Đề Xuất 3/2023 # Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Du Lịch Thành Phố Cần Thơ # Top 8 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Du Lịch Thành Phố Cần Thơ # Top 8 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Du Lịch Thành Phố Cần Thơ mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Thứ tư, 16 Tháng 5 2018 11:46

7063 Lượt xem

(LLCT) – Trong thời kỳ đổi mới, thành phố Cần Thơ đã sớm nhận thức rõ vị thế,tiềm năngvà thế mạnh của địa phươngtrong phát triểndu lịch nên đã tập trungđầu tư phát triển, thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia, tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội của thành phố. Tuy nhiên,bên cạnh những kết quả đạt được thì ngành du lịch Cần Thơ cũng còn không ít những hạn chế, bất cập, đòi hỏi phải có các giải pháp khắc phục đểphát triển một cách bền vững.

1. Thực trạng phát triển du lịch thành phố Cần Thơ những năm qua

Với những lợi thế về vị trí địa lý, tiềm năng du lịch và điều kiện cơ sở hạ tầng, sau 10 năm phát triển (2006 – 2017), du lịch Cần Thơ đã đạt những kết quả quan trọng:

Lượng khách du lịch đến thành phố Cần Thơ không ngừng tăng lên, năm 2017 tăng 2,5 lần so với năm 2010. Thu nhập từ dịch vụ du lịch từng bước được nâng cao, năm 2016 thu nhập từ hoạt động du lịch (HĐDL)thuần túy đạt 1.826 tỷ đồng, tăng 6,7 lần so với năm 2006, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội và sự chuyển dịch mạnh mẽ trong cơ cấu kinh tế – xã hội của thành phố Cần Thơ(1).

Tỉnh đã thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch, tạo động lực phát triển và góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế của từng khu vực và toàn thành phố; tạo được nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân và góp phần xóa đói giảm nghèo. Thị trường du lịch ngày càng được mở rộng, sản phẩm du lịch dần được đa dạng hoá và nâng cao chất lượng.

Từ thực tế phát triển du lịch, Cần Thơ xác định phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn và tập trung đầu tư khai thác những tiềm năng du lịch của thành phố để phát huy vai trò trung tâm du lịch vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).

Hệ thống cơ sở hạ tầng được quan tâm đầu tư phát triển đã thúc đẩy sự phát triển HĐDLtrên địa bàn. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch như các khu du lịch, các khách sạn nhà hàng, khu vui chơi giải trí… được chú trọng đầu tư, xây dựng tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng các chỉ tiêu phát triển du lịch, góp phần tạo nên diện mạo mới cho thành phố.

Bên cạnh những kết quả đạt được, du lịch trên địa bàn thành phố Cần Thơ còn những hạn chế, yếu kém sau:

Ngành du lịch Cần Thơchưa phát huy, khai thác hết lợi thế, tiềm năng du lịch của thành phốtrực thuộc Trung ương,thiếu những khu vui chơi giải trí tầm cỡ, hiện đại, những công trình tạo điểm nhấn nhằm thu hút khách du lịch. Sản phẩm du lịch của thành phố còn thiếu tính độc đáo, hấp dẫn, phân bố không đồng đều, chưa phong phú.Dịch vụ du lịch chưa đa dạng, phong phú, một số tuyến, điểm du lịch mới hình thành nhưng chưa bổ sung dịch vụ thu hút du khách.

Kết quả khảo sát thực tế đánh giá về loại hình sản phẩm du lịch cho thấy, các hoạt động vui chơi giải trí, du lịch làng nghề còn hạn chế, tỷ lệ đánh giá tốt chỉ đạt 20,6% và 25,2% tương ứng. Về giá và phí dịch vụ cũng chưa được đánh giá cao, mức độ phù hợp với nhu cầu của du khách, tính cạnh tranh và cung cấp thông tin đầy đủ về giá dịch vụ cho du khách còn thấp(2). Theo khảo sát của tác giả, khách du lịch quốc tế đánh giá về sản phẩm du lịch đa dạng, độc đáo, hấp dẫn và hoạt động vui chơi, giải trí ở Cần Thơ, hầu hết đều cho là bình thường hoặc không tốt, chỉ 34% và 32% đánh giá tốt tương ứng từng vấn đề. Đối với du khách trong nước đánh giá về vấn đề này cao hơn (48,5%, 56,5%)(3).

Khảo sát cũng cho thấy, các HĐDLđược du khách yêu thích bao gồm: du lịch sông nước chợ nổi (khách quốc tế: 92%, khách trong nước: 90%); Trải nghiệm cuộc sống người dân (khách quốc tế: 86%, khách trong nước: 62,5%); Thưởng thức ẩm thực địa phương (khách quốc tế: 79%, khách trong nước: 70%); Thăm các di tích lịch sử (khách quốc tế: 74%, khách trong nước: 61%).

Quảng bá xúc tiếnvàtổ chức HĐDLcòn thiếu tính chuyên nghiệp, sức cạnh tranh của doanh nghiệp du lịch (DNDL)còn yếu. Sự liên kết giữa các quận, huyện trong khai thác tuyến, điểm du lịch chưa chặt chẽ. Việc gắn du lịch với các làng nghề truyền thống chưa được quan tâm đúng mức.Qua khảo sát thực tế du khách quốc tế cho thấy, chỉ có 34% là thích thăm quan làng nghề(4).

Đào tạo,bồi dưỡng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu, tỷlệ lao động qua đào tạo chuyên ngành còn thấpso với nhu cầu ngày càng phát triển. Đội ngũ hướng dẫn viêndu lịch của thành phố còn thiếu và yếu về chuyên môn, nghiệp vụ.Các quận, huyện trên địa bàn thành phố gặp khó khăn về nhân sự chuyên trách du lịch và kinh phí HĐDL.Khảo sát thực tế cho thấy, đánh giá của du khách về sự chuyên nghiệp, tận tình và ngoại ngữ của nhân viên: ở mức tốt có tỷ lệ thấp (khách trong nước: 39,5% chuyên nghiệp, tận tình; 21,5% ngoại ngữ. Khách quốc tế: 38% và 23% tương ứng). Qua khảo sát 500 đối tượng, đánh giá ở mức tốt cũng có tỷ lệ thấp: 23% chuyên nghiệp, 7,4% ngoại ngữ.

Ngành du lịch thành phố vẫn còn chậm chuyển biến trong việc thu hút đầu tư vào các dự án lớn, chưa có những dự án quy mô, đột phá.Nguồn lực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch còn hạn chế, chưa đủ mạnh để thúc đẩy sự phát triển. Việcđầu tư xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù của thành phố triển khai còn chậm, nhất là tuyến du lịch đường sông liên quận, huyện, tỉnh, thành,… Môi trường du lịch tuy được cải thiện nhưng một số nơi vẫn còn nhiều bất cập, nhất là vệ sinh môi trường.

2. Một số giải pháp phát triển du lịch thành phố Cần Thơ

Một là, tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng du lịch

-Chú trọng đầu tư phát triển các khu, điểm du lịchvà sản phẩm du lịch

Để du lịch Cần Thơ phát triển, trở thành trung tâm du lịch của vùng ĐBSCL, cần phải chú trọng đầu tư phát triển hạ tầng du lịch, các khu du lịch, tập trung cho các trọng điểm du lịch là giải pháp then chốt.

Xác định hệ thống các khu, điểm du lịch quan trọng nhất, có vị trí chiến lược đối với việc xây dựng hình ảnh và sản phẩm du lịch của Cần Thơ. Đầu tư, phát triển những sản phẩm du lịch đáp ứng nhu cầu,phù hợp với tính chất đô thị trung tâm vùng.

Lựa chọn địa điểm để hình thành và phát triển khu vực tập trung phát triển các dịch vụ du lịch để thu hút du khách đến Cần Thơ với vai trò đô thị trung tâm của vùng ĐBSCL. Hình thành khu tập trung thu nhỏ trong đó tái hiện lại mô hình với nét lịch sử, văn hoá, đời sống sinh hoạt của người dân các địa phương trong vùngđể giới thiệu với du khách về các đặc điểm của vùng ĐBSCL.

Phát triển, hình thành khu vực tập trung là đầu mối giao thương, mua bán các đặc sản của các tỉnh trong khu vực ĐBSCL, đầu mối quảng bá, xúc tiến các chương trình, tour du lịch, các sản phẩm du lịch của các địa phương trong vùng. Hình thành đầu mối nông sản của vùngtrên cơ sở phát triển chợ nổi Cái Răng nhằm vừa phát triển vừa tái tạo và bảo tồn được văn hóa chợ nổi Cái Răng.

Phát triển nghệ thuật “Đờn ca tài tử”, di sản văn hóa phi vật thể. Tổ chức điểm phục vụ vừa bảo tồn được loại hình nghệ thuật này, vừa đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu, thưởng thức của du khách.

Đầu tư thích hợp hệ thống các công trình văn hóa, thể thao lớn, bao gồm các bảo tàng, nhà hát, rạp chiếu phim, thư viện, công viên, các sân vận động và nhà thi đấu để đa dạng hóa sản phẩm, phát triển du lịch phù hợp với vai trò, vị trí của một đô thị trung tâm vùng.

