Đề Xuất 5/2023 # Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Các Bài Toán Tính Giá Trị Của Biểu Thức # Top 9 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 5/2023 # Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Các Bài Toán Tính Giá Trị Của Biểu Thức # Top 9 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Các Bài Toán Tính Giá Trị Của Biểu Thức mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

1.1. Lí do chọn đề tài. Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy môn toán lớp 3, tôi thấy mình phải trau rồi kiến thức, học tập nâng cao trình độ, tìm tòi vận dụng phương pháp dạy – học mới giúp học sinh nắm bắt kiến thức mới một cách nhanh nhất, hiệu quả và toàn diện nhất. Trong quá trình giảng dạy tôi thấy dạy Toán nói chung và dạy giải toán nói riêng gặp không ít những khó khăn với đa số học sinh vì ở lứa tuổi này tư duy còn hạn chế mà dạng toán “ Tính giá trị biểu thức” là một dạng toán khó đối với học sinh lớp 3. Hướng dẫn cho học sinh nhận biết các dạng của bài toán tính giá trị của biểu thức sẽ giúp học sinh hiểu nhanh và giải chính xác hơn, hiệu quả hơn là tiền đề để các em học tốt các dạng bài tính giá trị của biểu thức ở lớp 4, 5. Năm học 2017 -2018 bản thân tôi được phân công trực tiếp giảng dạy lớp 3A, tôi đã mạnh dạn áp dụng các biện pháp thực hiện vào dạy học sinh “Tính giá trị biểu thức”. Hết học kì I tôi đã khảo sát chất lượng về thực hiện giải dạng toán này gần 90 % học sinh đã làm tốt dạng toán tính giá trị biểu thức mà không bị nhầm lẫn cách tính. Tôi rất phấn khởi,…Từ đó tôi đã nghiên cứu và sử dụng sáng kiến ” Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt các bài toán tính giá trị của biểu thức.” vào dạy học có hiệu quả trong những năm học vừa qua. Tôi đã mạnh dạn viết thành sáng kiến này. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Tìm ra những biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt các học toán tính giá trị biểu thức ở trường Tiểu học Thị Trấn Lang Chánh nói riêng và lớp 3 nói chung. Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học Toán 3 giúp các em tiếp tục học tốt môn này ở các lớp trên. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. – Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt các bài toán tính giá trị của biểu thức. – Học sinh lớp 3A trường tiểu học Thị Trấn Lang Chánh. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. – Phương pháp nghiên cứu các tài liệu: Sách giáo viên, tài liệu hưỡng dẫn học toán 3, vở bài tập toán 3. – Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Thực trạng tổ chức dạy – học toán 3 ở trường TH Thị Trấn Lang Chánh. Trong quá trình thực hiện tôi đã đề ra các phương án, phù hợp với điều kiện của lớp mình và chỉ đạo tổ chức thực hiện. – Phương pháp điều tra: Điều tra hoàn cảnh gia đình học sinh, đặc điểm tâm lí của học sinh. – Phương pháp hỏi – đáp: Hỏi học sinh thích học toán, ngại học toán, nguyên nhân ngại học toán. – Phương pháp thống kê toán học: Kết quả khảo sát học sinh. – Phương pháp so sánh đối chiếu: Đối chiếu các số liệu thống kê trước và sau khi thực hiện. – Phương pháp luyện tập thực hành: Luyện tập và thực hành làm các bài toán tính giá trị biểu thức. – Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Đề ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy – học Toán 3 ở trường Tiểu học. 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 HỌC TỐT CÁC BÀI TOÁN TÍNH GIÁ TRỊ BIỂU THỨC 2.1. Cơ sở lý luận. Dạy Toán học là dạy cho học sinh sáng tạo, rèn luyện các kỹ năng, trau dồi phẩm chất đạo đức, tính siêng năng, cần cù, chịu khó. Đó là phẩm chất quý báu của con người Việt Nam. Thông qua học toán để đức tính đó được thường xuyên phát huy và ngày càng hoàn thiện. Trong quá trình dạy học ở Tiểu học, toán là một trong những môn học giúp học sinh phát triển toàn diện. Môn toán có hệ thống kiến thức cơ bản cung cấp những kiến thức cần thiết, ứng dụng vào đời sống sinh hoạt và lao động. Những kiến thức kĩ năng toán học là công cụ cần thiết để học các môn học khác và ứng dụng trong thực tế đời sống. Toán học có khả năng to lớn trong giáo dục học sinh nhiều mặt như: phát triển tư duy lôgic, bồi dưỡng những năng lực trí tuệ ( trừu tượng hoá, khái quát hoá, phân tích, tổng hợp, chứng minh, so sánh, . . . ). Giúp học sinh biết tư duy, suy nghĩ làm việc góp phần giáo dục những phẩm chất, đạo đức tốt đẹp của người lao động. Giáo dục toán học là một bộ phận của giáo dục tiểu học. Do đó, môn Toán có nhiệm vụ góp phần vào thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu của bậc học. Đó là: trang bị cho học sinh một hệ thống kiến thức và kĩ năng cơ bản, cần thiết cho việc học tập tiếp hoặc đi vào cuộc sống. Giúp học sinh biết vận dụng kiến thức vào hoạt động thiết thực trong đời sống, từng bước hình thành, rèn luyện thói quen phương pháp và tác phong làm việc khoa học, phát triển hợp lí phù hợp với tâm lí của từng lứa tuổi. Tạo tiền đề cho học sinh học tốt các môn học khác. 2.2. Thực trạng. 