Cập nhật nội dung chi tiết về Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Môn Tin Học Ở Trường Tiểu Học Nga Lĩnh mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
TT NỘI DUNG Trang 1 Mở đầu 2 1.1 Lí do chọn đề tài 2 1.2 Mục đích nghiên cứu 3 1.3 Đối tượng nghiên cứu 3 1.4 Phương pháp nghiên cứu 3 2 Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm 3 2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 3 2.2 Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 4 2.3 Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 5 2.3.1 Tăng cường giáo dục ý thức học tập, thường xuyên uốn nắn tư thế thực hành cho học sinh 5 2.3.2 Vận dụng linh hoạt và sáng tạo, lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng dạng bài và đối tượng học sinh để nâng cao chất lượng dạy học Tin học 7 2.3.3 Thường xuyên kết hợp lý thuyết và thực hành giúp học sinh nắm vững kiến thức và thao tác thành thạo máy tính. 10 2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản than, đồng nghiệp và nhà trường. 12 3 Kết luận, kiến nghị 14 3.1 Kết luận 14 3.2 Kiến nghị 15 Tài liệu tham khảo 16 1. Mở đầu: 1.1. Lí do chọn đề tài: Đất nước ta đang chuyển dần sang thời kì thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam nhiều khoá đã nhấn mạnh: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và phát huy nguồn nhân lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế nêu rõ mục tiêu tổng quát của giáo dục và đào tạo là giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả [4]. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng các phương tiện hiện đại càng quan trọng và cần thiết. Do đó, Tin học trở thành công cụ không thể thiếu trong đời sống xã hội. Ngày nay tin học đã có những bước tiến nhanh chóng về ứng dụng của nó trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Tin học được quan tâm nhiều hơn bao giờ hết vì nó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống văn minh góp phần đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tiến đến nền kinh tế tri thức. Máy tính cùng với phần mềm là công cụ đắc lực giúp chúng ta học tập, quản lý, tổ chức, sắp xếp và xử lý công việc một cách nhanh chóng và chính xác. Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Đảng và nhà nước ta đã yêu cầu Bộ giáo dục và Đào tạo đưa môn Tin học vào trong nhà trường ngay từ Tiểu học. Học sinh được tiếp xúc với môn Tin học để làm quen dần với lĩnh vực công nghệ thông tin, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những phần nâng cao trong các cấp tiếp theo. Trong những năm gần đây Tin học là môn học mới được đưa vào nhà trường nên các em học sinh say mê hứng thú học và được các nhà trường quan tâm đầu tư, đáp ứng yêu cầu dạy và học. Cũng như các môn học khác, việc xây dựng chương trình môn Tin học theo đúng quy trình và đảm bảo đầy đủ các thành tố như: mục tiêu dạy học, nội dung và chuẩn cần đạt tới, phương pháp và phương tiện dạy học, cách thức đánh giá kết quả học tập của học sinh. Qua quá trình nghiên cứu và thực tế giảng dạy môn tin học khối 3, 4, 5 tại Trường tiểu học Nga Lĩnh tôi thấy rằng môn Tin học ở bậc tiểu học bước đầu giúp học sinh làm quen với một số kiến thức ban đầu về công nghệ thông tin, hình thành cho học sinh một số phẩm chất và năng lực cần thiết cho người lao động hiện đại. Tuy nhiên việc dạy học Tin học vẫn còn những bất cập và hạn chế nhất định, hiệu quả chưa thực sự cao. Bởi vậy, việc dạy học tốt môn Tin học là yêu cầu bức thiết hiện nay. Vậy người giáo viên phải nghiên cứu nội dung và vận dụng phương pháp dạy học như thế nào để giúp học sinh học khối 3 học tốt môn Tin học? Đó là điều bản thân tôi trăn trở, suy nghĩ và mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt môn Tin học ở Trường Tiểu học Nga Lĩnh – Nga Sơn” nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 3 học tốt môn tin học trong giai đoạn hiện nay. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Môn tin học lớp 3. Học sinh khối 3 Trường tiểu học Nga Lĩnh – Nga Sơn – Thanh Hóa. 1.4. Các phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm, bản thân đã áp dụng một số phương pháp chính sau đây: – Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc và nghiên cứu một số tài liệu về phương pháp dạy học môn Tin học tiểu học. – Phương pháp khảo sát thực tiễn : Khảo sát bằng bài kiểm tra và thông qua các tiết học Tin học. – Phương pháp thống kê: Thống kê, phân loại học sinh theo mức đạt được. – Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp: Phân tích lý luận và thực tiễn ứng dụng các biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt môn tin học. – Phương pháp thực nghiệm: Thực nghiệm một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt môn tin học để đúc rút kinh nghiệm. 2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm: Tin học là môn học mang tính khoa học và công nghệ. Học sinh học tốt môn Tin học có điều kiện thuận lợi để trẻ thích ứng với đời sống xã hội hiện đại, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và trở thành người có ích cho xã hội để xây dựng và bảo vệ đất nước trong tương lai. Chính vì lẽ đó nên Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện cho giáo dục tin học trong các nhà trường được phát triển. Điều đó thể hiện qua các chỉ thị, nghị quyết, thông tư hướng dẫn, đặc biệt là Chỉ thị 29/CT của Trung Ương Đảng về việc đưa công nghệ thông tin vào nhà trường. Và quyết định số 50/QĐ-BGD&ĐT ngày 30/10/2003 về việc ban hành chương trinh môn Tin học ở bậc tiểu học. Mục đích của việc ứng dụng CNTT vào nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng là sử dụng CNTT như một công cụ lao động trí tuệ, giúp lãnh đạo các nhà trường nâng cao chất lượng quản lý các nhà trường, giúp các thầy cô giáo nâng cao chất lượng dạy học, trang bị cho học sinh kiến thức về CNTT, học sinh sử dụng máy tính như một công cụ học tập nhằm nâng cao chất lượng học tập góp phần rèn luyện học sinh một số phẩm chất cần thiết của người lao động trong thời kỳ hiện đại. Đối với chương trình tin học tiểu học môn Tin học là môn tự chọn nên học sinh tiếp thu kiến thức một cách thoải mái không bị gò ép. Là môn học trực quan, sinh động, môn học khám phá những lĩnh vực mới nên học sinh rất hứng thú học, nhất là những tiết thực hành. Học sinh tiểu học tư duy trìu tượng chưa phát triển, tư duy cụ thể giữ vai trò quan trọng. Chính vì thế, giáo viên phải lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp. Do vậy việc dạy học môn Tin học cần được quan tâm và tổ chức có hiệu quả, vận dụng phù hợp và linh hoạt với điều kiện thực tế trong nhà trường để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. * Về phía nhà trường: Trường tiểu học Nga Lĩnh là trường chuẩn Quốc gia Mức độ 2 nên đã được trang bị một phòng máy tính. Bên cạnh đó được sự quan tâm của các cấp uỷ, chính quyền, các ban ngành hỗ trợ cơ sở vật chất cho nhà trường. Tạo điều kiện mua sắm sửa chữa máy móc, trang thiết bị, sách giáo khoa và phần mềm kèm theo tạo điều kiện cho giáo viên trong việc giảng dạy môn Tin học được tốt hơn. Song bên canh đó vẫn còn hạn chế về số lượng cũng như chất lượng máy tính, mỗi ca thực hành có tới 3 em ngồi cùng một máy nên các em không có nhiều thời gian để thực hành, làm bài tập một cách đầy đủ. Hơn nữa nhiều máy cấu hình máy đã cũ, chất lượng không còn tốt nên hay hỏng hóc, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập của học sinh. * Về phía giáo viên: – Việc dạy của giáo viên còn chưa bài bản, chưa phát huy hết tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập. Thêm vào đó việc đầu tư cho nghiên cứu bài dạy chưa nhiều, việc đổi mới phương pháp chưa triệt để, hình thức tổ chức dạy học còn rập khuôn, máy móc. Dẫn đến nội dung các tiết dạy còn nghèo nàn, đơn điệu. – Giáo viên đã biết lựa chọn hình thức tổ chức dạy học cho học sinh nhưng việc vận dụng các hình thức tổ chức dạy học chưa linh hoạt. – Tài liệu tham khảo dành riêng cho bộ môn tin học còn quá ít. Nhất là những tài liệu nói về phương pháp dạy học đặc trưng của môn Tin học. – Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc tiểu học nên chương trình và phân phối chương trình bước đầu chưa có sự thống nhất và đang hoàn chỉnh. – Tuy giáo viên đã được đào tạo cơ bản về kiến thức Tin học, nhưng khi thực hành, máy móc gặp sự cố, trục trặc, giáo viên không xử lý kịp thời dẫn đến học sinh thiếu máy, không thực hành được. * Về phía học sinh: – Đời sống kinh tế của địa phương còn gặp nhiều khó khăn, rất ít học sinh ở nhà có máy vi tính. Vì vậy học sinh chỉ được tiếp xúc với máy vi tính ở trường là chủ yếu, do đó sự tìm tòi và khám phá máy tính với các em học sinh còn hạn chế, nên thao tác của các em chưa thành thạo. – Học sinh thường ngồi tự do, chưa đúng tư thế trước máy tính khi thực hành. – Một số học sinh đứng trước máy tính còn có tâm lý sợ máy hỏng nên việc sử dụng máy tinh còn rất hạn chế. Kết quả khảo sát thực tế tại thời điểm tháng 9/2017 ở khối lớp 3 với tổng số học sinh 54 em như sau: Mức độ thao tác Trước khi thực hiện chuyên đề Số HS Tỷ lệ Thao tác nhanh, đúng 4 7,4 Thao tác đúng 18 33,3 Thao tác chậm 21 38,9 Chưa biết thao tác 11 20,4 Bảng 1 Từ kết quả thực trạng và bảng số liệu trên cho thấy: Tỷ lệ học sinh thao tác nhanh và đúng rất ít. Số học sinh thao tác chậm và chưa biết thao tác còn chiếm tỷ lệ cao. Ngồi trước máy tính học sinh đang còn rất lúng túng, thao tác chậm, chưa tự tin. Qua tìm hiểu, tôi thấy nổi bật lên các nguyên nhân sau: Một là: Ban giám hiệu, tổ chuyên môn chưa quan tâm chú trọng nhiều trong việc bồi dưỡng về đổi mới phương pháp dạy học đối với môn Tin học. Hai là: Bản thân giáo viên chưa chịu khó học hỏi tìm tòi để đổi mới PPDH. Việc đầu tư thời gian nghiên cứu cho tiết dạy chưa nhiều. Ba là: Trong quá trình lên lớp giáo viên tổ chức các giờ học còn thiếu linh hoạt, nặng về áp đặt, chưa phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Bốn là: Việc đổi mới phương pháp dạy học còn hạn chế, lúng túng, vận dụng chưa có chiều sâu, các giờ học giáo viên chưa mạnh dạn giao việc thực hành cho học sinh. Còn thói quen đọc – chép, thuyết – giảng, lệ thuộc sách giáo khoa. Trăn trở với chất lượng học sinh, tôi luôn đặt ra câu hỏi làm thế nào để học sinh thao tác nhanh, đúng cao hơn và đặc biệt là có nhiều học sinh sử dụng thành thạo máy tính. Bởi vậy cần phải có những giải pháp phù hợp và hữu hiệu để nâng cao chất lượng dạy học tin học ở khối lớp 3. