Cập nhật nội dung chi tiết về Tạp Chí Dân Vận Số 7/2019 mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu – nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững. Thực hiện các giải pháp, chính sách và quản lý để khắc phục từng bước sự mất cân đối về phát triển đối với từng lĩnh vực, từng vùng, bảo đảm sự hài hòa cả trong phát triển, hưởng thụ; bảo đảm cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề hợp lý…”.
Qua gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội góp phần quan trọng bảo đảm ổn định xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục phát triển nhanh, bền vững. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Tuy nhiên, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về suy thoái kinh tế toàn cầu, về những vấn đề nảy sinh mới của kinh tế thị trường, về chiến tranh thương mại Mỹ – Trung… và những hạn chế, khiếm khuyết vốn có của nền kinh tế, những yếu kém trong lãnh đạo, quản lý; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gây thiệt hại nặng nề; nhu cầu bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội ngày càng cao đã tác động trực tiếp đến việc phát triển việc làm bền vững, nâng cao thu nhập cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, nhất là người về hưu, người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo, người yếu thế và người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong cuộc sống hàng ngày. Hơn nữa, Việt Nam cũng đang phải đối mặt nhiều vấn đề phức tạp như chênh lệch về mức sống gia tăng, nghèo đói của đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo đô thị và di cư tự do, chất lượng nguồn nhân lực còn rất hạn chế và việc bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội chưa theo kịp yêu cầu phát triển mới của đất nước. Điều đó đòi hỏi Đảng ta phải đặt vấn đề về quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là nội dung tất yếu của quá trình đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước trong tình hình mới.
Về phương diện lý luận và nguyên tắc để phát triển xã hội được thể hiện qua việc xây dựng và thực thi các chính sách xã hội. Còn quản lý phát triển xã hội là những hoạt động bảo đảm cho xã hội phát triển theo đúng quy luật của nó và phải đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản, đó là: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, để xã hội hoạt động có kỷ cương và các tổ chức xã hội thực hiện, phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua hoạt động giám sát việc thực thi pháp luật và nhân dân thượng tôn pháp luật.
Để thực hiện được những yêu cầu đó phải giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa quản lý phát triển xã hội, bảo đảm công bằng, tiến bộ và bình đẳng xã hội trong quá trình phát triển của đất nước. Đây là vấn đề rất phức tạp, đan xen nhiều mối quan hệ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xét về nội dung, bản chất của quản lý phát triển xã hội là phải thật sự bảo đảm phát triển chất lượng cuộc sống của nhân dân; coi nhân dân là chủ thể phát triển của xã hội và quyền làm chủ đó phải được tôn trọng và bảo vệ. Gia đình là tế bào của xã hội phải hòa thuận, cộng đồng hài hòa; môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; con người phát triển toàn diện, có cơ hội được cống hiến và hưởng thụ thành quả của sự phát triển, tiến bộ. Chính vì vậy, mục tiêu quản lý phát triển xã hội là phải thể hiện được tinh thần tự đổi mới, tự hoàn thiện, củng cố, phát triển trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cần nghiên cứu, dự báo sự biến đổi về cơ cấu, các giai tầng trong xã hội để điều chỉnh; tạo sự đồng thuận xã hội thông qua giải pháp tiếp xúc, đối thoại, thương lượng, truyền thông; dân chủ hóa; tăng cường kỷ cương pháp luật và đề cao trách nhiệm của nhân dân là chủ thể phát triển xã hội trong thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Để giải quyết tốt vấn đề quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong những năm tới, cần quan tâm thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Một là, ngày 01/4/2019, tiến hành Tổng điều tra dân số và nhà ở trên phạm vi toàn quốc, cần phải phân tích thông tin chung về dân số, tình trạng di cư, hôn nhân, mức độ sinh – chết và phát triển dân số, tình trạng lao động, việc làm, tình trạng về nhà ở… gắn với việc đánh giá chính xác thực trạng biến đổi cơ cấu xã hội, sự phân tầng xã hội của nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp thực hiện quản lý phát triển xã hội có hiệu quả; giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội, phân hóa giàu nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững nhằm khắc phục từng bước sự mất cân đối về cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề, giàu nghèo; kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội để bảo đảm mọi người dân đều được tự do, bình đẳng về cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi Nhà nước tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về chính sách xã hội, an sinh xã hội, tạo hành lang pháp lý để kiến tạo mô hình hệ thống an sinh xã hội hiện đại với các chức năng, trụ cột chính là: Phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc phục rủi ro.
Hai là, để đáp ứng những yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cùng với thị trường lao động sẽ có nhiều biến động, chất lượng cung và cầu lao động có tri thức và kỹ năng hiện đại cũng như cơ cấu lao động cũng thay đổi mạnh mẽ. Đồng thời với việc thay đổi của thị trường lao động là nhiều lĩnh vực công nghệ được tự động hoá thay thế con người sẽ xuất hiện tình trạng thất nghiệp hàng loạt ở tất cả các thị trường lao động, trong đó có Việt Nam, lúc bấy giờ người lao động chắc chắn phải cố gắng tìm mọi cách để thích ứng nhanh với sự thay đổi của sản xuất, nếu không sẽ bị đào thải khỏi thị trường lao động. Do đó, chúng ta phải có chính sách quốc gia về phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao để đáp ứng cho phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Cần chú trọng thực hiện đổi mới toàn diện giáo dục, đào tạo, đáp ứng mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam có phẩm chất và năng lực sáng tạo, sẽ tác động mạnh đến sự phát triển xã hội.
Ba là, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là phải gắn kết chặt chẽ giữa chính sách tăng trưởng kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo đảm và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, làm cho nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của sự nghiệp đổi mới và xây dựng CNXH. Thực hiện các cơ hội bình đẳng để giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo cơ hội để mọi người được học tập, học nghề, có việc làm và được hưởng tiền lương, thu nhập hợp lý, thỏa đáng; bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; chế độ nghỉ ngơi để đủ điều kiện tái sản xuất mở rộng sức lao động. Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng, khuyến khích đầu tư xã hội để tạo mở ra nhiều việc làm.
