Đề Xuất 3/2023 # Skkn Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Đảng Viên Của Chi Bộ Trường Thpt Nguyễn Thị Lợi Trong Giai Đoạn Hiện Nay # Top 10 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Skkn Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Đảng Viên Của Chi Bộ Trường Thpt Nguyễn Thị Lợi Trong Giai Đoạn Hiện Nay # Top 10 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Skkn Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Đảng Viên Của Chi Bộ Trường Thpt Nguyễn Thị Lợi Trong Giai Đoạn Hiện Nay mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

TRƯỜNG THPT NGUYỄN THỊ LỢI ……………………***……………………. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên đề tài: “THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN CỦA CHI BỘ TRƯỜNG THPT NGUYỄN THỊ LỢI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY” Người thực hiện : ĐỖ TRỌNG TRANG Chức vụ: Cấp ủy – Bí thư Đoàn trường Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Thị Lợi SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác đảng THANH HÓA, NĂM 2019 MỤC LỤC ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAP CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN CỦA CHI BỘ TRƯỜNG THPT NGUYỄN THỊ LỢI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY I. Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Chất lượng đảng viên là một trong những vấn đề cơ bản quyết định  đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bởi đảng viên là những  phần tử tạo thành các tổ chức cơ sở đảng và tạo thành Đảng. Chất lượng đảng  viên có vai trò cực kỳ quan trọng trong mỗi thời kỳ phát triển của đất nược  Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Mỗi đảng viên tốt, mỗi chi bộ tốt là  Đảng được mạnh thêm một phần, đảng viên kém, Chi bộ kém là những khâu  yếu của Đảng”. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sỹ cách mạng  trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Đảng là sự liên kết của những người cùng lý tưởng, cùng mục đích phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Một số mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị chuyển biến chậm” Trong khi đó, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng. Muốn giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đối với xã hội; các chủ trương, nghị quyết của Đảng thực sự đi vào cuộc sống, càng đòi hỏi Đảng phải không ngừng tự đổi mới, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, phải không ngừng nâng cao chất lượng đảng viên, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phải ra sức phấn đấu vì mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng. Tình hình đó đã và đang đặt ra cho Đảng cần phải có nhiều giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Đây là một trong những vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu, quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Chi bộ Trường THPT Nguyễn Thị Lợi là Chi bộ trực thuộc Thành Ủy Sầm Sơn, được thành lập năm 2001. Qua 18 năm hoạt động chi bộ nhà trường có đội ngũ cán bộ đảng viên không ngừng phấn đấu hoàn thành tốt công tác chuyên môn, chăm lo xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, nhiều năm liên tục được đánh giá là chi bộ trong sạch vững mạnh tiêu biểu và được Thành Ủy tặng giấy khen. Tuy nhiên, sự phát triển nêu trên còn chưa tương xứng với tiềm năng hiện có. Một số đảng viên chưa thật sự tiên phong gương mẫu; một số đảng viên có nhiều cố gắng và phấn đấu để được đứng trong hàng ngũ của Đảng, nhưng khi trở thành đảng viên rồi thì sự phấn đấu giảm đi rõ rệt; còn một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, chưa thực hiện đúng vai trò, nhiệm vụ của người đảng viên dẫn đến chất lượng, hiệu quả công tác chưa cao; công tác tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng có lúc thực hiện chưa nghiêm, còn tư tưởng ngại va chạm, sợ đấu tranh sẽ ảnh hưởng đến uy tín cá nhân dẫn đến giảm sút sức chiến đấu; tư tưởng bình quân chủ nghĩa chưa được khắc phục triệt để. Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên và từ thực trạng chất lượng đội ngũ đảng viên chi bộ Trường THPT Nguyễn Thị Lợi – Sầm Sơn thời gian qua, nên tôi chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của chi bộ Trường THPT Nguyễn Thị Lợi trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm. 2. Mục đích nghiên cứu – Phân tích, đánh giá đúng thực trạng chất lượng đội ngũ đảng viên của chi bộ Trường THPT Nguyễn Thị Lợi giai đoạn 2015 đến nay. – Trên cơ sở làm rõ thực trạng chất lượng đội ngũ đảng viên, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của chi bộ Trường THPT Nguyễn Thị Lợi trong những năm tiếp theo. 3. Đối tượng nghiên cứu – Chi bộ trường THPT Nguyễn Thị Lợi – Đảng viên sinh hoạt tại chi bộ trường THPT Nguyễn Thị Lợi. 4 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài: – Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng đội ngũ đảng viên – Phạm vi nghiên cứu: + Không gian: Chi bộ Trường THPT Nguyễn Thị Lợi – Sầm Sơn + Thời gian: Từ năm 2015 đến nay. II. Giải quyết vấn đề 1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm về Đảng viên và nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên. 1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của đảng viên 1.1.1. Khái niệm đảng viên Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam khoá XI quy định: “Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”. 1.1.2. Vị trí, vai trò của đảng viên Vị trí, vai trò của đảng viên được xem xét trong ba mối quan hệ chủ yếu: Thứ nhất, mối quan hệ giữa đảng viên với đường lối, nhiệm vụ chính trị. Đây là mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa đảng viên với đường lối, nhiệm vụ chính trị. Đảng viên là người xây dựng nên đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, đồng thời là người đi đầu thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Mọi công việc Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết Đảng đều do đảng viên chấp hành. Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện”. Vì vậy, chất lượng đội ngũ đảng viên quyết định thành công hay thất bại việc hiện thực hóa lý tưởng, đường lối, chính sách của Đảng, nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng. Thứ hai, mối quan hệ giữa đảng viên với tổ chức đảng. Đảng là do các đảng viên mà tổ chức nên, vì vậy chất lượng đội ngũ đảng viên có quan hệ quyết định đến chất lượng của tổ chức đảng. Đảng viên tốt sẽ bảo đảm xây dựng tổ chức mạnh; đảng viên kém tỏ chức đảng không thể trong sạch, vững mạnh. Khi đã thành tổ chức, tổ chức quyết định trở lại đối với từng đảng viên, nhân sức mạnh của mỗi đảng viên lên gấp bội. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng là gồm các đảng viên mà tổ chức nên”, “Đảng viên tốt thì Đảng mới mạnh”. Người nhấn mạnh: “Để lãnh dạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”. Thứ ba, mối quan hệ giữa đảng viên với phong trào cách mạng nhân dân. Đảng viên là người lãnh đạo, tổ chức các phong trào cách mạng của nhân dân, vì vậy phong trào cách mạng của nhân dân mạnh hay yếu là do đảng viên tốt hay kém. Đồng thời, từ trong phong trào cách mạng của nhân dân, Đảng sẽ phát hiện được quần chúng tích cực để bồi dưỡng kết nạp đảng viên; thử thách, rèn luyện đảng viên của mình. Mặt khác, cần thấy rằng nếu sức mạnh của quần chúng nhân dân là do có sự lãnh đạo của Đảng, thì sức mạnh của Đảng lại bắt nguồn từ mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Mối quan hệ Đảng với quần chúng nhân dân là mối quan hệ máu thịt, hữu cơ, sống còn của Đảng. Mối liên hệ giữa đảng viên với quần chúng biểu hiện mối quan hệ trực tiếp, sống động nhất giữa Đảng với quần chúng. Vì vậy, chất lượng đảng viên ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của Đảng, đến mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mỗi đảng viên là một người thay mặt cho Đảng trước quần chúng”, do đó: “Lời nói và việc làm của đảng viên rất quan hệ đến sự nghiệp cách mạng, vì nó ảnh hưởng lớn đến quần chúng”. 1.2. Quan niệm, tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ đảng viên 1.2.1. Quan niệm về chất lượng đảng viên Chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu thị ra bên ngoài các thuộc tính, các tính chất vốn có của sự vật. Quan niệm chung nhất về “chất lượng” là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một người, một sự vật, sự việc. Nói đến chất lượng là nói tới hai vấn đề cơ bản: Thứ nhất, đó là tổng hợp những phẩm chất, giá trị, những đặc tính tạo nên cái bản chất của một con người, một sự vật, sự việc; Thứ hai, những phẩm chất, những đặc tính, những giá trị đó đáp ứng đến đâu những yêu cầu đã được xác định về con người, sự vật, sự việc đó ở một thời gian và không gian xác định. Tuy nhiên, những điều này có tính ổn định tương đối, thay đổi do tác động của những điều kiện chủ quan và khách quan. Vì thế, nói đến chất lượng của một con người là nói đến mức độ đạt được của một người ở một thời gian và không gian được xác định cụ thể, đó là các mức độ tốt hay xấu, cao hay thấp, ngang tầm hay dưới tầm, vượt tầm, đạt hay không đạt yêu cầu đặt ra. Tổng hợp những phẩm chất, những giá trị, những thuộc tính đặc trưng, bản chất của một con người và các mặt hoạt động của con người đó, chính là chất lượng con người đó.  Chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên có tính ổn định tương đối, có thể cao hoặc thấp do tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan, không bất biến, thường xuyên vận động, biến đổi, phát triển theo yêu cầu, nhiệm vụ; chịu sự tác động mạnh mẽ của thực tiễn và phụ thuộc vào quá trình bồi dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của mỗi người cán bộ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong thế giới, cái gì cũng biến hoá. Tư tưởng con người cũng biến hoá. Vì vậy, cách xem xét cán bộ, quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hoá Một người cán bộ khi trước sai lầm, không phải vì thế mà sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm nhưng chắc gì sau này không phạm sai lầm? Quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau”. 1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ đảng viên Đánh giá chất lượng đội ngũ đảng viên dựa trên 3 tiêu chí gồm có: Thứ nhất, đánh giá chất lượng, phân loại đảng viên phải trên cơ sở bảo đảm tính khách quan, dân chủ, công khai và từng bước tiến hành chặt chẽ, cẩn trọng. Đánh giá, phân loại đảng viên phải trên tinh thần lấy “xây” là chính, đồng thời phải đảm bảo tăng cường đoàn kết thống nhất trong chi bộ, đảng bộ, trong cấp ủy, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị. Thứ hai, đánh giá, phân loại đảng viên phải căn cứ vào tiêu chuẩn, nhiệm vụ của đảng viên đuọc ghi trong Điều lệ Đảng; nhiệm vụ được chi bộ phân công; căn cứ vào các hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương (Hướng dẫn số 27-HD/TCTW ngày 25/9/2014 ) về nội dung cụ thể, các bước tiến hành, nhiệm vụ của từng cấp ủy và các việc cần làm sau khi có kết quả đánh giá, phân loại. Thứ ba, đánh giá chất lượng, phân loại đảng viên phải căn cứ vào yêu cầu nâng cao chất lượng đảng viên theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; kết quả rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, lối sống và kết quả thực hiện nhiệm vụ đảng viên do Điều lệ Đảng quy định. 1.3. Sự cần thiết nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của Chi bộ Trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Chi bộ là nơi trực tiếp nối liền Đảng với quần chúng, được tổ chức theo nơi làm việc hoặc nơi ở của đảng viên. Chi bộ có nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện, quản lý, phân công và kiểm tra công tác của đảng viên, kết nạp đảng viên mới và thi hành kỷ luật đảng viên, lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trong phạm vi đơn vị. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”. Do vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là nội dung quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt động, là cốt lõi để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Trong thực tế, “mọi công việc của Đảng đều do đảng viên làm, mọi Nghị quyết của Đảng đều do đảng viên chấp hành, mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng, mọi khẩu hiệu, kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện”. Do đó, việc nâng cao chất lượng đảng viên có tầm quan trọng đặc biệt, không chỉ là nền tảng để xây dựng, củng cố đội ngũ đảng viên, còn tác động đến uy tín, đến năng lực lãnh đạo của Đảng. Đội ngũ đảng viên tốt thì uy tín, năng lực lãnh đạo của Đảng được nâng lên, đội ngũ đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống, yếu kém về năng lực chuyên môn thì Đảng giảm sút khả năng lãnh đạo và sức chiến đấu, thậm chí có thể dẫn đến làm biến chất, làm tan rã Đảng, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng đã nhấn mạnh “sẽ ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ”. 2. Thực trạng chất lượng đội ngũ đảng viên của chi bộ Trường THPT Nguyễn Thị Lợi từ năm 2015 đến nay 2.1. Những ưu điểm a) Về tư tưởng chính trị Đội ngũ đảng viên của đơn vị có bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi khó khăn thử thách, đặc biệt là trước tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp và mặt trái của cơ chế thị trường đã tác động đến đời sống, sinh hoạt và công tác; tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Đội ngũ đảng viên của đơn vị luôn chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ và đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; thực hiện đầy đủ quyền và nhiệm vụ của đảng viên. Luôn kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng; tích cực đấu tranh bảo vệ lẽ phải, bảo vệ người tốt. b) Về phẩm chất và đạo đức lối sống: Luôn giữ gìn tư cách, đạo đức, tính tiên phong, gương mẫu của người đảng viên, gắn với việc thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và có tinh thần hợp tác, sẵn sàng giúp đỡ đồng chí, đồng nghiệp khi gặp khó khăn trong công việc cũng như sinh hoạt, chấp hành đúng quy định của Bộ chính trị về những điều đảng viên không được làm. Luôn trung thực thẳng thắn, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất của Đảng, có quan hệ gắn bó, mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ. Đội ngũ đảng viên trong Chi bộ đơn vị luôn giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng. c) Về thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao: Hầu hết đảng viên của Chi bộ đơn vị đều có tinh thần trách nhiệm cao, linh hoạt sáng tạo trong lao động, dám nghĩ dám làm và dám chịu trách nhiệm trước hành động của mình, kể cả trong học tập. Do vậy, kết quả thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ đảng viên mang lại hiệu quả cao góp phần cho Chi bộ đơn vị luôn giữ vững danh hiệu Chi bộ trong sạch vững mạnh nhiều năm liền. d) Về ý thức tổ chức kỷ luật: Thường xuyên thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong Đảng, đoàn kết trong nội bộ, xem đây là nguyên tắc cơ bản của Đảng. Từ đó nội bộ Đảng luôn gắn bó đoàn kết thống nhất ý chí và hành động. Có ý thức tổ chức kỷ luật cao, phục tùng sự phân công, điều động của tổ chức. Giữ vững nền nếp, chế độ sinh hoạt Đảng. e) Về kết quả khắc phục sữa chữa yếu kém, khuyết điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) h) Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở chi bộ Trường THPT Nguyễn Thị Lợi trong những năm qua: * Về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đảng viên: Với quan điểm cán bộ là gốc của mọi thành công, Chi bộ luôn đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ, trong đó có đội ngũ đảng viên và cán bộ lãnh đạo; Chi bộ đơn vị đã triển khai sâu rộng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo chỉ thị của Ban bí thư Trung ương Đảng, gắn chặt với điều kiện thực tế của đơn vị và cá nhân của mỗi Đảng viên * Về nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ đảng viên: Các đồng chí đảng viên trong nguồn quy hoạch đều được cử đi học các lớp Trung cấp Lý luận Chính trị, các lớp quản lý hành chính nhà nước và tất cả các lớp bồi dưỡng do cấp trên tổ chức, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ quản lý. Trình độ năng lực của cán bộ, đảng viên trong đảng bộ không ngừng được nâng lên, điều đó thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 1: Thông tin về đội ngũ cán bộ đảng viên chi bộ Trường THPT Nguyễn Thị Lợi từ năm 2015-4/2019. TT Năm Tổng số ĐV ĐV dự bị ĐV nữ Trình độ chuyên môn Trung cấp lý luận chính trị Ghi chú CĐ ĐH Sau ĐH TC Cao cấp 1 2015 34 2 18 0 25 9 4 2 2 2016 36 1 20 0 27 9 4 2 3 2017 40 2 24 0 30 10 4 2 4 2018 45 2 28 0 32 13 4 2 5 4/2019 45 1 28 0 32 13 4 2 Ghi chú: ĐV: Đảng viên * Làm tốt công tác quản lý đảng viên, kết nạp đảng viên: Việc quản lý đảng viên cũng là một nhiệm vụ quan trọng của cấp uỷ, hàng tháng, khi họp Ban chấp hành, diễn biến tư tưởng và từng biểu hiện của cán bộ, đảng viên đều được xem xét. Từ việc thực hiện nề nếp, giờ giấc làm việc, nội quy cơ quan, đến việc quan hệ xã hội … Đặc biệt giám sát việc thực hiện Điều lệ Đảng của đảng viên. Một trong những biện pháp quản lý cán bộ đảng có hiệu quả là giao việc và tạo điều kiện để làm tốt công việc, đồng thời có cơ chế, chính sách đãi ngộ, sử dụng phù hợp. Những việc lớn cần phải tư duy và cống hiến thì cố vấn, vạch ra phương hướng, kiểm tra giám sát … để đảng viên có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Công tác phát triển Đảng cũng luôn được chi bộ đặc biệt quan tâm. Phát triển đảng viên là nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt trong công tác xây dựng Đảng, tăng cường lực lượng, góp phần trẻ hóa đội ngũ, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Một tổ chức cơ sở đảng mạnh được thể hiện qua số lượng, chất lượng đảng viên, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của chi bộ trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên. Mọi quần chúng đều có cơ hội và điều kiện đứng trong hàng ngũ của Đảng nếu có ý chí phấn đấu. Bảng 2: Số đảng viên được kết nạp mới từ năm 2015- 4/2019 TT Thời gian Số lượng quần chúng được học cảm tình Đảng Số lượng kết nạp đảng viên mới Ghi chú 1 2015 02 02 2 2016 02 01 3 2017 02 02 4 2018 02 02 5 4/2019 04 0 * Thực hiện nghiêm túc việc đánh giá xếp loại đảng viên hàng năm: Việc đánh giá xếp loại đảng viên hàng năm cũng có tác dụng trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Quá trình đánh giá xếp loại đảng viên dựa trên hướng dẫn của cấp trên, tiêu chuẩn đánh giá xếp loại của chi ủy và việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn được giao của từng đảng viên Bảng 3: Chất lượng đảng viên từ năm 2015 –4/2019 Năm Tổng số đảng viên Đủ tư cách HTXSNV Đủ tư cách HTTNV Đủ tư cách HTNV Vi phạm tư cách 2015 34