2.2.1. Về phía giáo viên. Đa số giáo viên đều có trình độ chuyên môn vững vàng, nhiệt tình, yêu nghề. Bên cạnh đó vẫn có giáo viên không nắm được hoàn cảnh cũng như tâm lí học sinh, không nắm được lí do vì sao học sinh ngại học tính giá trị biểu thức, chưa nắm bắt được mối quan hệ của nội dung dạng toán này ở các lớp, chưa phân loại được đối tượng học sinh trong lớp để có kế hoạch phụ đạo cho học sinh chưa hoàn thành và bồi dưỡng được học sinh có khả năng hoàn thành tốt môn toán. Việc đánh giá, nhận xét học sinh chưa thường xuyên, liên tục. Chưa có hình thức thi đua, khen thưởng trong dạy học hoặc có nhưng chưa kịp thời. Việc sử dụng phương pháp dạy học còn đơn điệu, không linh hoạt. Các hình thức tổ chức dạy học chưa phong phú. 2.2.2. Về phía học sinh. Năm học 2017 – 2018, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 3A. Với tổng số là 29 học sinh. Tất cả các em đều cùng độ tuổi và đã hoàn thành chương trình lớp 2. Trong quá trình giảng dạy và dự giờ tôi thấy HS làm dạng bài tính giá trị biểu thức còn chưa tốt hay nhầm lẫn về cách thực hiện. Là lớp có nhiều đối tượng HS khác nhau nên phần nhiều các em đã làm bài đúng kết quả nhưng có em chưa nắm được cách làm phù hợp với từng dạng bài. Nhiều bài làm tính giá trị biểu thức cách giải chưa hợp lí. Mặt khác, các bài tính giá trị biểu thức có nhiều dạng bài. Do đó học sinh thường lúng túng khi gặp các dạng bài khác nhau, đặc biệt đối với dạng bài là biểu thức có phép tính cộng trừ nhân chia trong cùng một biểu thức, biểu thức có dấu ngoặc đơn ( ) dạng bài mới mà ở lớp 2 các em chưa được làm quen,… Học sinh còn ngại tính toán, không thích học toán tính giá trị biểu thức. Toán 3 đã có nhiều mạch kiến thức đòi hỏi các em phải tư duy, thực hành nhiều, phải biết nhận diện đúng dạng toán thì các em mới có thể làm đúng và yêu thích môn học. Nhưng nhiều em vẫn ngại học toán vì các em cho rằng Toán khó bởi các em không hiểu. Hơn nữa chủ yếu các bài toán tính giá trị biểu thức đều phải xác định thứ tự và thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân, chia tuy không khó như các bài toán có lời văn song dễ nhầm lẫn, hay sai. 2.2.3. Về phía phụ huynh: Là trường Tiểu học Thị Trấn vùng miền núi thuộc huyện nghèo, đa số phụ huynh là cán bộ, công chức đều rắt con quan tâm việc học tập, giáo dục và giúp đỡ các em hoàn thành hoạt động ứng dụng (Hoạt động cần người thân giúp đỡ ở gia đình); còn số phụ huynh làm nghề nông hay đi làm ăn xa (Bản Lưỡi, Bản Trải,.) chưa quan tâm được các em do sống xa nhà hoặc không biết cách dạy bảo các em. 2.2.4. Kết quả khảo sát thực trạng. Đề khảo sát chất lượng học sinh như sau: Đề bài: (Thời gian 30 phút) Bài 1: (2 điểm) Tính: 568 + 156 = 849 – 86 = 83 2 = 48 : 6 = Bài 2: (4 điểm) Tính giá trị của các biểu thức sau: a) 20 + 17 – 28 b) 35 – 4 7 c) 7 (17 – 9) d) 20 : 5 2 Bài 3: (4 điểm) Tính giá trị biểu thức sau bằng cách thuận tiện nhất: a) 25 7 + 25 3 b) 1 + 3 + 5 + 7 + 9 – Đa số các em đều có kết quả đúng song cách giải nhiều em còn chưa hợp lí, các em đã làm như sau: Bài 1: Tính: 568 + 156 = 742 849 – 86 = 763 83 2 = 166 48 : 6 = 8 – (Đa số HS thực hiện đã đúng, nhưng vẫn có học sinh sai vì quên không nhớ). Bài 2: Tính giá trị của các biểu thức sau: a) 20 + 17 – 28 = 37 – 28 = 9 – HS thực hiện đã đúng. b) 35 – 4 7 = 21 7 = 147 – (Thứ tự thực hiện phép tính chưa đúng dẫn đến giá trị của biểu thức cũng sai. Đối với biểu thức này nên thực hiện phép tính nhân trước). c) 7 (17 – 9) = 119 – 8 = 111 – (Chưa nắm được cách thực hiện phép tính dẫn đến giá trị của biểu thức cũng sai. Đối với biểu thức này nên thực hiện phép tính trong dấu ngoặc đơn trước). Bài 2: Tính giá trị biểu thức sau bằng cách thuận tiện nhất: a) 25 7 + 25 3 = 175 + 75 = 250 b) 1 + 3 + 5 + 7 + 9 = 4 + 12 + 