Cải cách hệ thống chính sách về tiền lương trong đó tiến tới thực hiện mục tiêu tiền lương cơ sở, tiền lương tối thiểu vùng đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu của người lao động; gắn điều chỉnh tiền lương tối thiểu với tăng năng suất lao động, năng lực cạnh tranh; đổi mới căn bản, toàn diện chính sách dạy nghề để đạt được “Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 – 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%”. Nhà nước phải có chính sách, cơ chế và giải pháp tích cực, hiệu quả để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, phấn đấu thực hiện đạt chỉ tiêu: “Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%”, tăng tỷ trọng lao động trong khu vực có quan hệ lao động đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Bốn là, công bằng xã hội là sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của con người trong mọi quan hệ xã hội và thiết chế xã hội, mà cốt lõi là sự bình đẳng về kinh tế, chính trị và pháp luật. Cho nên, cần nghiên cứu hoàn thiện chính sách phân phối và phân phối lại để bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp. Thực hiện phân phối lại thông qua phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, giáo dục. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế. Mở rộng chính sách phúc lợi xã hội thành hệ thống chính sách an sinh xã hội đa tầng, đây là nguyện vọng chính đáng của nhân dân và cũng là một trong những chỉ báo quan trọng của một xã hội công bằng, văn minh và chính là mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân ta.
Năm là, bảo đảm tốt an sinh xã hội để mọi người dân có đời sống ấm no, hạnh phúc. Tiếp tục quan tâm nâng mức trợ cấp xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công, điều chỉnh lương của người về hưu có mức lương thấp, đời sống khó khăn; ban hành chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều để có cơ sở xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững theo hướng tập trung chống tái nghèo và duy trì thành quả giảm nghèo bền vững. Đồng thời, tổ chức tốt hơn việc cung cấp các dịch vụ cơ bản về nhà ở, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo.
Sáu là, coi trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số và phát triển theo hướng bảo đảm công bằng, giảm chênh lệch mới về tiếp cận chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân giữa các địa bàn, các nhóm đối tượng. Đầu tư cho y tế là đầu tư cho phát triển; chuyển từ cơ chế đầu tư tài chính cho cơ sở y tế sang hỗ trợ trực tiếp cho người dân thông qua bảo hiểm y tế và thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; bảo đảm để mọi người dân có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng; bình đẳng giữa y tế nhà nước và y tế tư nhân; thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực y tế nhưng đồng thời bảo đảm sự quản lý, điều tiết và đầu tư thích hợp của Nhà nước trong lĩnh vực này phù hợp với sự phát triển xã hội; có chính sách hỗ trợ cần thiết về chăm sóc sức khỏe đối với trẻ em, người nghèo, người dân tộc thiểu số, người cao tuổi, người khuyết tật và các đối tượng khó khăn, yếu thế khác.
Tăng cường chất lượng khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế ở tuyến y tế cơ sở; khắc phục tình trạng quá tải ở bệnh viện tuyến trên; cải cách thủ tục trong quản lý bảo hiểm y tế và khám, chữa bệnh; công khai quyền lợi của người có thẻ bảo hiểm y tế; tăng cường y đức; tăng cường quản lý nhà nước, tuyên truyền, giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm vi phạm về trục lợi bảo hiểm y tế đang gây bất bình trong nhân dân.
Bảy là, để giải quyết tốt vấn đề quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội vì con người và phát huy nhân tố con người, bảo đảm sự công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, yêu cầu toàn bộ hệ thống chính trị phải vào cuộc và có trách nhiệm thực hiện, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về các chính sách an sinh xã hội và quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Tăng cường và đổi mới công tác dân vận, thật sự gần dân, sát dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong phát triển quản lý xã hội. Chú trọng vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội đối với việc ban hành và thực hiện các chính sách xã hội và các chính sách an sinh xã hội phù hợp với các đối tượng trong sự phát triển bền vững của xã hội, góp phần xây dựng đất nước ta giàu đẹp, văn minh, hiện đại, nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Tạp Chí Dân Vận Số 6/2015
Phát huy những kết quả đạt được từ phong trào “5 không”, “3 có”, cùng với thực hiện chủ trương tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng trong tình hình mới, ngày 6/11/2013, Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng ban hành Chỉ thị số 29-CT/TU về “Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển thành phố trong tình hình mới”.
Một trong những nội dung trọng tâm của Chỉ thị là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) theo tinh thần “5 xây”: Trách nhiệm, chuyên nghiệp, trung thực, kỷ cương, gương mẫu và kiên quyết thực hiện “3 chống”: Quan liêu, tiêu cực, bệnh hình thức.
Qua 01 năm thực hiện Chỉ thị số 29-CT/TU của Thành ủy, hầu hết các cơ quan, đơn vị khối chính quyền đã tổ chức, hướng dẫn cho từng cá nhân đăng ký nội dung thực hiện Chỉ thị. Theo báo cáo của các cơ quan, đơn vị, có 20.958 CBCCVC, trong đó 14.082 CBCCVC tại các sở, ban, ngành và đơn vị trực thuộc; 1.716 CBCCVC tại UBND các quận, huyện; 2.430 CBCCVC tại UBND các xã, phường; 3.116 CBCCVC ở 05 cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn thành phố đăng ký thực hiện “5 xây”, “3 chống”.
Việc đánh giá kết quả thực hiện Chỉ thị của CBCCVC được nhiều cơ quan, đơn vị tiến hành nghiêm túc, chặt chẽ. Qua phân loại có 20,52% CBCCVC đạt từ mức khá trở xuống các yêu cầu về chuyên nghiệp; 10,28% CBCCVC được đánh giá thực hiện tính gương mẫu ở mức khá. Vì vậy, đây là hai tiêu chí CBCCVC tập trung thực hiện tốt hơn nữa trong thời gian tới.
Đến nay, tất cả các cơ quan khối chính quyền đã đăng ký nhiệm vụ tập thể, trong đó 22 sở, ban, ngành quản lý các lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm được nêu trong Chỉ thị số 29-CT/TU của Thành ủy đã xác định những vấn đề bức xúc, nổi cộm tại cơ quan, đơn vị để đề ra các giải pháp thực hiện. Các cơ quan thường xuyên kiểm tra, kiểm điểm, xử lý nghiêm các trường hợp có thái độ không đúng mức trong tiếp xúc, giải quyết công việc với tổ chức, công dân. Nhiều cơ quan, đơn vị có các giải pháp cụ thể, tích cực trong triển khai thực hiện, giảm đáng kể áp lực, bức xúc của tổ chức và nhân dân, tạo chuyển biến rõ nét trong hoạt động thực thi công vụ.
Việc tiếp nhận ý kiến, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức và xử lý CBCCVC vi phạm được tổ chức kịp thời. Trong năm 2014, đã tiếp nhận 47.816 ý kiến về thủ tục hành chính; 42 phản ánh ý kiến của người dân; 436 cuộc gọi đến đường dây nóng “Năm Doanh nghiệp Đà Nẵng 2014” để chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền giải đáp, xử lý. Theo báo cáo của các cơ quan, đơn vị, tỷ lệ giải quyết hồ sơ đúng và trước hẹn trên địa bàn thành phố là 99,74% trong tổng số 1.966.003 hồ sơ thủ tục hành chính đã giải quyết. Việc tiếp nhận và trả hồ sơ tại các cơ quan, đơn vị cơ bản thực hiện đúng trình tự, thủ tục, thu phí, lệ phí; thực hiện công khai hóa các hoạt động công vụ đúng theo quy định. Qua kiểm tra, xác minh, số hồ sơ giải quyết sớm và đúng hẹn đạt trên 90%.
Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng xử lý đơn, thư của công dân chậm trễ, kéo dài tại một số cơ quan, đơn vị thuộc lĩnh vực hành chính tư pháp; lý lịch tư pháp; đất đai; đầu tư nước ngoài (ngoài khu công nghiệp); khoáng sản và tài nguyên nước (tại các sở, ban, ngành); người có công; bảo hiểm xã hội; thương mại; môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm (tại UBND quận, huyện; phường, xã)… Tính đến ngày 31/12/2014, tại UBND các quận, huyện; phường, xã có 21 trường hợp; sở, ban, ngành thuộc thành phố có 30 trường hợp CBCCVC bị xử lý kỷ luật…
Nhờ có sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, sâu sát của Thành ủy và UBND thành phố đã tạo được sự quan tâm tích cực của các cơ quan, đơn vị, địa phương đối với việc thực hiện “5 xây”, “3 chống”. Nhất là mọi người dân thông qua MTTQ, các tổ chức chính trị – xã hội với ý thức trách nhiệm cao, sẵn sàng tham gia đóng góp ý kiến với Đảng, chính quyền các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện “5 xây”, “3 chống” bước đầu tạo nên những chuyển biến tích cực trong công tác cải cách hành chính của thành phố, công tác cán bộ và lề lối làm việc của CBCCVC theo hướng “Trọng dân, gần dân; nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Các tiêu chí, chuẩn mực đối với CBCCVC được xây dựng từ việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 29-CT/TU của Thành ủy đã tạo thêm một kênh đánh giá, giám sát về tinh thần, thái độ, phương thức, lề lối làm việc của CBCCVC. Kết quả tự đánh giá của các cơ quan, đơn vị về thực hiện các nội dung “5 xây”, “3 chống” của CBCCVC là cơ sở để có giải pháp cải thiện và khắc phục những hạn chế còn tồn tại.
Chỉ thị số 29-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng ban hành thực hiện thời gian chưa dài nhưng được nhân dân đón nhận, sớm đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng; tác động lớn đến đời sống dân sinh, việc làm, trách nhiệm của người CBCCVC trên địa bàn thành phố. Tốc độ đô thị hóa nhanh chóng đã tạo nên diện mạo mới của thành phố theo hướng văn minh, hiện đại. Điều kiện sống của nhân dân được cải thiện; cơ sở hạ tầng của thành phố phát triển theo hướng dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp.
Công tác phối hợp hoạt động dân vận giữa các ban, ngành, đơn vị càng chặt chẽ và có hiệu quả hơn. Ban Dân vận Thành ủy và UBND thành phố tiếp tục ký kết chương trình phối hợp phát huy trách nhiệm khối chính quyền chăm lo làm tốt công tác dân vận; chỉ đạo và triển khai thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để MTTQ, các tổ chức chính trị – xã hội phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội, góp phần đóng góp ý kiến tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh. Kết quả đó đã đóng góp vào việc tạo sự đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố với những đổi thay rất đáng khâm phục. Tiếp tục từ “5 xây”, “3 chống”, những tuyến đường mới khang trang, những công trình mới hiện đại được xây dựng tiêu biểu cho sức sống mãnh liệt của một Đà Nẵng văn minh, giàu đẹp, đồng thuận và kỷ cương.
Tạp Chí Xây Dựng Đảng
Sau khi tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, thì bên cạnh việc phát huy những ưu điểm, nhân tố tích cực, điều có ý nghĩa quan trọng và cũng khó làm hơn là khắc phục những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém của mỗi tổ chức, cá nhân. Việc khắc phục những khuyết điểm, hạn chế có quan hệ chặt chẽ với kết quả tự phê bình, là một “bộ phận”, một nội dung trong quá trình tự phê bình, phê bình. Đồng thời có quan hệ với toàn bộ hoạt động của mỗi tập thể, mỗi cá nhân. Giải pháp khắc phục phải được đặt trong tổng thể quá trình kiểm điểm, tự phê bình, phê bình.
Trong hoạt động của hệ thống chính trị, tự phê bình, phê bình là nội dung rất quan trọng, là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, là công cụ để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, là một nguyên tắc cơ bản, công việc thường xuyên trong xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm điểm tự phê bình, phê bình, đánh giá cán bộ trong các cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiểm điểm hằng năm. Trong đó, Ban Thường vụ chú trọng chỉ đạo việc khắc phục những khuyết điểm, hạn chế của từng cơ quan, đơn vị qua kiểm điểm, đánh giá. Những năm gần đây, vận dụng các quy định, quy trình về công tác kiểm tra, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo việc khắc phục khuyết điểm, hạn chế, yếu kém của các đơn vị, địa phương một cách cụ thể hơn. Nhờ vậy, việc khắc phục những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém càng được thực thi chặt chẽ, nghiêm túc và đạt hiệu quả cao hơn.
Cùng với chỉ đạo cấp dưới kiểm điểm tự phê bình, phê bình, tập thể Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị cũng đã thực hiện nghiêm túc việc tự phê bình, phê bình và khắc phục những hạn chế, yếu kém sau tự phê bình, phê bình bằng những giải pháp cụ thể. Cuộc kiểm điểm tự phê bình, phê bình công tác lãnh đạo, chỉ đạo năm 2002 của tập thể Ban thường vụ tỉnh ủy đã để lại những kinh nghiệm quý trong công tác này. Khi đó, Ban thường vụ tỉnh uỷ Quảng Trị đã chú trọng tập trung sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, hạn chế một cách cụ thể, nghiêm túc, quyết liệt bằng một chương trình hành động cụ thể. Trên cơ sở chỉ đạo của Ban thường vụ tỉnh ủy, cấp ủy và lãnh đạo các đơn vị trực thuộc đã tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém tại địa phương, đơn vị.
Nhờ nghiêm túc thực hiện tự phê bình, phê bình, khắc phục khuyết điểm, hạn chế nên đoàn kết nội bộ trong Đảng bộ đã được giữ vững và tăng cường; kinh tế- xã hội tiếp tục phát triển, quốc phòng – an ninh được giữ vững, xây dựng Đảng từng bước tiến bộ, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Những kinh nghiệm quý báu đã được rút ra từ quá trình thực hiện tự phê bình, phê bình trong thời gian qua. Chính những kinh nghiệm này là cơ sở để các tổ chức và mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng bộ Quảng Trị phát huy và vận dụng vào quá trình kiểm điểm, tự phê bình, phê bình trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Với những kết quả, cách làm trong những năm qua, cùng với tư tưởng chỉ đạo qua bước triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 ( NQTW4) (khoá XI) ở Quảng Trị, chúng tôi xin nêu một số giải pháp khắc phục những khuyết điểm, hạn chế sau tự phê bình, phê bình, góp phần vào việc tìm cách làm, giải pháp thực hiện tốt nghị quyết quan trọng này của Trung ương.