Thực Trạng Và Giải Pháp Để Nâng Cao Chất Lượng Đảng Viên Trong Giai Đoạn Hiện Nay

Trêng ®¹i häc s ph¹m hµ néi 2 Khoa gi¸o dôc chÝnh trÞ ===== o0o =====

tiÓu luËn TRIẾT HỌC ĐỀ TÀI:

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐẢNG VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Gi¶ng viªn :

……………

Sinh viªn

:

Líp

: K36 – GDCD

Hµ Néi, 2013

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU. 1. Lý do chọn đề tài 2. Tình hình nghiên cứu vấn đề CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI ĐẢNG VIÊN CỘNG SẢN 1.1. Quan điểm của MÁC-ĂNGGHEN về người đảng viên cộng sản. 1.2. Quan điểm của LÊNIN về người đảng viên cộng sản. 1.3. Quan điểm của HỒ CHÍ MINH về người đảng viên cộng sản. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐẢNG VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. 2.1. Đặc điểm tình hình của chi bộ trường THCS ĐÀO XÁ 2.2. Giải pháp để nâng cao chất lượng đảng viên trong giai đoạn hiện nay. KẾT LUẬN. DANH MỤC THAM KHẢO.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài Chất lượng đảng viên là một trong những vấn đề cơ bản quyết định đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bởi đảng viên là những phần tử tạo thành các tổ chức cơ sở đảng và tạo thành Đảng. Chất lượng đảng viên có vai trò cực kỳ quan trọng trong mỗi thời kỳ phát triển của đất nược Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Mỗi đảng viên tốt, mỗi Chi bộ tốt là Đảng được mạnh thêm một phần, đảng viên kém, Chi bộ kém là những khâu yếu của Đảng”?.Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nạm Đảng là sự liên kết của những người cùng lý tưởng, cùng mục đích phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, vững buớc tiến lên Chủ nghĩa xã hội”… Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X ,Đảng ta đã nhận định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực, thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách Pháp luật của Nhà nước, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng, một số ít có biểu hiện bất mãn, mất lòng tin, nói và làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng, vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, vi phạm Pháp luật của Nhà nước bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng, vẫn còn tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, …, thoái hoá biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn diễn ra nghiêm trọng, kéo dài”`. (Nguồn: Văn kiện Đại hội X của Đảng, trang 263,264). Nhận thức sâu sắc được những vấn đề về giáo dục, chất lượng giáo dục, xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ đảng viên nên tôi mạnh dạn chọn đề tài:

“thực trạng và giải pháp để nâng cao chất lượng đảng viên của Chi bộ Trường THCS Đào Xá hiện nay”, để làm đề tài tiểu luận cuả mình. 2. Tình hình nghiên cứu vấn đề. Do tầm quan trọng và sự đòi hỏi của tổ chức đảng thì vấn đề nâng cao chất lượng đảng viên là rất cần thiết.Nâng cao chất lượng đảng viên là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng vì vậy trong thời gian gần đây đã và đang có nhiều công trình nghiên cứu và nói về vấn đề này: – Bài viết: Để chất lượng đảng viên đáp ứng yêu cầu của Điều lệ Đảng – Theo Tạp chí cộng sản – Bài viết:Nâng cao chất lượng Đảng viên là yếu tố then chốt nâng cao chất lượng Đảng, -Góp ý Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI: – Bài viết :Nâng cao chất lượng đảng viên theo Tư tưởng Hồ Chí Minh,- Báo điện biên phủ online Nhìn chung những bài viết này đã nói khá rõ về việc nầng cao chất lương đảng viên tuy nhiên lại chưa đi vào cụ thể của từng chi bộ nào .Vì vậy trên cơ sở kế thừa các thành tựu đó tôi chọn đề tài này làm bài tiểu luận của mình.

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI ĐẢNG VIÊN CỘNG SẢN 1.1 Quan điểm của Mác, ăng ghen, Lênin về người đảng viên cộng sản: – Mác và ăng ghen đã khẳng định: Để lật đổ giai cấp tư sản và xã hội tư bản, xây dựng chủ nghĩa Cộng sản, giai cấp Vô sản nhất thiết phải thành lập chính Đảng của mình. Hai ông đã đưa ra những quan điểm, nguyên lý xây dựng chính Đảng cách mạng của giai cấp vô sản và trực tiếp thể hiện quan điểm đó trong quá trình xây dựng và lãnh đạo hoạt động của “Liên đoàn những người cộng sản”? – chính Đảng cách mạng đầu tiên trên thế giới của giai cấp vô sản, trong đó bộ phận rất quan trọng là những quan điểm cơ bản về người đảng viên cộng sản.Người đảng viên cộng sản về mặt thực tiễn là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng công nhận ở tất cả các nước, là bộ phận cổ vũ tất cả các bộ phận khác . Về lý luận, họ hơn những bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản. Các Mác và ăng ghen là những người đầu tiên nêu lên những tư tưởng cơ bản về Đảng Cộng sản. Những tư tưởng đó bắt nguồn từ luận điểm khoa học về vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân…Theo hai ông: Đảng viên cộng sản là người được vũ trang bằng lý luận tiên tiến, có trình độ giác ngộ cao và trong hoạt động thực tiễn đảng viên là người kiên quyết biết lôi cuốn quần chúng hoạt đông. Đảng là một đội ngũ có tổ chức chặt chẹ Đảng phải là khối thống nhất trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chực Như vậy về bản chất, Đảng là của giai cấp công nhân, nhưng Đảng đại diện cho toàn thể nhân dân lao động, bởi vì giai cấp công nhân chỉ có thể giải phóng cho mình khi nó đồng thời giải phóng các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hôi. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, Đảng chỉ có thể làm tròn vai trò là đội tiên phong khi Đảng chỉ bao gồm những chiến sỹ tiên phong ,

– Có trình độ văn hoá, lý luận, chuyên môn nghiệp vụ và năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giạo – Có ý thức kỷ luật cao: “Chính đảng của giai cấp vô sản phải được thực hiện trong nội bộ của mình một chế độ tập trung chặt chẽ và một kỷ luật nghiêm ngặt – Gắn bó với quần chúng, giáo dục tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng, là tấm gương mẫu mực cho quần chúng noi theo – Đảng viên Cộng sản phải tiên tiến hơn quần chúng và khác so với các đảng viên khác, các phần tử cơ hôi. Tư cách đảng viên là những đặc trưng cơ bản của người đảng viên cần có, đó là yếu tố chủ yếu để phân biệt với người ngoài Đảng Qua những vấn đề nêu trên, chúng ta thấy rằng các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lenin rất quan tâm đến đảng viên và công tác đảng viên nhằm xây dựng một đội ngũ đảng viên có chất lượng xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân đủ sức lãnh đạo cách mạng đến thắng lơi. 1.1.3.Tư tưởng Hồ Chí Minh về người đảng viên cộng sản Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới việc xay dung. Đảng vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tôc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về người Đảng viên Cộng sản là sự kế thừa và phát triển tư tưởng, quan điểm của Mác – ăng ghen và Lenin, phù hợp với điều kiện nước ta.Nói chuyện tại phân hiệu II Trường Nguyễn ái Quốc vào

tháng 07 năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng không phải là nơi để thăng quan tiến chức, để phát tại Vào Đảng là để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, đảng viên phải trở thành người con hiếu thảo của tổ quốc, của giai cấp”. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản Đảng chỉ kết nạp những người ưu tú trong giai cấp công nhân, nhân dân lao động vào Đảng Để đảm bảo vai trò tiên phong, vai trò lãnh đạo của Đảng Hồ Chí Minh rất quan tâm đến điều kiện để trở thành người đảng viên Cộng sản, hay nói cách khác đó là tư cách, tiêu chuẩn, hình mẫu của đảng viên cộng sản Điều lệ vắn tắt của Đảng cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo được Hội nghị thành lập Đảng thông qua, ghi rõ: “Lễ vào Đảng: Ai tin theo chủ nghĩa Công sản, chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản, hăng hái đấu tranh cẩn thận và giám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng đảng phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng, thời được vào Đang”?. Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: “Người vào Đảng phải thừa nhận Đảng cương, phải tham gia công tác trong một tổ chức của Đảng, phải tuyệt đối trung thành Nghị quyết của Đảng, nộp đảng phi”‘. Ngay từ năm 1927, đặc biệt là từ khi thành lập Đảng đến lúc Người qua đời, Hồ Chí Minh đã có nhiều bài nói, bài viết về tư cách của người đảng viên cộng sản thể hiện ở những nội dung: – Trung thành với chủ nghĩa Mac- Lenin, kiên trì phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng dân tộc và nhân loai. – Vừa có tài, vừa có đức, trong đó đức là gốc, tích cực nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhận – Gắn bó mật thiết với nhân dân, luôn luôn lấy dân làm gốc, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân, thống nhất lời