9 = 16 + 9 = 25 – (Thứ tự thực hiện phép tính và kết quả là đúng nhưng tính bằng cách tính này chưa thuận tiện nhất). Nên cần phân biệt cách tính thuận tiện khác với cách tính thông thường, giúp ta tìm ra kết quả nhanh mà chính xác. Kết quả đạt được: Lớp Sĩ số Điểm 9 – 10 (T) Điểm 7 – 8 (H) Điểm 5 – 6 (H) Điểm dưới 5 (CHT) 3A 29 5 em 17,2% 6 em 20,7% 13 em 44,8% 5 em 17,2% – Từ kết quả khảo sát và qua thực tế giảng dạy, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, nghiên cứu tài liệu. Tôi đã rút ra được một số biện pháp giúp HS lớp 3 học tốt cách tính giá trị biểu thức tôi đã vận dụng vào thực tế giảng dạy và đạt hiệu quả. 3. Các biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt các bài toán tính giá trị của biểu thức 3.1. Tiến hành hỏi đáp sự hứng thú học Toán và không hứng thú học Toán. Tìm hiểu lí do. – Qua hỏi đáp trực tiếp tỉ lệ HS thích học Toán: 17em 58,6% – Số lượng học sinh còn ngại học Toán: 12em 41,4% – Đa số HS ngại học Toán trong lớp là học sinh nữ. Qua tìm hiểu nguyên nhân tôi được biết hầu hết các em nữ có khả năng sáng tạo hạn chế so với HS nam. Các em ngại học toán vì nhiều dạng bài khó nhớ và chán nản khi suốt ngày phải nhân chia tính toán, một mặt do không làm được bài nên dẫn đến ngại học. Nắm bắt được tâm lí của các em tôi quyết định phân dạng bài và đưa ra cách giải cho từng dạng bài tính giá trị biểu thức cũng như các dạng toán khác giúp HS hiểu bài làm được bài để HS tìm thấy hứng thú khi học Toán. 3.2. Nghiên cứu mối quan hệ và chuẩn bị hướng dẫn cho HS làm bài. – Trước hết ta nhận thấy các dạng bài tính giá trị biểu thức là một mạch kiến thức đồng tâm. Nếu ở lớp 2 biểu thức chỉ có một phép tính, thì mạch kiến thức lớp 3 tiếp thu từ dạng bài tính giá trị biểu thức ở lớp 2. Tuy nhiên ở lớp 3, việc tính giá trị biểu thức của học sinh được nâng cao thành các biểu thức có chứa các số có 2 chữ số, 3 chữ số, trong một biểu thức có các phép tính cộng, trừ, nhân chia, biểu thức có dấu ngoặc đơn và được mở rộng thêm phần tính giá trị biểu thức với các dạng bài tính bằng cách thuận tiện nhất, hợp lí, tính nhanh. Không chỉ đơn thuần tính các biểu thức mà kiến thức này còn được vận dụng phù hợp cho các bài toán giải kép làm tiền đề cho học sinh vận dụng giải các bài toán giải của các lớp 4, 5. Xác định được mối liên hệ của các mạch kiến thức tôi đã phân loại bài toán tính giá trị biểu thức thành các dạng bài, dạng bài sau vận dụng và phát triển từ dạng bài trước và phù hợp với sự phát triển các mạch kiến thức trong chương trình Toán 3, phù hợp với từng đối tượng học sinh trong cùng một lớp học. 3.3. Phân loại đối tượng học sinh. Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành phân loại đối tượng học sinh theo Thông tư 22 và văn bản hợp nhất số 03/VBHN-BGD ĐT: Hoàn thành tốt (T); Hoàn thành (H); Chưa hoàn thành (C). Thông qua việc họp phụ huynh đầu năm, tôi đã trao đổi với bố mẹ các em để nắm được hoàn cảnh gia đình, đắc điểm tâm lí của từng em. Từ đó nhận biết những yếu tố khách quan ảnh hưởng đến lực học của các em. Như vậy, thông qua việc phân loại đối tượng học sinh, tôi đã biết được tỉ lệ học sinh có lực học khác nhau trong lớp. Đó là cơ sở để tôi thực hiện công tác chủ nhiệm lớp như: Tôi chia lớp thành các tổ, các nhóm học tập có học sinh hoàn thành tốt, học sinh hoàn thành và chưa hoàn thành, phân cho học sinh hoàn thành tốt ngồi gàn, kèm cặp và giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành, học sinh chưa hoàn thành ngồi ở vị trí những bàn học phía trên của lớp để dễ tiếp thu bài và được giáo viên giúp đỡ kịp thời trong từng tiết học cúng như đánh gí sự tiến bộ của các em chính xác hơn. Họp phụ huynh học sinh lớp 3A Với việc thực hiện giải pháp trên, tôi đã xây dựng được công tác chủ nhiệm lớp ổn định, đánh giá học sinh theo tuần, theo tháng dễ dàng. Đắc biệt là xây dựng được đội ngũ Hội đồng tự quản của lớp có năng lực giúp đỡ các bạn cùng tiến bộ, nâng cao chất lượng đại trà và giúp các em có hứng thú, tự tin trong học tập. 3.4. Rèn cho học sinh những thói quen cần thiết trong quá trình học tập môn Toán và tính giá trị biểu thức. – Hình thành nề nếp học tập: Mọi học sinh phải độc lập suy nghĩ, làm việc tích cực. Có thói quen tự giác, chủ động khi làm bài, không quay cóp bài của bạn, không đưa thẻ cứu trợ khi chưa suy nghĩ và chưa đọc đề toán. Học sinh biết huy động các kiến thức của mình tham