắc, kiến nghị của CB,CC,VC… thì người đứng đầu cơ quan, đơn vị cũng cần phải tạo được bầu không khí thực sự thoải mái để mọi CB,CC,VC và người lao động có cơ hội bày bỏ tâm tư, nguyện vọng của mình.

– Tăng cường giám sát việc thực hiện Nghị quyết hội nghị CB,CC,VC; phải có đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết hội nghị CB,CC,VC trước hội nghị CB,CC,VC vào 6 tháng và cuối năm.

Bốn là, khắc phục tính hình thức trong hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân trong cơ quan, đơn vị. 

Thực tế cho thấy trong thời gian qua, tổ chức và hoạt động của Ban Thanh tra nhân chưa thực sự phát huy hết được chức năng, nhiệm vụ theo quy định và những kết quả đạt được vẫn còn rất hạn chế. Điều này xuất phát từ nguyên nhân  chủ yếu do Ban Thanh tra nhân dân đều là cấp dưới của thủ trưởng, chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi các quyết định của thủ trưởng (quyền lợi trong công việc hàng ngày; kinh phí hoạt động của Ban Thanh tra…). Như vậy việc tổ chức Ban Thanh tra nhân dân trong cơ quan, đơn vị chưa đảm bảo rõ tính độc lập, khó có thể thực hiện được đúng bản chất của hoạt động giám sát và trên thực tế hiệu lực của hoạt động giám sát của Ban thanh tra nhân dân trong cơ quan, đơn vị quá yếu so với các chủ thể thực hiện quyền giám sát khác.

Tuy nhiên, trong thời gian tới khi vẫn duy trì Ban Thanh tra nhân dân như một thiết chế đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở ở cơ quan và đơn vị sự nghiệp, trước hết cần lựa chọn, bố trí những người có phẩm chất, năng lực tốt, được CB,CC,VC tín nhiệm làm công tác thanh tra nhân dân. Các thành viên tham gia Ban thanh tra nhân dân phải có bản lĩnh, không ngại va chạm, ý thức đầy đủ về vị trí, vai trò và phải nắm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của mình được pháp luật quy định; có nghiệp vụ hoạt động, được tập huấn cơ bản. Muốn vậy, hàng năm có kế hoạch và tổ chức các cuộc tập huấn cho cán bộ làm công tác thanh tra nhân dân về chức năng, nhiệm vụ của Ban thanh tra nhân dân, kỹ năng xây dựng kế hoạch hoạt động, tổ chức thực hiện quyền thanh tra, giám sát, xác minh vụ việc theo quy định pháp luật… nhằm nâng cao nghiệp vụ, kỹ năng, năng lực, trình độ và hiểu biết pháp luật cho người làm công tác thanh tra nhân dân. Đồng thời, cơ quan, đơn vị cần tạo điều kiện thuận lợi và bố trí nguồn kinh phí hợp lý để Ban thanh tra nhân dân hoạt động. Ban Thanh tra nhân dân phải thực hiện đúng nhiệm vụ là giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cơ quan, đơn vị.

Năm là, phát huy vai trò của các tổ chức Đảng cơ sở, các tổ chức đoàn thể quần chúng trong việc thực hiện dân chủ ở cơ quan, đơn vị.

Tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể cần phối hợp chặt chẽ, thường xuyên trong việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở. Mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng phấn đấu, rèn luyện và phải là những tấm gương về thực hiện dân chủ. Mỗi tổ chức đảng phải giáo dục cho đảng viên ý thức rõ trách nhiệm chính trị và nghĩa vụ đạo đức của mình, biết lắng nghe và tiếp thu ý kiến phê bình. Nếu trong Đảng thực hành được dân chủ, đoàn kết và đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư thì tình hình sẽ chuyển biến tốt đẹp,  các CB,CC,VC được bảo đảm lợi ích, nhu cầu và quyền làm chủ của mình. Dân chủ trong Đảng sẽ thúc đẩy dân chủ trong cơ quan, đơn vị. Mỗi cán bộ đảng viên và đội ngũ công chức, viên chức phải gương mẫu trong đạo đức, lối sống, đề cao kỷ luật và trách nhiệm, tôn trọng và tận tụy phục vụ nhân dân. Nghiên cứu xem xét đưa kết quả xây dựng và thực hiện dân chủ ở cơ quan, đơn vị là một tiêu chí quan trọng để xem xét, đánh giá chi bộ, đảng bộ trong sạch, vững mạnh; đảng viên là CB,CC,VC hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Các tổ chức công đoàn, các đoàn thể cần đề xuất, tham mưu cho cấp ủy, lãnh đạo cơ quan tăng cường kiểm tra, theo dõi, đánh giá, uốn nắn việc triển khai thực hiện tại các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý để đảm bảo thực hiện đúng pháp luật, đồng thời báo cáo, đề xuất lên cấp trên có thẩm quyền để xử lý đối với những trường hợp vi phạm về dân chủ.