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyêt vấn đề: Để giúp học sinh lớp 3 học tốt môn Tin học góp phần tích cực trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, tôi xin đề xuất một số giải pháp sau: 2.3.1. Tăng cường giáo dục ý thức học tập, thường xuyên uốn nắn tư thế thực hành cho học sinh. Giáo viên luôn chú trọng giáo dục ý thức học tập của học sinh, tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng công nghệ thông tin và tầm quan trọng của môn Tin học trong thực tiễn và tương lai sau này. Học sinh khối 3 là lứa tuổi hồn nhiên, chưa có ý thức nhiều về hành vi của mình nên giờ thực hành rất dễ xảy ra tình trạng lộn xộn, đùa giỡn trong khi thực hành, ngồi thực hành với tư thế tùy tiện theo thói quen của mình. Vì vậy giáo dục ý thức học tập cho học sinh có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách của học sinh sau này. Giáo viên cần phải chú ý đúng mức, kịp thời uốn nắn những sai lệch, hình thành những thói quen, thao tác đúng đắn cho học sinh. Bởi vì vốn kiến thức ban đầu luôn có vai trò hết sức quan trọng, là nền tảng cho các cấp học sau này. Những sai lệch ngay từ ban đầu sẽ tạo nền những thói quen không đúng và rất khó sửa chữa, ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Phải tạo không khí lớp học thoải mái nhẹ nhàng, giáo viên phải làm cho học sinh thương yêu, tôn trọng mình thì tiết học mới đạt hiệu quả. Giáo viên không nên dùng biện pháp mạnh khi học sinh không chép bài vì làm như thế học sinh sẽ không thu hoạch được gì. Đồng thời, trong giờ học giáo viên nên động viên đúng mức đối với học sinh chưa hoặc không làm bài tập, cho dù các em làm sai, trên cơ sở đó giáo viên có thể chỉ ra chỗ sai, chỗ thiếu cho từng học sinh. Bên cạnh đó giáo viên cần khen ngợi, khích lệ kịp thời đối với từng học sinh, làm cho học sinh có lòng tin vào bản thân mình. Giờ học thực hành vẽ của học sinh lớp 3A- Trường TH Nga Lĩnh Giờ thực hành phải thực hiện nghiêm túc giống như một tiết học lý thuyết bình thường. Giáo viên hướng dẫn học sinh ngồi thực hành phải đúng tư thế và đảm bảo các yêu cầu sau: – “Ngồi thẳng, tư thế thoải mái sao cho không phải ngẩng cổ hay ngước mắt khi nhìn vào màn hình, không ngồi nghiêng, ngồi ngửa khi thực hành. – Tay đặt ngang tầm bàn phím và không phải vươn xa, chuột đặt bên tay phải. – Nên giữ khoảng cách giữa mắt học sinh đến màn hình từ 50cm đến 80cm. – Không nên nhìn quá lâu vào màn hình. – Máy tính nên đặt ở vị trí sao cho ánh sáng không chiếu thẳng vào màn hình và không chiếu thẳng vào mắt của học sinh”. Hoc sinh lớp 3B – Trường TH Nga Lĩnh đang thực hành đúng yêu cầu Mặt khác, phòng máy tính phải gọn gàng, sạch sẽ đảm bảo an toàn cho học sinh. Học Tin học phải thường xuyên tiếp xúc với máy tính, mà nhất là học sinh tiểu học ở lứa tuổi còn nhỏ nếu không giáo dục tốt cho học sinh về ý thức vệ sinh học đường khi thực hành máy tính thì học sinh rất dễ mắc các bệnh như cận thị, vẹt cột sống, mệt mỏi khi ngồi học ảnh hưởng đến sự phát triển cả về thể lực, trí lực của học sinh sau này. 2.3.2. Vận dụng linh hoạt và sáng tạo, lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng dạng bài và đối tượng học sinh để nâng cao chất lượng dạy học Tin học. Để thực hiện tốt biện pháp này, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành thái độ, biết thực hành, vận động một cách linh hoạt không bị động hoàn toàn theo lệnh của giáo viên. Giáo viên đóng vai trò chủ đạo điểu khiển, định hướng quá trình hoạt động của học sinh. Học sinh thông qua những hoạt động cụ thể để định hướng thành động cơ, kiến tạo tri thức mới cho mình. Chẳng hạn khi dạy một nội dung lý thuyết Tin học người giáo viên cần đưa ra một hệ thống rất nhiều câu hỏi từ dễ đến khó. Lúc đầu bao giờ cũng nêu ra những câu hỏi rất dễ để lôi cuốn, phát huy tính tích cực hoạt động đến tất cả các đối tượng học sinh mà nhất là những học sinh chưa hoàn thành, giáo viên cần ưu tiên, khuyến khích các đối tượng này. Sau đó đưa ra các câu hỏi khó dần để tất cả học sinh tham gia ý kiến và tự hình thành tri thức mới, giáo viên góp ý, nhận xét để học sinh xác nhận lại tri thức mới đó. Ví dụ: Chương 1: Làm quen với máy tính. Ở chương này, ngay từ bài học đầu tiên “Người bạn mới của em”. Khi dạy học nội dung là cách tắt máy. Trong sách giáo khoa không trình bày quy trình cũng như các thao tác để tắt máy. Chính vì vậy, giáo viên không nêu trực tiếp cách tắt máy, làm như vậy là áp đặt cho học sinh phải nắm ngay kiến thức mới. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học khơi dậy sự tích cực, tự giác hoạt động của học sinh. Học sinh tự hoạt động, khám phá, tìm tòi và đưa ra cách tắt máy an toàn. Chẳng hạn: Khi tổ chức hoạt động dạy học, giáo viên nêu câu hỏi: Khi không làm việc nữa, cần tắt máy tính. Nếu em không tắt máy tính mà cứ để máy tính hoạt động suốt cả ngày thì có ảnh hưởng gì? + Đại diện nhóm trả lời. + Giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét và đưa ra kết luận. + Học sinh nhận xét và đưa ra kết luận: Em không tắt máy tính mà cứ để máy tính hoạt động suốt cả ngày thì sẽ tốn điện, máy tính sẽ bị hao mòn nên nhanh hỏng, Vậy em tắt máy bằng cách nào? Học sinh trả lời theo nhiều cách khác nhau như: Rút nguồn điện, nhấn vào nút Power trên thân máy và trên màn hình, dùng chuột để tắt máy, dùng bàn phím để tắt máy. Giáo viên có thể đưa ra liên hệ thực tế gợi mở để học sinh dễ dàng tìm ra cách giải quyết. Chẳng hạn, một chiếc xe đang chạy trên đường với tốc độ cao nếu phanh gấp dừng đột ngột thì chiếc xe đó như thế nào? Học sinh trả lời được câu hỏi này thì sẽ trả lời được câu hỏi trước đó. Giáo viên có thể nêu câu hỏi để kết luận: Vậy cách tắt máy nào là an toàn nhất, ít làm hư hỏng máy tính? Học sinh tự tìm ra kiến thức mới cho mình. Giáo viên nhận xét: Em tắt máy theo từng bước bằng cách sử dụng chuột hoặc bàn phím là an toàn nhất, máy tính không bị hư hỏng và bền hơn. Học sinh xác nhận lại tri thức mới. Hay khi dạy học với nội dung thực hành, giáo viên không thể áp đặt, bắt buộc học sinh thực hành một cách thụ động theo ý muốn của mình, mà người giáo viên phải có phương pháp để phát huy tính tích cực, tự giác bằng các biện pháp như khuyến khích, khen thưởng, để học sinh tích cực thực hành, chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho mình. Trong mỗi tiết học giáo viên cần quan tâm đến từng đối tượng học sinh tùy theo trình độ, giáo viên sẽ giao những nhiệm vụ học tập vừa với sức học, tránh những yêu cầu quá dễ hoặc quá khó cho học sinh. Dạy học theo nhóm, trình độ, kết hợp các phương pháp dạy học phù hợp giúp cho tất cả các học sinh cùng tiến bộ. Trong mỗi lớp học bao giờ cũng có những học sinh ở các mức độ khác nhau như: học sinh hoàn thành tốt, học sinh hoàn thành và học sinh chưa hoàn thành. Do vậy nếu giáo viên không phân loại mức độ học sinh, không có phương pháp giảng dạy thích hợp dễ gây nhàm chán cho học sinh hoàn thành tốt, học sinh hoàn thành và tâm lý căng thẳng cho học sinh chưa hoàn thành từ đó dễ nảy sinh tâm lý chán nản, lười biếng cho học sinh. Giáo viên thường xuyên cải tiến nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học phù hợp trong mỗi tiết học như: – Phối hợp các hình thức dạy học theo lớp, theo nhóm hay hoạt động cá nhân một cách phù hợp có hiệu quả. Tạo nhiều hình thức thi đua trong tổ, nhóm. Ví dụ: Trong chương “Em tập gõ bàn phím” Đây cũng là phần trọng tâm của chương trình lớp 3. Phần này đòi hỏi phải có sự tập luyện thường xuyên thì mới đạt hiệu
Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Âm Nhạc Ở Trường Tiểu Học
1.1. Lí do chọn đề tài. Trong sự nghiệp xây dựng phát triển và đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã coi trọng rất nhiều mặt, trong đó, sự nghiệp giáo dục đã, đang và sẽ mãi mãi được coi là quốc sách hàng đầu. Vì giáo dục là sự nghiệp trồng người tạo ra những thiên tài về tri thức cho đất nước. Những năm qua giáo dục tiểu học đang có những đổi mới đồng bộ và toàn diện, nhằm góp phần đào tạo những con người toàn diện, lao động tự chủ, năng động sáng tạo trên tất cả các mặt: đức, trí, thế, mỹ. Bộ môn Âm nhạc cũng góp phần không nhỏ trong sự nghiệp cải cách giáo dục, môn Âm nhạc là một phần nội dung trong chương trình giáo dục bậc tiểu học và quan trọng hơn nó là “Phương tiện giáo dục” hấp dẫn mang tính đặc thù. Vì vậy mục tiêu giáo dục môn âm nhạc ở Tiểu học là: “Hình thành cho học sinh những cơ bản ban đầu để phát triển đúng đắn và lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất, năng lực, phẩm chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học tiếp các bậc học trên hoặc để đi vào cuộc sống lao động”. Âm nhạc có vai trò tích cực trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục Tiểu học. Trẻ em tham gia ca hát là được tự hoạt động để nhận thức thế giới xung quanh và bản thân mình. Do đó, từ việc nghe hát, tập hát và biết được một số kiến thức về âm nhạc sẽ góp phần giáo dục năng lực cảm thụ âm nhạc, kích thích tiềm năng nghệ thuật, làm cho đời sống tinh thần của trẻ thêm phong phú, lành mạnh, tạo điều kiện để các em bộc lộ và phát triển năng khiếu âm nhạc.[1] Hơn nữa, khi lớn lên các em sẽ càng hiểu biết hơn về những nét đặc sắc trong văn hoá Âm nhạc của dân tộc và của loài người. Từ đó các em biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những di sản văn hoá âm nhạc mà cha ông ta đã để lại, góp phần hỗ trợ cho việc học các môn học khác. Xuất phát từ những lí do trên, để giúp các em học tốt môn âm nhạc, tôi đã chọn đề tài: “ Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn âm nhạc ở trường Tiểu học ” tôi mong muốn đề tài này tiếp tục được hoàn thiện và được áp dụng rộng rãi. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Mục đích giáo dục hiện nay của chúng ta là đào tạo những con người phát triển toàn diện, những con người có đủ năng lực cần thiết, đáp ứng sự đòi hỏi của cuộc sống hiện đại. Tôi nhận thấy đại đa số các em rất thích bộ môn này. Qua thực tế giảng dạy từ những năm trước đây, đặc biệt là những năm gần đây các em được học chương trình sách giáo khoa Âm nhạc mới. Tôi nhận thấy rằng trước một bài hát, một bài tập đọc, ghi chép nhạc, hoặc khi nghe các bản nhạc, để các em hiểu, nắm được và thực hiện tốt yêu cầu của bài học cũng như nêu được những cảm nhận ban đầu của mình về giai điệu các bản nhạc, người giáo viên cần có một phương pháp truyền đạt, hướng dẫn thật tốt, đơn giản nhưng lại hiệu quả nhất, chính vì lẽ đó tôi mạnh dạn trình bày Đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn âm nhạc ở trường Tiểu học” nhằm giúp các em nắm bắt, tiếp thu nhanh nhất kiến thức bài học của bộ môn âm nhạc. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Vì đề tài nêu ra một số biện pháp giúp các em học tốt môn Âm nhạc trong trường Tiểu học nên đối tượng nghiên cứu của đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn âm nhạc ở trường Tiểu học” trước hết là các phương pháp dạy học truyền thống cũng như hiện đại, các hình thức tổ chức dạy học, nội dung chương trình của môn Âm nhạc ở các khối lớp, hệ thống câu hỏi, việc chuẩn bị đồ dùng, cũng như nghiên cứu về cách đánh giá thường xuyên tiết dạy theo TT22. 