Thứ nhất, phải làm thật tốt công đoạn “tiền khắc phục” từ nhận thức, quan điểm, phương châm, nội dung đến thực hiện cụ thể. Theo đó tự phê bình, phê bình đối với tổ chức, cá nhân phải được tiến hành nghiêm túc, đầy đủ, có nguyên tắc, trên tinh thần đồng chí chân thành.
Cấp uỷ các cấp khi tổ chức và chỉ đạo thực hiện phải truyền đạt, quán triệt đầy đủ các quan điểm, nguyên tắc, quy định của Trung ương, của cấp trên về tự phê bình, phê bình, làm cho cán bộ, đảng viên thấu suốt mục đích, mục tiêu vừa có tính nguyên tắc, vừa mang tính nhân văn cao trong tự phê bình, phê bình trong Đảng. Đồng thời xác định phương châm thực hiện ở cấp mình, đơn vị, địa phương mình cho phù hợp để tự phê bình, phê bình được thực hiện đúng, trúng và hiệu quả… Ví dụ, về nội dung kiểm điểm tự phê bình, phê bình tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, về tham nhũng, lãng phí … thì mặc dù có tính phổ biến, song có thể nói có sự khác nhau theo từng cấp, từng đối tượng khá rõ. Trong thực hiện kiểm điểm tự phê bình, phê bình theo tinh thần NQTW4 (khoá XI) thì những tính chất, yêu cầu này có ý nghĩa lớn, cần đặc biệt quan tâm.
Nội dung tự phê bình, phê bình, nhất là những khuyết điểm, hạn chế của tổ chức, cá nhân, được nêu ra khi tự phê bình và góp ý, nhận xét khi phê bình phải chân thành, có lý, có tình, rõ ràng, thuyết phục… tránh khập khiễng, xa rời, thậm chí mâu thuẫn giữa thực tế tình hình và các báo cáo kiểm điểm (kế cả của tập thể và cá nhân). Sau khi đã xác định được những hạn chế, yếu kém, phải nêu rõ các biện pháp và thời gian khắc phục và phải coi đây là nội dung thiết yếu trong lần tự phê bình, phê bình này. Đồng thời tuỳ vai trò, chức trách, ưu điểm, khuyết điểm để vạch kế hoạch khắc phục cho phù hợp, toàn diện. Trong tham gia các biện pháp khắc phục đối với cán bộ cần thể hiện tinh thần động viên cán bộ quyết tâm khắc phục hạn chế, khuyết điểm. Phải thực hiện đúng tinh thần kiểm điểm cốt để giúp cán bộ, đảng viên thấy được và sửa chữa khuyết điểm mà tiến bộ, tinh thần “trị bệnh cứu người”.
Việc chuẩn bị chu đáo và thực hiện nghiêm túc bước kiểm điểm, tự phê bình, phê bình là yếu tố tiền đề, căn bản cho việc khắc phục có kết quả hạn chế, yếu kém của tổ chức và cá nhân. Mọi sự chủ quan, đơn giản, qua loa đều dẫn đến làm mất hiệu quả việc tự phê bình, phê bình, vô hiệu hoá việc khắc phục hạn chế, yếu kém – nói chung, bao giờ cũng có – sau tự phê bình, phê bình.
Thứ hai, công khai kết quả tự phê bình, phê bình của các tổ chức, cá nhân – cả ưu điểm, lẫn khuyết điểm – trong phạm vi, đối tượng thích hợp để quần chúng, cán bộ, đảng viên hiểu biết về những công bộc, đại biểu, người cán bộ lãnh đạo, quản lý của đơn vị, địa phương mình. Từ đó có điều kiện, căn cứ tham gia góp ý, giám sát việc rèn luyện, phấn đấu của những cán bộ, đảng viên đó, kể cả việc khắc phục hạn chế, yếu kém của cá nhân sau tự phê bình, phê bình, cũng như trong quá trình hoạt động, công tác nói chung. Đây là yêu cầu mà NQTW4 (khoá XI) đặt ra rất cao, là kỳ vọng lớn trong cuộc kiểm điểm tự phê bình, phê bình lần này.
Phạm vi công khai kết quả kiểm điểm, đánh giá cán bộ, nói chung, càng rộng càng tốt. Đối tượng công khai nên là tất cả cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trước hết, theo phân cấp quản lý cán bộ, cấp uỷ các cấp cần công khai kết quả kiểm điểm, đánh giá cán bộ đến cán bộ, công chức, người lao động nơi công tác, đến nhân dân nơi cư trú đối với một số chức danh lãnh đạo, quản lý của các cơ quan của đảng, chính quyền, đoàn thể thuộc cấp mình quản lý. Đối với cấp tỉnh, đó là cán bộ lãnh đạo, quản lý từ phó giám đốc sở và tương đương trở lên. Công khai kết quả đánh giá đại biểu HĐND các cấp, đại biểu Quốc hội đến cử tri.
Cần nghiên cứu thực hiện tự phê bình, phê bình công khai hơn, theo hướng mở rộng phạm vi, đối tượng tham gia phê bình. Thông tin quá trình tự phê bình, phê bình của tập thể, cá nhân đến cán bộ, công chức, nhân dân bằng nhiều hình thức và trong phạm vi thích hợp. Gắn tự phê bình, phê bình với thực hiện chất vấn trong Đảng.
Thứ ba, tổ chức và cá nhân thực hiện việc khắc phục những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém sau tự phê bình, phê bình nghiêm chỉnh, chặt chẽ, có giám sát. Đây là biện pháp trung tâm, trực tiếp, có ý nghĩa quyết định hiệu quả việc khắc phục khuyết điểm, hạn chế.
Phải thống nhất nhận thức rằng, nội dung, kế hoạch khắc phục khuyết điểm, hạn chế là lời hứa nghiêm túc, hệ trọng của cán bộ, công chức, đảng viên với tổ chức, với nhân dân trong kiểm điểm tự phê bình, phê bình, nhất là với cán bộ lãnh đạo. Nó đặc biệt quan trọng trong thực hiện NQTW4 (khoá XI) lần này. Vì vậy, trên cơ sở các nội dung, biện pháp đã đề ra, mỗi tổ chức, cá nhân phải bắt tay thực hiện việc khắc phục, sửa chữa một cách tự giác, nghiêm chỉnh.