Sáu là, tăng cường dân chủ phải đi đôi với siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính và đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

Thực hiện dân chủ nhưng luôn phải gắn với bảo đảm tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, cấp dưới phục tùng sự lãnh đạo, chỉ đạo và chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định của cấp trên. Mỗi cá nhân phải thực hiện đúng trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Mỗi cơ quan, đơn vị phải xây dựng được chương trình, kế hoạch công tác cụ thể trên cơ sở nhiệm vụ được giao; đánh giá đúng chất lượng, trình độ, kết quả thực hiện nhiệm vụ của CB,CC,VC. Kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, gây nhũng nhiễu, phiền hà trong giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp, xử lý nghiêm việc chậm trễ trong thực hiện nhiệm vụ được giao.

Bảy là, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Trước hết, người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần phải nhận thức rõ việc thực hiện dân chủ trong cơ quan, đơn vị là một thiết chế hỗ trợ rất hiệu quả cho công tác quản lý, điều hành công việc. Không nên nhìn nhận việc thực hiên dân chủ như là một đối trọng về lợi ích trong quản lý điều hành, hoạt động của cơ quan, đơn vị. Thực hiện dân chủ cơ sở tốt sẽ là công cụ giám sát có hiệu quả chính bản thân cơ quan, đơn vị, đảm bảo thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị, cảnh báo sớm những sai phạm có thể xảy đến với các quyết định của người đứng đầu hoặc trong quá trình tổ chức triển khai công tác của cơ quan, đơn vị. Chính vì vậy, người đứng đầu cần nhận thức đúng vai trò và tầm quan trọng của thực hiện dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để CB,CC,VC và các tổ chức đại diện cho quyền lợi của họ như Công đoàn, Ban Thanh tra nhân dân hoàn thành nhiệm vụ, hoặc tạo điều kiện về thời gian, vật chất để các tổ chức này hoạt động được hiệu quả.

Đồng thời, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải đảm bảo đúng trách nhiệm của mình trong thực hiện dân chủ trong quản lý và điều hành hoạt động của cơ quan, đơn vị; trong quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chế độ, chính sách đối với CB,CC,VC. Khi CB,CC,VC đăng ký được gặp và có nội dung, lý do cụ thể thì bố trí thời gian thích hợp để gặp và trao đổi; Chỉ đạo việc cung cấp đầy đủ, kịp thời những thông tin, tài liệu, cách thức tổ chức thực hiện, trách nhiệm thực hiện và trách nhiệm giải trình những nội dung công việc trong cơ quan, đơn vị…

Tám là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về việc thực hiện dân chủ ở cơ quan, đơn vị.

Xử lý nghiêm, kịp thời những hành vi vi phạm những quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở; điều chuyển, thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý có nhiều dư luận, biểu hiện tham nhũng, lãng phí, uy tín giảm sút, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Nghiêm cấm và xử lý nghiêm người đứng đầu có hành vi cản trở việc thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan, đơn vị hoặc có hành vi trả thù, trù dập CB,CC,VC khiếu nại, tố cáo, kiến nghị theo quy định của pháp luật. Đồng thời, kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của CB,CC,VC và quyền làm chủ của nhân dân, cản trở việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị./.

Tài liệu tham khảo:

1. Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ (2017), Báo cáo tổng hợp Dự án điều tra cấp Bộ “Điều tra thực trạng, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở”.

2. Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 9/01/2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập.

3. Thông tư số 01/2016/TT-BNV ngày 13/ 01/2016 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện Nghị định số 04/2015/NĐ-CP.

ThS. Trần Thị Thơ, Phó Trưởng phòng

        Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ

Thực Trạng Sử Dụng Mạng Xã Hội Facebook Ở Nước Ta Hiện Nay

Mạng xã hội Facebook ra đời năm 2004 và có mặt ở Việt Nam vào năm 2009, hiện tại nước ta có lượng người dùng Facebook cao thứ 7 thế giới. Cùng TDFOSS tìm hiểu về thực trạng sử dụng và tầm ảnh hưởng của mạng xã hội Facebook đối với chúng ta như thế nào trong bài viết sau.

1. Thực trạng sử dụng mạng xã hội Facebook

Facebook là một dịch vụ mạng xã hội truy cập miễn phí do Mark Zuckerberg sáng lập. Mục đích của mạng xã hội này là để người dùng có thể tham gia mạng lưới được tổ chức theo thành phố, nơi làm việc, trường học và khu vực để liên kết và giao tiếp với người khác. Mọi người cũng có thể kết bạn và gửi tin nhắn cho người khác cũng như người dùng có thể cập nhật hồ sơ cá nhân của mình để thông báo cho bạn bè. Thêm một đặc tính nổi bật của Facebook chính là người dùng có thể cập nhật trạng thái và bộc lộ suy nghĩ của mình. Chính những đặc điểm trên khiến Facebook trở thành mạng xã hội phổ biến nhất hiện nay.