Phát triển đa dạng các loại sản phẩm du lịch làm tăng thời gian lưu trú và mức chi tiêu của khách du lịch, tăng sự hấp dẫn cho du lịch. Đầu tư các công trình, sản phẩm du lịch để thu hút và giữ chân du khách như: xây dựng khu phức hợp nghỉ dưỡng, khu nghỉ dưỡng sinh thái có các hoạt động vui chơi giải trí, khu trung tâm mua sắm, công viên, quảng trường phục vụ cho hoạt động vui chơi giải trí, các sự kiện lớn của thành phố, khu cắm trại trên các cồn, cù lao, sân golf đẳng cấp quốc tế,…

– Gia tăng nguồn cung khách sạn

Tiếp tục đầu tư phát triển về số lượng và chất lượng hệ thống các cơ sở lưu trú đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du lịch. Đến năm 2020,cần thiết đầu tư xây dựng thêm khách sạn 5 sao, phát triển hệ thống khách sạn 3-4 sao để đáp ứng nhu cầu lưu trú của khách hạng sang, nhất là khách kinh doanh, công vụ. Trong quá trình phát triển sản phẩm lưu trú du lịch, chính quyền cần có biện pháp tăng cường kỷ cương quản lý nhà nướcnhằm bảo đảm thực hiện đúng quy hoạch, bảo toàn được môi trường thiên nhiên, giữ gìn được bản sắc vănhóađịa phương.Trên góc độ thị trường, thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm xây dựng và duy trì hình ảnh sản phẩm lưu trú du lịch Cần Thơ lànơi nghỉ hấp dẫn và an toàn.

-Thu hút các nguồn lực đầu tư hạ tầng du lịch

Thành lập Quỹ Phát triển du lịch Cần Thơ; Chú trọng chính sách thực hiện xã hội hóa trong công tác đầu tư phát triển du lịch, hợp tác công tư (PPP) trong lĩnh vực du lịch; xây dựng cơ chế, chính sách thông thoáng, đơn giản hóa các thủ tục hành chính vềđầu tư các hoạt động kinh doanh du lịch, hạ tầng du lịch; có chính sách ưu đãi tài chính,thuế cho các quận huyện nhằmthu hút đầu tư;tăng cường tính cạnh tranh trong quảng bá cơ hội đầu tư.

Hai là, tăng cường chính sách khuyến khích, hỗ trợ các cơ sở kinh doanh du lịch

Việc khuyến khích, hỗ trợ các cơ sở kinh doanh du lịch sẽgiúp tăng cường năng lực phục vụ du khách,từ đó làm tăng lượng du khách, thời gian lưu trú và mức chi tiêu.Đặc biệt, để thu hút nguồn vốn trong dân đầu tư phát triển du lịch, phải thể hiện rõ lợi ích người dân sẽ được hưởng khi tham gia trong thực tế hoặc có thể tồn tại được từ các HĐDL.

– Hỗ trợ về thủ tục hành chínhvà các hỗ trợ khác nhằm phát triển du lịch

Cần xây dựng “Trung tâm dịch vụ công”cung cấp các dịch vụ hành chính dành cho doanh nghiệp, người dân và các nhà đầu tư,…Khuyến khích các nhà đầu tư, người dân địa phươngthiết lập quan hệ đối tác và với các đối tác quốc tếtrong lĩnh vực du lịch (nhà hàng, khách sạn, lữ hành, vui chơi giải trí,…) đầu tư vào Cần Thơ.

Hỗtrợ, khuyến khích xây dựng khu tập trung kinh doanh món ăn đường phố của địa phương, dịch vụ dịch thực đơn cho các nhà hàng. Hỗ trợđào tạo hướng dẫn viên du lịch (chương trình đào tạo, cơ sở vật chất kỹ thuật,…). Xây dựng chương trình thanh tra, cấp chứng nhận nhà hàng, chứng nhận các dịch vụ du lịch khác và xây dựng đường dây nóng phục vụ du lịch.

-Hỗ trợ về đất đai và đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch

Kết hợp đa dạng các loại hình, phương thức đào tạo,bồi dưỡng, thu hút nguồn nhân lực để bảo đảm cho HĐDLCần Thơđến năm 2020 có đủ lực lượng lao động theo yêu cầu; tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cơ bản, ngắn hạndành cho các đối tượng lao động phổ thông, dân cư tại các điểm du lịch sinh thái, cộng đồng; hỗ trợ các doanh nghiệp, cơ sởdu lịch tự tổ chức các lớp truyền nghề, đào tạo tại chỗ,…

– Hỗ trợ xúc tiến du lịch

 Xây dựng chiến lược xúc tiến du lịch đến năm 2020, tầm nhìn 2030 với các mục tiêu, định hướng cho từng giai đoạn gắn với thị trường truyền thống và các thị trường có tiềm năng. Xây dựng kế hoạch, chương trình quảng bá, xúc tiến về du lịch hàng năm. Thiếp lập các cơ chế phối hợp giữa các cơ quan,ban ngành của thành phố trong quảng bá du lịch.Liên kết chặt chẽ với các thành phố lớn và các địa phương trong vùng ĐBSCLđể lên kế hoạch và tổ chức các hoạt động xúc tiến quảng bá. Xây dựng và duy trì mối quan hệ tốt với các cơ quan quan trọng, đặc biệt là Tổng cục Du lịch Việt Nam, đồng thời đặt gian hàng du lịch tại các địa điểm quan trọng trong và ngoài nước, ví dụ như các phòng du lịch nước ngoài tại các quốc gia thị trường mục tiêu.

Xây dựng hình ảnh du lịch Cần Thơ là một trong những thành phố lớn nhất nằm trực tiếp ngay bên dòng sông Mêkong. Xúc tiến chương trình dán nhãn sinh thái cho sản phẩm, dịch vụ du lịch Cần Thơ, nhãn du lịch bền vững Bông xen xanh.

Xây dựng bản sắc riêng biệt cho thành phố và các quận, huyệncủa Cần Thơ nhằm làm nổi bật giá trị văn hóa, lịch sử và môi trường của thành phốvà mỗi quận, huyện. Khách du lịch sẽ nắm rõ các sản phẩm khác nhau tốt hơn và đáp ứng nhu cầu của họ dễ dàng hơn. Phát triển các sản phẩm du lịch giúp quảng bá các điểm đặc trưng của địa phương (ví dụ, tour du lịch sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, tham quan cùng người dân ở các làng nghề du lịch, hành trình du lịch văn hóa miệt vườn).Đưa những điểm đặc trưng này vào các ấn phẩm quảng bá.

- Hỗ trợ về thông tin du lịch

- Khuyến khích hình thành các hiệp hội, mạng lưới nghề nghiệp

Ba là, đẩy mạnh hình thành và đa dạng các tour du lịch

Cần Thơ là trung tâm vùng ĐBSCL,điểm xuất phát của các tuyến du lịch nội vùng (Cần Thơ – Vĩnh Long – Tiền Giang – Bến Tre – Trà Vinh – Sóc Trăng – Cần Thơ; Cần Thơ – Sóc Trăng – Bạc Liêu – Cà Mau – Hậu Giang – Cần Thơ; Cần Thơ – Cà Mau – Kiên Giang – Cần Thơ ; Cần Thơ – Kiên Giang – An Giang – Đồng Tháp – Vĩnh Long – Cần Thơ). Ngoài ra, Cần Thơ nằm trên tuyến du lịch quốc gia, trục giao thông quốc gia liên vùng và kết nối ĐBSCL với Campuchia và các nước trong tiểu vùng sông Mekong mở rộng qua cửa khẩu Châu Đốc.

Để hình thành và đa dạng các tour du lịch thì giải pháp liên kết, kết nối là một trong những giải pháp then chốt để phát triển du lịch Cần Thơ thành trung tâm du lịch vùng. Liên kết phát triển sẽ có mục tiêu nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh của du lịch Cần Thơ cũng như của cả vùng ĐBSCL, nâng cao hiệu quả công tác quảng bá, xúc tiến, góp phần hạn chế những yếu kém, bất cập hiện nay trong công tác xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù của các địa phương cũng như cả vùng.Cần Thơ cần liên kết để hình thành và đa dạng Tour du lịch như sau:

Hình thành các tour du lịch với sự kết hợp đa dạng loại hình di chuyển như đi ô tô, đi thuyền, đi xe đạp, đi xuồng, ghe… trong một chuyến du lịch nhằm tạo sự trải nghiệm,cảm nhận của du khách về sản phẩm du lịch.

Hình thành các tour du lịch với những sản phẩm du lịch tiềm năng chuyên biệt. Liên kết với các địa phương có thế mạnh,vận dụng những cơ sở và đặc thù của các ngành nông nghiệp, thủy sản thế mạnh của vùng ĐBSCL,để xây dựng các tour du lịch kết hợp mớinhưtham quan, tìm hiểu các quy trình đánh bắt, nuôi trồng, các cơ sở chế biển thủy sản nhằm thu hút đượcnhiều nhóm du kháchvà tăng sự đa dạng.

Hình thành các tour du lịch liên kết với các tỉnh trong vùng để phát triển sản phẩmtheo chuyên đề, có sự đơn giản hóa do sự tương đồng về tài nguyên, văn hóa và điều kiện phát triển. Ngoài ra, cách liên kết sản phẩm có thể thực hiện dọc các tuyến du lịch quốc gia, vùng theo các tuyến quốc lộ và các tuyến sông lớn của vùng. Với tính chất khá khác biệt của từng địa phươngtrong vùng ĐBSCL, việc thực hiện liên kết tạo ra sự bổ sung phù hợpvàtạo sức hấp dẫn.

Hình thành các tour du lịch bằng cách liên kết liên vùngnhằm tạo ra nhiều sản phẩm du lịch chuyên đề và tổng hợp khác nhau.Liên kết với Hà Nội, Đà Nẵng,thành phố Hồ Chí Minh,…và miền Đông Nam Bộ (du kháchhầu hết đều tập trung tại các nơi này) để thu hút khách đến Cần Thơ và điều phối khách cho toàn vùng.Sự liên kết này sẽ tạo ra sự kết hợp bổ sung, nhấn mạnh sự khác biệt và tăng tính hấp dẫn của vùng với cácsản phẩm khác nhau. 