Hằng năm, sau tự phê bình, phê bình, mỗi tổ chức, cá nhân đều phải kiểm điểm, đánh giá kết quả thực hiện việc khắc phục khuyết điểm, hạn chế. Có thể trong một số trường hợp, việc kiểm điểm, đánh giá kết quả khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trước đó trở thành nội dung chính của đánh giá năm công tác. Cần lấy kết quả khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, yếu kém là tiêu chí đánh giá về sự liêm chính, trung thực, cầu tiến bộ, cũng như khả năng tự hoàn thiện, thích ứng của người cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, khi đánh giá kết quả khắc phục cần lưu ý, đây là một quá trình cần có thời gian nhất định, không phải diễn ra giản đơn, ngày một, ngày hai. Có những việc, có những người, tổ chức cũng cần phải biết và sẵn sàng chờ đợi, động viên, tạo điều kiện để cá nhân sửa chữa. Cùng với sự tự giác của mỗi tổ chức, cá nhân, việc khắc phục khuyết điểm, hạn chế cần được đặt trong quá trình kiểm tra, giám sát của tổ chức để bảo đảm tính chặt chẽ, có nguyên tắc. Tuy nhiên cách làm phải linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng; sử dụng triệt để hình thức, các công cụ đang sử dụng hiện nay, như báo cáo tự kiểm điểm hàng năm; hình thức tự giám sát…
Thứ tư, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong chỉ đạo thực hiện tự phê bình, phê bình. Trước hết người đứng đầu phải đi đầu trong việc tự phê bình, phê bình và thể hiện việc làm, hành động khắc phục, sửa chữa hạn chế, yếu kém một cách rõ nét, có sức thuyết phục… Đồng thời, bằng hình thức thích hợp, người đứng đầu có sự quan tâm, động viên, chỉ dẫn để cán bộ của cơ quan, đơn vị mình sửa chữa, khắc phục khuyết điểm một cách nghiêm túc, tự giác, nhất là đối với những người có khuyết điểm nặng, có nhiều hạn chế.
Tấm gương của người đứng đầu trong tự phê bình, phê bình và khắc phục khuyết điểm, hạn chế là nhân tố có tác dụng khuyến khích, động viên, có ý nghĩa cổ vũ, thuyết phục mạnh đối với cán bộ cấp dưới.
Thứ năm, coi trọng trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên trong tự phê bình, phê bình và khắc phục hạn chế, yếu kém. Đây là nhân tố then chốt bảo đảm sự thành công trong tự phê bình, phê bình.
Trước hết, cần thể hiện trách nhiệm, quyền hạn của cấp trên trong việc đảm bảo sự nhất quán trong toàn bộ quá trình thực hiện tự phê bình, phê bình và khắc phục hạn chế, yếu kém. Trong đó cần chú trọng về quan điểm, phương châm, cách làm, và nhất là xem xét, xử lý kết quả tự phê bình, phê bình một cách chặt chẽ, có nguyên tắc, có lý, có tình; sắp xếp, bố trí cán bộ phù hợp với năng lực, phẩm chất, hiệu quả công việc; đồng thời phải xử lý nghiêm minh, đúng mức đối với những cán bộ có khuyết điểm, sai phạm đến mức phải xem xét các hình thức kỷ luật.
Ban Tổ chức tỉnh ủy Quảng Trị
[1]. Chương trình hành động số 34 CTHĐ/TU ngày 5-11-2003 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị.
Tạp Chí Nghiên Cứu Khoa Học Kiểm Toán
DIỄN ĐÀN ĐỐI NGOẠI
KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI 1 SỐ NƯỚC OECD
Tại các nước OEDC (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế), yêu cầu nâng cao trách nhiệm giải trình và tính minh bạch trong hoạt động của chính phủ đã khiến các quốc gia này quan tâm nhiều hơn đến chức năng kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ tại 1 số nước OECD
KINH NGHIỆM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI MỘT SỐ NƯỚC OECD
Ths. Đặng Thị Hoàng Liên
Ngày nay, kiểm toán nội bộ được xem như một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động quản lý tài chính chính phủ, là một công cụ hiệu quả nhằm cải thiện hoạt động của khu vực nhà nước. Tại các nước OEDC (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế), yêu cầu nâng cao trách nhiệm giải trình và tính minh bạch trong hoạt động của chính phủ đã khiến các quốc gia này quan tâm nhiều hơn đến chức năng kiểm toán nội bộ. Trên cơ sở nghiên cứu mô hình kiểm toán nội bộ của các nước OECD, bài viết chỉ ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và phát triển kiểm toán nội bộ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước.
1. Mô hình kiểm toán nội bộ của các nước OECD
Mặc dù, việc xây dựng và phát triển kiểm toán nội bộ trong các nước OECD là khá đa dạng nhưng đều thuộc vào một trong hai mô hình chính: (1) mô hình tập trung và (2) mô hình phi tập trung.
Trong mô hình tập trung, Bộ Tài chính không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc lập dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách cho các Bộ, mà còn can thiệp vào các hoạt động kiểm soát cũng như cử nhân viên của mình trực tiếp làm việc tại các Bộ. Theo mô hình này, Tổng Thanh tra trong Bộ Tài chính sẽ chịu trách nhiệm kiểm soát thu – chi tài chính công của chính phủ và báo cáo trực tiếp lên Bộ Tài chính về kết quả kiểm soát của mình. Tuy nhiên, mỗi Bộ, ngành cũng có các kiểm toán viên nội bộ hay còn gọi là các Chánh Thanh tra. Mô hình này thường được thấy ở Pháp, Bồ Đào Nha, Luxembourg và Tây Ban Nha.
Trong mô hình phi tập trung, mỗi Bộ sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc chi tiêu ngân sách của mình và đảm bảo thực hiện công tác kiểm tra và kiểm soát cách thức chi tiêu một cách hợp lý. Theo mô hình này, các Bộ, ngành không phải chịu sự kiểm soát bên ngoài của Bộ Tài chính. Các hoạt động ngoại kiểm được hợp nhất vào quy trình thực hiện ngân sách của các Bộ, ngành. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm xây dựng và ban hành các chuẩn mực về hoạt động kiểm toán nội bộ. Mô hình này được áp dụng ở Anh và Hà Lan.