gia tích cực vào việc giải quyết nội dung, yêu cầu bài toán. – Rèn cho học sinh tính cẩn thận trong học tập như : Trước khi làm bài phải nháp. Không hiểu bài thì nên hỏi nhóm trưởng hoặc các bạn khác trong nhóm hoặc cô giáo. – Làm xong thử lại, khi thấy đúng kết quả mới chép vào vở. – Yêu cầu học sinh ở từng nhóm phải viết chữ số trong phép tính rõ ràng. Trình bày bài toán đúng, đẹp. – Tạo cho học sinh tính mạnh dạn để trao đổi ý kiến trong nhóm hoặc trước lớp vì sự hỗ trợ giữa các học sinh trong nhóm, lớp, góp phần làm các em mạnh dạn hơn hiểu bài sâu hơn. – Giúp học sinh tự tin hơn vào khả năng của bản thân, tự rút kinh nghiệm về cách học của mình. – Sau khi làm xong bài tập cho các em tự kiểm tra, đánh giá và sửa chữa bài làm của mình trước khi nộp bài. – Cần rèn ý chí vượt khó cho các em khi làm bài. Khi tính toán gặp các bài toán khó, giáo viên cần giúp các em có sự tự tin, không nên nản lòng. Khuyến khích các em tự lực làm bài, tìm tòi hướng giải quyết để đạt được kết quả cao trong học tập.  3.5. Lựa chọn các phương pháp dạy học toán tính giá trị biểu thức. a. Phương pháp dạy học trực quan: Do đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn ” và do tính chất đặc thù của các đối tượng Toán học tính trừu tượng và khái quát cao mà phương pháp trực quan có vai trò quan trọng trong quá trình dạy học Toán ở Tiểu học. Với những hình ảnh trực quan do các đồ dùng biểu diễn mang lại và lời giảng của giáo viên học sinh sẽ dễ dàng hơn trong việc tiếp cận và lĩnh hội kiến thức Toán trừu tượng. Bản chất của phương pháp dạy học này là giáo viên đã tác động vào tư duy học sinh Tiểu học theo đúng quy luật nhận thức b. Phương pháp gợi mở – vấn đáp: Phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, bởi nó không bày đặt sẵn kiến thức mà giáo viên kích thích người học tự tìm kiến thức thông qua hệ thống câu hỏi. Phương pháp này rất phù hợp nó giúp người học tập dượt suy nghĩ và diễn đạt khi trả lời câu hỏi, kiến thức hình được thành theo cách này giúp học sinh nhớ lâu hiểu kỹ và tự tin hơn. Trong quá trinh gợi mở, với hệ thống câu hỏi giáo viên đưa ra, sau khi học sinh tìm được các câu trả lời đã giúp học sinh tìm ra thứ tự thực hiện và cách tính giá trị biểu thức và dễ dàng phát biểu thành quy tắc. c. Sử dụng phương pháp luyện tập – thực hành: Đây là một phương pháp thường dùng trong dạy học Toán ở Tiểu học. Bởi đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học mang nặng tính cụ thể. Vì thế các kiến thức và kỹ năng thường được hình thành thông qua thực hành – luyện tập. Phạm vi sử dụng phương pháp thực hành luyện tập là phổ biến ở trong tất cả các tiết học dạy tính giá trị biểu thức. d. Phương pháp giảng giải – minh họa: Đây là phương pháp cần thiết trong quá trình dạy tính giá trị biểu thức; vì có nhiều dạng và rất trừu tượng đối với học sinh lớp 3, các em khó có thể tự tìm ra được cách tính giá trinh biểu thức. Vì thế giáo viên cần sử dụng phương pháp này để giảng giải giúp học sinh hiểu được kiến thức, hình thành được quy tắc tính giá trị biểu thức. 3.6. Lựa chọn các hình thức dạy học.. a. Chia nhóm học tập: Có rất nhiều cách chia nhóm như: chia nhóm ngẫu nhiên, nhóm cùng trình độ, nhóm cùng sở thích, nhóm cùng đặc điểm, … Dù chia nhóm bằng cách nào thì cuối cùng mỗi nhóm phải có số học sinh gắn với nhiệm vụ học tập. Chương trình học VNEN học sinh đã được ngồi học theo 1 nhóm từ 4em đến 6 em. Vậy giáo viên chỉ căn cứ vào nội dung các hoạt động học tập để chia nhóm đôi, nhóm 4 hay nhóm 6 cho phù hợp. Ví dụ: – Bài 3 : Cộng các số có ba chữ số (có nhớ) – Tài liệu hướng dẫn học Toán 3 – Tập 1A – Trang 9. Chia nhóm 2 em để thực hiện: Hoạt động 2. Đọc và giải thích cho bạn cách thực hiện phép cộng 345 + 127 – Nếu muốn tính 15 + 25 trước, rồi nhân 4, ta nghĩ ra kí hiệu quy định mới. Học sinh tích cực hoạt động nhóm b. Tổ chức hoạt động học tập cá nhân bằng phiếu giao việc Học sinh Tiểu học khi học Toán cần thiết có những nội dung phải thực hiện học cá nhân, chẳng hạn để hình thành kỹ năng và rèn luyện kĩ năng tính với 4 phép tính. Nhờ những hoạt động học cá nhân mà học sinh đưa ra thông tin phản hồi chính xác về mức độ tiếp thu kiến thức, về kỹ năng thực hành, về phương pháp suy luận… Từ đó giúp cho giáo viên có kế hoạch dạy học hợp lí tiếp theo, giúp học sinh hoàn thiện kiến thức đã học. Hoạt động học tập cá nhân là rất cần thiết bởi, mục tiêu