Năm 2018, người dùng Internet ở Việt Nam đạt 33.86 triệu người, tăng 6.9% so với năm 2017. Dự đoán đến năm 2022, ở Việt Nam sẽ có khoảng 40.55 triệu người dùng Facebook. Tính đến quý 2 năm 2017, có hơn 2 tỷ lượt truy cập Facebook mỗi ngày. Việt Nam hiện đang xếp thứ 7 trong số các quốc gia có lượng người dùng lớn nhất. Tính chung về mảng mạng xã hội, Việt Nam có khoảng 40% người dùng, phân bổ chủ yếu là ở giới trẻ và ngày càng đa dạng về đối tượng và lượng người sử dụng. Vào tháng 5/2019 Việt Nam có 57,43% cư dân sử dụng Facebook (Theo báo cáo của Social Media Stats).

Việt Nam nằm trong TOP 7 về lượng người sử dụng Facebook (Nguồn: Báo Dân Trí 04/2018)

Có thể nói, mạng xã hội Facebook ra đời là một trong những bước tiến của các phương tiện truyền thông mới, bởi thực sự nó đã mang đến nhiều tiện ích, đáp ứng nhu cầu, mục đích vô cùng đa dạng của mỗi cá nhân: từ công việc, học tập, kinh doanh và đặc biệt là khả năng mở rộng và thiết lập các mạng lưới giao tiếp một cách nhanh chóng mà không bị giới hạn về không gian và thời gian với chi phí rẻ nhất. Bên cạnh đó, mạng xã hội cũng trở thành một kênh giải trí hoàn hảo khi trở thành nơi lý tưởng để giới trẻ giải tỏa áp lực trước những vấn đề mà họ phải đối mặt trong cuộc sống hàng ngày. Trước hàng loạt tiện ích, mạng xã hội dường như đang trở thành người bạn đồng hành không thể thiếu trong cuộc sống thường nhật của thanh thiếu niên.

Mặc dù sự ảnh hưởng của mạng xã hội đến bộ phận này đang được nhìn nhận theo nhiều chiều hướng khác nhau, song dù thế nào cũng cần thừa nhận những bước tiến khả quan của các trang mạng xã hội ở Việt Nam với số lượng người sử dụng có thể tiếp tục gia tăng trong tương lai.

2. Tìm hiểu lợi ích và tác hại từ mạng xã hội Facebook

Lợi ích của mạng xã hội facebook là gì?

Giúp bạn kết nối mọi người: Với mạng xã hội facebook, bạn có thể dễ dàng làm quen với nhiều người. Với tính năng chat miễn phí và không giới hạn thì đây là một công cụ giúp bạn có thể trò chuyện và tán gẫu một cách thuận tiện nhất.Đây cũng là công cụ giúp bạn liên lạc với bạn bè của bạn ngay cả khi bạn không có thời gian gặp gỡ họ.

Giao tiếp qua mạng xã hội

Những tác hại từ mạng xã hội Facebook

Bên cạnh lợi ích thì facebook cũng tồn tại nhiều hạn chế cụ thể như sau:

Sử dụng Facebook quá nhiều cũng gây “nghiện”

Chức Năng Của Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa Và Một Số Nhiệm Vụ Cơ Bản Thể Hiện Chức Năng Xã Hội Của Nhà Nước Ta

Chúng ta đều biết, chức năng của nhà nước vừa bị quy định, vừa là sự thể hiện bản chất của nhà nước. Tuỳ theo các tiêu chí khác nhau mà chức năng của nhà nước được đề cập, xem xét dưới nhiều góc độ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới hạn ở phạm vi xem xét nhà nước từ góc độ tính chất của quyền lực chính trị mà theo đó, bất kỳ nhà nước nào cũng đều có chức năng thống trị chính trị của giai cấp (chức năng giai cấp) và chức năng xã hội.

Theo quan niệm chung, chức năng giai cấp là cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước bao giờ cũng là công cụ chuyên chính của một giai cấp nhất định. Mọi nhà nước đều sẵn sàng sử dụng bất cứ công cụ, biện pháp nào có thể có để bảo vệ sự thống trị của giai cấp mình. Còn chức năng xã hội của nhà nước là cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước đều phải thực hiện việc quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, đồng thời phải chăm lo một số công việc chung của toàn xã hội. Trong một giới hạn xác định, nhà nước phải hoạt động để thoả mãn những nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nó. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng trước đây, để giữ nhà nước trong tay mình, giai cấp thống trị nào cũng buộc phải nhân danh xã hội mà quản lý những công việc chung. Việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề chung của xã hội sẽ tạo điều kiện để duy trì xã hội trong vòng trật tự theo quan điểm và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Như vậy, việc thực hiện chức năng xã hội theo quan điểm và giới hạn của giai cấp cầm quyền là phương thức, là điều kiện để nhà nước đó thực hiện vai trò thống trị giai cấp của nó. Nói về mối quan hệ biện chứng giữa hai chức năng này, Ph.Ăngghen viết: “Ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội của nó”(1).