Hình thành tour du lịch quốc tế với các liên kết sản phẩm quốc tế.Cần Thơ có thể trở thành tâm du lịch vùng ĐBSCL với sự thuận lợi ngày càng lớn trong giao thông đường bộ giữa các nước trong khu vựcđể hình thànhcác chương trình kết nối bằng đường bộ giữa ĐBSCL, Campuchia, Thái Lan và Myanmar.Có thể hình thành các tour du lịch quốc tế theo đường hàng không và đường thủy trên cơ sở phát huy tiềm năng sân bay quốc tế và cảng biển quốc tế của Cần Thơ. Đâycũng là thuận lợi lớn cho phát triển du lịch ĐBSCL cũng như cho việc phát triển các sản phẩm liên kết với các quốc gia trong khu vực.

Bốn là, đầu tư phát triển hạ tầng giao thôngphục vụ du lịch và bảo vệ môi trường

Tăng cường đầu tư, cải thiện các tuyến đường giao thông qua các tuyến du lịch quan trọng vùng ĐBSCL và Cần Thơ.Đầu tư phát triển các loại hình di chuyển đến Cần Thơ (đường bộ, đường sắt, đường không, đường thủy,…). Tăng đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông các tuyến gắn với các điểm, cụm, trung tâm du lịch trên địa bàn Thành phố.Cơ sở hạ tầng giao thôngyếu kém chính là rào cản lớn đối với phát triển du lịch,những dự án nâng cấp giao thông sẽ làm tăng đáng kể khả năng kết nối, thu hút khách du lịch tới Cần Thơ.

Từ Cần Thơ xây dựng các tuyến du lịch đường thủy nội vùng kết nối với các địa phương khác. Tăng cường khai thác tiềm năng của Sân bay quốc tế Cần Thơ, cải thiện cơ sở hạ tầng dịch vụ xe khách, xe buýtvàcó các biện pháp giúp khách du lịch, đặc biệt là khách du lịchphương Tây đi lại bằng xe khách, xe buýt dễ dàng, thuận tiện.Phát triển các tuyến du lịch với các phương tiện đặc thù thân thiện với môi trường (du lịch bằng xe đạp, xe điện…)

Cải thiện công tác quản lý môi trường, rác thải tốt hơn, tăng cường kế hoạch chương trình kiểm tra tình trạng môi trường. Xây dựng chương trình thu gom và xử lý rác thải cho chợ nổi Cái Răng và các khu điểm du lịch.Thực hiện hợp tác công tư trong bảo vệ môi trường, có các chương trình, dự án như cùng với người dân, du khách thực các hoạt động vệ sinh môi trường, vớt rác trên sông, trồng cây xanh,…

(1) Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịchCần Thơ:Báo cáo tổng kết hoạt động du lịch năm 2016, 2017.

(2) Nguồn khảo sát thực tế của tác giả đối với 500 đối tượng, gồm: chuyên gia du lịch, doanh nghiệp du lịch, quan chức, người dân địa phương, đối tượng khác (truyền thông, hướng dẫn viên, lao động tại các doanh nghiệp du lịch,…

(3), (4) Nguồn khảo sát 300 du khách trong nước và quốc tế của tác giả.

ThS Ngô Nguyễn Hiệp Phước

Trường Cao đẳng Cần Thơ

 

Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Ngành Du Lịch Việt Nam Hiện Nay

TÓM TẮT:

Từ khóa: Ngành Du lịch, kinh tế mũi nhọn, đầu tư, lợi thế, thực trạng, giải pháp, di sản văn hóa, Việt Nam.

I. Thực trạng của ngành Du lịch Việt Nam

Nước ta có tiềm năng lớn về nhiều mặt để phát triển du lịch, có điều kiện thiên nhiên phong phú, có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, có truyền thống văn hóa lâu đời với nhiều lễ hội, phong tục tập quán tốt đẹp và độc đáo, nhiều di tích lịch sử, tôn giáo, kiến trúc nghệ thuật đặc sắc, giàu bản sắc nhân văn, nguồn lao động dồi dào thông minh, cần cù và giàu lòng nhân ái. Trong những năm gần đây, ngành Du lịch đã có những đổi mới, từng bước phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo điều kiện bước đầu thu hút khách nước ngoài và kiều bào về thăm Tổ quốc, giới thiệu đất nước, con người và tinh hoa của dân tộc Việt Nam với bạn bè quốc tế; đáp ứng một phần nhu cầu tham quan, nghỉ ngơi, giải trí của nhân dân trong nước, bước đầu đã thu được kết quả nhất định về kinh tế. Trong những năm qua, du lịch Việt Nam đang trên đà phát triển, lượng khách quốc tế đến cũng như khách du lịch nội địa ngày càng tăng. Du lịch Việt Nam ngày càng được biết đến nhiều hơn trên thế giới, nhiều điểm đến trong nước được bình chọn là địa chỉ yêu thích của du khách quốc tế.

Điều này được minh chứng thông qua số lượng khách quốc tế đến du lịch Việt Nam tăng trưởng mạnh với tốc độ trung bình trên 12% mỗi năm (ngoại trừ suy giảm do dịch SARS 2003 (-8%) và suy thoái kinh tế thế giới 2009 (-11%). Nếu lấy dấu mốc lần đầu tiên phát động “Năm Du lịch Việt Nam 1990” (khởi đầu thời kỳ đổi mới) với 250.000 lượt khách quốc tế, thì đến nay đã có 10 triệu lượt khách đến Việt Nam trong năm 2016. Khách du lịch nội địa cũng tăng mạnh liên tục trong suốt giai đoạn vừa qua, từ 1 triệu lượt năm 1990 đến 2016 đạt con số 35 triệu lượt. Sự tăng trưởng không ngừng về khách du lịch đã thúc đẩy mở rộng quy mô hoạt động của ngành Du lịch trên mọi lĩnh vực. Thị phần khách quốc tế đến Việt Nam trong khu vực và trên thế giới không ngừng tăng lên. Từ chỗ chiếm 4,6% thị phần khu vực Đông Nam Á; 1,7% thị phần khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và 0,2% thị phần toàn cầu vào năm 1995 đến 2016 Du lịch Việt Nam đã chiếm 8,2% thị phần khu vực ASEAN; 2,4% khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và 0,68% thị phần toàn cầu.

Bên cạnh đó, hệ thống di sản thế giới của Việt Nam được UNESCO công nhận liên tiếp gia tăng về số lượng là các trọng tâm trong thực tiễn xây dựng sản phẩm, thu hút khách du lịch. Các sản phẩm như tham quan cảnh quan vịnh Hạ Long, tham quan di sản văn hoá Huế, phố cổ Hội An, di tích Mỹ Sơn; du lịch mạo hiểm khám phá hang động Phong Nha-Kẻ Bàng, du lịch nghỉ dưỡng biển Mũi Né, Phú Quốc, du lịch sự kiện Nha Trang… ngày càng thu hút được sự quan tâm lớn của khách du lịch trong và ngoài nước. Các lễ hội được tổ chức ở quy mô lớn đã trở thành những sản phẩm du lịch quan trọng, như: lễ hội Chùa Hương, lễ hội bà chúa Xứ, festival Huế, carnaval Hạ Long, lễ hội pháo hoa Đà Nẵng, festival hoa Đà Lạt… Những sản phẩm và những giá trị nổi bật của điểm đến Việt Nam dần được hình thành và định vị tại các thị trường khách du lịch mục tiêu. Các khu, điểm du lịch quốc gia và các đô thị du lịch là những điểm nhấn quan trọng hình thành sản phẩm du lịch được định hướng phát triển tại Chiến lược phát triển ngành Du lịch. Tuy nhiên, hầu như chưa được chú trọng đầu tư đúng mức, đến nay mới chỉ có Hạ Long – Cát Bà, Hội An, Mỹ Sơn là phát huy được tiềm năng du lịch. Một số khu du lịch, công trình nhân tạo khác cũng có sức hút tạo sản phẩm như thủy điện Sơn La, chùa Bái Đính, hầm đèo Hải Vân, khu vui chơi tổng hợp Đại Nam…

Sự phát triển không ngừng của ngành Du lịch góp phần vào GDP Việt Nam, bao gồm cả đóng góp trực tiếp, gián tiếp và đầu tư công là 584.884 tỷ đồng (tương đương 13,9% GDP). Trong đó, đóng góp trực tiếp của du lịch vào GDP là 279.287 tỷ đồng (tương đương 6,6% GDP). Tổng đóng góp của du lịch vào lĩnh vực việc làm toàn quốc (gồm cả việc làm gián tiếp) là hơn 6,035 triệu việc làm, chiếm 11,2%. Trong đó, số việc làm trực tiếp do ngành Du lịch tạo ra là 2,783 triệu (chiếm 5,2% tổng số việc làm). Đồng thời xét về cơ cấu doanh thu ngoại tệ trong xuất khẩu dịch vụ, doanh thu của ngành Du lịch chiếm trên 50% trong xuất khẩu dịch vụ của cả nước, đứng đầu về doanh thu ngoại tệ trong các loại hoạt động dịch vụ “xuất khẩu”, đồng thời có doanh thu ngoại tệ lớn nhất, trên cả các ngành vận tải, bưu chính viễn thông và dịch vụ tài chính. So sánh với xuất khẩu hàng hóa, doanh thu ngoại tệ từ xuất khẩu dịch vụ du lịch chỉ đứng sau 4 ngành xuất khẩu hàng hóa là xuất khẩu dầu thô, dệt may, giầy dép và thủy sản. Thêm nữa, với tư cách là hoạt động “xuất khẩu tại chỗ”, du lịch lại đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn và tạo ra nhiều việc làm có thu nhập cho xã hội mà hiện nay chưa tính toán hết được.