cuối cùng dạy học ở trên lớp là hình thành kiến thức kỹ năng tới từng học sinh. Ví dụ 1: Sau khi đã hình thành quy tắc tính giá trị biểu thức Bài 44 : Tính giá trị của biểu thức(tiếp theo) – Tài liệu hướng dẫn học Toán 3 – Tập 1B – Trang 69, yêu cầu học sinh thực hiện cá nhân các hoạt động 1, 2, 3, 4. c. Tổ chức các trò chơi học tập: Trò chơi học Toán đưa học sinh vào những tình huống vui vẻ khiến trẻ không thấy e sợ, thấy hứng thú và kích thích tính tò mò, vì vậy sẽ cuốn hút tâm lý của trẻ. Khi trẻ chơi sẽ là lúc bộc lộ rõ những khả năng hiểu biết kiến thức và ứng dụng kiến thức theo trình độ thực có của trẻ. Để lựa chọn trò chơi phù hợp, giáo viên cần xác định được mục đích của trò chơi là gì, hình thành, luyện tập, cũng cố kiến thức nào, giáo dục kĩ năng gì, phẩm chất gì ?… thì cần dựa vào mục tiêu bài học. Không nên chọn những trò chơi chỉ được mặt vui nhộn, nhưng lại thiếu tác dụng giáo dục về kiến thức, phẩm chất cũng như kĩ năng học tập. Trò chơi phải được luân phiên thay đổi một cách hợp lí để không gây nhàm chán cho học sinh. Chẳng hạn trò chơi “Ai nhanh – Ai đúng” trong hoạt động 2 – Trang 76. Để trò chơi phát huy hiệu quả trong dạy học Toán, người giáo viên cần có sự chuẩn bị tốt; mọi học sinh đều hiểu trò chơi và tham gia dễ dàng, học sinh phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng, tuân thủ luật chơi. Giáo viên cần quy định rõ thời gian, địa điểm chơi, không lạm dụng quá nhiều kiến thức và thời lượng bài học. Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh tham gia tổ chức, điều khiển tất cả các khâu, từ chuẩn bị, tiến hành trò chơi và đánh giá sau khi chơi. Học sinh chơi trò chơi để làm bài tập 2 d. Vận dụng dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề vào dạy học Khi dạy về tính giá trị biểu thức có dấu ngoặc, giáo viên có 2 cách dạy như sau: Cách 1: giáo viên đưa ra quy tắc tính giá trị biểu thức có dấu ngoặc “khi tính g

Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Toán Lớp Một

PHÒNG GD & ĐT THỌ XUÂN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP MỘT Người thực hiện: Trần Thị Hà Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thọ Xương – Thọ Xuân SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Toán THANH HÓA NĂM 2017 MỤC LỤC Nội dung Trang 1. Mở đầu 01 1.1. Lí do chọn đề tài. 01 1.2. Mục đích nghiên cứu. 01 1.3. Đối tượng nghiên cứu 01 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 02 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 02 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. 02 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 02 2.3.Các biện pháp thực hiện. 03 2.3.1. Xây dựng lớp học thân thiện. 03 2.3.2. Dạy toán thông qua đồ dùng trực quan của giáo viên, học sinh và áp dụng công nghệ thông tin vào việc dạy toán. 03 2.3.3. Dạy học sinh nắm được bản chất các kiến thức toán học. 07 2.3.4. Bồi dưỡng cho học sinh năng lực quan sát, biết suy nghĩ lập luận, phân tích đề toán. 9 2.3.5. Dạy toán thông qua các trò chơi. 11 2.3.6. Kết hợp việc kiểm tra bài cũ để học tốt bài mới. 14 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. 15 3. Kết luận 15 Tài liệu tham khảo 1. Mở đầu. 1.1. Lí do chọn đề tài. Như chúng ta đã biết, toán học là khoa học suy diễn trừu tượng nhưng toán học ở tiểu học lại mang tính trực quan, cụ thể bởi vì mục tiêu của môn toán học ở Tiểu học là hình thành những biểu tượng toán học ban đầu và rèn luyện kĩ năng toán cho học sinh, tạo cơ sở phát triển tư duy và phương pháp toán sau này. Một mặt khác toán học còn có tính thực tiễn. Các kiến thức toán học đều bắt nguồn từ cuộc sống. Mỗi mô hình toán học là khái quát từ nhiều tình huống trong cuộc sống. Dạy học toán học ở tiểu học là hoàn thiện những gì vốn có trong học sinh, cho học sinh làm và ghi lại một cách chính thức các kiến thức toán học bằng ngôn ngữ và các kí hiệu toán học. Mỗi tiết học là dịp để học sinh hình thành những kiến thức và kĩ năng mới, vận dụng một cách sáng tạo nhất, thông minh nhất. Môn Toán còn góp phần giáo dục những đức tính tốt như: trung thực, cần cù, cẩn thận, ý thức vượt khó, tìm tòi sáng tạo và nhiều kĩ năng tính toán cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới. Môn Toán lớp Một mở đường cho trẻ đi vào thế giới kỳ diệu của toán học. Sau này lớn lên các em có thể trở thành anh hùng, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ, trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực đời sống và sản xuất. Các em sẽ không bao giờ quên được những ngày đầu tiên đến trường học đếm, tập viết 1, 2, 3, học các phép tính cộng, trừ. Những con số, những phép tính đơn giản ấy lại rất cần thiết cho suốt cuộc đời của các em. Ở lứa tuổi học sinh lớp Một thì nhận thức cảm tính chiếm ưu thế hơn nhận thức lý tính. Các em dễ dàng tiếp thu, ghi nhớ công thức, kiến thức dựa trên mô hình, sơ đồ, hình ảnh động mà các em được trực tiếp quan sát. Các em rất tò mò, ham thích tìm hiểu toán học, tìm hiểu không gian xung quanh và các em cũng rất thích tham gia các hoạt động mang tính thực tiễn. Muốn làm được điều này, giáo viên phải tạo điều kiện để học sinh phát huy năng khiếu tiềm ẩn, đồng thời giúp các em khơi nguồn sáng tạo ngay từ khi học lớp Một. Khơi dậy những tiềm năng này sẽ tạo nên hứng thú học tập, phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Là giáo viên trực tiếp dạy lớp Một. Tôi rất băn khoăn làm sao để các em có hứng thú, học tốt môn Toán vì vậy tôi đã đi sâu nghiên cứu “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán lớp Một” 1.2. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu đề tài này nhằm giúp học sinh có hứng thú trong giờ học Toán. Phát huy tính tích cực, chủ động, rèn luyện phương pháp suy nghĩ từ đó giúp học sinh nắm bài tốt hơn, nhớ bài lâu hơn. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài này nghiên cứu về các biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán lớp Một. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng một số phương pháp sau: – Phương pháp điều tra. – Phương pháp trực quan. – Phương pháp đàm thoại. – Phương pháp trò chơi học tập. – Phương pháp luyện tập thực hành. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Trí thông minh là sự tổng hợp, phối hợp nhịp nhàng các năng lực trí tuệ như: quan sát, ghi nhớ, óc tưởng tượng, năng lực tư duy mà đặc trưng là năng lực tư duy độc lập, linh hoạt, sáng tạo, vận dụng những hiểu biết đã học để giải quyết vấn đề được đặt ra một cách tốt nhất. Môn Toán là môn học có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận logic, thao tác tư duy cần thiết. Muốn cho học sinh thích học môn toán thầy, cô giáo phải tìm mọi cách để gây hứng thú trong quá trình dạy học, gợi ra sự tò mò, ham hiểu biết, nắm được cái mới lạ mà giờ học toán sẽ đem lại cho các em. Một điểm đổi mới trong phương pháp dạy học hiện nay luôn coi trọng việc lấy học sinh làm trung tâm, người thầy chỉ đóng vai trò là người giúp các em đi đúng hướng, giúp các em tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo. Chính vì vậy, ở lớp Một, việc giúp học sinh học tốt môn Toán là hết sức cần thiết. 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 2.2.1. Thực trạng Trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học, đặc biệt dạy lớp Một, tôi nhận thấy các em học sinh lớp Một chưa có hứng thú khi học môn Toán. Nhiều em còn mơ hồ, lúng túng, chưa nắm chắc được kiến thức, nhanh quên các kiến thức đã học, một số em làm đúng kết quả nhưng khi cô hỏi lại lại không biết để trả lời. Chứng tỏ các em chưa nắm được bản chất các kiến thức đã học. Kết quả khảo sát môn Toán của lớp 1d cuối năm học 2015 – 2016 Tổng số bài kiểm tra Điểm 9 – 10 Điểm 7 – 8 Điểm 5 – 6 Điểm dưới 5 SL TL SL TL SL TL SL TL 27 bài 7 bài 25.9% 7 bài 25,9% 11 bài 40.8% 2 bài 7.4% 2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng trên. Do các em mới chuyển giai đoạn từ hoạt động vui chơi là chủ đạo sang hoạt động học tập là chủ đạo nên nhiều em chưa làm quen, bắt nhịp được với việc học tập đặc biệt là học môn Toán. Một số em tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng tính toán chậm, khả năng phân tích tổng hợp, tư duy còn hạn chế. Một số em chưa có động cơ học tập, chưa tự giác. Một số em còn rụt rè, nhút nhát, tự ti chưa dám bộc lộ hết khả năng của mình. 2.3. Các biện pháp thực hiện 2.3.1. Xây dựng lớp học thân thiện Đối với học sinh lớp Một, đi học thực sự là một bước chuyển, một bước ngoặt có ý nghĩa lớn lao đối với sự phát triển trí tuệ, tâm lí và nhân cách của các em. Đa số các em khi mới chuyển từ Mầm Non sang Tiểu học các em còn bỡ ngỡ, rụt rè, lạ lẫm, chưa thích ứng được với môi trường mới, kém hứng thú với hoạt động học tập. Vì vậy tôi thấy việc đầu tiên phải làm đó là xây dựng “Lớp học thân thiện” Bởi vì: “Lớp học