Đề cập đến chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong khi chú trọng đến chức năng giai cấp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn coi chức năng xã hội là thuộc tính cơ bản nhất và quan trọng nhất của nó. Nói về vấn đề này, V.I.Lênin cho rằng, chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột và cũng không phải chủ yếu là bạo lực, mà mặt cơ bản của nó là không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân cùng với việc tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Ông viết: “Lần đầu tiên chuyên chính vô sản, tức là thời kỳ quá độ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, sẽ đem lại một chế độ dân chủ cho nhân dân, cho số đông, đi đôi với sự trấn áp tất yếu đối với số ít, đối với bọn bóc lột”(2). Như vậy, có thể nói, bản thân chuyên chính vô sản, theo quan điểm mácxít, tự nó đã thể hiện sự thống nhất giữa chức năng giai cấp và chức năng xã hội.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa, về thực chất, là chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và vì thế, trong nhà nước này, nền dân chủ phải là nền dân chủ đầy đủ nhất, rộng rãi nhất và thực chất nhất – đó là nền dân chủ bao quát toàn diện mọi lĩnh vực đời sống xã hội và lấy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế làm nền tảng. Chủ nghĩa xã hội sẽ không thể tồn tại và phát triển được nếu thiếu dân chủ, thiếu sự thực hiện một cách đầy đủ và không ngừng mở rộng dân chủ. “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn…”(3) đã được V.I.Lênin coi là một trong những nhiệm vụ cấu thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, là một vấn đề có tính quy luật của sự phát triển và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Trong xã hội xã hội chủ nghĩa – xã hội không còn các giai cấp đối kháng, nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn thực hiện hai chức năng cơ bản, nhưng cơ chế và mục đích thực hiện hai chức năng đó đã có sự thay đổi căn bản. Cũng như mọi nhà nước khác đã từng tồn tại trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa muốn thực hiện được chức năng giai cấp của mình, trước hết phải làm tốt chức năng xã hội, đặc biệt là việc không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân, sử dụng sức mạnh, lực lượng của mình để bảo vệ và bảo đảm tuyệt đối các quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Thực hiện tốt chức năng xã hội là cơ sở, là điều kiện tiên quyết để nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo và giữ vững địa vị thống trị xã hội về mặt chính trị, nghĩa là có đầy đủ khả năng để trấn áp sự phản kháng của các giai cấp bóc lột và các thế lực thù địch. Điều này có nghĩa là, chức năng giai cấp và chức năng xã hội luôn có mối quan hệ biện chứng, cái nọ làm tiền đề và là cơ sở cho cái kia. Tuy nhiên, trong điều kiện giai cấp vô sản đã giành được chính quyền và thiết lập được nhà nước của mình, thì chức năng giai cấp là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; còn chức năng xã hội (mà trong đó, việc tổ chức xây dựng xã hội mới là chủ yếu) là nhiệm vụ cơ bản, quyết định trực tiếp sự thắng lợi hay thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự khác nhau căn bản giữa việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước tư bản chủ nghĩa là ở chỗ, nhà nước tư bản chủ nghĩa thực hiện chức năng xã hội không phải với tư cách là mục đích, mà là phương tiện để củng cố, đảm bảo sự thống trị chính trị và kinh tế của thiểu số trong xã hội là giai cấp tư sản đối với đa số là giai cấp công nhân và những người lao động khác. Theo đó, việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước tư bản chủ nghĩa luôn bị giới hạn trong một phạm vi chật hẹp và bị chi phối bởi quan điểm của giai cấp tư sản, xuất phát từ những lợi ích kinh tế và chính trị ích kỷ của một thiểu số dân cư trong xã hội. Ngược lại, việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa được xác định là mục đích chứ không phải là phương tiện để nhà nước ấy đảm bảo sự thống trị chính trị của nó. Chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhằm đảm bảo quyền dân chủ cho đại đa số những người lao động, xây dựng những thiết chế, cơ sở để quyền làm chủ đó được thực hiện một cách thực sự trong thực tế.

2. Một số nhiệm vụ cơ bản thể hiện chức năng xã hội của nhà nước ta

2.1. Không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân

Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ do nhân dân làm chủ và do vậy, nhà nước của chế độ này có nhiệm vụ tạo điều kiện để cho nhân dân tham gia một cách tích cực và rộng rãi vào tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong mọi hoạt động, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng, trừng trị kịp thời mọi hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của nhân dân. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã chỉ rõ: “Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân”(4).

Nhiệm vụ này cũng đã được chúng ta thể chế hoá cụ thể trong Hiến pháp: “Công dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng cách tham gia công việc của nhà nước và xã hội, có trách nhiệm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng”(6). Chính điều đó đã phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm cho người dân vừa thực hiện quyền làm chủ gián tiếp thông qua nhà nước, vừa làm chủ trực tiếp ở cơ sở.