Có thể thấy năm 2016 được ghi nhận là thành công đối với ngành Du lịch, nhưng điều này cũng tạo áp lực cho năm 2017 với kế hoạch 11,5 triệu lượt khách quốc tế, 66 triệu lượt khách du lịch nội địa, với tổng thu dự kiến là 460.000 tỷ đồng.

II. Giải pháp phát triển ngành Du lịch Việt Nam

Mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam sẽ đón 10 – 10,5 triệu lượt khách du lịch quốc tế và 47 – 48 triệu lượt khách du lịch nội địa; tổng thu từ khách du lịch đạt 18 – 19 tỷ USD, đóng góp 6,5 – 7% GDP cả nước; có tổng số 580.000 buồng lưu trú với 35 – 40% đạt chuẩn từ 3 đến 5 sao; tạo ra 3 triệu việc làm trong đó có 870.000 lao động trực tiếp du lịch. Năm 2030, tổng thu từ khách du lịch tăng gấp 2 lần năm 2020. Để đạt được những mục tiêu đề ra, ngành Du lịch cần phải có những giải pháp kịp thời như sau:

Thứ nhất, gia tăng đầu tư nâng cao sức cạnh tranh cho du lịch. Trong đầu tư du lịch thì đầu tư cho cơ sở hạ tầng để phục vụ phát triển du lịch có yếu tố quan trọng đảm bảo thúc đẩy phát triển du lịch, đặc biệt là tạo điều kiện thu hút khách du lịch và cải thiện điều kiện dân sinh cho cộng đồng dân cư. Vì vậy, cần tiếp tục thực hiện chương trình hỗ trợ đầu tư hạ tầng du lịch, đồng thời chú trọng lồng ghép đầu tư hạ tầng với du lịch với các chương trình, đề án phát triển kinh tế-xã hội; trong giai đoạn tới cần chú trọng đầu tư vào các khu điểm du lịch quốc gia để tạo đà bứt phá cho du lịch Việt Nam.

Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực du lịch. Chất lượng nguồn nhân lực du lịch Việt Nam còn kém so với các nước các nước trong khu vực cả về năng lực quản lý, nghiệp vụ chuyên môn và trình độ ngoại ngữ. Vì vậy, nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ trong ngành là nhiệm vụ trong tâm trong định hướng phát triển du lịch trong thời gian tới. Đối với đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, cần phải trang bị kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ du lịch vì phần nhiều cán bộ, công chức ở cấp Tổng cục Du lịch và các địa phương từ các ngành khác, hoặc học các ngành khác nhau, chưa nắm vững được kiến thức chuyên ngành du lịch; nâng cao trình độ nghiệp vụ quản lý nhà nước, đặc biệt là quản lý kinh tế. Đối với nguồn nhân lực các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư chú trọng bồi dưỡng kiến thức thị trường, ngoại ngữ và nghiệp vụ chuyên sâu, nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên và môi trường.

Thứ ba, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò quan trọng của ngành Du lịch trong điều kiện hiện nay. Mặc dù đã có chuyển biến rõ nét bước đầu trong thời gian qua, song cần tiếp tục tuyên truyền làm chuyển biến nhận thức sâu rộng trong xã hội về tầm quan trọng và sự cần thiết của việc phát triển du lịch, nhất là nhận thức tư tưởng của cán bộ quản lý của các cấp các ngành từ Trung ương đến địa phương. Tạo ra sự chuyển biến thực chất trong việc ban hành ban hành chính sách phát triển du lịch, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch ở các địa phương trọng điểm phát triển du lịch.

Thứ năm, đẩy mạnh công tác xúc tiến quảng bá du lịch cùng với nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch mang tính thương hiệu của du lịch Việt Nam, bởi đây là biện pháp quan trọng để tạo lập hình ảnh và vị thế du lịch trong và ngoài nước nhằm thu hút khách. Đồng thời, cần thiết lập văn phòng đại diện du lịch Việt Nam tại các thị trường trọng điểm du lịch.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Trang web Vietnambiz.vn

2. Trang web Vietnamtourism.gov.vn

3. Giáo trình Kinh tế vi mô – Học viện Tài chính

4. Tạp chí Tài chính

CURRENT SITUATION AND SOLUTIONS TO PROMOTE THE GROWTH OF VIETNAM’S TOURISM INDUSTRY

MA. NGUYEN THI THU HUONG

Faculty of Business Management, University of Economic and Technical Industries

ABSTRACT:

Luận Văn Sầm Sơn (Thanh Hóa): Tiềm Năng, Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Du Lịch