nói với việc làm, thực hiện “Đảng viên đi trước làng nước theo sau”, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết và trước hết. – Đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế – Kiên quyết đấu tranh chống các tư tưởng và hành động sai trái phản động trước hết là chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại và bệnh giáo điêu. – Chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật Đảng, Pháp luật của Nhà nước.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐẢNG VIÊN CỦA CHI BỘ TRƯỜNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NÀY 2.1.Đặc điểm tình hình chi bộ trường THCS Đào Xá: Trường THCS Đào Xá-Thanh Thủy là trường công lập với nhiệm vụ chính là giáo dục và bồi dưỡng cho học sinh trong xã Đào Xá- H.Thanh Thủy – T. Phú Thọ *) Về cơ cấu tổ chức của nhà trường: – 01 Hiệu trưởng – 02 Phó hiệu trưởng – 02 tổ chuyên môn *) Các tổ chức chính trị: – Chi bộ nhà trường: 21 đảng viên; Chi uỷ có 03 đồng chí – Công đoàn nhà trường: 30 đoàn viên công đoàn; BCH có 03 đồng chí – Đoàn TNCS Hồ Chí Minh: 102 đoàn viên; BCH gồm 4 đồng chí – Ban nữ công: 14 người – Cựu chiến binh: 2 người 2.1.1. Những mặt đã đạt được: * Về đội ngũ đảng viên : – Đa số đảng viên có lập trường quan điểm vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức giác ngộ lý tưởng cộng sản, đường lối, chủ trương,

chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước Tin tưởng tuyệt đối vào đường lối của Đảng, luôn xác định rõ vai trò, trách nhiệm của người đảng viên trong thực hiện đường lối của Đảng, coi giáo dục – Đào tạo là quốc sách hàng đầu và có tín nhiệm đối với quần chúng nhân dân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giạo – 100% đảng viên có trình độ chuyên môn được đào tạo cơ bản, phù hợp với nhiệm vụ công tác Đa số có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ vững vạng Trrong công tác thể hiện sự trung thành, tận tuỵ, sáng tạo, đặc biệt ở các đảng viên trẻ sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm – Đảng viên không chỉ là những người có nhận thức cao về chuyên môn nghiệp vụ mà còn tham gia hưởng ứng đăng ký các danh hiệu thi đua trong năm. Thực hiện tốt phong trào thi đua “hai tốt”‘ và các cuộc vận động lớn của ngành giáo dục, là những tấm gương tiêu biểu về nhận thức, chính trị, xã hôi. Mỗi đảng viên thực sự là cầu nối để đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đến với quần chúng, – Chi bộ có số lượng đảng viên trẻ nhiều, nhưng đa số đảng viên luôn đầu tàu gương mẫu trong mọi công tác, phục tùng sự phân công của tổ chức. Có ý thức khả năng tổ chức vận động quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường, thường xuyên liên hệ chặt chẽ với quần chúng – Hầu hết đảng viên có phẩm chất đạo đức tốt, có lối sống lành mạnh, trong sáng, không xa hoa, lãng phí, không có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, có ý thức chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và có trách nhiệm vận động gia đình, đồng chí và quần chúng cùng thực hiện nghiêm chỉnh.

– Đảng viên khi phân công nhiệm vụ đều sẵn sàng nhận và hoàn thành tột Thực hiện tốt 4 nhiệm vụ của người đảng viên đã được quy định trong Điều lệ Đảng – Về tư tưởng chính trị: + Mỗi đồng chí trong chi uỷ đều có phẩm chất chính trị tốt. Luôn luôn tin tưởng vào chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và pháp luật của nhà nước. Có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, không dao động trong các tình huống và trong chiến lược diễn biến hoà bình cũng như toàn cầu hoá của các thế lực thù địch. + Luôn tự học, tự bồi dưỡng để không ngừng nâng cao trình độ nhận thức chính trị và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. + Luôn có tư tưởng cầu tiến và mong muốn chỉ đạo đơn vị thực hiện xuất sắc nhiệm vụ chính trị của đơn vị và thực hiện tốt các chủ trương chính sách, nghị quyết của cấp trện – Về đạo đức lối sống: + Thực hiện tốt quy định 115 của Bộ chính trị Khoá X về những điều cấm đảng viên không được lạm + Không vi phạm đạo đức nhà giáo, theo tinh thần chỉ đạo của cấp trên về cuộc vận động “Hai không với bốn nội dung”: Nói không với tiêu cực trong thi cử, nói không với bệnh thành tích trong giáo dục, nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo, nói không với học sinh ngồi nhầm lợp – Công tác thực hiện nhiệm vụ được giao

+ Các đảng viên trong chi bộ và cán bộ giáo viên, học sinh tin tưởng vào chủ trương, nghị quyết của chi uỷ đề ra mọi người tham gia thực hiện tốt các chủ trương, nghị quyết. + Hàng tháng chi bộ sinh hoạt để đánh giá kết quả hoạt động công tác của các đảng viên và việc thực hiện nghị quyết chi bộ tháng trược Phân tích những mặt mạnh, mặt yếu và việc thực hiện nhiệm vụ được giao nên đã tạo được không khí vui vẻ hoà thuận trong nhà trường, cùng nhau chung sức làm viêc. + Trong năm qua chi uỷ nhà trường rất quan tâm trong việc triển khai học tập , nghiên cứu để thực hiện các nội dung nghị quyết của đảng và các cấp uỷ chính quyền cấp trên để không ngừng nâng cao trình độ nhận thức chính trị và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đảng viên và quân chúng để mọi người yên tâm công tác xây dựng nhà trường, chi bộ nhà trường ngày càng vững manh. * Về công tác đảng viên: – Công tác đảng viên là khâu quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng Vì vậy, Chi bộ trường THCS Đào Xá đã thường xuyên quan tâm đến công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng cho đảng viên, trang bị những kiến thức về Chủ nghĩa Mac Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tổ chức học tập nghiêm túc các Nghị quyết của Đảng, Pháp luật của Nhà nước một cách kịp thợi Chi bộ cũng tạo điều kiện thuận lợi cho đảng viên được học tập nâng cao kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ, năng lực tổ chức quản lý để mỗi đảng viên xứng đáng là chiến sỹ Cộng sản có lý thưởng cách mạng, giữ vững vai trò tiên phong, gương mẫu trong nhận thức và hành đông.

+ Chi bộ quan tâm công tác giáo dục, nâng cao phẩm chất chính trị, kiến thức năng lực thực tiễn cho đảng viên Chi bộ đã tạo điều kiện để mọi đảng viên được học tập tất cả các Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đồng thời tổ chức học tập nghiên cứu để hiểu cụ hơn mỗi Nghị quyết tại Chi bộ qua các cuộc họp của các Chi bộ + Chi bộ đã không ngừng chỉ đạo các hoạt động trong Nhà trường, đặc biệt công tác chuyên môn, ngoài việc tạo điều kiện cho đảng viên được học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; Chi bộ còn chỉ đạo tăng cường đổi mới, cách cách hành chính trong nội bộ Nhà trường, tổ chức các hội thảo xây dựng khung chỉ đạo thống nhất từ lãnh đạo đến các phòng, khoa, giáo viên, nhân viên trong công tác hướng dẫn chỉ đạo, nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao năng lực lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ quản lý, năng lực giảng dạy cho đội ngũ giáo viên. – Về phân loại chất lượng đảng viên: Việc phân loại đảng viên hàng năm được Chi bộ tiến hành một cách chu đạo Mỗi đảng viên trong Chi bộ tự viết bản kiểm điểm và tự nhận loại cho mình. Dựa theo tiêu chí do Ban tổ chức TW và các hướng dẫn của cấp trên căn cứ vào hiệu quả công tác, kết quả rèn luyện nhiệm vụ và phẩm chất của người đảng viên để phân loại. Việc phân loại đã được Chi bộ làm đúng quy trình, đảng viên tự thông qua bản tự kiểm điểm cá nhân, tự nhận loại và sau đó Chi bộ đóng góp ý kiến xây dựng, phê bình hết sức thẳng thắn . – Về công tác phát triển Đảng: Chi bộ thực sự quan tâm đến công tác phát triển đảng viên Chi bộ luôn tạo điều kiện bồi dưỡng, giới thiệu những đoàn viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Mịnh Đoàn viên công đoàn ưu tú để kết nạp họ vào Đảng, tăng cường lực lượng cho Đảng.

– Công tác kiểm tra giám sát của Đảng: Trong công cuộc đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, việc nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo và uy tín của các tổ chức cơ sở Đảng đang là yêu cầu cấp bạch Để làm tốt điều đó, một nhiệm vụ rất quan trọng là các tổ chức Đảng cần tăng cường công tác kiểm tra của mình và phải coi đây là công tác quan trọng, thường xuyên của mỗi cấp uỷ và từng đảng viên . 2.2.2. Những hạn chế: * Về đội ngũ đảng viên: – Một số ít đảng viên ý thức giác ngộ về lý tưởng chủ nghĩa Cộng sản còn yếu – Một số đảng viên ý thức đã biểu hiện trình độ một số mặt còn hạn chế: việc cập nhật tri thức mới, nhất là kiến thức về ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, chỉ đạo, trong sinh hoạt chưa mạnh dạn đấu tranh tự phê bình và phê bình. – Vẫn còn một bộ phận đảng viên thiếu gương mẫu, chưa lắng nghe ý kiến của quần chúng, chưa có tinh thần học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ * Về công tác đảng viên: – Công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao phẩm chất chính trị cho đảng viên chưa sâu rộng, chưa cụ thể hoá trong từng nhiệm vụ của đảng viên trước Chi bộ. – Việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên có khi còn chung chung, chưa căn cứ vào kết quả hoàn thành công việc (nhất là công tác kiêm nhiệm) để đánh giá phân loại cuối năm.