Ở nước ta hiện nay, các cơ quan quyền lực nhà nước đều do dân bầu ra, chính quyền nhà nước đã trở thành công cụ sắc bén và có hiệu quả nhất để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng nhà nước, đó là dân chủ đại diện (dân chủ gián tiếp). Quyền làm chủ của nhân dân còn được thực hiện một cách trực tiếp thông qua việc tham gia vào công việc tổ chức nhà nước, tham gia bộ máy nhà nước, quyết định các chủ trương, chính sách của Nhà nước ở các cấp… Tuy nhiên, mức độ thực hiện dân chủ trực tiếp còn phụ thuộc vào phẩm chất, trình độ, năng lực của chính quyền nhà nước; vào trình độ dân trí, trước hết là trình độ văn hoá chính trị, văn hoá pháp luật; vào đặc điểm lịch sử và truyền thống chính trị của dân tộc… Như vậy, thực hiện dân chủ phải là một quá trình lâu dài, từ thấp đến cao. Không thể và không bao giờ có “dân chủ tuyệt đối” hay “dân chủ nói chung”, đặc biệt là không thể có ngay và trên mọi mặt dân chủ trực tiếp trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, nhất là về kinh tế. Chính vì vậy, ở nước ta hiện nay, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện, đồng thời thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết thực, đúng hướng, có hiệu quả. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua đại biểu của mình (dân chủ gián tiếp), đồng thời phát huy cao độ quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân thông qua các tổ chức quần chúng, xã hội, nhất là dân chủ ở cơ sở. Cụ thể là:

– Xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân.

– Nghiên cứu thực hiện từng bước chế độ dân chủ trực tiếp, trước hết ở cấp cơ sở.

2.2. Tổ chức và quản lý kinh tế

Nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ một nền kinh tế chậm phát triển, còn phổ biến là sản xuất nhỏ, nên nhiệm vụ tổ chức, quản lý kinh tế của nhà nước là hết sức khó khăn, phức tạp, chính vì thế mà nhiệm vụ phát triển kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt và là một nhiệm vụ khá mới mẻ. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp, song song với đó lại phải vừa thực hiện nhiệm vụ giữ vững an ninh, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội, vừa phải bảo đảm ổn định và cải thiện không ngừng đời sống nhân dân về mọi mặt, nhiệm vụ tổ chức, xây dựng của Nhà nước ta càng trở nên nặng nề. Trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, thứ VIII, thứ IX và mới đây, lần thứ X, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá những tư tưởng, quan điểm lớn về phát triển kinh tế đất nước: phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với sự đa dạng về hình thức sở hữu; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với “những hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(7); thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; phát huy mạnh mẽ vai trò của khoa học và công nghệ; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư, kinh tế đối ngoại; v.v..

Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, đường lối kinh tế thể hiện rõ nhiệm vụ tổ chức và quản lý kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta xác định là: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững;…

2.3. Tổ chức và quản lý văn hoá, khoa học, giáo dục

Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là “xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”(8). Để có thể xây dựng thành công một xã hội như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải tổ chức, quản lý sự nghiệp giáo dục, văn hoá, phát triển khoa học và công nghệ – đó được coi là “quốc sách hàng đầu” để phát huy nhân tố con người. Thực hiện nhiệm vụ này, cần phải xây dựng và phát triển nền văn hoá mới, con người mới, nền khoa học và công nghệ hiện đại – đó cũng chính là những động lực quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ này được biểu hiện cụ thể ở một số nội dung sau:

Thứ nhất, xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; thực hiện lối sống cần kiệm, văn minh, bài trừ mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội khác, chống lại mọi biểu hiện của các loại văn hoá ngoại lai không lành mạnh.

Thứ hai, phát triển khoa học và công nghệ với bước đi và hình thức thích hợp, bảo đảm cơ sở khoa học cho các quyết định quan trọng của các cơ quan lãnh đạo, quản lý, coi đó là công cụ chủ yếu để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế – xã hội .

Thứ ba, đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ cán bộ, trí thức và những người lao động có tri thức, có tay nghề, có đạo đức cách mạng và tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Đồng thời với đó là việc giáo dục thế giới quan Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho toàn thể nhân dân; đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng, quan điểm xét lại, cơ hội, những luận điệu xuyên tạc, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta.

Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã xác định phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những lĩnh vực chủ yếu. Theo đó, việc tổ chức, quản lý văn hoá, khoa học và giáo dục của Nhà nước ta vừa là để thực hiện những nhiệm vụ kinh tế – xã hội trước mắt, vừa là để chuẩn bị cho đất nước bước vào giai đoạn phát triển tiếp theo, hoà nhập (trên cơ sở giữ vững bản sắc riêng và tinh hoa văn hoá của dân tộc) với tiến trình phát triển chung của nền văn hoá, khoa học và giáo dục thế giới. Quan điểm cơ bản của Đảng ta coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội; giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu đã thể hiện rõ ràng nhiệm vụ này của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực hiện nhiệm vụ này, Nhà nước ta đã tiến hành xây dựng hệ thống các cơ quan tổ chức, quản lý văn hoá, văn học, nghệ thuật, khoa học, giáo dục, các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đào tạo một đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ, đồng thời xây dựng hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật tương xứng với yêu cầu và đáp ứng tốt yêu cầu thực tế của các lĩnh vực cụ thể.