o gồm: hệ thống giao thông, mạng lưới điện, cấp thoát nước, bưu chính viễn thông chính là một tiềm năng du lịch nhân văn, đồng thời nó cũng phản ánh thực trạng đầu tư cho phát triển du lịch ở Sầm Sơn. 2.3.1.1. Giao thông Tính từ năm 2000 – 2008, khu du lịch Sầm Sơn đã tiến hành cải tạo, nâng cấp và mở rộng nhiều tuyến đường cũ, mở mang thêm một số đường mới. Vì vậy, điều kiện giao thông ở Sầm Sơn và các vùng phụ cận ngày một khang trang hơn. Theo thống kê của phòng thống kê UBND thị xã Sầm Sơn, hiện nay đường giao thông trên địa bàn đã có 80% diện tích đã được nhựa hoá – bê tông hoá (trong đó khu vực nội thị và trên núi Trường Lệ đạt 100%). Năm 2007, tỉnh Thanh Hoá và thị xã Sầm Sơn đã đầu tư gần 100 tỷ đồng nâng cấp các tuyến đường 47, đường Nguyễn Du, đường Thanh Niên, đường Hồ Xuân Hương, hệ thống chiếu sáng ở đường Lê Lợi, đường Hồ Xuân Hương và trên núi Trường Lệ nhằm phục vụ lễ hội 100 năm du lịch Sầm Sơn. 2.31.2. Mạng lưới điện Hiện nay, toàn thị xã có 115 trạm biến áp với tổng công suất 115.000 KV; 13,5 km đường dây 22KV và hơn 70 km đường dây 0,4KV. Năm 2003, trạm biến thế 110KV được hoàn thành. Nhờ đó, nguồn điện đã đưa đến từng hộ gia đình, từng cơ sở sản xuất kinh doanh đảm bảo cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trên địa bàn, hạn chế mức thấp nhất tình trạng quá tải trong những ngày cao điểm, đặc biệt là thời điểm chính giữa mùa du lịch 2.3.1.3. Về cấp thoát nước Để đáp ứng đầy đủ nguồn nước trong sạch cho nhân dân và du khách tại Sầm Sơn, công ty nước sạch Thanh Hoá đã đầu tư hệ thống ống dẫn nước đến từng khu vực, phường, xã thôn, xóm. Trữ lượng nước dồi dào, chất lượng nước đảm bảo cung cấp đầy đủ (kể cả những tháng cao điểm). Tuy nhiên, hiện tại vẫn còn tình trạng sử dụng nước giếng khoan để giảm chi phí đầu vào ở một số đơn vị, cơ sở kinh doanh, gây ảnh hưởng không tốt đến du lịch Sầm Sơn. Hệ thống thoát nước thải và rác thải: Mặc dù có nhiều cố gắng trong đầu tư nâng cấp nhưng hệ thống thoát nước – rác thải ở Sầm Sơn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng nhu cầu cho một đô thị du lịch. Tình trạng nước thải sinh hoạt tại một số khách sạn, nhà nghỉ, khu dân cư chưa qua xử lý đều tự ngấm vào lòng đất. Hệ thống thu gom và xử lý rác thải chung của thị xã đã có quy hoạch nhưng vẫn chưa được quan tâm đầu tư kịp thời. 2.3.1.4. Bưu chính viễn thông Năm 2002, toàn thị xã có 2.110 máy điện thoại, trong đó có 78% là máy tư nhân. Đến năm 2004, tổng số máy nâng lên là 3600, bình quân 7 máy/100 dân. Đến năm 2008, mật độ điện thoại đạt 9,8 máy/100 dân. Thị xã có 28 đại lý, điểm truy cập Internet với 350 máy chất lượng cao, tốc độ truy cập nhanh. Cùng với điện thoại cố định, các mạng điện thoại di động đều được phủ sóng và đầu tư nâng cao khả năng kết nối, truyền tải, đảm bảo thông suốt cho du khách và nhân dân, khắc phục tình trạng quá tải trong thời gian cao điểm. 2.3.2.Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch 2.3.2.1. Hệ thống cơ sở lưu trú du lịch Hệ thống cơ sở lưu trú du lịch bao gồm khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ, trung tâm điều dưỡng, làng du lịch…phát triển tương đối nhanh, phù hợp với quy luật cung cầu và quy luật phát triển của du lịch. Bªn c¹nh hÖ thèng c¸c kh¸ch s¹n, nhµ nghØ, ë SÇm S¬n cã 2 c¬ së ®iÒu d­ìng chÝnh lµ: Trung t©m phôc håi chøc n¨ng (Bé C”ng NghiÖp) vµ ViÖn ®iÒu d­ìng Trung ¦¬ng (Bé Y tế). Ngoµi ra cßn cã c¸c c¬ së ®iÒu d­ìng kh¸c, chñ yÕu cña qu©n ®éi vµ c”ng an, giao th”ng nh­: Nhµ ®iÒu d­ìng Phßng kh”ng, kh”ng qu©n, viÖn ®iÒu d­ìng Tæng côc hËu cÇn, nhµ ®iÒu d­ìng Bé t­ lÖnh l¨ng, ®oµn an d­ìng 296, trung t©m ®iÒu d­ìng giao th”ng vËn t¶i… Xét về số lượng và chất lượng cơ sở lưu trú ở Sầm Sơn: Bảng 2.4: So sánh cơ sở lưu trú giai đoạn 1994 – 1999 và 2000 – 2005 ở Sầm Sơn Giai đoạn Số cơ sở lưu trú Số phòng Số phòng đạt chuẩn quốc tế 1994 – 1999 216 3697 1100 2000 – 2005 301 5937 3968 Tăng (lần) 1,4 1,6 3,6 Nguån: T¸c gi¶ tæng hîp trªn c¬ së t­ liÖu cña Së V¨n ho¸ – thÓ thao – du lÞch Thanh Ho¸ Bảng 2.4 cho thấy trong giai đoạn 2000 – 2005, số lượng cơ sở lưu trú tăng so với giai đoạn từ 1994 – 1999 là xấp xỉ 1,4 lần, số phòng tăng gấp 1,6 lần, trong đó đặc biệt là số phòng đạt chuẩn quốc tế đã tăng gấp giai đoạn trước tới 3,6 lần. Nếu như giai đoạn 1994 – 1999, số phòng đạt chuẩn quốc tế chỉ khoảng 29,8% số phòng lưu trú, thì đến giai đoạn 2000 – 2005, số phòng đạt chuẩn quốc tế đã vươn lên chiếm tới 66,8% số phòng lưu trú của thị xã. Điều đó phản ánh thực trạng cơ sở lưu trú ở Sầm Sơn tính từ năm 2000 trở đi không chỉ tăng lên về mặt số lượng mà còn không ngừng nâng lên cả về mặt chất lượng so với các năm trước. Trong đó vấn đề chất lượng phục vụ du khách của các cơ sở lưu trú ngày càng được đề cao. Bảng 2.5: Hiện trạng khách sạn ở Thanh Hoá và Sầm Sơn năm 2005 Địa bàn Tổng số cơ sở Quy mô (phòng) 1. Toàn tỉnh Thanh Hoá 343 6829 Xếp sao 16 889 Đủ tiêu chuẩn tối thiểu 135 3172 2. Thị xã Sầm Sơn 301 5937 Xếp sao 12 779 Đủ tiêu chuẩn tối thiểu 112 2837 Nguồn: PhòngThống kê – Uỷ ban nhân dân thị xã Sầm Sơn Theo bảng 2.5: tính đến năm 2005, Sầm Sơn có 301 cơ sở lưu trú với 5937 phòng (14.180 giường khách). Số cơ sở lưu trú bằng 87,8% số cơ sở lưu trú toàn tỉnh Thanh Hóa, số phòng khách của Sầm Sơn chiếm tới 87% số phòng khách cả tỉnh Thanh Hoá. Trong đó, số cơ sở được xếp sao chiếm 75%, số phòng được xếp sao chiếm 87,6% toàn tỉnh. Qua đó có thể thấy, Sầm Sơn chính là trung tâm du lịch lớn nhất của Thanh Hoá với số lượng cơ sở lưu trú được đầu tư xây dựng nhiều và chất lượng nhất. Tuy vậy, năm 2005, Sầm Sơn có 301 cơ sở lưu trú mà chỉ có 12 cơ sở được xếp sao, tức là chỉ chiếm 3,98% số cơ sở toàn thị xã, còn tới 112 cơ sở mới đạt mức tiêu chuẩn tối thiếu chiếm tới 37,2%, gấp hơn 9 lần số cơ sở xếp sao. Điều đó chứng tỏ cho đến năm 2005, các cơ sở lưu trú ở đây mặc dù so với các năm trước chất lượng có nâng lên nhưng chưa đồng đều, chủ yếu chỉ đáp ứng được đối tượng khách bình dân. Tính đến thời điểm 2008, số cơ sở lưu trú ở Sầm Sơn gấp 2,2 lần so với Cửa Lò – Nghệ An. Trong đó, 14 khách sạn được xếp sao (từ 1 đến 2 sao) và 132 cơ sở lưu trú đạt tiêu chuẩn tối thiểu. Về quy mô, các cơ sở lưu trú ở Sầm Sơn: Quy mô phần lớn là vừa và nhỏ: Năm 2005, số cơ sở lưu trú từ 10 -29 phòng là 127 cơ sở chiếm 42%, cơ sở lưu trú dưới 10 phòng là 113 cơ sở chiếm 37,5%, còn lại cơ sở lưu trú từ 30 -180 phòng chỉ có 61 cơ sở chiếm 20,5% tổng số cơ sở lưu trú của thị xã. Hình 2.2: Cơ cấu cơ sở lưu trú ở Sầm Sơn (2005) (xét theo quy mô) Nguồn: Tác giả xây dựng trên cơ sở tư liệu phòng thống kê – UBND thị xã Sầm Sơn Về quản lý (hoặc sở hữu) cơ sở lưu trú: Trong cơ chế mới, các cơ sở lưu trú thuộc cơ quan Trung Ương và các bộ, ngành đang từng bước chuyển sang kinh doanh bằng cách đón khách kinh doanh vào các ngày nghỉ cuối tuần. Bên cạnh đó, thị xã Sầm Sơn cũng tích cực huy động các thành phần kinh tế tham gia hoạt động du lịch. Vì vậy, các doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực du lịch đã có nhiều cơ hội phát triển. Năm 2005, số cơ sở lưu trú do thị xã quản lý, chủ yếu là của tư nhân có 233 cơ sở, chiếm 77,4% tổng số cơ sở toàn thị xã, nhưng do quy mô nhỏ nên chỉ đáp ứng được 3402 phòng (57,35) và 8405 giường (59,2%) trong mùa du lịch (xem bảng 2.6). Bảng 2.6: Cơ sở lưu trú ở Sầm Sơn phân theo cấp quản lý (2005) Loại cơ sở lưu trú Số lượng (cơ sở) Số phòng Số giường Tổng số cơ sở lưu trú toàn thị xã (2005) 301 5937 14.180 Số cơ sở thuộc Trung ương và n­íc bạn (Lào) 50 2063 4644 Số cơ sở thuộc tỉnh Thanh Hoá 18 472 1132 Số cơ sở thị xã hiện có 233 3402 8405 Nguån: Phßng thèng kª – UBND thÞ x· SÇm S¬n Bảng 2.7: Các cơ sở lưu trú phân theo loại hình kinh doanh phục vụ năm 2007 TT Loại hình Tổng số cơ sở Tổng số phòng 1 Cơ sở lưu trú thuộc cơ quan Trung ương, bộ, ngành 32 1.512 2 Cơ sở lưu trú thuộc doanh nghiệp tư nhân 60 2.304 3 Cơ sở lưu trú tư nhân 206 2.754 4 Nhà ở kết hợp kinh doanh 16 46 Tổng 314 6.616 Nguồn: Phòng thống kê Thị xã Sầm Sơn Theo bảng 2.7 đến năm 2007, số cơ sở lưu trú do thị xã quản lý gồm cơ sở của doanh nghiệp tư nhân, cơ sở lưu trú tư nhân, nhà ở kết hợp kinh doanh đã có 282 cơ sở, tăng 49 cơ sở so với năm 2005. Điều đó càng chứng tỏ chủ trương khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia kinh doanh du lịch là đúng đắn và phù hợp với nền kinh tế năng động hiện nay. Nhờ vậy, các khách sạn, nhà nghỉ, phòng