1.4. Phạm vi nghiên cứu: Để nghiên cứu đề tài trên, tôi chọn phạm vi nghiên cứu là học sinh trường Tiểu học Quảng Ninh.. 1.5. Phương pháp nghiên cứu. [2] – Phương pháp thuyết trình. – Phương pháp vấn đáp. – Phương pháp giảng giải. – Phương pháp nghiên cứu tài liệu, giáo trình. – Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục. 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. [1] Trong nhà trường, những học sinh có năng khiếu âm nhạc chiếm tỉ lệ rất thấp. Tuy nhiên, dạy Âm nhạc ở Tiểu học là việc dạy cho tất cả học sinh, mà đa số là các em không có năng khiếu âm nhạc, vì vậy môn học này không đặt mục tiêu giúp các em trở thành diễn viên, ca sĩ hay nhạc sĩ chuyên nghiệp. Mục tiêu của môn học này giúp các em phát triển toàn diện, tự nhiên và cân bằng trí tuệ, sáng tạo và cảm xúc thẩm mĩ. Dạy Âm nhạc nhằm phát triển nhận thức và các năng lực âm nhạc của học sinh, tạo cho các em có một trình độ văn hóa âm nhạc nhất định, góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh. Xuất phát từ công tác giảng dạy Âm nhạc cho học sinh ở lứa tuổi Tiểu học. Vấn đề học và kết quả học tập của các em là hết sức quan trọng, điều đó không chỉ phụ thuộc vào chương trình giảng dạy phù hợp mà còn phụ thuộc vào phương pháp truyền thụ của người thầy. Hơn nữa còn phụ thuộc vào ý thức học tập của các em, cùng với sự quan tâm chăm sóc, tạo điều kiện của gia đình và toàn thể xã hội. Âm nhạc là môn học mang tính nghệ thuật cao, nó khác rất nhiều so với môn học khác, tuy nó không đòi hỏi sự chính xác một cách tuyệt đối như những con số nhưng đòi hỏi người học phải có sự yêu thích, đam mê và có một chút gọi là “năng khiếu”, điều này không phải học sinh nào cũng có được. Học Âm nhạc mang đến cho học sinh những phút giây thư giãn, thoải mái, học mà chơi, chơi mà học. Thông qua giai điệu, lời ca, cử chỉ, điệu bộ, giúp các em nhận thức những hình tượng âm thanh, kích thích cảm xúc của các em, giúp các em cảm thụ những giai điệu đẹp qua từng bài hát, từng câu nhạc. Nhu cầu nhận thức của học sinh Tiểu học đang phát triển. Hành vi và thói quen đạo đức đang hình thành. Các em giàu cảm xúc, sống bằng tình cảm, thích sinh hoạt tập thể và múa hát. Xét về mặt tình cảm, các em rất dễ xúc động trước những cái hay, cái đẹp biểu hiện trong cuộc sống. Nhưng lên đến lứa tuổi cao hơn- độ tuổi 9-10, các em đã hình thành các phẩm chất cũng như các năng lực ở mức độ cao hơn, các em có những nhạy cảm riêng và đòi hỏi nhu cầu tiếp thu kiến thức một cách hoàn hảo hơn. Chính vì vậy người giáo viên cần phải có năng lực trong giao tiếp, trong sự truyền tải kiến thức cho các em. Muốn các em hiểu bài một cách tốt nhất, người giáo viên phải bỏ thời gian công sức, trí tuệ của mình để nghiên cứu tài liệu cũng như tìm tòi ra những phương pháp, những hình thức dạy học để giúp các em tiếp thu bài một cách trọn vẹn . . . Giáo viên Tiểu học là người hình thành ở các em những cơ sở ban đầu cho sự tiếp thu nghệ thuật âm nhạc và phát hiện những mầm non có năng khiếu âm nhạc để sớm có điều kiện bồi dưỡng các em thành nhân tài của đất nước. Muốn vậy, GV dạy môn Âm nhạc phải có hiểu biết cơ bản về lý thuyết âm nhạc, phải rèn luyện để có kĩ năng thực hành giúp các em hát kết hợp gõ đệm đúng với tất cả sắc thái biểu cảm và hình thành ở các em cảm xúc và thị hiếu lành mạnh. Chính vì vậy, không còn cách nào khác, người giáo viên cần phải tự học hỏi, trau dồi về chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia các chuyên đề đổi mới phương pháp; học hỏi cấp trên, đồng nghiệp, bạn bè, gần gũi, quan tâm đến mọi đối tượng học sinh. Biết nắm bắt tâm sinh lý lứa tuổi để gây cảm hứng cho các em trong học tập. Ngoài ra không ngừng luyện tập về chuyên môn như luyện giọng hát, luyện tập đàn, tập múa, biểu diễn và một vài thủ thuật khác để giúp các em học tốt nhằm nâng cao chất lượng môn Âm nhạc trong nhà trường, giúp các em phát triển một cách toàn diện về: Đức- Trí- Thể- Mĩ. Từ đó các em sẽ góp phần học tốt các môn học khác trong nhà trường. 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Trường Tiểu học Quảng Ninh là một trường nằm ở gần trung tâm của huyện Quảng Xương, điều kiện cơ sở vật chất cũng không còn nhiều khó khăn như trước nữa, phần nào nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá văn nghệ thuật của nhà trường nói riêng và của địa phương nói chung. Mặt khác việc tiếp cận các thông tin âm nhạc và việc được tham gia các hoạt động âm nhạc của các em học sinh đang còn rất hạn chế. Do vậy để các em học tốt và có hứng thú học tập bộ môn này, đòi hỏi người giáo viên phải có một phương pháp truyền đạt, phương pháp thu hút, tạo sự hứng thú cho các em với môn học. Đại bộ phận các em do ít được tiếp xúc với các loại hình nghệ thuật nên còn nhược điểm rất phổ biến là hát theo thói quen, hát tự do theo cảm tính… Vì vậy người giáo viên phải từng bước giúp các em nắm được các kiến thức, các kỹ năng cơ bản của ca hát từ đó giúp các em có được sự tự tin, phát triển tai nghe và khả năng thể hiện các tính chất Âm nhạc. Những năm trước đây, do trang thiết bị cho môn học còn hạn chế, giáo viên còn dạy truyền khẩu nhiều nên việc truyền đạt và giúp các em tiếp thu kiến thức Âm nhạc là hết sức khó khăn, thậm chí những kiến thức đó đến với các em hết sức trừu tượng. Việc truyền thụ các bài hát chỉ qua phương pháp truyền khẩu thuần tuý ít phát triển khả năng tư duy của các em. Do đó không tạo được sự thu hút, ít gây 2.2.1. Những việc đã làm được. Nhìn chung, SGK đã xác lập được một hệ thống tri thức âm nhạc nhẹ nhàng, phong phú. Trong chương trình từng lớp và toàn cấp học các nội dung được sắp xếp đan xen một cách hài hoà hợp lí. Tạo cơ sở để học sinh rèn luyện kĩ năng hát đúng, hát hay, giúp phát triển trí tuệ, bồi dưỡng tình cảm trong sáng, lành mạnh tạo điều kiện để các em bộc lộ và phát triển năng khiếu âm nhạc, hướng tới chân, thiện, mĩ góp phần làm thư giãn đầu óc, làm cân bằng các nội dung học tập khác ở Tiểu học. Mặt khác, sau khi Hội nghị công chức- viên chức đầu năm xong, tôi đã nắm bắt được kế hoạch của nhà trường trong việc dạy học môn Âm nhạc. Bản thân đã tự lên kế hoạch cho từng khối lớp. Từ đó đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng bộ môn Âm nhạc của mình phụ trách. Là một người giáo viên có tinh thần trách nhiệm cao, với khả năng của mình, bản thân đã không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Tham gia các buổi chuyên đề của nhà trường và của PGD&ĐT tổ chức. Thực hành nghiên cứu tài liệu, soạn giảng các kế hoạch bài học, tìm tòi các phương pháp đổi mới, các hình thức dạy học để giúp học sinh tiếp thu bài tốt. Kết quả chất lượng môn Âm nhạc ngày một đi lên. Đầu năm các em còn hát sai nhạc, gõ tiết tấu chưa đúng, gõ phách còn lẫn lộn, nhất là các em học sinh lớp Một, mới vào cấp Tiểu học còn nhiều bỡ ngỡ. Nhưng đến bây giờ, chất lượng học tập của các em đã chuyển biến rõ rệt. Các em say mê học hát hơn, yêu thích môn Âm nhạc hơn, hát đúng và còn hát hay nữa. Những động tác phụ hoạ cùng với lời hát có phần điêu luyện hơn, gõ phách và gõ tiết tấu đã chính xác với lời của bài hát. Vì vậy, tính đến thời điểm cuối tháng tư, toàn trường có 388 em đều đạt mức độ hoàn thành và hoàn thành tốt, Đó cũng là một dấu hiệu đáng mừng cho chất lượng dạy học môn Âm nhạc ở trường chúng tôi. 2.2.2. Những mặt còn hạn chế. * Về phía nhà trường. Nhìn chung, nhà trường cũng đã rất quan tâm trong việc chỉ đạo dạy và học môn Âm nhạc, tuy nhiên khi tổ chức các tiết chuyên đề, thường là ở các môn như Toán; Tiếng Việt; TNXH; Khoa học; Địa lý; Đạo đức. Môn Âm nhạc ít được đề cập đến. * Về phía đồng nghiệp. Hầu như giáo viên chủ nhiệm chưa coi trọng môn học âm nhạc và thường đánh giá môn học âm nhạc là môn phụ nên nhiều lúc họ cho rằng học cũng được và không học cũng chẳng sao, cái chính là phải học Toán và Tiếng Việt nên sự tương tác giữa giáo viên dạy môn Âm nhạc và học sinh chưa được coi trọng. * Về phía phụ huynh. Đa phần phụ huynh học sinh thường cho con em mình tập trung học ở các môn nhiều giờ như Toán; Tiếng Việt, TNXH hay Đạo đức. Phụ huynh thường quan niệm rằng, môn Âm nhạc là một môn học phụ, học nhiều cũng được, học ít cũng xong. Họ đâu có biết đấy là một môn bắt buộc trong tám môn học ở trường Tiểu học. Có học tốt môn Âm nhạc, tinh thần của các em mới phấn chấn để tiếp tục học các môn học khác, hoặc chính nhờ thông qua việc học môn Âm nhạc các em đang được học kỹ năng biểu diễn, kỹ năng tự tin trước đám đông, kỹ năng thuyết trình Học tốt môn Âm nhạc sẽ phục vụ cho cuộc sống sau này của các em rất nhiều. * Về phía giáo viên. Bản thân giáo viên phụ trách môn Âm nhạc cũng đã rất nhiệt tình trong công tác giảng dạy, xong với tuổi đời đã có nhưng kinh nghiệm cũng chưa nhiều, nhà trường có 2 giáo viên nhạc, bản thân thường làm giáo viên tổng phụ trách đội, Chưa có nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu, băng hình cũng như các tập san, tạp chí để tìm ra các phương pháp hữu hiệu trong mỗi tiết dạy nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Âm nhạc cho học sinh. Chưa tham gia được nhiều về việc dạy các tiết chuyên đề cũng như tham gia sinh hoạt chuyên môn cụm. Chưa tìm hiểu nhiều được tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh ở từng khối lớp. * Về phía học sinh. Nhất là học sinh lớp 1 bước đầu mới làm quen môn âm nhạc, nhiều em còn chưa biết đọc, hát còn ngọng chưa chính xác, rụt rè nhút nhát trong giờ học. Các em chưa làm quen hát kết hợp gõ đệm theo các cách, chưa phân biệt được từng cách gõ đệm theo tiết tấu, theo phách, theo nhịp khác nhau như thế nào trong một bài hát. Vì thế, các em hát còn tùy tiện lúc nhanh, lúc chậm dẫn đến việc hát sai giai điệu của bài hát. Đối với học sinh các khối lớp 2; 3; 4; 5, tuy các em có lớn hơn chút ít nhưng kĩ năng hát hay, hát đúng nhạc chưa được nhiều. Có chăng các em cũng hát được phần cơ bản. Vì vậy, về kĩ thuật các em chưa thẩm thấu dẫn đến các em hát sai nhạc, gõ phách và tiết tấu sai Cụ thể như sau: – Khả năng thuộc lời bài hát còn kém. – Khả năng nghe nhạc chưa chuẩn. – Tập đọc nhạc còn sai. – Hát chưa đúng giai điệu. – Hát kết hợp gõ đệm, gõ tiết tấu chưa tốt. – Hát kết hợp vận động chưa nhịp nhàng. Sau một tháng giảng dạy ở các lớp, kết quả khảo sát chất lượng môn Âm nhạc của học sinh các khối lớp trong toàn trường đã thu được như sau: Khối Sĩ số Hoàn thành tốt % Hoàn thành % Chưa hoàn thành % 1 93 38 40.8 49 52,7 6 6,5 2 55 19 34.5 33 60 3 5.5 3 94 45 47.9 47 50 2 2,1 4 63 24 38.1 37 58.7 2 3.2 5 83 30 36.1 51 61.5 2 2.4 Tổng số 388 156 40.2 217 55.9 15 3.9 Từ kết quả khảo sát cho thấy, việc tiếp thu các kiến thức âm nhạc và sự yêu thích học tập bộ môn của các em chưa cao lắm. Vì thế bản thân tôi cảm thấy rất trăn trở, tôi tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi, bổ sung một số giải pháp giúp học sinh học tốt môn âm nhạc ở trường tiểu học. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 2.3.1. Giải pháp giúp học sinh yêu thích môn Âm nhạc. Như chúng ta đã biết, giáo dục âm nhạc cho HS tiểu học phải bằng mọi hình thức và nhiều biện pháp vì thế tổ chức giờ học dưới nhiều hình thức như tổ chức trò chơi âm nhạc, Tập vận động phụ hoạ – biểu diễn – trình bày bài hát, Lồng ghép hoạt động Giáo dục ngoài giờ lên lớp vào hoạt động dạy học Âm nhạc, Tổ chức trò chơi âm nhạc rất được HS thích thú và là biện pháp mang lại hiệu quả rất cao trong dạy và học Âm nhạc. Các biện pháp này thu hút sự chú ý và say sưa học tập, đồng thời tạo sân chơi, giúp các em HS gắn bó, hòa đồng với nhau, yêu thích và mong chờ được học môn Âm nhạc. GV tổ chức cho HS thực hiện bằng nhiều hình thức: cho HS lên biểu diễn trước lớp, trình bày bài hát bằng hình thức hát xô và hát xướng, kể các bài hát dân ca mà em biết Giúp HS được học mà chơi, chơi mà học, làm thư giãn tinh thần qua những tiết học văn hóa, làm giờ học âm nhạc phong phú, hấp dẫn. Góp phần giúp HS phát triển trí tuệ. 2.3.2. Giải pháp giúp học sinh học hát, phát triển khả năng nghe nhạc, tập đọc nhạc. Âm nhạc ở Tiểu học gồm các mạch nội dung như: Học hát, phát triển khả năng nghe nhạc, Tập đọc nhạc. Ở lớp 1, 2, 3 Học hát và Phát triển khả năng nghe nhạc. Qua học hát, HS được rèn luyện về tai nghe, trí nhớ âm nhạc, phát triển nhạc cảm và làm quen với việc thể hiện chính xác về độ cao, trường độ. Học kì II lớp 3 HS được tiếp cận bước đầu với một vài kí hiệu ghi chép nhạc. Đến lớp 4, 5 bổ sung thêm nội dung Tập đọc nhạc. Âm nhạc được tách riêng thành một môn học có SGK cho HS và sách hướng dẫn giảng dạy cho giáo viên. – Học hát: Học sinh Tiểu học được học từ 10 đến 12 bài hát trong một năm học. HS cần hát đúng cao độ, trường độ và phát âm rõ lời, chính xác. Tiếng hát phải có sức biểu cảm với những trạng thái khác nhau như: vui vẻ, hồn nhiên, nhí nhảnh … Dạy hát gồm các bước sau: giới thiệu bài, hát mẫu, đọc lời ca, khởi động giọng, dạy hát từng câu, hát cả bài, hát kết hợp gõ đệm bằng nhạc cụ, hát kết hợp vận động phụ hoạ. – Phát triển khả năng nghe nhạc: Học sinh được nghe Quốc ca, dân ca, bài hát thiếu nhi chọn lọc hoặc nhạc không lời. Nghe kể chuyện Âm nhạc. Được nghe, xem giới thiệu hình dáng một vài nhạc cụ trong và ngoài nước. Nghe âm sắc qua băng đĩa các trích đoạn nhạc được diễn tấu bằng các loại hình nhạc cụ này. – Tập đọc nhạc: Ở lớp 4, 5 các em được làm quen với 8 bài TĐN, giọng Đô trưởng, nhịp 2/4, 3/4 gồm 5 âm Đô-Rê-Mi-Son-La hoặc 7 âm: Đô-Rê-Mi-Pha-Son-La-Si với hình nốt đen, nốt trắng, móc đơn, trắng chấm dôi, đen chấm dôi, dấu lặng đen và dấu lặng đơn. Khi dạy TĐN, giáo viên cho các em nhận biết tên nốt, hình nốt và từ nốt thấp đến nốt cao trong bài. Tập lần lượt cao độ, tiết tấu riêng. Sau đó đàn giai điệu vài lần cho các em đọc theo từng câu ngắn. Khi đã đọc đúng giai điệu thì cho HS ghép lời. Trong khi đọc GV nhắc các em gõ phách đều đặn, nhịp nhàng. 2.3. 3. Biện pháp luyện hát đúng giai điệu, hát kết hợp gõ đệm, gõ tiết tấu. Giáo viên phải xây dựng nền nếp học tập ngay từ bài học đầu tiên như: xác định thái độ, ý thức học tập đối với môn Âm nhạc, tư thế ngồi hát, kỹ năng phát âm, nhả tiếng, quan sát, lắng nghe và cảm nhận âm sắc, giai điệu. * Biện pháp: Luyện hát đúng giai điệu. Giới thiệu bài hát một cách sinh động, gây sự chú ý, tò mò cho học sinh. Các em nghe hát mẫu và đọc lời ca. Ví dụ: Trong bài “Lớp chúng ta đoàn kết” (Nhạc và lời của Mộng Lân). Khi đọc lời ca phải hướng dẫn các em đọc theo tiết tấu và ngắt ở cụm từ như sau: Lớp chúng mình/ rất rất vui,/ anh em ta chan hoà tình thân./… Để các em đọc đúng tiết tấu, giáo viên chỉ bảng phụ và hướng dẫn các em đọc câu theo mẫu. Sau khi giúp học sinh đọc đúng lời ca giáo viên phải hướng dẫn các em khởi động giọng. Ví dụ : Mề ê ế ê mà a á a à Khi tập cần sự đồng đều hoà giọng chính xác và diễn cảm với những trạng thái khác nhau. Để các em cảm nhận giai điệu của từng câu hát, giáo viên đàn, hát mẫu. Việc tập hát từng câu và tập hát theo lối móc xích sẽ giúp các em mau nhớ lời ca và hát chuẩn xác giai điệu hơn. Việc củng cố luyện tập từng đoạn của bài hát giúp các em cảm nhận giai điệu và lời ca, tự tin. Đặc biệt là giúp các em loại bỏ sự chán nản khi chưa thực hiện được bài học. * Biện pháp: Hát kết hợp gõ đệm. Việc sử dụng các nhạc cụ gõ đệm theo khi hát làm cho bài hát sinh động, gây hứng thú, giúp các em giữ được nhịp độ của bài mà không bị cuốn nhanh. Thông thường, có 3 cách gõ đệm để luyện tập củng cố bài hát đó là: Hát gõ đệm theo nhịp, phách, tiết tấu lời ca. Tuy nhiên tuỳ theo từng bài hát cụ thể mà vận dụng cho phù hợp. Ví dụ: Bài “ Bầu trời xanh ” Nhạc và lời: Nguyễn Văn Quỳ ( lớp 1) Sử dụng cách gõ đệm theo phách và gõ đệm theo tiết tấu đã được viết sẵn vào bảng phụ trên khuông nhạc chia làm 2 cách gõ đệm khác nhau. Gõ đệm theo phách: Gõ theo tiết tấu: Mỗi nốt trên khuông nhạc giáo viên đã đánh dấu “x” tương ứng với tiếng được gõ theo ô nhịp. Không giải thích vì sao chỉ nhận xét về hai cách gõ. Sau đó hướng dẫn học sinh cách tự xác định tiết tấu, phách ở những câu còn lại trong bài hát. Để phân biệt h
Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Địa Lí Ở Tiểu Học
Môn học Địa lí ở tiểu học là một trong những môn học vó vị trí quan trọng trong chương trình giáo dục. nó cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về thiên nhiên và cuộc sống con người của các vùng miền trong đất nước Việt Nam. Việc dạy học môn địa lý đã có chương trình riêng biệt và được in chung với môn học lịch sử gọi là sách Lịch sử và Địa lý.
Nhưng một thực tế hiện nay việc học tập của học sinh ở tiểu học các em không tích cực học tập môn học này một cách say sưa và tự giác. Các em thường chú trọng vào hai môn học chính là Toán và Tiếng Việt do đó việc nắm bắt kiến thức về Địa lý còn ở mức trung bình. Bên cạnh đó việc giúp đỡ của bố mẹ các em ở nhà cũng không được quan tâm nhiều nên chất lượng học tập môn học này ngày càng có dấu hiệu yếu hơn cho dù giáo viên đã tìm nhiều cách giúp đỡ để cho các em học tập tốt.
Với vai trò là một cán bộ quản lý phụ trách công tác chuyên môn, bản than tôi luôn chu trọng vào chất lượng giáo dục chung của nhà trường, tôi thường khuyến khích giáo viên cần quan tâm đến chất lượng học tập của mỗi học sinh, giúp các em học đều các môn, không phân biệt môn nào là chính, môn nào là phụ. Cuối môi tháng, mỗi kì tôi thường tổ chức các lớp chuyên đề nhằm giúp giáo viên rút kinh nghiệm trong công tác giảng dạy cũng nư học hỏi lẫn nhau nhằm tìm ra những phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh tại địa phương.
Đây cũng là một trong những nhiệm vụ hàng đầu mà tôi đề ra đầu mỗi năm học. Riêng năm học 2015-2016 này tôi đã lạp kế hoạch cụ thể, chi tiết việc nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường đối với giáo viên các lớp, nhất lừ môn học Địa lý. Đây cũng là nội dung đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn địa lí mong rằng sáng kiến nhỏ này sẽ góp phần vào sự thành công của nền giáo dục huyện nhà.
Mục tiêu: giúp giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học nhằm nâng cao kiến thức địa lí thông qua bản đồ, lược đồ, tranh ảnh, thơ ca…một cách tốt nhất. Từ đó tạo hứng thú cho học sinh trong học tập môn học này.
Nhiệm vụ: Để thực hiện thành công đề tài tôi thực hiện các nhiệm vụ chính sau đây:
– Nghiên cứu lý luận về nội dung đề tài, tâm sinh lí lứa tuổi học sinh
– Khảo sát tình hình và chất lượng học tập của học sinh học tập môn địa lí hiện nay ở tiểu học nói chung và trường tiểu học …………….. nói riêng.
– Từ thực trạng đó đề ra biện pháp có hiệu quả giúp học sinh học tốt môn Địa lí. Từ kết quả thực nghiệm để triển khai và đánh giá kết quả rút ra bài học kinh nghiệm bổ ích. Từ đó triển khai mở chuyên đề bồi dưỡng phương pháp dạy học cho giáo viên của trường tiểu học ………………
Học sinh khối 4,5 trường Tiểu học ……………… Nghiên cứu các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học địa lí ở tiểu học hiện nay.
Do điều kiện hạn chế về thời gian và không gian nen phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ nghiên cứu trong trường tiểu học.
Dựa trên những tư liệu về các chuyên đề đã được nghiên cứu, tôi tiến hành khảo sát đối tượng học sinh, từ đó có cơ sở xây dựng kế hoạch khảo nghiệm sao cho đạt kết quả tốt hơn
Sau khi đã có kết quả nghiên cứu về việc học tập môn Địa lý của học sinh. Qua đó tôi tiến hành tổ chức khảo nghiệm nhằm đánh giá tính khả thi vấn đề nghiên cứu.
Sau khi triển khai thực hiện chuyên đề theo kế hoạch đề ra, tôi đã bám sát kết quả thu được, trên cơ sở đó tôi điều chỉnh cách làm để phù hợp với nội dung nghiên cứu. sau đó tổng kết quá trình thực hiện, từ đó có cơ sở đề xuất những biện pháp thực hiện đại trà đến nhiều học sinh hơn nhằm nâng cao chất lượng học tập môn Địa lí.
Ngoài ra tôi còn sử dụng thêm một số phương pháp nghiên cứu khác để bổ trợ cho quá trình nghiên cứu của sáng kiến.
Môn địa lí ở tiểu học góp phần bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan khoa học và những quan điểm nhận thức đúng đắn. Địa lý là một môn học có tính tổng hợp. Trong quá trình học tập địa lý học sinh luôn phải tìm hiểu mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển và biến đổi không ngừng của chúng. Những kiến thức đó góp phần hình thành cho học sinh thế giới quan duy vật biện chứng. Học Địa lý giúp học sinh nhận thức đúng vai trò của tự nhiên, của con người trong các hoạt động kinh tế – xã hội trên lãnh thổ từ đó góp phần bồi dưỡng cho học sinh quan điểm duy vật lịch sử, tư duy kinh tế, tư duy sinh thái… Giáo dục cho học sinh lòng yêu nước, thái độ nhiệt tình lao động, ý thức làm chủ và lòng mong muốn góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Giúp học sinh nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên trong việc tỏ thái độ với các hành động tiêu cực…Qua việc học Địa lý Thế giới giúp học sinh đồng tình với cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân lao động trên thế giới để giành độc lập, dân chủ, tiến bộ và tự do…
Tất cả các nhận thức, tình cảm nói trên là những yếu tố cơ bản góp phần hình thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta việc dạy học nói chung và bồi dưỡng nhân tài nói riêng được chú trọng ngay từ khi dựng nước vì như Thân Nhân Trung đã nói ” Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thế nước lên nguyên khí suy thế nước xuống.”
Ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước việc dạy học nói chung và bồi dưỡng nhân tài nói riêng càng được chú trọng nhằm hình thành những con người có ý thức và đạo đức XHCN, có trình độ, có văn hóa, có hiểu biết kỹ thuật, có năng lực lao động cần thiết, có óc thẩm mĩ và có kiến thức tốt để kế tục sự nghiệp cách mạng, xây dựng vào bảo vệ tổ quốc.
Với mục tiêu giáo dục: Nâng cao dân trí- Đào tạo nhân tài – Bồi dưỡng nhân tài. Môn địa lí khả năng bồi dưỡng cho học sinh một khối tri thức phong phú về tự nhiên -kinh tế -xã hội và những kỹ năng kỹ xảo hết sức cần thiết trong cuộc sống. Và còn có khả năng to lớn trong việc bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan khoa học và những nhận thức dúng đắn, khả năng hình thành cho học sinh nhân cách con người mới trong xã hội hiện đại và năng động này.
Ở bậc tiểu học từ trước tới nay với quan niệm cho rằng bộ môn địa lí là môn học phụ. Vì thế dạy và học địa lí ít được coi trọng, nên chất lượng giảng dạy thấp, học sinh thiếu hứng thú khi học bài, khi học lại chủ yếu là học vẹt để đối phó với giáo viên khi kiểm tra. Vì vậy Đa số học sinh nắm kiến thức sơ đẳng về địa lí còn nhiều hạn chế, số lượng học sinh biết tổng hợp vốn kiến thức về Tự nhiên – xã hội, vị trí địa lí của các vùng miền trên đất nước ta còn hạn chế, tỷ lệ học sinh chưa hoàn thành môn học vẫn còn cao.
Là cán bộ quản lý được trưởng thành từ một giáo viên tâm huyết với nghề; tôi thấy rất băn khoăn trước chất lượng môn địa lí trong nhà trường trong những năm gần đây, tôi thấy mình phải có trách nhiệm thay đổi quan niệm đó và không có gì tốt hơn là chứng minh bằng thực tiễn rằng: môn Địa lí là môn học chính trong chương trình phổ thông và học Địa lí có vai trò rất quan trọng trong đời sống hằng ngày và trong sản xuất.
Ngay từ khi thành lập đến nay trường luôn có số lượng học sinh khá đông hai điểm trường,với tổng số lớp là 19 lớp, gồm 490 học sinh trong đó học sinh dân tộc chiếm tỷ lệ 50%. Đội ngũ cán bộ giáo viên và nhân viên gồm 33 người. 100% các đồng chí giáo viên đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, đội ngũ giáo viên phần lớn còn trẻ tuổi nên rất nhiệt tình trong mọi phong trào, ham học hỏi, yêu nghề mến trẻ, yên tâm công tác dạy học tại địa phương. Trong nhưng năm gần đây chất lượng dạy và học được năng lên rõ rệt. Đạt được điều đó trường đã gặp những thuận lơi -khó khăn sau:
Thuận lợi: Trường luôn nhận được sự chỉ đạo chuyên môn kịp thời của Phòng Giáo dục huyện. Luôn được sự quan tâm của cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương cũng như quý bậc phụ huynh.
Được sự quan tâm của Đảng và nhà nước cũng như ngành giáo dục đã đầu tư nhiều trang thiết bị dạy học, bên cạnh đó trường đã thường xuyên tổ chức tập huấn đổi mới phương pháp trong dạy học nhằm đưa chất lượng giáo dục ngày một nâng cao trong đó có môn địa lí.
Sự nhận thức của các bậc phụ huynh nông thôn về việc học của con em mình ngày một khả quan. Đội ngũ giáo viên đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn chiếm hơn 100%
Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi thì còn nhiều khó khăn trong dạy và học địa lí hiện nay ở trường chúng tôi đó là:
Là một trường tiểu học duy nhất chỉ có hai điểm trường đóng trên địa bàn xã Cư kLông thuộc vùng đặc biệt khó khăn của huyện Krông Năng, địa bàn rộng gồm 8 thôn, gia đình học sinh sống xa trường, một nửa số học sinh là người dân tộc thiểu số,bố mẹ ít quan tâm đến việc học tập của con em, bên cạnh đó điều kiện kinh tế cũng như đường sá đi lại khó khăn nên phần lớn đã ảnh hưởng đến chất lượng dạy học nói chung và môn địa lý nói riêng.
Ý thức học tập của học sinh chưa cao. Luôn xem môn địa lí là môn phụ kể cả cha mẹ các em. Đó là nếp nghĩ từ bao đời nay của người dân Việt Nam. Bên cạnh đó học sinh tiểu học nhớ nhanh nhưng ghi nhớ đó lại không bền vững, trình độ nhận thức của các em còn hạn chế chưa đồng đều.
Song song với những thuận lợi -khó khăn trên, thực trạng môn địa lý ở trường có được những thành công và hạn chế sau:
Thành công: Tuy có nhiều khó khăn nhất định nhưng trong những năm qua dạy và học môn địa lí ở trường tiểu …………….. đã có những thành công đáng ghi nhận đó là:
– Việc thực hiện đánh giá học sinh theo thông tư 30/2014/TT-BGD ĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 Về phía học sinh, được trực tiếp tham gia đánh giá kết quả học tập của mình, của bạn, các em phát triển khả năng giao tiếp và học tập đạt kết quả tốt hơn. Phụ huynh cùng tham gia đánh giá cũng giúp họ nắm rõ hơn về tình hình học tập, rèn luyện của con. Việc đánh giá học sinh bằng lời, không dùng điểm số tránh được việc so sánh giữa học sinh này với học sinh khác, tạo tâm lý thoải mái cho các em trong học tập và các hoạt động giáo dục. Giáo viên kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ hay hạn chế của học sinh để động viên, khích lệ, hướng dẫn, hỗ trợ trong quá trình học tập, rèn luyện. Cách đánh giá này buộc giáo viên có trách nhiệm hơn với công việc, luôn tích cực đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, điều chỉnh hoạt động dạy học và giáo dục phù hợp với từng đối tượng học sinh để đạt hiệu quả cao.
– Số học sinh có điểm môn địa lí khá giỏi trong những năm qua tăng lên đáng kể. Số em không đạt yêu cầu chiếm tỉ lệ nhỏ. Đa số các em có kiến thức cơ bản về môn địa lí trong chương trình tiểu học.
– Về xã hội đã quan tâm hiều hơn về môn học này, biểu hiện qua một số chương trình tìm hiểu địa lí Việt Nam trên ti vi.
– Nhà trường đã có nhiều chuyên đề, hội thảo về môn học này. Cũng như tổ chức nhiều cuộc thi tìm hiểu về địa lí như Tìm hiểu về biển đảo Việt Nam, tìm hiểu về các dân tộc Việt Nam, Thiết kê thời trang biển…
Hạn chế: Tuy có nhiều thành công nhưng vẫn còn tồn tại những hạn chế chưa được khắc phục đó là:
– Hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu, dạy trên lớp là chủ yếu. Các hình thức dạy học cá nhân, ngoài trời chưa được thực hiện, hoặc thực hiện chưa có hiệu quả.
– Cơ sở vật chất phục vụ dạy học, các phương tiện dạy học còn thiếu và chưa đồng bộ.
– Học sinh có tính ỉ lại, không chịu tìm tòi, không chủ động nắm bắt kiến thức, không tập trung vào bài học, khả năng tổng hợp kiến thức kém, tiếp thu bài chậm.
Nhìn chung giờ học Địa lý chưa mang lại nhiều hứng thú cho học sinh. Có thể nói cách dạy và học Địa lý như trên đã gây ảnh hưởng không nhỏ đối với chất lượng dạy học, đồng thời hạn chế việc phát triển trí tuệ của học sinh khi học môn Địa lý. Vì vậy tiếp tục đổi mới một cách mạnh mẽ, có hiệu quả các phương pháp dạy học Địa lý là một trong những vấn đề quan trọng nhất cần phải được tiếp tục quan tâm và tìm cách giải quyết.
Mặt mạnh: Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm đầu tư chất lượng chuyên môn nói chung trong đó có môn địa lí nói riêng. Khuyến khích động viên giáo viên tham gia hội giảng với nhiều hình thức, với nhiều môn học khác nhau. Luôn động viên khen thưởng kịp thời với những giáo viên giỏi, giáo viên có nhiều sáng kiến trong dạy học.
– Một số giáo viên vẫn chưa thực sự thấm nhuần tích cấp thiết, tầm quan trọng, bản chất phương hướng và cách thức đổi mới phương pháp dạy học Địa lý, hiểu biết về cơ sở lý luận, thực tiễn của đổi mới phương pháp dạy học còn chưa sâu sắc.
– Đa số giáo viên vẫn chú trọng truyền thụ kiến thức theo kiểu thuyết trình xen kẽ với hỏi đáp, nặng về thông báo, giảng giải kiến thức, nhẹ về phát huy tính tích cực và phát triển tư duy học sinh, học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động.
Có nhiều nguyên nhân và yếu tố dẫn đến những thực trạng trên, tuy nhiên trong quá trình thực hiện đề tài đi sâu vào nghiên cứu mở rộng nhiều vấn đề tôi nhận thấy:
– Giáo viên mới chỉ quan tâm đến kiến thức nội dung chính của bài và những kiến thức nào cần học thuộc.
– Bài giảng còn chưa thật hấp dẫn, chưa thu hút học sinh.
– Các phương pháp giảng dạy còn hạn chế, chưa thật sự phát huy được vai trò của đồ dùng dạy học (mà ở đây là bản đồ; tranh ảnh…)
– Bài giảng cứng nhắc, nặng về nội sung văn bản, thiếu tính sáng tạo. Giáo viên chưa cập nhật thông tin địa lí thường xuyên và chưa có kiến thức chuyên sâu về môn học này.
-Thời lượng 1 tiết trong 1 tuần với môn học này quả là ít, nếu không muốn nói là “cưỡi ngựa xem hoa”.
– Suy nghĩ của phụ huynh vẫn chưa mấy thay đổi khi xem địa lí là môn phụ dẫn đến hệ quả là không hướng dẫn con em mình đầu tư thời gian học và nghiên cứu về môn học này.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những thực trạng trên nhưng theo tôi nguyên nhân cơ bản sau gây nên việc học sinh chưa mặn mà với môn học này. Đó là:
Thứ nhất: Hiện nay, các trường tiểu học đã có bản đồ, lược đồ, tranh, ảnh, quả địa cầu,… nhưng các thiết bị và phương tiện dạy học hiện đại thì đa số là chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay. Cơ sở vật chất ở các trường tiểu học còn thiếu, chưa đủ, các tài liệu nghiên cứu chưa cập nhật kiến thức mới thường xuyên. Trong mỗi lớp học ở tiểu học tính trung bình chỉ có một đến hai bản đồ treo tường, một vài tranh ảnh treo tường và vài lớp chung nhau 1 một quả địa cầu. Các thiết bị hiện đại kèm theo chúng như ti vi, đầu video, đèn chiếu, máy vi tính… chưa được trang bị.