Như vậy, xét một cách tổng thể, nhiệm vụ sáng tạo và xây dựng xã hội mới là nhiệm vụ quan trọng nhất trong chức năng xã hội của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở lý luận và phương pháp luận duy vật biện chứng, xét đến cùng, có thể nói, nhiệm vụ cơ bản và quyết định của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ tổ chức và quản lý kinh tế, bởi một xã hội chỉ có thể ổn định, vận động và phát triển được khi có một cơ sở kinh tế – xã hội phù hợp. Yếu tố kinh tế, nhất là lực lượng sản xuất, xét đến cùng, là yếu tố quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Tuy nhiên, xem xét vấn đề này ở góc độ kiến trúc thượng tầng của xã hội – xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thì nhiệm vụ bảo vệ các quyền tự do và không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân là nhiệm vụ quan trọng nhất, bởi việc thực hiện nhiệm vụ này là sự thể hiện trực tiếp nhất bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Quan Điểm Của Đảng Về Công Bằng Xã Hội Ở Nước Ta Trong Giai Đoạn Hiện Nay

Thứ hai, 23 Tháng 10 2017 09:15

(LLCT) – Công bằng xã hội không chỉ có tác động mạnh mẽ, tích cực trong lĩnh vực kinh tế, mà còn đóng vai trò điều chỉnh quan hệ giữa con người với con người trong các lĩnh vực chính trị, xã hội, đạo đức… Do vậy, công bằng xã hội xuất phát từ sự tự nguyện,nó vừa tạo nên trạng thái ổn định của xã hội, vừa tạo nên những điều kiện cần thiết thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ. Bên cạnh đó, công bằng xã hội còn là điều kiện để mỗi cá nhân có thể phát huy cao nhất khả năng của bản thân trong quá trình hoạt động xã hội, giúp sự phát triển của mỗi người ngày càng toàn diện hơn.

Chính vì vậy, công bằng xã hội là động lực phát triển kinh tế – xã hội. Ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể với một hoàn cảnh kinh tế – xã hội nhất định, bao giờ cũng có thước đo của công bằng xã hội tương ứng làm căn cứ để xác định một tỷ lệ tương ứng cụ thể giữa cống hiến và hư­ởng thụ cho mọi chủ thể cùng tham dự vào hoạt động của nền sản xuất xã hội.

Công bằng xã hội tạo cơ hội bình đẳng cho mỗi cá nhân phát huy tối đa khả năng của họ vào việc tham gia cống hiến vào sự phát triển của xã hội cũng như quyền được hưởng thụ tương xứng với những cống hiến đó. Do vậy, công bằng xã hội chính là nhân tố kích thích, động viên mọi người ra sức tham gia cống hiến cho sự phát triển của xã hội một cách tự nguyện nhất. Với ý nghĩa đó, công bằng xã hội trở thành động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội nói riêng và sự tiến bộ xã hội nói chung.

Thực hiện công bằng xã hội là một chủ trương lớn của Đảng, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta từ khi giành được độc lập cho tới ngày nay. Đại hội VI của Đảng lần đầu tiên tạo sự chuyển biến trong quan điểm nhận thức về vấn đề chính sách xã hội, quan điểm về công bằng xã hội chính thức đưa vào báo cáo chính trị. Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng là động lực mạnh mẽ, phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(1). Tiếp theo đó, cácĐại hội,hội nghị Trung ương các khóa, Quốc hội, Chính phủ đã từng bước cụ thể hóa.

Đường lối, chính sách vềviệc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hộiđã từng bước hoàn thiện. Điều này được thể hiệntrong các văn kiện của Đảng và trong chính sách phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VII (6-1993) về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền sản xuất nông nghiệp; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (7-1994) về phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa…

Đại hội VIII của Đảng đánh dấu bước phát triển mới trong chỉ đạo về vấn đề này. Đại hội khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”(2).

Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội,Hội nghị Trung ương 4 khóa VIII nhấn mạnh, phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa nông thôn với nông thôn, giữa thành thị với thành thị, giữa các tầng lớp xã hội. Quan điểm nàytiếp tục được khẳng định tại Đại hội IX: “…phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường”(3). Đến Đại hội X, vấn đề trên được Đảng ta bổ sung và phát triển một bước quan trọng, cụ thể là: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế – xã hội”(4).