thân thiện” là nơi mà ở đó các em luôn vui vẻ, hoà đồng, đoàn kết thương yêu nhau, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong học tập, sinh hoạt. Nơi đây, các em luôn nhận được sự thương yêu đoàn kết của bạn bè, của thầy cô giáo. Sự thân thiện đó thể hiện qua những việc làm cụ thể sau: Ngay từ ngày đầu vào lớp Một giáo viên phải trò chuyện với các em để tìm hiểu về gia đình, về sở thích, về tâm tư nguyện vọng của các em. Tạo bầu không khí vui vẻ, gần gũi, tôn trọng học sinh để các em cảm nhận được sự thoải mái khi tham gia việc học tập của mình. Nhẹ nhàng uốn nắn, sửa sai cho học sinh kịp thời, thường xuyên. Khen ngợi, động viên khi các em tiến bộ dù là rất nhỏ, để các em tự tin hơn, giúp các em thấy được thế mạnh của mình, đồng thời tạo dựng cho các em lòng tin vào bản thân, xoá đi nổi lo âu, sợ hãi trong lòng khi các em không làm được bài. Trong lớp tôi luôn nhắc nhở các em phải xưng hô với bạn bè đúng mực. Nhắc nhở các em thực hiện tốt nội qui của trường, của lớp. Biết đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau trong học tập cũng như khi tham gia các hoạt động của lớp. Môi trường học tập xanh, sạch, đẹp, an toàn, thân thiện là yếu tố rất quan trọng góp phần thu hút học sinh đến trường, đến lớp. Vì vậy tôi cũng rất quan tâm đến việc sắp xếp bàn, ghế cho ngay hàng, thẳng lối, lớp học luôn sạch sẽ. Trang trí thêm cho lớp học các câu khẩu hiệu “Thi đua dạy tốt, học tốt”, “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, các bảng biểu, lẳng hoa, Được học tập trong môi trường, lớp học sạch đẹp, thân thiện, học sinh sẽ cảm thấy tự tin hơn, thích học hơn, yêu thầy, mến bạn hơn. Phát huy được tính tự giác, tích cực, phấn đấu học tốt hơn. 2.3.2. Dạy toán thông qua đồ dùng trực quan của giáo viên, học sinh và áp dụng công nghệ thông tin vào việc dạy Toán. Trong quá trình dạy học tôi nhận thấy học sinh lớp Một muốn học tốt môn Toán thì phải có đồ dùng trực quan. Đây là yêu cầu không thể thiếu được đối với từng học sinh ngay từ buổi đầu đến trường. Bởi vì xuất phát từ đặc điểm nhận thức của học sinh lớp Một từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Đồ dùng của học sinh là một hộp gồm: 10 que tính, 10 hình tròn, tam giác, hình vuông. Bộ số từ 1 đến 10 và các dấu cộng, trừ bằng, dấu lớn, dấu bé. Muốn đạt được yêu cầu này giáo viên phải thông báo cho phụ huynh biết và chuẩn bị cho con mình ngay từ đầu năm học. Bộ đồ dùng toán này sẽ giúp cho học sinh lớp Một tự hình thành và xây dựng bài mới. Giúp cho học sinh nào cũng được làm việc độc lập. Tự mình khám phá, hiểu và vận dụng kiến thức Toán một cách chắc chắn, vững vàng, tự tin. Dựa vào đồ dùng toán của học sinh và bộ đồ dùng Toán của giáo viên, kết hợp với việc áp dụng công nghệ thông tin của giáo viên để giáo viên chỉ là người tổ chức hướng dẫn sao cho học sinh đi đúng hướng. Qua đó rèn cho các em tính độc lập, cẩn thận, chính xác, hào hứng khi học Toán. Ví dụ 1: Dạy bài: Số 6. Học sinh lấy 5 hình tròn lấy thêm 1 hình tròn có tất cả 6 hình tròn. Học sinh lấy 5 hình vuông lấy thêm 1 hình vuông có tất cả 6 hình vuông. Các em kiểm tra đếm lại 1, 2, 3, 4, 5, 6 trên các hình. Đếm lại theo nhóm. 5 1 ® 6 Chú ý học sinh lấy theo nhóm (5 hình tròn vàng thêm 1 hình tròn xanh) Giáo viên (sử dụng bộ đồ dùng của giáo viên) đưa hình ảnh nhóm 5 hình tròn màu vàng thêm 1 hình tròn màu xanh tất cả là 6 hình tròn, tiếp tục giáo viên đưa ra 6 bông hoa, 6 con gà để học sinh nhận biết số lượng là 6. Để học sinh nắm chắc cấu tạo số 6, giáo viên hướng dẫn học sinh lấy 6 que tính tách thành 2 phần tùy ý để có khái niệm như: 6 gồm 5 và 1 6 gồm 1 và 5 6 gồm 4 và 2 6 gồm 2 và 4 6 gồm 3 và 3 Qua đồ dùng học Toán của cô và trò đã giúp học sinh nhận biết khái niệm về số 6 một cách chắc chắn, nắm được cấu tạo số 6, nhận biết được số lượng trong phạm vi 6, số sáu được viết bằng chữ số 6 không phụ thuộc vào hình dáng, kích thước to lớn, nhỏ bé. Ví dụ 2: Khi dạy bài: Phép cộng trong phạm vi 6. Giáo viên hướng dẫn học sinh lập bảng cộng như sau: Yêu cầu học sinh lấy 5 hình tròn rồi lấy thêm 1 hình tròn nữa. (Tất cả học sinh cùng lấy) Từ mô hình học sinh lập đề toán, lập phép tính: 5 + 1 = 6 1 + 5 = 6 Yêu cầu học sinh lấy 4 hình tam giác rồi lấy thêm 2 hình tam giác nữa. (Tất cả học sinh cùng lấy) Từ mô hình học sinh lập đề toán, lập phép tính: 4 + 2 = 6 2 + 4 = 6 Tương tự như thế giáo viên yêu cầu