– Nội dung sinh hoạt của Chi bộ có lúc còn nghèo nàn, chất lượng sinh hoạt chưa cao 2.2. Giải pháp để nâng cao chất lượng đảng viên của nhà trường trong giai đoạn hiện nay – Một là, xây dựng những tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể đối với đảng viên. Trên cơ sở những tiêu chuẩn đảng viên mà Điều lệ Đảng quy định, các cấp ủy đảng ở các loại hình tổ chức cơ sở đảng cần cụ thể hóa tiêu chuẩn đảng viên một cách phù hợp. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần chú trọng đến các yếu tố cụ thể, như: sự giác ngộ, lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị; đạo đức, lối sống; thái độ và cách ứng xử trong các mối quan hệ xã hội, công tác, quan hệ lợi ích; tính tiền phong gương mẫu; ý thức trách nhiệm, chấp hành kỷ luật; năng lực thực hiện nhiệm vụ; tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình; việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chấp hành Quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm. – Hai là, thực hiện tốt công tác phân công nhiệm vụ và quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên. Các chi bộ cần bảo đảm tất cả các đảng viên đều được phân công nhiệm vụ cụ thể. Tất cả đảng viên đều phải chịu sự quản lý của tổ chức đảng về các mặt: hồ sơ lý lịch, tư tưởng, đạo đức, lối sống, hoạt động, các mối quan hệ xã hội, quan hệ công tác. Ngoài những nội dung quản lý đó, hiện nay, các cấp ủy, tổ chức đảng cần quan tâm quản lý số đảng viên đi làm ăn xa và số đảng viên làm việc ở những cơ quan quan trọng của Đảng và Nhà nước, nhất là đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý ở những cơ quan công quyền và đảng viên ở những cơ quan thuộc diện định kỳ chuyển đổi vị trí công tác theo Nghị

định số 158/2007/NĐ-CP của Chính phủ và Quyết địnhsố 05/2008/QĐ-BNV của Bộ Nội vụ. Thường xuyên kiểm tra, giám sát đảng viên về lập trường tư tưởng, quan điểm chính trị, ý thức chấp hành chỉ thị, nghị quyết, chấp hành các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; về hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được phân công, mối quan hệ giữa đảng viên với quần chúng, tính tiền phong gương mẫu và giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng của người đảng viên. Bên cạnh đó, hiện nay, các cấp ủy cần căn cứ vào Quy định số 47QĐ/TW, ngày 1-11-2011, của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm để kiểm tra, giám sát đảng viên cho tốt. – Ba là, tăng cường công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ đảng viên. Thực tế cho thấy, nhiệm vụ của mỗi tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương ngày càng nhiều và khó khăn, phức tạp. Không phải cứ đứng trong hàng ngũ của Đảng, là mọi đảng viên đều có đủ khả năng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ ở mọi lúc, mọi nơi. Vì thế, việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ đảng viên không chỉ là yêu cầu thường xuyên, lâu dài, mà còn là đòi hỏi cấp bách. Để công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ đảng viên có hiệu quả, cần thực hiện tốt những việc sau: Tăng cường và đổi mới nội dung, hình thức giáo dục lý luận chính trị tại các chi bộ, đảng bộ. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và những kỹ năng cơ bản để xử lý công việc. Định kỳ hằng năm, cấp ủy cơ sở cần đánh giá trình độ, năng lực thực tế của đảng viên, căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ của địa phương, đơn vị và nhu cầu, nguyện vọng học tập, bồi dưỡng của đảng viên để xác định nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng một cách thiết thực, phù hợp. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tăng cường hình thức sinh hoạt chuyên

KẾT LUẬN Thực tiễn và kinh nghiệm lịch sử của những năm qua đã khẳng định Đảng cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng nước ta Đảng có vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức mới có khả năng tạo lập, giữ vững và nâng cao sức mạnh của Đảng tạo thành sự vững mạnh của mỗi tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên, Mặt khác sức mạnh của Đảng cũng được tạo ra và nhân lên từ cơ sở xã hội của Đảng là quần chúng nhân dân và mối liên hệ mật thiết hàng ngày giữa Đảng với nhân dân,Quần chúng tín nhiệm và tin tưởng Đảng không chỉ căn cứ vào đường lối, chủ trương của Đảng mà còn thông qua tổ chức Đảng và các đảng viên. Là một Đảng chiến đấu, một Đảng hành động, Đảng ta coi công tác đảng viên là một trong những vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu Chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên phản ánh trực tiếp và cụ thể chất lượng của Đảng Trong điều kiện hiện nay vấn đề này càng trở nên quan trọng, đòi hỏi phải được giải quyết một cách khẩn trương, nhưng cũng là nhiệm vụ lâu dài bởi lẽ, suy cho cùng toàn bộ sức mạnh của Đảng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đều được tạo thành từ từng người đảng viên, đều phụ thuộc vào số lượng và chất lượng đội ngũ đảng viên. Trong thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi ngưởi đảng viên không những nâng cao năng lực về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, mà còn đòi hỏi phải có đủ phẩm chất đạo đức cách mạng, có tính tiên phong gương mẫu có trách nhiệm cao trongthực hiện nhiệm vụ, suốt đời phấn đấu vì mục đích lý tưởng của Đảng, của giai cấp, của dân tôc. Bởi vậy nâng cao chất lượng đảng viên là một yêu cầu cấp bách, nâng cao chất lượng đảng viên phải tiến hành đồng bộ với việc kiện toàn và

nâng cao năng lực của bộ máy tổ chức Đảng, chính quyền và các Đoàn thể trong nội bộ nhà trượng Nâng cao chất lượng đảng viên đòi hỏi các tổ chức cơ sở Đảng phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng, nhằm nâng cao chất lượng đảng viên góp phần xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.

Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Giảng Viên Đại Học Giai Đoạn 2010

Đề tài đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong việc đánh giá chung về thực trạng đội ngũ giảng viên đại học (GVĐH) hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra một số đề xuất nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ GVĐH giai đoạn 2010 – 2015 và kiến nghị một số nội dung chuẩn bị cho việc xây dựng Dự án Luật giáo dục đại học.1. Chất lượng đội ngũ GVĐH

Giảng viên là chức danh nghề nghiệp của nhà giáo làm công tác giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng. Trên thế giới, nhà giáo đại học thường gắn với một chức vụ khoa bảng hoặc do các trường đại học đề bạt hoặc do Chính phủ bổ nhiệm. Ở Việt Nam, theo quy định của Luật giáo dục 2005, GVĐH là những nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy tại các trường đại học, cao đẳng và được phân chia thành các ngạch giảng viên, giảng viên chính, giảng viên cao cấp( [1] .

GVĐH trước hết là một nhà giáo, vì thế chất lượng của đội ngũ GVĐH được đánh giá trước hết qua các tiêu chuẩn cơ bản của nhà giáo, bao gồm: (đức) và (tài) là hai bộ phận tạo nên cấu trúc nhân cách của mỗi người thầy giáo. Phẩm chất nhà giáo là thế giới quan của họ (hay nói cách khác là phẩm chất chính trị của nhà giáo), nền tảng định hướng thái độ, hành vi ứng xử của giáo viên. Bên cạnh đó, phẩm chất, đạo đức, nhân văn của người thầy giáo thể hiện qua lòng thương yêu con trẻ, thương yêu học trò. Năng lực nhà giáo chính là năng lực sư phạm bao gồm: năng lực chuyên môn; năng lực dạy học; năng lực tổ chức; năng lực thực hiện; năng lực giao tiếp; năng lực kiểm tra, đánh giá; năng lực giáo dục.

Ngoài các tiêu chí đánh giá chất lượng thông qua những tiêu chuẩn chung của nhà giáo, xuất phát từ đặc thù về hoạt động giáo dục đại học (GDĐH), chất lượng của đội ngũ GVĐH còn được xem xét thông qua ba khía cạnh cơ bản là chất lượng đào tạo nguồn nhân lực; năng lực và hiệu quả hoạt động khoa học; chất lượng các dịch vụ xã hội.

Chất lượng và hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ: Đội ngũ GVĐH được biết đến như một lực lượng cán bộ học thuật có trình độ, chất lượng cao; bởi vậy, ngoài việc dạy học, GVĐH phải chủ động tham gia nghiên cứu khoa học (NCKH) để bổ sung, cập nhật kiến thức, nâng cao chất lượng giảng dạy, đào tạo; khuyến khích, hướng dẫn, rèn luyện cho sinh viên phương pháp học thông qua nghiên cứu, phát hiện và giải quyết vấn đề thực tiễn. Để làm được điều đó, người GVĐH cũng phải biết nghiên cứu, tìm tòi, giải thích và dự báo các vấn đề của tự nhiên và xã hội mà loài người và khoa học chưa có lời giải.