Thứ hai: Giáo viên hiện nay rất ngại sử dụng đồ dùng dạy học trong giờ học. Tình trạng dạy “chay” là phổ biến, các đồ dùng nếu được sử dụng thì cũng chỉ mang tính chất hình thức, đối phó là chính và hầu như chúng được sử dụng như là những phương tiện minh hoạ, hỗ trợ cho lời giảng của giáo viên trên lớp. Giáo viên chỉ quan tâm đến tính chất minh hoạ của thiết bị mà chưa chú ý hoặc chú ý chưa đầy đủ đến việc khai thác tri thức bên trong của chúng. Bên cạnh đó, việc sử dụng đồ dùng không phù hợp với tiến trình bài học, không đúng lúc, đúng chỗ cũng là một trường hợp khá phổ biến. Một lí do khác rất quan trọng là, những giáo viên có ý thức sử dụng đồ dùng trong giờ học nhưng lại không biết cách tổ chức cho học sinh làm việc với các đồ dùng như thế nào cho hiệu quả. Với cách tổ chức giờ học và cách sử dụng các đồ dùng dạy học như hiện nay, hoạt động của học sinh trong giờ học trên lớp chủ yếu là nghe giảng, quan sát, ghi nhớ và tái hiện thông tin đã được giáo viên truyền đạt. Như vậy học sinh chỉ đóng vai trò thụ động trong quá trình nhận thức chứ chưa phải là chủ thể trong quá trình nhận thức. Học sinh không khai thác được nội dung kiến thức tiềm ẩn trong các đồ dùng dạy học, không phát huy được tính tích cực nhận thức trong quá trình học tập, không được phát huy tư duy, mối quan hệ giữa người học và các đồ dùng dạy học chỉ mang tính chất hình thức bên ngoài. Điều đó đồng nghĩa với việc học sinh chưa tiếp cận được với mục tiêu cần đạt được của bài học, không nắm được khái niệm một cách đầy đủ, chính xác. Do đó, không nâng cao được chất lượng dạy học, đặc biệt là kết quả nhận thức của học sinh.
Thứ ba: Một vấn đề nữa là công tác quản lí, chỉ đạo lãnh đạo của nhà trường còn thiếu chặt chẽ, không kiểm tra thường xuyên việc sử dụng các đồ dùng dạy học của giáo viên. Bên cạnh đó giáo viên ý thức để học, trau dồi tay nghề cho mình còn hạn chế. Việc thăm lớp dự giờ không thường xuyên nếu không muốn nói là đối phó.
Thứ tư: Phụ huynh và học sinh chưa đầu tư thời gian cho môn học này. Bên cạnh đó hoạt động ngoài giờ lên lớp tìm hiểu về địa lí chưa phong phú, chưa thu hút được các em tham gia.
Thực trạng trên đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp thay đổi phương pháp dạy, tích cực hơn nữa trong việc dạy và học môn địa lí nhằm tạo hứng thú, ý thức học tập cho học sinh, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy.
II.3. Biện pháp thực hiện.
Mục tiêu của biện pháp: Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu:
– Giúp học sinh có kĩ năng khai thác tri thức địa lí từ bản đồ, lược đồ, từ những tranh ảnh về địa lý, khai thác tri thức địa lý qua sách giáo khoa.
– Giúp giáo viên biết cách sử dụng tục ngữ, ca dao vào bài giảng để giúp học sinh ghi nhớ kiến thức nhanh hơn, bài giảng của giáo viên sinh động hơn. Từ đó gây hứng thú cho các em trong khi học địa lí.
– Từ những kiến thức địa lí bồi dưỡng cho các em tình yêu quê hương, đất nước, tự hào về con người và đất nước Việt Nam.
– Bản đồ là một phưng tiện trực quan, một nguồn tri thức địa lý quan trọng. Qua bản đồ, học sinh có thể nhìn một cách bao quát các khu vực lãnh thổ rộng lớn, những vùng lãnh thổ xa xôi trên bề mặt Trái Đất mà học sinh chưa bao giờ có điều kiện đi đến tận nơi để quan sát.
– Về mặt nội dung, bản đồ có khả năng phản ảnh sự phân bố và những mối quan hệ của các đối tượng địa lý trên bề mặt Trái Đất một cách cụ thể, mà không có một phương tiện nào khác có thể làm được. Những kí hiệu, màu sắc, cách biểu hiện trên bản đồ là những nội dung địa lý đã được mã hóa, trở thành một ngôn ngữ đặc biệt, ngôn ngữ bản đồ.
– Về mặt phương pháp, bản đồ được coi là phương tiện trực quan, giúp học sinh khai khác, củng cố tri thức và phát triển tư duy trong quá trình dạy học địa lý.
– Để khai thác được những tri thức trên bản đồ, trước hết học sinh phải hiểu bản đồ, đọc được bản đồ, nghĩa là phải nắm được những kiến thức lý thuyết về bản đồ, trên cơ sở đố có được những kỹ năng làm việc với bản đồ.
– Đối với giáo viên, hướng dẫn học sinh khai thác tri thức trên bản đồ, chủ yếu là hướng dẫn học sinh đọc được bản đồ ở các mức độ trên, quan trọng nhất là hai mức độ sau.
– Giáo viên hướng dẫn học sinh cách chỉ bản đồ, một địa danh, một khu vực, một con sông,…giáo viên hướng dẫn chậm để các em theo kịp.
– Muốn hiểu và đọc được bản đồ học sinh cần phải xem bảng chú giải để biết được các kí hiệu thể hiện trên bản đồ.
Các em cần phải xác định rõ các khu vực địa hình, cấu trúc của từng khu vực dựa trên các kí hiệu bản đồ, thang màu sắc để thấy rõ đặc điểm của từng khu vực địa hình, phân biệt sự khác biệt giữa các khu vực thông qua câu hỏi hướng dẫn của giáo viên.
Do đó tôi hướng dẫn giáo viên sử dụngn bản đồ trong dạy học địa lý bằng hai cách:
Cách 1: in Màu phóng to trên giấy A0, đây là phương pháp sử dụng thông thường nên không tạo được nhiều hứng thú trong học tập cho học sinh.
Cách 2 (tôi khuyên khích giáo viên tăng cường sử dụng):
Dùng bản đồ bằng hình ảnh động trình chiếu qua máy tính. Đây là một hình thức dạy học phong phú và hấp dẫn sẽ thu hút được học sinh học tập.
Với cách sử dụng này, giáo viên tuy mất chút ít thời gian mà bản đồ nhưng lại mang đến tính hiệu quả cao hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài Địa hình và khoáng sản (địa lí lớp 5). Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát lược đồ Địa hình Việt Nam trang 69 và thực hiện các yêu cầu sau:
– Chỉ vùng đồi núi và đồng bằng so sánh diện tích của vùng đồi núi và đồng bằng nước ta. (lúc giáo viên bấm máy, những vùng sáng ở hai vùng trên sẽ nấp nháy, vừa vui mắt vừa giúp học sinh dễ nhận biết
– Kế tên các dãy núi và cho biết dãy núi nào có hướng Tây-Bắc; Đông- Nam. Những dãy núi nào có hình cánh cung. Chỉ trên lược đồ đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng Nam Bộ và đồng bằng duyên hải miền Trung. (tương tự như trên, giáo viên có thể tạo nhiều hiệu ứng khác nhau sao cho học sinh thích thú và dễ hiểu bài)
Như vậy để thực hiện được yêu cầu trên học sinh phải tư duy vừa quan sát lược đồ đồng thời phân tích tổng hợp kiến thức thể hiện qua lược đồ để so sánh và hoàn thiện yêu cầu. nhưng nhờ cách sử dụng bản đồ bằng máy chiếu nên học sinh sẽ tập trung hơn so với cách xem bản đồ trong sách giao khoa hoặc trong bản đồ giấy giáo viên treo bảng.
Tóm lại: Khi các em được quan sát trên bản đồ trong máy chiếu và kết hợp lược đồ sách giáo khoa thông qua các hiện tượng địa lý được thể hiện các em sẽ biết được kiến thức địa lí tốt hơn. Như vậy dựa vào các kiến thức địa lý thông qua bản đồ học sinh có thể phân tích, giải thích được các mối quan hệ giữa các đối tượng địa lý rồi rút ra kết luận.
Một loại bản đồ khác được sử dụng trong học tập địa lý cũng góp phần rèn luyện kĩ năng và củng cố kiến thức cho học sinh, nhấn mạnh thêm những hiện tượng, sự vật địa lý được Giáo viên sử dụng thêm đó là bản đồ trống. Loại này được sử dụng trong những tiết ôn tập, thực hành…
Để thực hiện hiệu quả việc sử dụng bản đồ và lược đồ giáo viên cần lưu ý:
+ Trong quá trình học tập môn Địa lý việc sử dụng bản đồ để rèn các kĩ năng cho học sinh thì giáo viên phải cần có kế hoạch từng bước, liên tục bồi dưỡng cho học sinh những tri thức về bản đồ, học tập kết hợp bản đồ dần dần hình thành thói quen nhớ lâu hiểu sâu, khi không trực tiếp sử dụng bản đồ thì các em vẫn hình dung được. Và giáo viên cũng cần chú ý kết hợp đối tượng trên bản đồ với thực tế địa phương (nếu có).
+ Sử dụng bản đồ và tranh ảnh thường xuyên trong mỗi tiết học. Ngay từ những bài đầu tiên chúng ta rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng bản đồ theo từng bước, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
+ Sử dụng bản đồ tranh ảnh trong các kiểu bài lên lớp như bài mới, bài ôn tập, thực hành.
+ Phải khéo léo khi sử dụng, chọn những đồ dùng thích hợp nhất, đánh giá đồ dùng trước khi sử dụng để khỏi lãng phí thời gian và làm loãng trọng tâm giờ học, không nên sử dụng quá nhiều đồ dùng trong một tiết dạy.
Phim tư liệu là một phần minh chứng sống động và thực tế nhất trong quá trình dạy học, không chỉ là nguồn kiến thức cung cấp cho học sinh mà còn phát triển tư duy cho học sinh, có sức thu hút học sinh bởi vì Địa lý tiểu học đa số các tranh ảnh chỉ được nêu ra trong lý thuyết mà thực tế các em chưa được thấy thực tế. Trong giảng dạy địa lý, việc quan sát các sự vật, hiện tượng bằng thực tế qua phim tư liệu về địa lý xảy ra trong các không gian lãnh thổ khác nhau không phải lúc nào cũng làm được, vì vậy trong việc hình thành các biểu tượng và khái niệm cụ thể cũng rất hạn chế.
Để giúp học sinh khắc phục nhược điểm này, trong quá trình dạy học địa lý, giáo viên thường bắt buộc phải hình thành cho học sinh những biểu tượng và khái niệm tưởng tượng dựa vào một số phương tiện dạy học như: tranh ảnh, mẫu vật, mô hình …
Cần xác định và đánh giá được những đặc điểm và thuộc tính của đối tượng mà chúng biểu hiện. Trong các đặc điểm và thuộc tính đó, học sinh có thể khai thác được những gì cần thiết cho việc hình thành biểu tượng và khái niệm.
Xác định những đặc điểm và thuộc tính cần phải bổ sung bằng các nguồn tri thức khác như: bản đồ, tài liệu giáo khoa, tài liệu tham khảo…
Dự kiến cách hướng dẫn học sinh khai thác những tri thức cần thiết phục vụ cho mục đích dạy học.
Khi dạy bài Châu Mĩ (lớp 5) thay vì yêu cầu học sinh quan sát các bức tranh ở trang 122 để khai thác kiến thức, giáo viên sử dụng một đoạn phim tư liệu các em sẽ biết được ở châu Mĩ có núi An-đét ở Pê-ru, đồng bằng trung tâm ở Hoa Kì, thác Ni-a-ga-ra ở Hoa Kì, sông A-ma-dôn ở Bra-xin, hoang mạc A-ta-ca-ma ở Chi-lê, biển Ca-ri-bê.
Ngoài tranh ảnh trang 122 trong bài. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh những kiến thức mở rộng thông qua các hình ảnh sau để biết được đặc điểm của rừng rậm nhiệt đới mùa mưa và mùa khô.
Trong thực tế địa lí đã có trong những câu tục ngữ, ca dao. Từ xa xưa, trải qua hàng nghìn năm những câu ca dao tục ngữ đã được cha ông ta đúc kết lại từ những kinh nghiệm thực tế: các mối quan hệ giữa tự nhiên với tự nhiên, giữa thiên nhiên – con người, thiên nhiên – sản xuất, các quy luật thời tiết khí hậu, các quy luật tự nhiên…mặc dù trình độ nhận thức chưa được sâu sắc lắm.
Chính ý nghĩa phong phú và rộng rãi của ca dao, tục ngữ mà nó trở thành một phần trong kho tàng kiến thức của khoa học địa lí. Tận dụng điều này giáo viên có thể làm mới bài giảng của mình giúp bài học trở nên sáng tạo, mới lạ, phong phú hơn và giảm bớt tính khô khan như nhiều người thường nhận xét.
Để rèn luyện kĩ năng học đi đôi với hành, vốn là một kĩ năng còn yếu đối với học sinh khi học môn địa lí thì việc khai thác ý nghĩa của những câu ca dao, tục ngữ này giúp học sinh cảm thấy dễ dàng liên hệ kiến thức sách vở với các hiện tượng tự nhiên của cuộc sống bên ngoài.
“Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng mười chưa cười đã tối”
Khi dạy bài Hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng Bắc bộ (lớp4) giáo viên cho học sinh biết thời tiết của từng mùa, từng tháng trong năm là yếu tố quyết định cây trồng thể hiện qua các câu sau:
“Tháng chạp là tháng trồng khoai, Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà. Tháng ba cày vỡ ruộng ra“
Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng
Khi dạy bài Khí hậu (lớp 5) giáo viên có thể cho học sinh nhận biết dự đoán đặc điểm khí hậu của từng mùa, từng tháng trong năm thể hiện qua những hình ảnh trong các câu sau.
“Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy”
“Cơn đàng Nam vừa làm vừa chơi”
“Cơn đàng Bắc đổ thóc ra phơi”
“Mồng chín, tháng chín có mưa
Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn
Mồng chín, tháng chín không mưa
Thì con bán cả cày bừa đi buôn”
Chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng”
“Trời nồm tốt mạ, trời giá tốt rau”
“Én bay thấp mưa ngập bờ ao Én bay cao mưa rào lại tạnh”
“Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”
“Gió heo may, chuồn chuồn bay thì bão”
“Trăng quầng thì hạn trăng tán thì mưa”
Giáo viên có thể giải thích vào tháng 7, mùa hè của miền Trung và Bắc Bộ Việt Nam, nhiệt độ không khí ở trên lục địa cao hình thành khu áp thấp hút gió (khối khí ẩm) từ Thái Bình dương vào gây nên những trận mưa lớn cùng với sự xuất hiện của các khí áp thấp gây nên mưa bão ở Bắc bộ và Bắc trung Bộ.
Nên trong dân gian mới có câu: “Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy”
Nhưng nếu thấy: “Cơn đàng Nam vừa làm vừa chơi”
Hay: “Cơn đàng Bắc đổ thóc ra phơi”
Do ảnh hường của địa hình: dãy Hoàng Liên Sơn ở Bắc Bộ, dãy Trường Sơn Bắc ở Bắc Trung Bộ nên khi có gió Tây Nam chỉ gây mưa ở Nam bộ và Tây Nguyên. Còn ở vùng đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ và ven biển Nam Trung Bộ không có mưa. Tương tự “cơn đàng Bắc…” là ảnh hưởng của khối khí ôn đới xuất phát từ cao áp lục địa tính chất lạnh và khô nên không gây mưa.
Khi dạy bài Thương mại và du lịch (lớp 5) ta có thể sử dụng câu sau để biết được vẻ đẹp cũng như nhưng danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử của những vùng đất trên lãnh thổ nước ta.
Vui ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”
“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh”
Khi dạy bài Đồng bằng duyên hải miền Trung (lớp 4) giáo viên sử dụng các câu sau để biết được vị trí địa lí và đặc điểm của từng địa danh.
“Đường thủy thì sợ sóng thần Hang Dơi”
Qua những câu ca dao trên chúng ta thấy rằng không những giúp học sinh lĩnh hội kiến thức hiệu quả mà nó còn có ý nghĩa giáo dục rất lớn.
Như vậy qua thực hiện áp dụng đề tài vào giảng dạy đã thu được kết quả như sau:
– Có hiểu biết cơ bản và nâng cao về văn hóa, phong tục tập quán, những nét sinh hoạt truyền thống đặc sắc của dân tộc ta.
– Các em hào hứng hăng say khi học địa lí.
– Có thể vận dụng những điều đã học vào thực tế sản xuất.
– Biết được các thế mạnh về điều kiện tự nhiên, về kinh tế, xã hội của nước nhà.
– Có khả năng nhận biết một số hiện tượng địa lí nơi mình sinh sống.
– Có niềm tin vào sự phát triển của địa phương và nâng cao ý thức xây dựng quê hương và bảo vệ tổ quốc.
– Biết sưu tầm hình ảnh, ca dao, tục ngữ, tư liệu vào bài học.
– Có kĩ năng tốt trong việc sử dụng bản đồ, lược đồ và sách giáo khoa để khai thác kiến thức.
– Đã nhận thức được tầm quan trọng của môn học địa lí.
– Từ đó đã tự học, tự bồi dưỡng kiến thức địa lí cho mình.
– Tự tin hơn khi dạy chuyên đề, thao giảng với môn học này.
– Riêng bản thân tôi đã tham dự giáo viên dạy giỏi cấp Huyện 3 lần với môn tự chọn là Địa lí.
Đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn địa lí tuy làm một nội dung không phải quá mới, có thể đã có nhiều giáo viên sử dụng trên toàn quốc. Nhưng với trường tiểu học …………….. xã Cư Klông thì hoàn toàn mới vì đây là một đơn vị thuộc vùng khó khăn của huyện Krông Năng nên cơ sở vật chất còn hạn chế, máy chiếu mới chỉ có một cái dùng chung cho toàn trường nên tương đối khó khăn cho giáo viên triển khai làm phương tiện dạy học theo ý kiến trình bày trong đề tài. Tuy nhiên giáo viên không thể dùng thường xuyên thì cũng áp dụng 1 tuần một lần nhằm gây hứng thúc cho các em và giúp các em hăng say trở lại với môn học Địa lí. Việc sử dụng phương tiện dạy học vừa phải dựa trên chức năng, tác dụng của mỗi loại, đồng thời phải sử dụng phù hợp với từng đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh tiểu học. Đây là việc đòi hỏi người giáo viên phải phát huy cao độ vai trò của mình trong giảng dạy, phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của các em trong quá trình học tập. Vì vậy, trong viêc giúp học sinh học tốt môn địa lí là việc làm khó, đòi hỏi sự nỗ lực rất nhiều từ cả hai phía: Thầy và trò.
Nhà trường cần quan tâm và đầu tư nhiều trang thiết bị phục vụ môn học. Cần tổ chức chuyên đề, hội thảo về môn học này để giáo viên chia sẽ những khó khăn khi dạy môn này về cách sử dụng bản đồ, lược đồ, khai thác tranh ảnh…cũng như kinh nghiệm mà họ đã có khi dạy môn này.
– Khuyến khích giáo viên dạy môn địa lí thi tham gia hội thi, hội giảng…
Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Toán Lớp 4.
Thứ bảy – 22/02/2014 16:09
Đề tài Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4
Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến
a. Sự cần thiết (Lí do nghiên cứu)
Giáo dục Việt Nam trong thập niên đầu tiên của thế kỉ 21 chứng kiến sự bứt phá ngoạn mục từ nội tại và cả sự tác động từ phía xã hội. Lộ trình đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp, thay sách giáo khoa như là một bước đột phá sống còn của giáo dục nhằm nâng cấp sản phẩm bắt kịp xu thế toàn cầu hóa của thời đại và bước đầu đã cho thấy những kết quả rất đáng ghi nhận. Trong đó, vai trò của thầy, cô giáo được xác định như là yếu tố mấu chốt để giải quyết kịp thời những bức bách, mâu thuẫn đang hiện hữu trong nền giáo dục chúng ta. Vì vậy, sự trăn trở cho mỗi giờ dạy, mỗi môn học là điều mà mỗi giáo viên như chúng tôi không thể không quan tâm. Qua nghiên cứu các tài liệu, tìm hiểu từ các phương tiện truyền thông và thông tin đại chúng và đặc biệt từ thực tế việc dạy, việc học tại Trường Tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc, bản thân tôi nhận thấy vẫn còn nhiều vấn đề không thể không trăn trở. Cho dù lộ trình đổi mới phương pháp đã có một thời gian dài thực hiện và những ưu thế của nó là điều không thể phủ nhận, song chưa có ai dám khẳng đinh rằng ở mọi nhà trường đã thực hiện một cách hoàn hảo nhất các tiêu chí của dạy học hiện đại. Một bộ phận không ít giáo viên vẫn tỏ ra chần chừ, không thật mặn mà với phương pháp mới và thiếu sự quyết liệt trong quá trình thực hiện đổi mới. Một bộ phận học sinh tiếp cận với phương pháp mới một cách hờ hửng, thiếu sẳn sàng và thiếu tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong xử lí thông tin còn hạn chế.Trường Tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc nơi tôi đang công tác cũng không thể tránh khỏi những khiếm khuyết chung của nền giáo dục nước nhà. Trước thực tế đó, bản thân đã dành một thời gian đáng kể đầu tư cho việc đổi mới phương pháp, đặc biệt là đối với môn toán, sau nhiều lần thử nghiệm, bước đầu chúng tôi đã tìm được một số biện pháp hữu hiệu giúp học sinh tiếp cận nhanh với phương pháp dạy học hiện đại.Chính vì vậy tôi đã đi sâu vào tìm hiểu “Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4 “, để giúp các em nắm vững các kiến thức trong môn học này.
2. Mục đích của việc thực hiện sáng kiến
Từ thực tiễn dạy học tiểu học nói chung và thực tiễn dạy học ở Trường Tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc nói riêng. Thu thập, tập hợp xử lí thông tin, tìm ra những giải pháp cần thiết để hoàn thiện dần phương pháp dạy học toán ở bậc tiếu học.
Với sáng kiến ” Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4″. Tôi đã triển khai và thực hiện trong toàn khối 4. Ngoài ra, sáng kiến còn có thể áp dụng tại trường tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc.
4.Mô tả sáng kiến:
4.1 Cơ sở lý luận
Môn toán ở tiểu học rất quan trọng với các em học sinh không chỉ biết cách tự học mà còn phát triển ngôn ngữ( nói, viết) để diển đạt chính xác, ngắn gọn và đầy đủ các thông tin, để giao tiếp khi cần thiết…mà còn giúp các em hoạt động thực hành vận dụng tăng chất liệu thực tế trong nội dung, tiếp tục phát huy để phát triển năng lực của học sinh.
4.2 THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
– Bản thân nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở bậc tiểu học nên kinh nghiệm thực tế tích lũy được tương đối nhiều. – Hội đồng sư phạm trường nhiều đồng chí có kinh nghiệm, nhiều năm giảng dạy lại luôn có quyết tâm nhất quán trong đổi mới phương pháp nên bản thân học hỏi và rút kinh nghiệm được nhiều vấn đề hữu ích. – Học sinh phần lớn chăm ngoan và rất chịu khó, lại tiếp cận khá nhanh với phương pháp mới nên việc thử nghiệm đề tài luôn nhận được sự ủng hộ từ phía các em.
– Năng lực và thói quen nghiên cứu của bản thân còn nhiều hạn chế nên cho dù đã rất cố gắng, kết quả thu được vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. – Tài liệu tham khảo thiếu, thời gian và điều kiện nghiên cứu hạn hẹp ảnh hưởng khá nhiều đến việc sử dụng các giải pháp mới. – Một bộ phận học sinh chây lười trong học tập, gia đình lại không quan tâm nên việc tự học của các em cho dù đã được giáo viên hướng dẫn rất kĩ nhưng chưa thể đáp ứng được yêu cầu đề ra. – Đối tượng học sinh trong mỗi lớp không đồng đều, nhiều em quá yếu. Việc chú ý đối tượng đã ảnh hưởng nhiều đến quá trình nghiên cứu. – Phương tiện dạy học vẫn chưa thể đáp ứng tốt nhất yêu cầu của thực tiễn dạy học hiện đại.
c.Số liệu thống kê
Kết quả khảo sát chất lượng môn Toán lớp 4A2 đầu năm học 2012 – 2013 như sau:
Từ kết quả khảo sát cho thấy , việc nắm bắt kiến thức môn toán của các em còn chậm. vì vậy, tôi nghiên cứu ” Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4″.
4.3 Các biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4
* Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH vấn đáp kết hợp với một số PPDH khác trong hình thành tri thức mới. Học sinh muốn tiếp thu tri thức mới cần có sự hướng dẫn của giáo viên bắng một hệ thống câu hỏi phù hợp. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học nhằm chuyển giao ý đồ sư phạm của thầy thành nhiệm vụ học tập của trò. Ví dụ trong bài: ” Phép nhân phân số“. Hình thành phép tính nhân của 2 phân số và. Hình thành phép tính nhân của 2 phân số và cho học sinh là một vấn đề mới. nếu giáo viên chỉ giới thiệu quy tắc tính sau đó áp dụng vào luyên tập thì không phát huy được tính tích cực, tư duy, sáng tạo của học sinh. Do đó, giáo viên cần suy nghĩ, chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp để hướng dẫn học sinh tiếp thu tri thức mới một cách tích cực, sáng tạo. Với bài học này, giáo viên có thể tổ chức hoạt động dạy học bằng hệ thống câu hỏi sau: Dựa vào cách tính diện tích hình chữ nhật bằng đồ dùng trực quan hãy cho biết x = ? (HS nêu: x = ) – Quan sát hình và cho biết 8 là gì của hình chữ nhật mà ta phải tính diện tích? (8 là tổng số ô của hình chữ nhật.) * HS giải thích: Chiều dài HCN bằng 4 ô và được xếp thành 2 hàng nên tính được tổng số ô bằng cách lấy 4 x 2 = 8. – 4 và 2 là gì của các phân số trong phép nhân x ? ( 4 và 2 là tử số của các phân số trong phép nhân x ). – Để tính số ô vuông có trong hình vuông diện tích 1 m 2 ta làm thế nào? ( lấy 5 x 3 = 15 (ô)). – Vậy 5 và 3 là gì của các phân số trong phép nhân x ? ( 5 và 3 là mẫu số của các phân số trong phép nhân x ). – Như vậy, khi muốn nhân hai phân số với nhau ta làm thế nào? ( … ta lấy tử số nhân tử số, mẫu số nhân mẫu số). – Giáo viên nêu công thức tổng quát: = và yêu cầu học sinh nêu quy tắc nhân hai phân số, sau đó tổ chức: luyện tập, củng cố.