Theo quan điểm của Đảng, thực chất của bảo đảm công bằng xã hội là giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tếvới thực hiện chính sách xã hội, đem lại cuộc sống hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực của con người, trên tinh thần tất cả vì con người, cho con người.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện công bằng xã hội có ý nghĩa quan trọng, nhằm khắc phục bản chất cố hữu của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh, là mạnh thắng, yếu thua;bảo đảmtính định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở sự công bằng nên cần phải được quán triệt sâu sắc, triển khai có hiệu quả trong thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Trên cơ sở kết quả đạt được qua 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng đã đề ra hệ thống giải pháp cơ bản, tổng thể và toàn diện để thực hiện vấn đề này. Việc nhận thức đúng quan điểm đó sẽ là cơ sở cho triển khai thực hiện hiệu quả, góp phần đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, đảm bảo cho việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trở thành hiện thực. Để đạt được công bằng tạo đà thúc đẩy sự phát triển xã hội cần chú trọng những điểm sau:

Thứ nhất, tiếp tục phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Phát triển kinh tế ổn định, bền vững là điều kiện quan trọng để thực hiện công bằng xã hội. Nếu không có tăng trưởng kinh tế thì xã hội sẽ chậm phát triển và các điều kiện phúc lợi an sinh xã hội không đảm bảo cho người dân. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các chủ trương, giải pháp, nhất là tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành đầy đủ, đồng bộ, hiệu quả theo quy luật của kinh tế thị trường. Tích cực đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ những trở ngại về cơ chế chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động. Đồng thời, Nhà nước phải sử dụng các nguồn lực, công cụ điều tiết, chính sách phân phối và phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước nâng cao phúc lợi, chăm lo cải thiện đời sống mọi mặt của nhân dân.

Ngày nay, toàn cầu hóa mà trước hết là toàn cầu hóa về kinh tế đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội, đến mọi quốc gia, dân tộc. Không một quốc gia, dân tộc nào có thể phát triển được mà lại tách biệt, cô lập với thế giới. Mở cửa, hội nhập, chủ động gia nhập vào quá trình toàn cầu hóa, đó chính là đòi hỏi của toàn cầu hóa, nhưng cũng chính là điều kiện thuận lợi để kết hợp và phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong phát triển.

Nhận thức sâu sắc tính tất yếu và cơ hội đó, Đảng ta luôn coi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp là một trong những yêu cầu, một trong những bài học kinh nghiệm lớn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tại Đại hội XI, một lần nữa, bài học kinh nghiệm này lại được nhấn mạnh: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế … phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”(5).

Thứ hai, xây dựng khung thể chế phân phối các nguồn lực xã hội một cách khoa học.Công bằng là sự thể hiện yêu cầu bình đẳng trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi giữa các cá nhân Điều này có nghĩa là những người cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ như nhau. Nói cách khác, xã hội đối xử ngang nhau với những người có đóng góp như nhau. Mức độ hưởng thụ của cải xã hội được xác định dựa trên những cống hiến của họ đối với xã hội. Mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị cần có những quy chế cụ thể trong phân phối các nguồn lực của tổ chức dựa trên sự lao động và cống hiến. Cách giải quyết vấn đề công bằng xã hội dựa trên sự đóng góp, cống hiến sẽ khuyến khích mọi người chủ động tích cực trong lao động xã hội, tức là tạo nên động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.

Với quan điểm chung đó, việc phân phối trong lĩnh vực kinh tế chủ yếu dựa vào kết quả lao động, hiệu quả kinh tế; đồng thời, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác. Mặt khác, những đóng góp khác không phải trong hoạt động kinh tế, như những cống hiến trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục,… cũng cần và phải tính đến nhằm bảo đảm cho người lao động được hưởng lợi ích tương xứng. Nhiều người đã đóng góp sức lực, trí tuệ và hy sinh xương máu trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, trong khi thi hành nhiệm vụ xã hội cũng phải được xã hội bù đắp một cách thỏa đáng. Giải quyết vấn đề này không chỉ dừng ở mức độ đạo lý, mà nó phải mang tính pháp lý, được xã hội thừa nhận.

Thứ ba, xây dựng chính sách an sinh xã hội nhằm giảm thiểu phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo. Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, trong xã hội Việt Nam hiện nay phân tầng xã hội xuất hiện và phân hóa giàu nghèo gia tăng đang có nguy cơ đưa đến phân cực xã hội. Trước hết đó là việc ngày càng tách rời giữa thành thị và nông thôn. Trong đó, vùng nông thôn chiếm tới 90% hộ nghèo. Tỷ lệ hộ giàu thấp. Có vùng chỉ vài phần trăm. Ngược lại, ở thành phố, tỷ lệ hộ giàu cao. Điều này đưa đến sự phân cực xã hội – nguy cơ của những bùng nổ xã hội nếu không kịp thời điều chỉnh.