Tuy nhiên, trên thực tế, có những quốc gia thuộc OECD lại áp dụng hỗn hợp hai mô hình trên.
a. Mô hình kiểm toán nội bộ của Pháp
Mô hình kiểm toán nội bộ của Pháp thiên về mô hình tập trung. Tại Pháp, Tổng Thanh tra Tài chính là kiểm toán viên nội bộ của Bộ Tài chính, không chỉ kiểm tra hoạt động của Bộ Tài chính mà còn kiểm soát toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, hầu hết các Bộ, ngành đều có kiểm toán viên nội bộ riêng. Các kiểm toán viên này chịu sự quản lý của Ban Quản lý thuộc Bộ và phải gửi báo cáo về hoạt động của mình cho Ban này. Chức năng kiểm toán nội bộ do “các kế toán công” thực hiện và được quản lý tập trung. Hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của kiểm toán viên nội bộ do Cơ quan Kiểm toán Nhà nước của Pháp thẩm định. Đồng thời, các Tổng thanh tra cũng thực hiện chức năng giám sát hoạt động của kiểm toán nội bộ. Tổng Thanh tra Tài chính gửi báo cáo trực tiếp cho Bộ trưởng Bộ Tài chính về hoạt động của các cơ quan, tổ chức nhà nước và thực hiện chức năng kiểm tra tổng thể, mà không dừng lại ở chức năng kiểm toán tính tuân thủ. Bên cạnh đó, ở Pháp còn có 21 Chánh Thanh tra chịu trách nhiểm kiểm tra hoạt động tài chính các Bộ, ngành và các chương trình cụ thể (ví dụ chương trình giáo dục, y tế, an ninh…). Tương tự như Tổng Thanh tra Tài chính, các Chánh Thanh tra đóng vai trò giám sát và điều tra cũng như thực hiện những nghiên cứu và điều tra chuyên đề.
Ngoài ra, mỗi Bộ còn có một Kiểm soát viên Tài chính thực hiện vai trò tiền kiểm. Không có một hoạt động tài chính nào thực hiện được mà không có sự thông qua của kiểm soát viên này. Các kiểm soát viên này là cán bộ do Bộ Tài chính cử đến các Bộ để thực hiện kiểm soát việc chấp hành ngân sách của các Bộ, ngành. Sự xuất hiện của các kiểm soát viên này khiến vai trò của kiểm toán nội bộ trở nên hạn chế hơn, mặc dù các Bộ lớn (ví dụ, Bộ Xã hội, Bộ Giao thông, Bộ Nội vụ) đều có bộ phận kiểm toán nội bộ thực hiện chức năng điều tra. Hoạt động của các kiểm soát viên này thường được kết hợp với hoạt động của Tổng Thanh tra Tài chính, còn Cơ quan Kiểm toán Nhà nước Pháp chịu trách nhiệm ngoại kiểm, có vai trò báo cáo lên Tổng thống về các vấn đề quản lý tài chính và hàng năm trình bày sổ sách tài chính trước Quốc hội.
b. Mô hình kiểm toán nội bộ của Bồ Đào Nha
Giống như Pháp, Bồ Đào Nha cũng áp dụng mô hình kiểm toán nội bộ tập trung. Trách nhiệm kiểm soát tài chính của tất cả các cơ quan nhà nước được thực hiện một cách tập trung. Tổng Thanh tra Tài chính của Bồ Đào Nha chịu trách nhiệm kiểm soát tổng thể đối với việc thu - chi tài chính công. Ban Giám đốc Ngân sách chung chịu trách nhiệm thực hiện ngân sách nhà nước; Hiệp hội quản lý Tài chính về An ninh xã hội chịu trách nhiệm đối với ngân sách an ninh xã hội.
Chánh Thanh tra của mỗi Bộ, ngành thực hiện chức năng kiểm soát nội bộ của ngành; tập trung hoạt động kiểm soát nội bộ tại các đơn vị hoạt động. Bộ phân kiểm toán của các đơn vị hoạt động chịu trách nhiệm thực hiện chức năng kiểm toán nội bộ và tập trung vào việc kiểm tra các hoạt động quản lý. Kết quả mà bộ phận kiểm toán này thu được sẽ trở thành đầu vào cho các cuộc kiểm toán cấp cao hơn.
c. Mô hình kiểm toán nội bộ của Anh
Anh áp dụng mô hình kiểm toán nội bộ phi tập trung. Kiểm toán viên kiểm toán nội bộ do các Bộ, ngành tuyển dụng và quản lý. Kiểm toán viên nội bộ chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình lên cán bộ tài chính cấp cao nhất của Bộ, “kế toán trưởng”. Tại Anh, kiểm toán nội bộ của các Bộ, ngành phát triển rất mạnh và tập trung vào các vấn đề mang tính hiệu quả. Bộ Tài chính biên soạn và phát hành các chuẩn mực và hướng dẫn hoạt động kiểm toán nội bộ. Hoạt động ngoại kiểm do Văn phòng Kiểm soát viên và Tổng kiểm toán (C&AG) thuộc Cơ quan Kiểm toán quốc gia Vương Quốc Anh (NAO) thực hiện. Ở Anh, Ủy ban Kiểm toán được thiết lập cùng thời gian với NAO và chịu trách nhiệm kiểm toán tại địa phương, các dịch vụ an ninh và y tế quốc gia. Ủy ban này cử các kiểm toán viên tới chính quyền các địa phương và các cơ quan y tế quốc gia để thực hiện hoạt động kiểm toán của mình.
Hệ thống kiểm toán nội bộ của Anh hiện nay vẫn chủ yếu tuân theo mô hình phi tập trung và kế thừa mô hình chính quyền Westminster (một địa danh của Anh) – mô hình cho phép có sự linh hoạt trong hoạt động của kiểm toán nội bộ. Theo mô hình này, Bộ Tài chính không phải là cơ quan quản lý mà đóng vai trò là cơ quan giám sát. Bộ Tài chính ban hành các thủ tục kiểm toán nội bộ, tư vấn và hỗ trợ “các kế toán viên” trong việc quản lý và hạch toán tài chính công; đồng thời không phải chịu trách nhiệm về bất kỳ sự vi trực tiếp quản lý. “Các kế toán viên” thuộc Bộ Tài chính chịu trách nhiệm giải trình về tiền và tài sản công. Thông thường Thư ký Thường trực phụ trách việc chi tiêu của các Bộ, ngành sẽ kiểm soát các khoản kinh phí được Quốc hội phê chuẩn đồng thời giải trình về việc chi tiêu của mình trước C&AG, sau đó kiểm toán viên bên ngoài sẽ chịu trách nhiệm giải trình kết quả kiểm toán trước Quốc hội.