Chất lượng các dịch vụ xã hội: Đối với nhà trường và sinh viên, GVĐH cần thực hiện các dịch vụ như tham gia công tác quản lý, các công việc hành chính, tham gia các tổ chức xã hội, cố vấn cho sinh viên, liên hệ thực tập, tìm chỗ làm cho sinh viên… Trong lĩnh vực chuyên môn, GVĐH làm phản biện cho các tạp chí khoa học, tham dự và tổ chức các hội thảo khoa học. Đối với cộng đồng, GVĐH trong vai trò của một chuyên gia cũng thực hiện các dịch vụ như tư vấn, cung cấp thông tin, viết báo, áp dụng các kiến thức khoa học vào đời sống cộng đồng, truyền bá kiến thức khoa học và nâng cao dân trí …

Tóm lại, chất lượng của đội ngũ GVĐH chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau, từ chủ quan như năng lực, trình độ chuyên môn, phương pháp giảng dạy, kỹ năng sư phạm, phẩm chất đạo đức, ý chí phấn đấu vươn lên của từng cá nhân cho đến các điều kiện, yếu tố khách quan như điều kiện, môi trường làm việc, công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng cũng như các chế độ, chính sách ưu đãi và cơ chế kiểm tra, đánh giá công nhận,…

Mặc dù có nhiều sự đổi thay trong quan niệm về vai trò và nhiệm vụ của nhà giáo đại học nhưng bản chất của nghề dạy học và đặc biệt là người dạy học trong thời đại mới là không thay đổi. Cấu trúc chức năng của người GVĐH có thể thay đổi tùy theo nhu cầu xã hội, nhưng dù trong cấu trúc nào, cả ba chức năng giảng dạy, NCKH, cung ứng dịch vụ đều có mối liên hệ tương hỗ hết sức chặt chẽ. Thực hiện đầy đủ và toàn diện cả ba nhóm chức năng nêu trên quả là một thách thức lớn không chỉ cho từng GVĐH mà cho cả hệ thống giáo dục.

2. Thực trạng đội ngũ giảng viên trong các cơ sở GDĐH

Trong những năm qua, nhờ có sự nỗ lực, cố gắng của ngành giáo dục nói riêng và của toàn xã hội nói chung, đội ngũ GVĐH nước ta đã có những bước tiến đáng kể cả về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp lẫn số lượng, trình độ và năng lực chuyên môn. Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, đội ngũ GVĐH hiện nay còn tồn tại một số bất cập, hạn chế.

sau hơn 20 năm đổi mới, số lượng đội ngũ GVĐH nước ta đã tăng gấp 3 lần, từ 20.212 người trong cả nước vào năm 1987 lên 61.190 người vào năm 2009. Mặc dù vậy, so với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống cơ sở GDĐH (gấp 4,1 lần) cũng như sự gia tăng nhanh chóng quy mô đào tạo (gấp 13 lần) trong những năm qua thì số lượng đội ngũ GVĐH của nước ta hiện chưa đáp ứng được yêu cầu. Tỉ lệ sinh viên/giảng viên (SV/GV) của cả nước còn ở mức quá cao so với quy định: trung bình là 28 SV/GV vào năm học 2008-2009; tỉ lệ này tại một số cơ sở GDĐH còn lên tới trên 40 SV/GV cao hơn nhiều so với quy định hiện hành( , ( [3] .

tỉ lệ giảng viên có trình độ thạc sĩ trở lên chiếm chưa tới 50% tổng số GVĐH, trong đó trình độ tiến sĩ chiếm 10,16% (giảm so với thời điểm năm 1997) và chỉ có 3,74% giảng viên có chức danh Phó Giáo sư, Giáo sư. Con số này còn quá thấp so với mục tiêu của Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra là đến năm 2020 phải đạt ít nhất 35% giảng viên có trình độ tiến sĩ. Đội ngũ GVĐH có trình độ cao, đặc biệt là các Phó Giáo sư, Giáo sư có độ tuổi trung bình khá cao, phân bố tập trung chủ yếu ở một số trường đại học lớn tại các khu vực trung tâm([4].

Tại nhiều cơ sở đào tạo, nhất là các cơ sở mới được thành lập và cơ sở tư thục, số lượng giảng viên thỉnh giảng cao hơn nhiều lần so với đội ngũ cán bộ cơ hữu làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng đào tạo của nhà trường. Một số trường có số lượng giảng viên thỉnh giảng gấp 2 lần số giảng viên cơ hữu; cá biệt có trường chỉ có 53 giảng viên cơ hữu, trong khi số giảng viên thỉnh giảng là 375. Không ít trường hợp danh sách GV thỉnh giảng của một số trường trùng nhau, tập trung vào một số Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ. Việc sử dụng quá đông giảng viên thỉnh giảng một mặt làm cho cơ sở đào tạo khó chủ động thực hiện kế hoạch đề ra và chất lượng đào tạo không cao do GV thỉnh giảng ít có điều kiện tham gia sinh hoạt chuyên môn tại cơ sở thỉnh giảng và không có thời gian tập trung nghiên cứu, nâng cao chất lượng giảng dạy.

Bảng: Cơ cấu GV cơ hữu và GV thỉnh giảng

Cơ chế quản lý, sử dụng đội ngũ GVĐH hiện nay không phát huy hết tiềm năng của cả đội ngũ và từng cá nhân, không kích thích được sự phấn đấu trong chuyên môn; không sàng lọc được dễ dàng và thường xuyên những người yếu kém. Cơ chế, chính sách đãi ngộ chưa tương xứng, vẫn dựa chủ yếu vào khối lượng giảng dạy và thâm niên công tác mà không căn cứ vào thành tích và khả năng nghiên cứu của cá nhân; chưa bảo đảm cho GVĐH có cuộc sống đủ để có thể toàn tâm, toàn ý cho việc bảo đảm chất lượng hoạt động giảng dạy và NCKH.

Những kết quả đạt được, cũng như các hạn chế, yếu kém nêu trên đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo, giảng dạy ở các cơ sở đào tạo đại học. Vì vậy, việc tìm ra các giải pháp để tháo gỡ những khó khăn, nâng cao chất lượng đội ngũ GVĐH được xem là khâu mấu chốt để nâng cao chất lượng GDĐH đang trở thành một yêu cầu bức thiết trong giai đoạn hiện nay.

3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ GVĐH

GDĐH có vai trò đặc biệt quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong bối cảnh nền kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, cung cấp hàng triệu nhân lực có trình độ cao làm nòng cốt phục vụ sự nghiệp đổi mới đất nước, nhưng GDĐH nước ta hiện nay cũng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Chất lượng đào tạo nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Chất lượng đội ngũ GVĐH có vai trò quyết định trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục. Do vậy, việc phát triển đội ngũ GVĐH được coi là giải phát đột phá trong việc nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Để phát triển đội ngũ GVĐH đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và có chất lượng, bảo đảm sự kết nối một cách nhuần nhuyễn giữa các thế hệ, trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng GVĐH, thực trạng đội ngũ GVĐH hiện nay, đề tài đã tập trung kiến nghị thực hiện tốt một số giải pháp sau:

đổi mới công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch và sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định về tuyển dụng GVĐH; nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách nhằm thu hút đội ngũ sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, sinh viên các lớp cử nhân tài năng, kỹ sư chất lượng cao làm GVĐH; xây dựng chính sách thu hút cán bộ khoa học có trình độ chuyên môn cao ở trong và ngoài nước tham gia giảng dạy trong các cơ sở đào tạo của Việt Nam;

xây dựng bộ tiêu chuẩn nghề nghiệp của GVĐH; đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, tự đào tạo và đào tạo lại đối với đội ngũ GVĐH nhằm nâng cao chất lượng của giảng viên cả về năng lực chuyên môn lẫn kiến thức, nghiệp vụ sư phạm;

đẩy mạnh công tác NCKH trong các cơ sở GDĐH, gắn NCKH với đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy; xây dựng nhóm nghiên cứu nhằm tăng cường trao đổi học thuật, sáng kiến kinh nghiệm trong NCKH; tổ chức và khuyến khích GVĐH tham gia hội nghị, hội thảo khoa học trong và ngoài nước nhằm trao đổi kinh nghiệm giảng dạy và NCKH;

đổi mới công tác quản lý, sử dụng, đánh giá, sàng lọc đội ngũ GVĐH theo hướng phân công, phân cấp về trách nhiệm, quyền hạn và giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở GDĐH;

bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ GVĐHtương xứng với thành tích và năng lực cá nhân; điều chỉnh chính sách lương, phụ cấp ưu đãi, cơ chế đãi ngộ phù hợp để cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, tạo động lực và điều kiện cho đội ngũ GVĐH nâng cao năng lực, trình độ.

ThS. LÊ THỊ PHƯƠNG NAM – ThS. HOÀNG VĂN LỢI

Kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào tạo đối với giáo dục đại học” của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho thấy ĐH DL Ngoại ngữ tin học TP HCM: 47,3 SV/GV, ĐH Tây Đô: 44,2 SV/GV, ĐH Mở TP HCM: 41,2 SV/GV, ĐH Hồng Bàng: 40,2 SV/GV…;

Quyết định số 47/2001/QĐ-TTg ngày 04/4/2001của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2001-2010” quy định tỷ lệ SV/GV là từ 5 – 10 SV/1 GV đối với các ngành đào tạo năng khiếu; từ 10 – 15 SV/GV đối với các ngành đào tạo khoa học kỹ thuật và công nghệ và từ 20 – 25 SV/GV đối với các ngành đào tạo khoa học xã hội, nhân văn và kinh tế – quản trị kinh doanh.