khách có điều kiện nâng lên cả về số lượng lẫn chất lượng. Nếu như năm 2000 mới có 216 cơ sở với 3.697 phòng và 10.350 giường, thì đến năm 2008 đã có 314 cơ sở với 6.616 phòng, 15.180 giường. Nhiều cơ sở có trang bị nội thất cao cấp, chất lượng phục vụ tốt nên du khách đến với Sầm Sơn ngày một đông và số lượng ngày lưu trú dài hơn (Năm 2007 đón được 1.296.500 lượt khách, bình quân khách lưu trú 2,64 ngày/đợt, so với 352.700 lượt khách, ngày lưu trú bình quân 2,3 ngày/đợt vào năm 2000. Như vậy, số lượt khách năm 2007 đã tăng gần 3,68 lần so với lượt khách năm 2000, số ngày lưu trú của du khách năm 2008 cũng kéo dài hơn). Bảng 2.8: Các cơ sở lưu trú phân theo chất lượng dịch vụ năm 2007 TT Chất lượng Tổng số cơ sở Tổng số phòng 1 Cơ sở được xếp tiêu chuẩn sao 15 975 2 Đạt tiêu chuẩn tối thiểu 114 3.078 3 Chưa đạt tiêu chuẩn (chưa phân loại) 185 2.563 Tổng 314 6.616 Nguồn: Phòng thống kê – UBND thị xã Sầm Sơn Nhìn chung, hệ thống cơ sở lưu trú du lịch ở Sầm Sơn khá phong phú, đa dạng về loại hình và quy mô, phần nào đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch, tuy nhiên các khách sạn có quy mô lớn (trên 100 phòng) vẫn còn ít (có 4 cơ sở) so với Cửa Lò (5 cơ sở). Dịch vụ trong các khách sạn còn hạn chế, chủ yếu là dịch vụ lưu trú và ăn uống. Mặt khác, trên 70% là khách sạn, nhà nghỉ tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ quản lý còn yếu dẫn đến hiệu quả kinh doanh không cao, công tác đầu tư nâng cấp chưa được quan tâm đúng mức. Đây là một trong những vấn đề hết sức nan giải trong quá trình phát triển và hội nhập của du lịch Sầm Sơn. 2.3.2.2. Hệ thống cơ sở dịch vụ ăn uống – nhà hàng, khu vui ch¬i, gi¶i trÝ Trong thời gian qua, hệ thống cơ sở ăn uống – nhà hàng ở Sầm Sơn phát triển tương đối nhanh, năm 2000 mới có 244 cơ sở, đến năm 2004 đã có 412 cơ sở, chưa kể đến hàng trăm kiốt và hàng quán nhỏ lẻ dọc các đường phố và bãi biển. Những năm gần đây, Sầm Sơn bắt đầu xây dựng và phát triển các khu thể thao, vui chơi, giải trí, khu nghỉ dưỡng cao cấp, làm phong phú thêm dịch vụ hỗ trợ kéo dài thời gian lưu trú của khách như: Khu vui chơi giải trí huyền thoại Độc Cước, khu Vạn Chài Resort, vũ trường, quán bar – karaoke với tổng số vốn lên hàng trăm tỷ đồng, chiếm 79% tổng số vốn đầu tư trong toàn tỉnh. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp của nước ngoài chưa có, mới chỉ dừng lại ở đầu tư trong nước và một số dự án của Việt Kiều nên quy mô dự án chưa xứng tầm với điểm du lịch đầy hấp dẫn như Sầm Sơn. Năm 2008, hệ thống dịch vụ đang bố trí sắp xếp tạm thời trên bãi biển, hành lang các trục đường, trên núi Trường Lệ và khu sinh thái Quảng Cư. Thực tế những năm qua tuy có nhiều cố gắng trong phục vụ du khách, nhưng các hộ kinh doanh vẫn lấn chiếm, cơi nới không theo đúng quy hoạch, làm mất mĩ quan đô thị và gây rối trật tự sản xuất kinh doanh trên địa bàn thị xã. Bên cạnh việc các kiốt kinh doanh trên khuôn viên bãi biển hiện nay vẫn ở tình trạng tạm thời, chưa được tỉnh phê duyệt, hiện tượng hàng quán dọc một số trục đường phát sinh nhiều, lấn chiếm vỉa hè, thậm chí cả phần lát gạch block dành cho khách đi bộ, kinh doanh không đúng mặt hàng, vị trí kinh doanh chưa đúng quy định của UBND thị xã hàng năm còn rất phổ biến. 2.3.2.3. Phương tiện vận chuyển khách Để góp phần giải quyết nhu cầu đi lại ngày cµng nhiều của khách du lịch và nhân dân, năm 2005, Sầm Sơn đã khai trương hoạt động bến xe chất lượng cao phục vụ các tuyến nội và ngoại tỉnh. Không dừng lại ở đó, từ năm 2007 trở đi, thị xã đã phối hợp với công ty cổ phần xe khách Thanh Hoá, công ty cổ phần taxi Mai Linh më các tuyến xe bus Rừng Thông – Thanh Hoá – Sầm Sơn, tổ chức chạy các tour du lịch lữ hành từ Sầm Sơn đến các địa điểm danh lam thắng cảnh nổi tiếng trên địa bàn Thanh Hoá. Ngoài ra, Sầm Sơn còn có hơn 600 xe xích lô, 10 xe điện và hàng trăm xe đạp đôi phục vụ du khách suốt 24/24h. 2.3.2.4. Hệ thống dịch vụ đảm bảo khác Cùng với việc ngày càng nâng cao chất lượng phục vụ du lịch, vấn đề bảo đảm an toàn khi tham quan, tắm biển của du khách cũng hết sức được quan tâm chú trọng. Ở Sầm Sơn hàng năm luôn duy trì đội cứu hộ từ 27 – 30 người, 3 tàu cứu hộ luôn thường trực trên các bãi tắm để làm nhiệm vụ hướng dẫn, cứu hộ khách, nhằm hạn chế mức độ rủi ro thấp nhất đối với du khách. Mặc dï vËy, vµo mïa cao ®iÓm, SÇm S¬n vÉn x¶y ra mét sè vô tö vong do kh¸ch b¬i qu¸ xa khu vùc c¶nh b¸o nguy hiÓm. 2.3.3. Sản phẩm du lịch hiện có ở Sầm Sơn 2.3.3.1. Loại hình du lịch Sầm Sơn có các loại tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn rất phong phú nên có điều kiện phát triển đa dạng, đan xen các loại hình du lịch như: Du lịch tắm biển, nghỉ mát và dưỡng sức: chñ yÕu dùa vµo ®iÒu kiÖn b·i biÓn dµi 9km tõ cöa Híi ®Õn nói Tr­êng LÖ, ngoµi ra gÇn ®©y thÞ x· còng b¾t ®Çu khai th¸c mét sè b·i t¾m nhá cßn hoang s¬ n”m r¶i r¸c theo ch©n nói Tr­êng LÖ, thêi ®iÓm thÝch hîp cho lo¹i h×nh du lÞch nµy lµ kho¶ng th¸ng 4 ®Õn th¸ng 9. Du lịch văn ho¸ – thể thao và lễ hội: Lo¹i h×nh du lÞch nµy ë SÇm S¬n dùa vµo c¸c ho¹t ®éng du lÞch t×m hiÓu phong tôc tËp qu¸n cña ng­ d©n: t×m hiÓu lµng v¨n ho¸ TriÒu D­¬ng, L­¬ng Trung, v¨n ho¸ truyÒn thèng ven s”ng M·, th­ëng thøc c¸c mãn ¨n ®Æc s¶n….Ngoµi ra, du kh¸ch cã thÓ tham gia c¸c ho¹t ®éng thÓ thao, vui ch¬i gi¶i trÝ: bãng chuyÒn b·i biÓn, bãng ®¸ b·i biÓn, c©u c¸, l­ít v¸n, leo nói m¹o hiÓm… Du lÞch lÔ héi th­êng diÔn ra chñ yÕu vµo muµ xu©n, l­îng kh¸ch lín nhÊt lµ th¸ng giªng, cßn c¸c ho¹t ®éng thÓ thao l¹i th­êng diÔn ra vµo mïa hÌ cã ®”ng kh¸ch du lÞch tíi nghØ m¸t kÕt hîp vui ch¬i, gi¶i trÝ. Du lịch tham quan, vãn cảnh danh thắng, di tích, làng nghề: Du kh¸ch t×m ®Õn víi lo¹i h×nh du lÞch nµy th­êng lµ nh÷ng ®èi t­îng cã tr×nh ®é v¨n ho¸ cao, nh÷ng ng­êi tÝch t×m hiÓu ®Æc tr­ng v¨n ho¸ vïng miÒn hoÆc løa tuæi trung niªn cã t©m lý h­íng néi. C¸c ®iÓm di tÝch th­êng ®uîc ghÐ th¨m lµ:: ®Òn §éc C­íc, ®Òn C” Tiªn, hßn Trèng M¸i, ®Òn bµ TriÒu, ®Òn T” HiÕn Thµnh…. Du lịch sinh thái (nhà vườn, rừng cây, đảo, hồ nước): Dùa vào c¶nh quan thiªn nhiªn vµ kh”ng khÝ trong lµnh cña vïng hå n­íc lî Qu¶ng C­, thÞ x· SÇm S¬n ®· x©y dùng khu du lÞch sinh th¸i Qu¶ng C­ ®Ó phôc vô nhu cÇu nghØ d­ìng ch÷a bÖnh cña kh¸ch du lÞch. Du lịch hội nghị, hội thảo, trại sáng tác: tuy SÇm S¬n ch­a cã nh÷ng trung t©m héi nghÞ bÒ thÕ nh­ng hiÖn t¹i c¸c héi tr­êng lín trong thÞ x· ®· ®¶m nhËn tæ chøc nh÷ng héi th¶o võa vµ nhá. Phong c¶nh nªn th¬, kho¸ng ®¹t, khÝ hËu trong lµnh cña biÓn chÝnh lµ ®Þa ®iÓm phï hîp ®Ó më tr¹i s¸ng t¸c cho c¸c v¨n nghÖ sÜ s¸ng t¹o ra nhiÒu t¸c phÈm ®éc ®¸o. 2.3.3.2. Các dịch vụ du lịch phục vụ du khách – Dịch vụ lưu trú: Sầm Sơn có hệ thống cơ sở lưu trú đa dạng về loại hình, phong phú về kiểu dáng, đáp ứng mọi tiêu chuẩn, phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng về sở thích và nguồn tài chính khác nhau. Hiện nay, Sầm Sơn có khả năng đáp ứng cùng một lúc khoảng 20.000 đến 30.000 lượt khách từ bình dân đến cao cấp tới tắm biển, nghỉ mát và tham quan danh thắng. – Dịch vụ ăn uống: Phong phú về thực đơn, đa dạng về chủng loại từ bình dân đến cao cấp. Du khách có thể thưởng thức các món ăn đồng quê, ẩm thực, đặc sản theo vùng (đồng bằng, miền núi, miền biển), theo ba miền Bắc, Trung, Nam và các món ăn Á, Âu… – Dịch vụ vận chuyển khách: Du khách có nhu cầu đi lại, tham quan, vãn cảnh từ Sầm Sơn đến các điểm danh lam thắng cảnh trên địa bàn toàn tỉnh, hay trong phạm vi Sầm Sơn bằng các phương tiện xe khách, xe bus, taxi chất lượng cao, xích lô, xe điện và xe đạp cho thuê đều rất thuận lợi. – Dịch vụ hàng lưu niệm, đặc sản địa phương: Sầm Sơn có rất nhiều quầy bán hàng lưu niệm, bán hải sản phục vụ cả ngay lẫn đêm trên các trục đường, các cơ sở lưu trú du lịch với nhiều mặt hàng phong phú. Hấp dẫn nhất đối với du khách là hải sản khô (tôm, mực, cá, rau câu…) và các vật dụng, đồ trang sức, đồ thủ công mỹ nghệ làm tại địa phương từ cây dừa, cọ, tre, nứa và nguyên liệu từ biển (san hô, vỏ tôm, sò, ốc, sinh vật biển tận thu…) – Dịch vụ vui chơi giải trí: Dạo chơi trên các khuôn viên bãi biển, tìm hiểu huyền thoại thần Độc Cước, tham quan khu sinh thái Quảng Cư, khu du lịch văn hoá núi Trường Lệ, khám phá huyền tích Sầm Sơn. Du khách có thể tham gia leo núi, cắm trại, câu cá, bơi thuyền, chụp ảnh lưu niệm, tắm biển, ca nhạc, tham gia các trò chơi có thưởng, các môn thể thao: Bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, tenis… – Các dịch vụ khác: Đến với Sầm Sơn, du khách được tư vấn hướng dẫn và tham gia các Tour du lịch, chụp ảnh, thuê xe đạp, phao bơi, áo tắm, tắm nước ngọt, trông giữ xe cùng các dịch vụ văn hoá tâm linh. 2.3.4. Lao động phục vụ du lịch Trong những năm qua, lao động của ngành du lịch ở Sầm Sơn không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch. Tuy vËy, vÒ c¬ b¶n lao ®éng trong ngµnh du lÞch cña SÇm S¬n phÇn lín ch­a ®­îc ®µo t¹o nghiÖp vô. B¶ng 2.9 cho thÊy n¨m 2000 có 1.385 lao động làm việc trong các cơ sở lưu trú du lịch, chiếm 59,6% tổng số lao động trong toàn ngành du lịch Thanh Hoá, nh­ng chØ cã 256 lao động được đào tạo (chiếm 18% tæng sè lao ®éng du lÞch toµn thÞ x·), cßn tíi 1129 lao động chưa qua đào tạo (chiếm 82%). Theo thèng kª cña Phßng Thèng kª UBND thÞ x· SÇm S¬n, tÝnh ®Õn ngµy 31/12/2005, tæng sè lao ®éng trùc tiÕp trong ngµnh du lÞch SÇm S¬n t¨ng lªn 2.608 lao ®éng (chiÕm 60% tæng sè lao ®éng du lÞch toµn tØnh Thanh Ho¸) trong ®ã 33,4% lao ®éng ®· qua ®µo t¹o båi d­ìng nghiÖp vô, cßn l¹i 66,6% ch­a qua ®µo t¹o. Nh­ vËy, mÆc dï sè l­îng lao ®éng ®­îc ®µo t¹o n¨m sau t¨ng h¬n n¨m tr­íc nh­ng so víi yªu cÇu ph¸t triÓn thùc tÕ vµ so víi sè l­îng lao ®éng du lÞch toµn thÞ x· th× con sè ®ã ph¶n ¸nh chÊt l­îng phôc vô du lÞch cßn thÊp, ch­a ®­îc ®µo t¹o chuyªn m”n c¬ b¶n [61, tr.10-11]. Nguyªn nh©n chÝnh cña t×nh tr¹ng trªn lµ do ®Æc ®iÓm cña du lÞch Thanh Ho¸ vÉn cßn mang tÝnh mïa vô nªn viÖc thu hót lao ®éng cã tay nghÒ cao lµm æn ®Þnh trong c¸c c¬ së l­u tró lµ rÊt khã, nhÊt lµ lao ®éng cã tr×nh ®é cao ®¼ng vµ ®¹i häc chiÕm tû lÖ rÊt Ýt. Tõ n¨m 2000 ®Õn n¨m 2007, thÞ x· chñ ®éng phèi hîp víi Së Du lÞch Thanh Hãa vµ c¸c tr­êng nghiÖp vô tæ chøc cho ng­êi lao ®éng tham gia c¸c líp båi d­ìng nghiÖp vô ng¾n ngµy vµ c¸c líp n©ng cao kiÕn thøc v¨n hãa giao tiÕp øng xö trong ho¹t ®éng du lÞch. B¶ng 2.9: Lao ®éng trùc tiÕp trong ngµnh du lÞch SÇm S¬n giai ®o¹n (2000-2005) Thị xã Sầm Sơn Tổng số lao động 1.385 1.412 1.495 1.541 1.672 2.608 Đã qua đào tạo 256 270 299 308 351 872 Chiếm tỷ lệ % 18 19 20 20 21 33,4 Chưa qua đào tạo 1.129 1.142 1.196 1.233 1.321 1.744 Chiếm tỷ lệ % 82 81 80 80 79 66,6 Nguồn: Sở Văn hoá – thể thao – du lịch Thanh Hoá 2.3.5. Khách du lịch đến Sầm Sơn: 2.3.5.1. Lượng khách a. Lượng khách nội địa Từ năm 1989 đến nay, Sầm Sơn đón chủ yếu là khách nội địa từ thủ đô Hà Nội và các tỉnh phía Bắc. Trong thời kỳ đổi mới, điều kiện vật chất được nâng cao, nhu cầu đi du lịch ngày càng tăng, lượng khách đến Sầm Sơn ngày càng đông, mang lại nguồn thu đáng kể cho địa phương. Năm 2005, thị xã Sầm Sơn đón được 649.040 lượt khách nội địa, tăng 42% so với năm 2001, chiếm 65% trên tổng lượng khách nội địa đến Thanh Hoá. Tốc độ tăng trưởng bình quân 18,3% năm. Thời gian lưu trú bình quân 2,1 ngày với mức chi tiêu bình quân từ 130 – 180 nghìn đồng/người/ngày chủ yếu cho ăn uống lưu trú và dịch vụ khác. Bảng 2.10: Số lượt khách du lịch đến Sầm Sơn từ 2001 đến 2005 Năm Khách 2001 2002 2003 2004 2005 TĐTT bình quân Khách nội địa đến Sầm Sơn 331.180 357.300 399.480 383.826 649.040 18,3% Khách nội địa đến tỉnh Thanh Hoá 482.397 561.135 631.794 700.000 1.000.000 19,9% Tỷ lệ Sầm Sơn so với tỉnh Thanh Hoá 68,7% 63,7% 63,2% 54,8% 64,9% Nguồn: Phòng Thống kê – Uỷ ban nhân dân thị xã Sầm Sơn. Qua bảng trên ta thấy, khách đến Sầm Sơn từ 2001 – 2005, năm sau cao hơn năm trước. Nếu so sánh với những năm trước (1989 – 2000) thì lượng khách tăng mạnh hơn. Từ năm 2006, Sầm Sơn đón được 924.000 lượt khách nội địa, tăng 42% so với năm 2005. Năm 2007 việc tổ chức thành công lễ hội 100 năm du lịch Sầm Sơn đón được 1.300.000 lượt khách, tăng 40% so với năm 2006. Đến năm 2008, có 1.400.000 lượt khách tới Sầm Sơn tăng 7,7% so với năm 2007. b. Lượng khách du lịch quốc tế Khách du lịch quốc tế đến Sầm Sơn có xu hướng tăng trong những năm gần đây. Tuy vậy số lượng khách vẫn còn hạn chế. Năm 2000, Sầm Sơn đón được 754 lượt khách quốc tế, năm 2005 đón được 1.420 lượt khách quốc tế, tăng 1,9 lần so với năm 2000. Đây là dấu hiệu đáng mừng đối với du lịch Sầm Sơn, trong đó điều kiện cơ sở vật chất chậm phát triển, chưa có những sản phẩm du lịch đặc sắc thu hút khách quốc tế. 2.3.5.2. Ngày lưu trú của khách Do tập quán du lịch và tác động của khí hậu nên khách nội địa chủ yếu đến Sầm Sơn vào mùa hè, tập trung ở các tháng 5,6,7 và 8 (chiếm 85% tổng lượng khách đến trong năm). Đặc biệt trong hai tháng 6 và 7, vào những ngày nắng nóng cao điểm, lượng khách thường bị quá tải gây nên hiện tượng “quá tải tức thời” [25, tr.63] Thời gian lưu trú của khách đến Sầm Sơn ngày càng dài hơn so với những năm 90 của thế kỉ XX. Trước đây, du khách chỉ ở trung bình 1,55 ngày/đợt nhưng hiện nay là 2,64 ngày đợt. Nguyên nhân của hiện tượng này là do đời sống vật chất của người dân ngày càng tốt hơn, ngày nghỉ cuối tuần dài hơn, đồng thời du lịch Sầm Sơn lại không ngừng phát triển đa dạng hoá các loại hình, các sản phẩm du lịch, tăng cường chiều sâu nâng cấp chất lượng phục vụ để hấp dãn du khách. Việc khách ở lại Sầm Sơn lâu hơn sẽ giúp tăng tần suất sử dụng phòng khách sạn và các dịch vụ. Nhờ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch. 2.3.5.3. Cơ cấu khách Cơ cấu khách nội địa có sự thay đổi, bên cạnh du khách đến từ Hà Nội thì khách ở Bắc Trung Bộ và các tỉnh phía Bắc khác cũng có xu hướng tăng lên. Khách đến Sầm Sơn chủ yếu là từ miền Bắc, điều này có thể lý giải là do nguyên nhân không gian quá xa và một phần do lực hút của du lịch Sầm Sơn chưa thật hấp dẫn. Thậm chí ngay cả trong tỉnh, lượng khách đến Sầm Sơn cũng có chiều hướng giảm, do mong muốn được đi đến những địa điểm du lịch mới lạ của con người. Lượng khách quốc tế đến Sầm Sơn vẫn còn ít, chỉ bằng 1% khách nội địa (hình 2.4). Cơ cấu khách quốc tế thay đổi không lớn, chủ yếu khách đến từ Thái Lan, Lào, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và một số nước Đông Âu…Ngoài ra còn một bộ phận khách là Việt kiều. Thời gian lưu trú của khách quốc tế trung bình từ 2,5 -3 ngày, chi tiêu khoảng 60 USD/người/ngày. Khách du lịch có quốc tịch Anh, Pháp, Canađa gần đây có xu hướng tăng lên. Một trong những nguyên nhân có thể do thị hiếu du lịch của các nước phát triền là chuyển từ khu vực hiện đại sang khu vực có thiên nhiên tươi đẹp, hoang sơ, ít có bàn tay can thiệp của con người. Khách trong nước Khách quốc tế. 99% 1 % Hình 2.4: Cơ cấu khách du lịch đến Sầm Sơn năm 2008 Nguồn: Phòng Thống kê – UBND thị xã Sầm Sơn 2.3.5.4. Høng thó cña kh¸ch du lÞch ®èi víi SÇm S¬n (2008) Sau khi tiến hành điều tra xã hội học đối với 100 du khách đến biển Sầm Sơn vào hè tháng 6/2008 kết quả thu được như sau: Khi được hỏi về vẻ đẹp của bãi biển Sầm Sơn, phần lớn du khách (62%) đều cho rằng Sầm Sơn có bãi cát dài, đẹp, nước biển trong xanh nhưng vẫn còn nhiều rác thải vứt bừa bãi, khoảng 31% khách du lịch khẳng định bãi biển Sầm Sơn rất đẹp, còn lại 7% du khách cho rằng bãi cát ở đây hẹp, nước biển ô nhiễm, không có du khách nào thấy biển Sầm Sơn có bãi cát dốc, nước biển đục. Về các giá trị du lịch nhân văn tại Sầm Sơn, hầu hết du khách (92%) ngoài tắm biển ra đều có các hoạt động thăm quan di tích lịch sử – văn hóa như: đền Độc Cước, chùa Cô tiên, hòn Trống Mái. Một số du khách còn thích tham gia tìm hiểu những di tích khác như: đền thờ Tô Hiến Thành (6%), đền Bà Triều (2%) để nâng cao hiểu biết về văn hoá địa phương. Trong số 3 di tích được thăm quan nhiều nhất thì 55% du khách (hơn một nửa là độ tuổi thanh niên) cho rằng di tích hòn Trống – Mái có ý nghĩa độc đáo nhất, ca ngợi tình yêu đôi lứa và sự thuỷ chung son sắt, 45% du khách thấy di tích đền Độc Cước phản ánh khát vọng cái thiện chiến thắng cái ác của nhân dân, sự hy sinh cao cả của thần Độc Cước vì cuộc sống bình yên của dân chài đặc sắc hơn. Tuy khác nhau ở sở thích thăm quan nhưng hầu hết du khách đều có điểm chung ở nhận xét về sự tiến bộ của môi trường du lịch ở Sầm Sơn những năm gần đây, đặc biệt là từ sau lễ kỉ niệm 100 năm thành lập. Các di tích đều được đưa vào kế hoạch trùng tu, tôn tạo. Hiện tượng gây phiền nhiễu cho du khách ở các điểm di tích như: chèo kéo khách, các hoạt động mê tín dị đoan, ăn xin, cờ bạc…giảm hẳn. Về cơ sở lưu trú, thái độ phục vụ của nhân viên và đội ngũ bán hàng trên bãi biển, hầu hết các du khách được điều tra ngẫu nhiên đều ở mức độ thu nhập khá và trung bình nên nhận xét