Như đã nói ở trên, mô hình Westminster cho phép có sự linh hoạt trong việc giải nước. Trong hệ thống này, chức năng kiểm toán nội bộ được thiết lập phù hợp với giám sát, kiểm soát và hướng dẫn các vấn đề về hoạt động tài chính của chính phủ. Kiểm toán nội bộ được coi là một bộ phận hỗ trợ cho Bộ Tài chính trong việc giám sát việc tuân thủ các quy định tài chính, hướng dẫn và thủ tục kế toán của các Bộ, ngành. Kiểm toán nội bộ cũng có vai trò trợ giúp các cấp quản lý trong việc thực hiện trách nhiệm của mình thông qua việc gửi báo cáo kiểm toán với những kiến nghị và biện pháp thực hiện.
d. Mô hình kiểm toán nội bộ của Hoa Kỳ
Nhìn chung, Hoa Kỳ áp dụng mô hình kiểm toán nội bộ phi tập trung. Văn phòng Kiểm toán Hoa Kỳ (GAO) chịu trách nhiệm ngoại kiểm, đánh giá hoạt động các Bộ, ngành theo sự phân công của Quốc hội. Trong khi đó, kiểm toán viên nội bộ của Hoa Kỳ lại chịu trách nhiệm quản lý của các tổ chức. Mô hình kiểm toán nội bộ đầu tiên của Hòa Kỳ được áp dụng bắt nguồn từ khu vực tư nhân: các tổ chức kiểm toán nội bộ độc lập với các bộ phận sản xuất và tài chính của công ty, lập báo cáo và gửi lên ban điều hành cấp cao của công ty, bao quát toàn bộ các hoạt động kiểm soát quản lý của đơn vị. Tuy nhiên, theo thời gian, mô hình này đã được điều chỉnh. Từ năm 1978, khi Luật Tổng Thanh tra được ban hành, mỗi Bộ, ngành được bố trí một Tổng Thanh tra, với tư cách là người đứng đầu bộ phận kiểm toán nội bộ của Bộ, ngành đó. Tổng Thanh tra độc lập với các bộ phận khác của Bộ, ngành và báo cáo kết quả hoạt động của mình trực tiếp lên người đứng đầu của Bộ, ngành và Quốc hội. Tổng Thanh tra phải nộp báo cáo thường niên về hoạt động kiểm toán cho người đứng đầu của Bộ, ngành. Sau khi nhận được báo cáo thường niên này, người đứng đầu Bộ, ngành sẽ bổ sung ý kiến của mình vào bản báo cáo rồi gửi bản báo cáo này lên Quốc hội trong vòng 30 ngày. Bản báo cáo này bao gồm cả quan điểm của bộ phận kiểm toán nội bộ với tư cách là một dịch vụ phục vụ quản lý và báo cáo lên Quốc hội, mặc dù gián tiếp nhưng nó cũng chịu trách nhiệm ngoại kiểm.
Ngoài hai mô hình trên, thực tế cho thấy ở các nước thuộc OECD còn có những mô hình kiểm toán nội bộ khác, thể hiện sự kết hợp giữa chức năng ngoại kiểm và nội kiểm. Ví dụ, ở Đức, kiểm toán nội bộ không thuộc hệ thống kiểm soát của cơ quan nhà nước, mà là một bộ phận cấu thành của kiểm toán bên ngoài (ngoại kiểm). Trong khi đó, kiểm toán viên nội bộ lại làm việc trong các cơ quan nhà nước, họ tuân thủ theo hướng dẫn kỹ thuật và nghề nghiệp cũng như chịu sự giám sát của Cơ quan kiểm toán Tối cao Đức, cơ quan Kiểm toán Liên bang. Họ chỉ báo cáo hoạt động của mình lên Cơ quan Kiểm toán Tối cao và thực hiện vai trò tiền kiểm thay vì vai trò kiểm toán nội bộ truyền thống.
Tương tự như vậy, Văn phòng Kiểm toán Thụy Điển có vị trí cũng không rõ ràng. Cơ quan này vừa thuộc quyền quản lý của Bộ Tài chính, vừa hoạt động độc lập với cơ quan lập báo cáo kiểm toán. Tổng Kiểm toán do Nội các bổ nhiệm với nhiệm kỳ 6 năm.
2. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong việc xây dựng và phát triển kiểm toán nội bộ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước, bài viết rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Thứ nhất, dù áp dụng phương pháp tiếp cận nào để xây dựng kiểm toán nội bộ (mô hình tập trung hay phi tập trung) thì cũng cần cân nhắc một số nguyên tắc sau: (1) kiểm toán nội bộ phải được coi là một bộ phận cấu thành quan trọng trong các thủ tục kiểm soát tài chính nội bộ nhằm bảo đảm lợi ích tài chính của các cơ quan, tổ chức nhà nước; (2) mặc dù tập trung chủ yếu vào kiểm toán tính tuân thủ nhưng chức năng kiểm toán nội bộ cần được mở rộng ra với các thủ tục kiểm toán chi tiết, kiểm tra hệ thống, hoạt động và kiểm toán công nghệ thông tin; (3) để thực hiện một các hiệu quả, chức năng kiểm toán nội bộ phải độc lập với hoạt động quản lý thường nhật của cơ quan, tổ chức, nhưng đồng thời phải có sự liên hệ trực tiếp với ban quản lý cấp cao nhất để đảm bảo rằng các phát hiện và kiến nghị của kiểm toán nội bộ sẽ được thực hiên hợp lý; (4) hoạt động kiểm toán nội bộ phải được thực hiện trên cơ sở áp dụng và tuân thủ các chuẩn mực quốc tế.
Thứ hai, chiến lược phát triển chức năng kiểm toán nội bộ được xây dựng trên cơ sở kết hợp nhiều nhân tố như: định hướng kiểm soát và quản lý (mục tiêu của kiểm toán nội bộ); mức độ tập trung của kiểm toán nội bộ trong tổ chức (cách thức tổ chức kiểm toán nội bộ); mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ và kiểm toán bên ngoài (trách nhiệm và sự phối hợp); và hệ thống hóa các kinh nghiệm trong hoạt động kiểm toán nội bộ (cải tiến chức năng kiểm toán nội bộ).