Tuổi trung bình của GS trong đợt phong tặng tháng 11/2009 là 57 (thấp nhất là 45 và cao nhất là 69; độ tuổi trung bình của các PGS là 50 (thấp nhất là 32 và cao nhất là 71). Theo số liệu năm 2004, trong tổng số 1.131 GS thì có 975 người đang sống và làm việc tại Hà Nội (86,2%), TP. Hồ Chí Minh có 107 người (9,5%), các địa phương khác chỉ có 49 người (4,3%).

Từ 1998 đến 2009, có 304 trường ĐH, CĐ được thành lập. Trong đó, có 230 trường được nâng cấp từ bậc học thấp hơn; 9 trường ĐH được nâng cấp từ khoa trực thuộc ĐHQG, ĐH vùng; 7 trường ĐH được thành lập theo phương thức sáp nhập, chia tách và có 58 trường ĐH, CĐ được thành lập mới hoàn toàn. Đến nay, đã có 62/63 tỉnh, thành có ít nhất 1 trường ĐH hoặc CĐ (chiếm 98%). Tính đến tháng 9/2009, cả nước có 412 trường ĐH, CĐ, trong đó có 78 trường ngoài công lập. Tổng quy mô đào tạo ĐH, CĐ năm học 2008 – 2009 là 1.719.499 SV, tăng 13 lần so với năm 1987; tỷ lệ SV/số dân năm 1997 là 80 SV/1vạn dân thì đến năm 2009 là 195 SV/1 vạn dân.

Đề Tài Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Đảng Viên Ở Chi Bộ Trường Thcs Mai Hóa, Huyện Tuyên Hóa. Thực Trạng Và Giải Pháp