*.Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề, kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học.
Ví dụ trong bài: ” Phép cộng phân số ” ( tiếp theo ). * : Có một băng giấp màu, bạn Hà lấy băng giấy, Bạn An lấy băng giấy. Hỏi cả 2 bạn lấy bao nhiêu phấn băng giấy màu? ( Toán 4 trang 127 ). Sau khi học xong học sinh biết cách cộng hai phân số khác mẫu số và rèn luyện kỹ năng tính toán cho học sinh Hướng dẫn giải như sau: Muốn tìm số phần băng giấy của 2 bạn Hà và An đã lấy, cần thực hiện phép tính gì? ( phép cộng: + ). Như vậy, việc yêu cầu học sinh tính tổng hai phân số khác mẫu số là một tình huống gợi vấn đề, là một yêu cầu nhận thức mà học sinh chưa thể giải quyết được bằng vốn kiến thức và kinh nghiệm sẵn có của mình (học sinh chỉ mới biết tính tổng hai phân số có cùng mẫu số). Tuy nhiên nếu học sinh chịu khó suy nghĩ hoặc được giáo viên hướng dẫn tìm cách biến đổi để đưa hai phân số đã cho thành hai phân số có cùng mẫu số (Quy đồng mẫu số) thì học sinh có thể giải quyết vấn đề kết hợp với PPDH vấn đáp để tổ chức hoạt động dạy học hình thành phép cộng 2 phân số khác mẫu số.
*. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH hợp tác theo nhóm nhỏ và kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo, hợp tác của học sinh.
Mục tiêu, nội dung bài học yêu cầu hình thành tri thức mới cho học sinh. Tri thức mới đó cần có sự kiểm nghiệm kết quả qua nhiều học sinh khác nhau, cần có sự phát hiện, đóng góp trí tuệ. Tập thể học sinh cần phải đo đạc, thu thập các số liệu điều tra thống kê. Ví dụ bài: Diện tích hình thoi. – Yêu cầu tính diện tích hình thoi ABCD, khi biết 2 đường chéo AC = m, BD = n (hình a) – Để tìm công thức tính diện tích hình thoi theo độ dài 2 đường chéo, học sinh có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau: * Cách 1: Cắt hình tam giác AOD và hình tam giác COD rồi ghép với hình tam giác ABC để được hình chữ nhật AMNC (hình b). Ta có: Diện tích( hình thoi ABCD) = diện tích ( hình chữ nhật AMNC ) = m * Cách 2: Cắt hình tam giác COB và hình tam giác COD rồi ghép với hình tam giác ABC để được hình chữ nhật MNBD (hình c). Ta có: Diện tích ( hình thoi ABCD ) = diện tích (hình chữ nhật MNBD) ( Hình a ) ( Hình b ) ( Hình c ) Do đó để kiểm nghiệm kết quả, phát huy tính chủ động sáng tạo và tinh thần hợp tác của học sinh. Giáo viên yêu cầu học sinh hợp tác theo nhóm nhỏ để tổ chức hoạt động dạy học.
*. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán là cơ sở giải loại toán sắp học.
Giải các bài toán có tính chất chuẩn bị này, học sinh có thể tính ra được kết quả dễ dàng nhằm tạo điều kiện cho các em tập trung suy nghĩ vào các mối quan hệ toán học và các từ mới chứa trong đầu bài toán: Ví dụ 1: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và tỉ số của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: ” Cô có 30 bút chì, chia thành 3 phần bắng nhau. Bạn nam được 1 phần, bạn nữ được 2 phần. Hỏi bạn nam được mấy bút chì?”. Ví dụ 2: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và hiệu của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “Hai bạn Nam và Hùng có tất cà 15.000 đồng, Nam có nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Hỏi mỗi bạn có bao nhiêu tiền?”. – Tổ chức cho học sinh làm việc trên đồ dùng học tập: +Mỗi học sinh lấy 15 que tính (tượng trưng cho 15.000 đồng ). Chia bảng con làm 2 phần, phần lớn là số tiền của Nam, phần nhỏ là số tiền của Hùng. +Nam nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Vậy ta lấy 5 que tính cho Nam trước rồi chia đôi phần còn lại:! Học sinh lấy 5.000đồng cho nam trước (đặt 5 que tính vào phần lớn). – Còn mấy nghìn đồng ? (15.000 – 5.000 = 10.000 đồng ). – Vậy chia đều cho 2 bạn, mỗi bạn được mấy nghìn ? ( 10.000 : 2 = 5.000 đồng ). – Bỏ vào hai phần mỗi phần 5.000 đồng ( 5 que tính ) – Vậy Hùng được mấy nghìn ? ( 5.000 đồng ). – Còn Nam được mấy nghìn ? ( 5.000 +5.000 = 10.000 đồng ). – Tương tự hướng dẫn bài toán trên sơ đồ và giải.
*.Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán phát huy tính trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh.
Để giải được các bài toán này giáo viên cần triển khai các hoạt động mang tính chất thực tiễn, học sinh phải được thao tác trên đồ dùng trực quan. Từ đó các em sẽ tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ bài học. Ví dụ: Trong bài “Phép cộng phân số”. Để hình thành phép cộng hai phân số có mẫu số bằng nhau, giáo viên và học sinh cùng thực hành trên băng giấy – Chia băng giấy thành 8 phần bằng nhau, bằng cách gấp đôi ba lần theo chiều ngang: + Tô màu vào băng giấy + Tô màu vào băng giấy Nhìn vào băng giấy HS dễ nêu được hai lần đã tô màu được băng giấy. Học sinh nêu: + = . Kết luận: Nêu được cách cộng hai phân số bằng cách lấy tử số cộng với nhau và giữ nguyên mẫu số.
*. Khi dạy thực hành luyện tập GV cần lưu ý giúp mọi học sinh đều tham gia vào hoạt động thực hành, luyện tập theo khả năng của mình, bằng cách:
– Cho các em làm các bài theo thứ tự trong sách giáo khoa, không bỏ bài nào, kể cả bài dễ, bài khó. – Không bắt học sinh chờ đợi nhau trong khi làm bài. Làm xong chuyển sang bài tiếp theo. – Học sinh này có thể làm nhiều bài hơn học sinh khác: – Ví dụ: Khi dạy bài : ” Tính bằng cách thuận tiện nhất “ – + + = + ( + ) = + = Có thể một số em vẫn thực hiện theo thứ tự của các phép tính trong biểu thức, ra kết quả đúng nhưng chưa nhanh và chưa hợp lí. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh các tính chất đã học của phép cộng để tìm ra cách giải thuận tiện. Hoặc trong bài luyện tập của phép nhân thì giáo viên phải dẫn dắt học sinh nhớ lại kiến thức đã học đó là: Tính chất giao hoán của phép nhân. Tính chất kết hợp của phép nhân. Tính chất nhân một số với một tổng ( Hoặc một tổng nhân với một số ). Tính chất nhân một hiệu với một số ( Hoặc một số nhân với một hiệu ). Học sinh phải vận dụng nhanh các tính chất này vào giải toán: Khi nào vận dụng tính chất này, khi nào vận dụng tính chất kia: Ví dụ: 2 10 + 10 5 = 10 ( 2 + 5 ) = 10 10 = 20 ( Áp dụng tính chất nhân một số với một tổng ).
Từ việc đổi mới các phương pháp dạy học như trên tôi thấy chất lượng học sinh dần dần được nâng cao. Học sinh đã tự giác, hứng thú, chủ động và tích cực tham gia các hoạt động dạy học, không rụt rè, tự ti như trước nữa. Chất lượng học sinh ngày một tiến bộ do trình độ nhận thức của các em ngày càng được nâng cao, tích cực phát biểu xây dựng bài hứng thú và ham thích học toán, làm bài, học bài đầy đủ . học sinh dần dần chiếm lĩnh kiến thức mới và giải quyết các vấn đề gần gũi với đời sống. Sự tiến bộ của các em biểu hiện cụ thể qua kết quả như sau: Khảo sát chất lượng đầu năm 2012-2013:
Kết quả kiểm tra cuối năm học 2012 – 2013:
Qua bảng thống kê chất lượng trên phần nào cho thấy số lượng học sinh khá giỏi tăng lên giảm được học sinh yếu, số học sinh ham thích học môn toán cũng tăng lên so với đầu năm học. Nếu chúng ta vận dụng linh hoạt việc đổi mới phương pháp dạy học thì chắc chắn chất lượng cuối năm sẽ tăng cao.
6. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến:
-Trước hết phải nói đội ngũ giáo viên tham gia giảng dạy tích cực và nhiệt tình trong đổi mới PPDH, góp phần chứng minh ưu thế và hiệu quả việc giảng dạy môn toán. – Muốn nâng cao chất lượng dạy học toán ở tiểu học chúng ta cần lưu ý: + Linh hoạt trong đổi mới PPDH. + Tạo cho học sinh hứng thú và ham thích học môn toán. + Nắm được từng đối tượng học sinh, tạo được nhu cầu học tập trong các em. + Tổ chức hướng dẫn các phương pháp học tập chu đáo( học nhóm, học tổ,…) + Công tác chuẩn bị từng bài dạy thật kĩ phù hợp từng nội dung, soạn giảng chu đáo gọn nhẹ. + Dụng cụ, phương tiện dạy- học phải đầy đủ. + Tổ chức nhiều hình thức học tập cho có tính hấp dẫn. + Thường xuyên kiểm tra, củng cố hệ thống kiến thức. + Phát huy tính tích cực, tính tự học, tìm tòi, tự phát hiện cái mới, cái hay,… để tự chiếm lĩnh tri thức.
– Tất cả các giáo viên giảng dạy ở tiểu học phải sử dụng các PPDH linh hoạt, phù hợp với lớp, với từng học sinh. – Nhiệt tình trong giảng dạy, đảm bảo đầy đủ ĐDDH, thiết bị dạy học. – Tổ chuyên môn cần thường xuyên tổ chức hội thảo các chuyên đề về đổi mới phương pháp, đố vui để học, thi học tốt môn toán. – Có kế hoạch bồi dưỡng và phụ đạo học sinh về môn toán.
– Tăng cường tài liệu nghiên cứu, sách tham khảo cho giáo viên. – Bổ sung đồ dùng dạy học đủ cho các lớp sử dụng.
Dạy toán, học toán ở trường Tiểu học là một phạm trù rộng lớn. Nó chứa đựng một chuỗi hệ thống các quan điểm, phương pháp và kĩ thuật dạy học. Vì thế, bản thân luôn xác định đổi mới phương pháp dạy học toán ở bậc tiếu học không hề đơn giản và cũng không thể thực hiện nhanh chóng trong ngày một ngày hai. Vì thế, khi nghiên cứu đề tai này, thực sự chúng tôi không có tham vọng tạo chuyển biến có tính chất đột phá trong việc dạy, việc học môn toán ở trường tiểu học mà chỉ hi vọng góp một phần nhỏ tháo gỡ một vài khía cạnh để góp phần nâng cao chất lượng dạy học toán tại trường tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc nói riêng và bậc tiểu học nói chung. Tuy nhiên, do ràng buộc hạn chế về kinh nghiệm, sự thiếu hụt về mặt thời gian và tầm nhìn. Chúng tôi biết chắc đề tài vẫn còn chứa đựng quá nhiều khiếm khuyết. Vì vậy, rất mong được quan tâm tham gia bàn bạc của quý cấp quản lí và các đồng nghiệp.
Trần Kim Cương Giáo viên Trường TH 1 Khánh Bình Tây Bắc, TVT, CM.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Môn Tin Học Ở Trường Tiểu Học Nga Lĩnh trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!