Phát Triển Du Lịch Thông Minh: Cần Đồng Bộ Các Giải Pháp

Phát triển du lịch thông minh: Cần đồng bộ các giải pháp

Để được gọi là du lịch thông minh, nhất thiết phải đảm bảo bốn yếu tố: công nghệ thông minh, người tiêu dùng thông minh, doanh nghiệp du lịch thông minh và điểm đến thông minh. 

Xây dựng trên nền tảng của công nghệ thông tin và truyền thông, du lịch thông minh đang ngày càng được đẩy mạnh thực hiện, góp phần tạo ra các giá trị, lợi ích và dịch vụ tốt nhất đáp ứng nhu cầu của du khách, doanh nghiệp, cũng như cơ quan quản lý và cộng đồng. Tuy nhiên, việc phát triển du lịch thông minh cũng gặp không ít thách thức, đòi hỏi được tháo gỡ bằng nhiều giải pháp đồng bộ hơn trong thời gian tới.  

Đảm bảo 4 yếu tố

Theo một số chuyên gia, một trong những thách thức lớn nhất hiện nay để phát triển du lịch thông minh ở nhiều địa phương là mức độ sẵn sàng cho phát triển du lịch thông minh.

Du lịch thông minh được phát triển trên nền tảng ứng dụng khoa học công nghệ, công nghệ thông tin-truyền thông. Đây được coi là điều kiện mang tính tiên quyết. Tuy nhiên, mức độ sẵn sàng về công nghệ để phát triển du lịch thông minh ở nhiều địa phương lại chưa cao và là trở ngại cần được khắc phục trong thời gian ngắn nhất. Bởi lẽ muốn có du lịch thông minh, cần có các nền tảng hạ tầng về viễn thông điện tử và các trang thiết bị hiện đại đi kèm một cách đồng bộ.

Tiến sỹ Đào Thị Thu Hằng, Trường Đại học Kinh tế-Luật (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng để được gọi là du lịch thông minh, nhất thiết phải đảm bảo bốn yếu tố: công nghệ thông minh, người tiêu dùng thông minh

 (sử dụng điện thoại thông minh 

và có kết nối), doanh nghiệp du lịch thông minh và điểm đến thông minh.

Nếu có công nghệ thông minh, doanh nghiệp thông minh và điểm đến cũng đáp ứng những tiện ích, gia tăng giá trị trải nghiệm để được gọi là điểm đến thông minh, nhưng không có sự kết nối tương tác, đổi mới tức thời của du khách thông minh thì không thể có du lịch thông minh đúng nghĩa.

[Phát triển du lịch thông minh tại Việt Nam: Xu hướng tất yếu]

Về phía doanh nghiệp kinh doanh du lịch, để hướng tới du lịch thông minh, cần đầu tư để có các thiết bị thu thập, chia sẻ dữ liệu, chia sẻ tài nguyên tức thời. Chẳng hạn, doanh nghiệp trang bị những hệ thống cảm biến để thu thập thông tin về thời tiết nhằm có phương án phục vụ du khách một cách phù hợp nhất hoặc tiếp nhận kịp thời thông tin từ các mạng xã hội. Điều này sẽ làm tăng sự liên kết chuỗi giá trị, tăng khả năng cạnh tranh, hiệu quả phối hợp tập thể và tính linh hoạt trong hệ sinh thái kinh doanh du lịch.

Đồng bộ các giải pháp

Tiến sỹ Lê Quang Đăng, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch (Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch) cho rằng để phát triển du lịch thông minh, cần nâng cao nhận thức của người dân về du lịch thông minh, tuyên tuyền sâu rộng, nâng cao nhận thức của cộng đồng về các hoạt động du lịch trực tuyến, những ưu điểm và cả những tồn tại, bất cập của nó để khách du lịch và người dân hiểu, có những hoạt động tích cực, thông minh, tránh bị lợi dụng, lừa đảo.

Bên cạnh đó, cần khuyến khích các doanh nghiệp du lịch đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ trong kinh doanh, tiếp cận du lịch thông minh; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong hoạt động quản lý nhà nước về du lịch, nâng cao hiệu quả quản lý, từng bước hiện đại hóa ngành du lịch.

Đề cập cụ thể về các giải pháp phát triển du lịch thông minh

 tại Thành phố Hồ Chí Minh, tiến sỹ Bùi Thị Ngọc Trang thuộc Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh và tiến sỹ Tạ Duy Linh thuộc Viện Nghiên cứu Phát triển kinh tế và du lịch (Hội Trí thức khoa học và công nghệ trẻ Việt Nam), thạc sỹ Dương Đức Minh thuộc Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) đều nhận định thành phố là một trong những trọng điểm du lịch của cả nước, có nhiều thuận lợi rất căn bản trong phát triển du lịch thông minh, như đang triển khai đề án đô thị thông minh, có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, là thị trường nhận và gửi du khách sôi động.

Trong thời đại công nghệ phát triển với tốc độ rất nhanh chóng, khoảng cách địa lý không còn là rào cản to lớn để hạn chế sự kết nối các thị trường kinh tế, trong đó có thị trường kinh doanh du lịch, các đơn vị, các doanh nghiệp du lịch cần tận dụng và khai thác triệt để mạng lưới kinh doanh du lịch dựa vào các ứng dụng công nghệ thông tin để từ đó “tranh thủ” được các dòng dịch chuyển du khách vào Thành phố Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, thành phố cũng cần tăng cường việc đào tạo nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển một cách lâu dài, căn cơ của ngành du lịch.

Các cơ sở đào tạo cần nghiên cứu, đào tạo những vị trí việc làm mới thay thế những vị trí truyền thống mà hệ thống công nghệ đã đảm nhiệm. Khi thế giới đang theo xu hướng công nghệ 4.0, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác đào tạo cũng không thể nào trang bị như đào tạo theo hướng truyền thống, mà đòi hỏi cơ sở đào tạo phải có trang thiết bị bắt kịp với xu thế./.

Thanh Trà (TTXVN/Vietnam+)

Bạn đang đọc nội dung bài viết Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Du Lịch Thành Phố Cần Thơ trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!