LỜI MỞ ĐẦU Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân, phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc : tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức, lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đảng viên có vai trò đặc biệt quan trọng. Là nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của Đất nước. Đảng muốn mạnh thì phải có đội ngũ cán bộ đảng viên thực sự mạnh, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức khoa học và thực tế … có khả năng hoạch định các chính sách phù hợp với quy luật khách quan, xu thế thời đại và điều kiện đất nước, đồng thời đưa các chính sách đó vào đời sống thực tiễn. Đối với Đảng viên làm công tác giáo dục còn có nhiệm vụ nặng nề hơn vì mỗi thầy giáo, cô giáo phải là một tấm gương sáng về đạo đức, tự học và sáng tạo cho học sinh noi theo. Chính vì vậy mà ngay từ khi mới ra đời, Đảng và Bác Hồ đã đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng và phát triển đội ngũ đảng viên, cử cán bộ đi học tập bồi dưỡng, thu hút người tài đứng trong hàng ngũ của Đảng … Ngày nay, trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng đã có nhiều đường lối, chính sách nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên, nâng cao trình độ về mọi mặt cho đảng viên, đáp ứng nhu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập. Tuy nhiên vẫn còn một số bất cấp trong việc phát triển đội ngũ đảng viên, cán bộ đảng viên chưa theo kịp trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật, cá nhân chủ nghĩa, một số đảng viên tha hoá, biến chất, gây mất niềm tin trong nhân dân … Do đó, cần phải có chiến lược bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đảng viên, cả về mặt tư tưởng chính trị và trình độ chuyên môn, không những trong phạm vi cả nước, mà trong từng địa phương, từng cơ quan đơn vị. Đối với Trường trung học cơ sở Mai Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình, Chi bộ nhà trường được thành lập năm 1966, đánh dấu mốc son trong sự phát triển của tổ chức Đảng nhà trường. Trong nhiều năm trở lại đây, chi bộ nhà trường đặc biệt quan tâm đến việc phát triển đội ngũ đảng viên, không những tăng cường về mặt số lượng, trẻ hoá đội ngũ. Với số lượng 31 đảng viên trên tổng số 34 cán bộ giáo viên, tỷ lệ đảng viên là 91,2% đây là tỷ lệ cao so với các trường THCS trong toàn huyện. Bên cạnh đó chi bộ còn chú trọng đến việc nâng cao trình độ lý luận, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ đảng viên, hiện nay nhà trường có 1 đồng chí có trình độ trung cấp, 1 đồng chí đang theo học lớp trung cấp lý luận chính trị. Ngoài ra nhà trường triển khai sâu rộng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo chỉ thị của Ban bí thư Trung ương Đảng. Thường xuyên tham gia, tổ chức các buổi học tập Nghị quyết Đảng các cấp. Tuy nhiên, sự phát triển nêu trên của Chi bộ nhà trường còn chưa tương xứng với tiềm năng hiện có. Một số đảng viên chưa thực sự gương mẫu, chưa phát huy được tính tiền phong và vai trò lãnh đạo của người đảng viên. Một số đảng viên có nhiều cố gắng và phấn đấu để được đứng trong hàng ngũ của Đảng, nhưng khi trở thành đảng viên rồi thì sự phấn đấu giảm đi rõ rệt. Với cương vị là một đảng viên, phó bí thư chi trong Chi bộ nhà trường, qua học tập lớp trung cấp lý luận chính trị, đặc biệt là bộ môn Xây dựng Đảng, qua những hoạt động thực tiễn tại đơn vị, qua nghiên cứu các tài liệu tôi nhận thức được vai trò to lớn của người cán bộ đảng viên trong sự phát triển của nhà trường. Chất lượng đội ngũ đảng viên chính là chìa khoá cho sự thành công. Đó chính là lý do mà tôi chọn đề tài: ” Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở Chi bộ Trường THCS Mai Hóa, huyện Tuyên Hóa. Thực trạng và giải pháp”. Nhằm khảo sát, đánh giá lại toàn bộ thực trạng đội ngũ cán bộ đảng viên của Trường THCS Mai Hóa, huyện Tuyên Hóa, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong nhà trường. Thông qua việc đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp, làm cho đội ngũ cán bộ đảng viên của nhà trường ngày càng lớn mạnh, hoàn thành tốt sứ mạng và nhiệm vụ chính trị của nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng đảng viên ở chi bộ trường THCS Mai Hóa nói riêng và Đảng bộ xã Mai Hóa nói chung. Nhằm xây dựng Chi bộ, Đảng bộ ngày càng trong sạch vững mạnh. Đề tài cũng là cơ sở giúp Ban chấp hành Chi bộ nhà trường thực hiện tốt công tác phát triển Đảng trong những năm tiếp theo, có kế hoạch chiến lược để phát triển đội ngũ, đáp ứng nhu cầu của công cuộc đổi mới hiện nay, đặc biệt là đổi mới giáo dục. NỘI DUNG I – CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN: Theo quan điểm của Mác và Ăng ghen: Người đảng viên cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản. Đảng viên có vị trí vai trò hết sức quan trọng. – Quan hệ giữa Đảng viên với lý tưởng cộng sản, đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhiệm vụ Chính trị của tổ chức cơ sở Đảng Công dân Việt Nam chỉ có thể là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam khi họ gắn với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Đảng viên của Đảng mà xa rời lý tưởng cộng sản họ sẽ mất phương hướng suy nghĩ và hành động, sẽ tự hạ mình ngang hàng với người ngoài Đảng. Vì thế, giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là điểm khác nhau quan trọng, cơ bản, đầu tiên giữa người đảng viên với người ngoài Đảng. Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa được thể hiện ở đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ cách mạng. Đối với từng tổ chức cơ sở Đảng thì nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở Đảng chính là đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng được cụ thể hoá phù hợp với tổ chức cơ sở Đảng. Bởi vậy, ngoài mối quan hệ giữa đảng viên với lý tưởng cộng sản, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, vị trí, vai trò của Đảng viên còn được thể hiện giữa Đảng viên với nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở Đảng. Đảng viên là người đóng góp ý kiến, góp phần xây dựng hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở Đảng và trực tiếp thực hiện. Trong quá trình thực hiện, đảng viên là người góp phần kiểm nghiệm, khẳng định tính đúng đắn, phát hiện những điều chưa hợp lý của chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở Đảng, để cấp có thẩm quyền bổ sung, làm cho đường lối, chủ trương chính sách của Đảng đúng đắn hơn, cấp uỷ cơ sở sửa chữa điều chỉnh để nhiệm vụ chính trị của cơ sở hoàn chỉnh hơn. Chủ Tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: “Mọi công việc Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết Đảng đều do đảng viên chấp hành…mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện”.Vì thế, nếu không có đảng viên thì lý tưởng cộng sản cao đẹp, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nhiệm vụ đúng đắn của tổ chức cơ sở đảng sẽ không thành hiện thực. Mặt khác, đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, nhiệm vụ chính trị đúng đắn của tổ chức cơ sở Đảng là yếu tố rất quan trọng để đảng viên thực hiện đạt kết quả tốt, đảng viên trưởng thành. Là một Đảng có sức chiến đấu và hành động cao, chúng ta coi trọng công tác đảng viên vì suy cho cùng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng tạo thành từ từng đảng viên, số lượng đảng viên, chất lượng đảng viên. Đảng viên với tổ chức cơ sở Đảng, với năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Đảng viên là những phần tử tạo thành các tổ chức cơ sở Đảng và tạo thành Đảng. Vì vậy, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của từng tổ chức cơ sở Đảng được quyết định chủ yếu bởi chất lượng đội ngũ Đảng viên của cơ sở tổ chức Đảng; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng còn được quyết định bởi chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định ” Mỗi đảng viên tốt , mỗi chi bộ tốt là Đảng được mạnh thêm một phần; đảng viên kém chi bộ kém là khâu yếu của Đảng “(1) Đảng mạnh là nhờ có tổ chức Đảng mạnh và đội ngũ đảng viên tốt. Mặt khác sức mạnh của Đảng còn thông qua mối quan hệ giữa Đảng với dân, làm cho nhân dân tín nhiệm tin tưởng vào chủ trương đường lối của Đảng. Vì thế xây dựng đội ngũ đảng viên tốt là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của cấp uỷ Đảng. Công tác đảng viên của Đảng có vị trí vai trò rất to lớn tạo ra đội ngũ đảng viên tốt . 1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1996, T10, tr 166 Xây dựng đội ngũ đảng viên có vai trò đặc biệt quan trọng đối với công tác xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Nâng cao chất lượng đảng viên góp phần quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc tổ chức, thực hiện nguyên tắc sinh hoạt Đảng. Để tăng cường sức mạnh của tổ chức, Đảng viên phải có đầy đủ ý thức tổ chức và kỷ luật Đảng, Đoàn kết ý chí và hành động, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Muốn vậy đảng viên phải có đầy đủ năng lực, trình độ, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, thực hiện tốt nguyên tắc về tổ chức và sinh hoạt Đảng như: Nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình tạo thành khối đoàn kết vững chắc trong Đảng. Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh, chi bộ mạnh là do các đảng viên hăng say và gương mẫu”(2). Chi bộ Đảng có tác động trực tiếp và có vai trò to lớn quyết định sự trưởng thành của đảng viên. Chi bộ, đảng bộ cơ sở vững mạnh có năng lực và sức chiến đấu cao sẽ là môi trường tốt để giáo dục và rèn luyện đảng viên, từng đảng viên sẽ trưởng thành nhanh chóng, sinh hoạt và hoạt động trong chi bộ, tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, thì năng lực sở trường của đảng viên được phát huy đầy đủ và nhân lên gấp nhiều lần. Đảng viên với phong trào cách mạng của quần chúng: Đảng viên là người đưa đường lối chủ trương, chính sách của Đảng vào quần chúng, trực tiếp tổ chức, giáo dục và lãnh đạo quần chúng thực hiện. Họ là người duy trì và tăng cường mối quan hệ của Đảng với quần chúng. Bác Hồ viết ” Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng “(2), ” Mỗi đảng viên là một người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, để giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho quần chúng hiểu rõ và vui lòng thi hành “(3). Được đảng tổ chức giáo dục và đưa vào hành động cách mạng, quần chúng sẽ trưởng thành, mối quan hệ giữa đảng viên và quần chúng ngày càng được tăng cường. (2)) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1996, T10, tr ,Tr270 (3 ) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1996, T7, tr 235 Từ phong trào quần chúng mà phát hiện những quần chúng ưu tú cho Đảng bồi dưỡng và kết nạp họ vào Đảng, bổ sung cho Đảng nguồn lực và tố chất mới, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và toàn Đảng. Mặt khác, phong trào cách mạng của quần chúng là môi trường tốt nhất để giáo dục, rèn luyện đảng viên và sàng lọc đội ngũ đảng viên, đó còn là nơi khẳng định những, đảng viên xuất sắc, để Đảng xem xét giao trọng trách cao hơn. Qua phong trào cách mạng của quần chúng, những đảng viên thoái hoá biến chất, không đủ tư cách đảng viên và những đảng viên không đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở Đảng và yêu cầu cách mạng sẽ bị đưa ra khỏi Đảng. Xây dựng đội ngũ đảng viên có vai trò đặc biệt quan trọng với công tác xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh . Nâng cao chất lượng Đảng viên, góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ đây Chính là nội dung quan trọng để xây dựng Chi bộ trong sạch vững mạnh. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ở cơ sở. Với ý nghĩa đó các cấp uỷ Đảng phải chú ý đến việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, ngoài việc nâng cao chất lượng của chi uỷ, đặc biệt là đồng chí Bí thư, đổi mới nội dung hình thức sinh hoạt từ việc nâng cao năng lực trình độ, phẩm chất đạo đức của đảng viên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đảng viên có năng lực, phẩm chất, có tinh thần trách nhiệm với Đảng, với nhân dân thì mới phát huy hết quyền dân chủ, tham gia góp ý kiến có chất lượng đối với những vấn đề được nêu trong sinh hoạt chi bộ. Nâng cao chất lượng đảng viên góp phần rất quan trọng trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không phải là cái gì chung chung trừu tượng mà phải được biểu hiện một cách cụ thể trực tiếp thông qua đội ngũ đảng viên. Đảng viên là những người quán triệt tổ chức và lãnh đạo quần chúng tại cơ sở. Thông qua năng lực lãnh đạo tính tiền phong gương mẫu của đảng viên trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội mà đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước được thực hiện thắng lợi. Đảng viên là người thể hiện trực tiếp mối quan hệ giữa Đảng với dân, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân, để phản ánh cho Đảng, để Đảng đề ra chủ trương chính sách đúng. Trong cơ chế thị trường ở thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi người đảng viên phải có năng lực trí tuệ thực sự, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong Đảng và ngoài xã hội. Củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân với Đảng và bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động. Nâng cao chất lượng đảng viên có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch vững mạnh. V.l.Lênin chỉ rõ: Giai cấp nào nắm quyền thống trị thì phải xây dựng cho mình một đội ngũ cán bộ có phẩm chất năng lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trung thành với mục tiêu của giai cấp đó. Trong điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo toàn xã hội, đòi hỏi phải xây dựng một đội ngũ cán bộ có chất lượng luôn luôn đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của cách mạng. Đảng không những xây dựng đội ngũ cán bộ cho tổ chức Đảng mà còn cho cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đa số đảng viên phải được đào tạo rèn luyện trở thành cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy nâng cao chất lượng Đảng viên là nguồn bổ sung và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ. Tư cách Đảng viên là những đặc trưng chủ yếu mà người đảng viên cần có, làm cơ sở phân biệt đảng viên với người ngoài đảng. Có thể khái quát tư tưởng của Mác- Ăngghen- Lênin về những yêu cầu có tính nguyên tắc đối với tư cách của người đảng viên cộng sản: + Thừa nhận cương lĩnh của Đảng và suốt đời phấn đấu vì mục tiêu lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. + Gắn bó chặt chẽ với Đảng bằng tự nguyện tham gia vào một tổ chức của Đảng và chịu sự quản lý của tổ chức đó. + Gương mẫu trong hành động cách mạng, là người đi đầu và có năng lực lôi cuốn quần chúng đấu tranh cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. + Gương mẫu trong học tập, rèn luyện nâng cao kiến thức năng lực đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng Tư cách đảng viên và tiêu chuẩn đảng viên có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tiêu chuẩn đảng viên là tư cách đảng viên đó được cụ thể hoá phù hợp yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ của Đảng và được ghi trong điều lệ Đảng do đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua: . Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng. Từ những yêu cầu có tính nguyên tắc của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin và những quy định ghi trong điều lệ Đảng. Có thể khái quát những nội dung về tư cách đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam trong tình hình hiện nay như sau: – Đảng viên phải là người giác ngộ lý tưởng cách mạng, trung thành và có kiến thức năng lực phấn đấu xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề cốt lõi của tư cách đảng viên. – Đảng viên phải là người có ý thức tự giác và tính tổ chức kỷ luật cao, chăm lo xây dựng và bảo vệ sự đoàn kết thống nhất của Đảng. – Đảng viên phải là người tôn trọng và bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, là người giữ vững và không ngừng củng cố, phát triển mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Chất lượng Đảng viên còn được thể hiện qua việc thực hiện xuất sắc 4 nhiệm vụ của người đảng viên mà điều lệ Đảng đã quy định: 1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng. 2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm. 3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. 4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là một nhiệm vụ quan trọng và phức tạp, phải giải quyết nhiều mối quan hệ nhằm đạt được mục tiêu là tạo ra được đội ngũ đảng viên trung thành với sự nghiệp cách mạng của giai cấp, của dân tộc, có đủ phẩm chất và uy tín lãnh đạo quần chúng tiến hành sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Trong bối cảnh Quốc tế hiện nay, khi chủ nghĩa xã hội và nhiều Đảng Cộng sản đang lâm vào khủng hoảng toàn diện, sâu sắ

Bạn đang đọc nội dung bài viết Skkn Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Đảng Viên Của Chi Bộ Trường Thpt Nguyễn Thị Lợi Trong Giai Đoạn Hiện Nay trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!