Thứ ba, mục tiêu kiểm toán nội bộ cũng là một cơ sở để xây dựng và phát triển kiểm toán nội bộ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước. Thực tế nghiên cứu kinh nghiệm kiểm toán nội bộ của các quốc gia cho thấy có rất nhiều cách hiểu khác nhau về vai trò của kiểm toán nội bộ. Theo mô hình kiểm toán nội bộ tập trung, kiểm toán nội bộ được coi là một chức năng của Bộ Tài chính, hỗ trợ Bộ Tài chính trong việc kiểm soát sự tuân thủ của các Bộ, ngành đối với các quy định, hướng dẫn và chế độ kế toán của Bộ Tài chính. Mục tiêu kiểm toán nội bộ trong mô hình này nhấn mạnh sự tuân thủ và hoạt động kiểm soát. Trong khi đó, với mô hình phi tập trung, thông qua việc đảm bảo các nguồn lực công được sử dụng một cách hiệu quả, kiểm toán nội bộ đã giúp các nhà quản lý ngân sách đưa ra được các biện pháp điều chỉnh hợp lý. đồng thời đưa ra các kiến nghị thích hợp để nâng cao hiệu lực quản lý lại có vai trò hỗ trợ các nhà quản lý ngân sách. Do đó, mục tiêu của kiểm toán nội bộ trong mô hình phi tập trung là nhằm nhấn mạnh tính hiệu quả và hiệu lực của việc sử dụng các nguồn lực và thực hiện các dịch vụ. Như vậy, việc xây dựng chức năng kiểm toán nội bộ cần phải dựa trên cơ sở các ưu tiên của mỗi quốc gia. Đối với các quốc gia đang gặp các vấn đề về quản trị, thì mục tiêu tiên quyết là cần đảm bảo tính tuân thủ luật và quy định về tài chính. Còn đối với các quốc gia đang phải đối mặt với các áp lực tài chính thì cần phải đảm bảo các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Thứ tư, lựa chọn mức độ tập trung của chức năng kiểm toán nội bộ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước. Theo kinh nghiệm của các nước OEDC, mô hình kiểm toán nội bộ tập trung giúp duy trì và phát triển sự chuyên nghiệp của các kiểm toán viên nội bộ; đổng thời nâng cao tính độc lập của bộ phận kiểm toán nội bộ. Vì kiểm toán nội bộ do Bộ Tài chính quản lý, không thuộc sự kiểm soát trực tiếp của các Bộ, ngành. Tuy nhiên, mô hình này cũng có một số nhược điểm như: làm giảm trách nhiệm giải trình của Ban quản lý Bộ, ngành; hạn chế hiệu lực vì thiếu tính minh bạch; và thiếu sự phối hợp với các ban, ngành khác. Do vậy, khi lựa chọn áp dụng mô hình kiểm toán nội bộ tập trung hay phi tập trung thì cần cân nhắc điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia. Khi áp dụng mô hình tập trung hoàn toàn, Bộ Tài chính sẽ chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của hoạt động quản lý tài chính trong các cơ quan, tổ chức nhà nước, thực hiện trách nhiệm giải trình của các nhà quản lý tài chính. Nếu rủi ro từ những can thiệp mang tính chính trị đối với hoạt động quản lý ngân sách là cao thì việc xây dựng mô hình kiểm toán nội bộ tập trung này cần phải cân nhắc hơn. Tại một số quốc gia, các cơ quan ngoại kiểm yếu kém cũng hàm ý rằng nguy cơ can thiệp mang tính chính trị là khá cao. Ngoài ra, ở đâu năng lực thực kiểm toán viên nội bộ thì cần phải xem xét lại hệ thống kiểm soát tập trung của Bộ Tài chính.
Thứ năm, đảm bảo tính độc lập của kiểm toán nội bộ là nền tảng quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển kiểm toán nội bộ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước. Mục tiêu chính của việc thiết lập chức năng kiểm toán nội bộ là phải đảm bảo được tính độc lập của chức năng này với các hoạt động quản lý thường nhật của các đơn vị, tổ chức. Thực tế cho thấy, mức độ độc lập của kiểm toán nội bộ không giống với hoạt động ngoại kiểm – báo cáo được trình lên Quốc hội. Theo IIA, tính độc lập của kiểm toán nội bộ được quy định như sau: “Các kiểm toán viên nội bộ là độc lập khi thực hiện công việc của mình một cách khách quan. Tính độc lập cho phép các kiểm toán viên độc lập có thể đưa ra các phán đoán công bằng và vô tư khi tiến hành các cuộc kiểm toán…”. Trong trường hợp lý tưởng, các kiểm toán viên nội bộ cần phải chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng hoặc giám đốc điều hành của các Bộ, ngành. Trong mô hình phi tập trung, kiểm toán viên nội bộ sẽ báo cáo trực tiếp kết quả hoạt động của mình lên cán bộ cao nhất này. Còn trong mô hình tập trung, kiểm toán viên nội bộ phải báo cáo trực tiếp lên Bộ trưởng Bộ Tài chính để đảm bảo tính độc lập của mình. Kiểm toán viên nội bộ là nhân viên của Bộ, ngành và chịu trách nhiệm trước người đứng đầu của Bộ, ngành thì đã vi phạm nguyên tắc cốt yếu của kiểm toán đó là: một kiểm toán viên không được kiểm toán bản thân mình. Chính vì vậy, việc xác định rõ nhiệm vụ của kiểm toán viên nội bộ là một trong những công việc tiên quyết khi thiết lập chức năng kiểm toán nội bộ tại các cơ quan, tổ chức nhà nước, đồng thời tránh được những mâu thuẫn phát sinh khi kiểm toán viên nội bộ thực hiện nhiệm vụ của mình. Ngoài ra, việc thiết lập Ủy ban kiểm toán tại các Bộ, ngành cũng là một giải pháp của một số quốc gia. Thành viên của Ủy ban này thuộc ban quản lý cấp cao của các cơ quan, tổ chức và là các chuyên gia trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Mục tiêu của Ủy ban này là nhằm điều hành hoạt động kiểm toán nội bộ, phát hiện các vấn đề vướng mắc và kịp thời đưa ra các biện pháp điều chỉnh hoặc ngăn ngừa. Điều này không chỉ tăng cường vai trò của kiểm toán nội bộ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước mà còn tạo sự tách biệt giữa hoạt động của đơn vị với hoạt động đánh giá của kiểm toán nội bộ. Nhiều quốc gia khác lại nhờ các cơ quan ngoại kiểm độc lập thực hiện hoạt động kiểm toán nội bộ theo định kỳ 2 – 3 định ranh giới rõ ràng về trách nhiệm của kiểm toán nội bộ và kiểm toán bên ngoài. Điều này có thể được giải quyết khi xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của kiểm toán viên nội bộ. Bên cạnh đó, cũng cần xem mối quan hệ giữa chức năng nội kiểm và ngoại kiểm như một sự “cộng sinh” – có tác dụng hỗ trợ cả hai chức năng phát triển. Nhưng trong trường hợp này, cả hai chức năng này đều phải mạnh và hiệu quả để hoạt động kiểm toán bên ngoài có thể sử dụng kết quả của kiểm toán nội bộ và kiểm toán nội bộ cũng có thể tham khảo kết quả phát hiện của hoạt động ngoại kiểm.
1. Havers, H.S “The Role of Internal Auditing in Management Control System in Government: A U.S. Perspective,”, OECD, 1998;
2. OECD SIGMA, “Management Control in Modern Government Administration: Some Comparative Practices,” Paris, 2005.
CÁC BÀI ĐÃ ĐĂNG
Đối sách của Trung Quốc với khủng hoảng tài chính thế giới
Bạn đang đọc nội dung bài viết Tạp Chí Dân Vận Số 7/2019 trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!