Ngoài ra, chính ngay trong nội bộ từng vùng, tình trạng giàu nghèo cũng đang có nguy cơ đưa đến bất bình đẳng và xung đột giữa các nhóm xã hội. Ví dụ ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc, phân hóa giàu nghèo không đều có thể khiến mâu thuẫn sắc tộc gia tăng. Một bộ phận dân cư đồng bào dân tộc ít người, do thiếu vốn, thiếu tri thức thị trường, thiếu kinh nghiệm sản xuất, thiếu trình độ chuyên môn kỹ thuật nên thường chiếm đa số hộ nghèo. Ngược lại, người dân tộc đa số, do có nhiều ưu thế hơn, thường là những hộ giàu có, khá giả. Trong điều kiện đó, nếu không tuyên truyền, giải thích để mọi người hiểu được những tất yếu mà kinh tế thị trường mang lại thì rất dễ đưa đến mâu thuẫn và xung đột xã hội giữa người đa số và người thiểu số. Nhất là những người thiểu số mất đất, mất tư liệu sản xuất, mất môi trường khai thác tự nhiên. Mâu thuẫn và xung đột xã hội, trong những điều kiện này càng có nguy cơ bùng phát.

Phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo đang diễn ra không đều giữa các nhóm xã hội cũng đang là hiện tượng đang phải chú ý hiện nay. Phân hóa giàu nghèo đang diễn ra giữa các nhóm cán bộ lãnh đạo quản lý khác nhau – cán bộ đương chức và cán bộ đã về hưu; đảng viên thường và cán bộ lãnh đạo quản lý. Cán bộ cấp trên và cán bộ cấp dưới; cán bộ đảng, cán bộ các đoàn thể xã hội và cán bộ chính quyền. Cuối cùng là giữa nhóm cán bộ lãnh đạo quản lý và nhân dân… Tất cả những khác biệt trong quá trình phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo đang tạo ra những tiêu cực xã hội không đáng có. Đó chính là sự bất bình đẳng xã hội đang gia tăng do sự phân hóa giàu nghèo giữa các nhóm xã hội. Điều này đang cần những nghiên cứu nghiêm túc để tìm đúng nguyên nhân và hướng để giải quyết. Việc xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội tập chung vào hỗ trợ các nhóm xã hội gặp nhiều khó khăn là một hoạt động quan trọng nhằm cân bằng và bảo đảm công bằng xã hội.

Thứ tư, giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập, bảo đảm chất lượng đời sống dân cư. Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Thiếu việc làm, không có việc làm hoặc việc làm với năng suất và thu nhập thấp sẽ không thể giúp người dân bảo đảm cuộc sống và phát triển bền vững. Có việc làm và tăng thu nhập sẽ giúp người dân có khả năng đáp ứng được những nhu cầu chính đáng về vật chất và tinh thần, giúp họ tiếp cận được với các dịch vụ chất lượng tốt, nâng cao vị thế trong xã hội, hòa nhập với môi trường xung quanh. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định: “Tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động”(6). Quán triệt tinh thần đó, các cấp, ngành cần đẩy mạnh khuyến khích đầu tư xã hội, tạo ra nhiều việc làm, xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý. Trong đó, coi trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; việc đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động phải gắn với quy hoạch kinh tế – xã hội, các chương trình phát triển kinh tế, ngành nghề và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương.

Để có thể tìm được việc làm trong một môi trường cạnh tranh cao như hiện nay, người lao động cần phải trang bị cho mình sức khỏe, trình độ chuyên môn kỹ thuật, hiểu biết về pháp luật, tinh thần chấp hành kỷ luật, văn hóa ứng xử trong công việc mang tính chuyên nghiệp.

Các cấp ủy Đảng và chính quyền tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất để phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng; đặc biệt quan tâm thanh niên, phụ nữ, lao động có điều kiện khó khăn. Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể, huy động nguồn lực đầu tư công tác đào tạo nghề; khuyến khích lực lượng lao động trẻ lập nghiệp, mở rộng sản xuất các ngành nghề, tự giải quyết việc làm. Hoàn thiện và thực hiện chính sách bảo hộ lao động, đẩy mạnh xuất khẩu lao động là giải pháp quan trọng trong giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu thực tiễn, góp phần tăng thu nhập cho người lao động, v.v..

Thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Đại hội XII của Đảng đã định hướng nội dung, phương hướng và giải pháp cơ bản đẩy mạnh thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam trong tình hình mới. Điều đó phản ánh sâu sắc tư duy mới của Đảng về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội hiện nay, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, cần được nhận thức đúng đắn, triển khai thực hiện có hiệu quả.

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2017

(1), (5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.79, 66.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.113.

(3) ĐCSVN:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.88-89.

(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.101.

(6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.135.

TS Nguyễn Thị Tố Quyên

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Bạn đang đọc nội dung bài viết Thực Trạng Về Thực Hiện Dân Chủ Cơ Sở Ở Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Và Đơn Vị Sự Nghiệp Công Lập Của Nước Ta Hiện Nay (Qua Số Liệu Điều Tra Xã Hội Học) trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!