học sinh lấy 3 hình vuông lấy tiếp 3 hình vuông nữa. Nhìn vào mô hình học sinh lập đề toán và sử dụng số, dấu +, dấu = trong bộ đồ dùng Toán để cài phép tính tương ứng 3 + 3 = 6 Như vậy học sinh đã lập được các phép cộng trong phạm vi 6 và khắc sâu được khái niệm phép cộng, thực hành làm tính cộng trong phạm vi 6 tương đối tốt. Được làm việc trên đồ dùng trực quan như vậy học sinh rất hứng thú, nhớ bài nhanh hơn, nhớ lâu hơn. Ví dụ 3: Khi dạy bài: Bài toán có lời văn (Toán 1 trang 115) Bài toán có lời văn đang còn rất mơ hồ đối với các em nên tôi đã sử dụng hình ảnh động để hướng dẫn: Bài 1: Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán. Giáo viên xuất hiện bài toán: Bài toán: Có .. bạn, có thêm bạn nữa đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn? Giáo viên hiệu ứng 1 bạn ra trước sau đó hiệu ứng tiếp 3 bạn chạy tới. Nhìn vào hình ảnh này học sinh dễ dàng viết ngay được số vào chỗ chấm để có bài toán đầy đủ. Tôi tiến hành tương tự như thế với bài 2 trang 115, bài 4 trang 116 sách Toán 1. Bài 2: Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán. Bài toán: Có con thỏ, thêm con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu con thỏ?         Bài 4: Nhìn tranh viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán. Bài toán: Có . Con chim đậu trên cành, có con chim nữa bay đến. Hỏi..? Việc đưa hình ảnh như vậy tôi thấy học sinh học rất sôi nổi, nắm bài tương đối tốt. Nhìn vào các hình ảnh này học sinh dễ dàng hoàn thành những phần còn thiếu của bài toán. Ví dụ 4: Khi dạy bài: Phép cộng trong phạm vi 4 (Toán 1 trang 47) Tôi dạy bài này (bằng giáo án điện tử) tôi đã sử dụng hình ảnh động. Khi hình thành kiến thức mới, giáo viên hiệu ứng đưa hình 3 con chim đậu trên cành ra trước học sinh rất thích thú với hình ảnh này, sau đó giáo viên hiệu ứng tiếp thêm 1 con chim từ từ bay đến với ảnh này đã thu hút được sự chú ý của học sinh. Học sinh nhìn vào hình ảnh sẽ lập được đề toán và lập được phép tính tương ứng 3 + 1 = 4 với hình ảnh giáo viên vừa đưa ra, các em hào hứng quan sát để tiếp tục phát hiện ra phép tính khác như: 1 + 3 = 4 và đưa ra 3 + 1 cũng bằng 1 + 3 đều bằng 4 Qua việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Toán ở lớp Một đã giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp, kĩ năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi. Biện pháp này tạo cho lớp học sôi động, học sinh hào hứng học tập, 100% các em được tham gia vào bài mới. 2.3.3. Dạy học sinh nắm được bản chất các kiến thức toán học Để học sinh học tốt môn toán người giáo viên cần phải dạy cho học sinh nắm chắc kiến thức từng bài, từng phần trong chương trình toán 1, hiểu cặn kẽ bản chất của kiến thức đó. Vì vậy khi dạy cho học sinh học toán, giáo viên cần phải biết lựa chọn phương pháp, biện pháp thích hợp để học sinh nắm được các kiến thức bản chất nhất rồi từ đó làm cơ sở cho việc học các kiến thức tiếp theo. Ví dụ 1: Khi dạy học sinh làm tính cộng: 2 + 3 = 5. Bằng kinh nghiệm sống của trẻ, các em có thể trả lời ngay được kết quả là 5, song nếu chỉ nghĩ rằng học sinh chỉ học thuộc các phép tính làm đúng kết quả thôi thì chưa đủ mà người giáo viên cần làm cho học sinh hiểu cặn kẽ bản chất, ý nghĩa của phép cộng. Cụ thể giáo viên cho học sinh thực hiện thao tác “gộp” hai nhóm đồ vật một nhóm có (2 đồ vật ) với một nhóm (có 3 đồ vật ) để tạo thành một nhóm lớn hơn bao gồm tất cả các đồ vật của hai nhóm đó (5 đồ vật). Để tìm được kết quả của phép cộng trên học sinh cần thực hiện đếm toàn bộ các đối tượng trong hai nhóm đồ vật và từ đây học sinh sẽ hiểu được vì sao 2 cộng 3 lại bằng 5 (2 + 3 = 5). Bằng các hình ảnh trực quan, động tác, hoạt động của học sinh để từ đó các em nắm được “động tác gộp các nhóm đồ vật vào nhau chính là cơ sở của phép cộng hay nói cách khác đó chính là ý nghĩa của phép cộng.” Từ các hình ảnh cụ thể, từ những hoạt động của chính mình, học sinh đã biết vận dụng các kiến thức về ý nghĩa phép cộng. Dần dần các em hiểu về phép cộng một cách trừu tượng, khái quát hơn, thông qua việc hình thành cấu tạo số để hình thành phép cộng một cách có cơ sở, từ đó mở rộng sự hiểu biết của mình. Ví dụ 2: Khi dạy phép cộng trong phạm vi 3, sau khi hiểu ý nghĩa phép cộng là: 2 gộp 1 là 3 thì sẽ có phép tính 2 + 1 = 3, học sinh đã biết khái quát hơn về ý nghĩa bằng cách dựa vào cấu tạo số Từ việc hiểu ý nghĩa để vận dụng dựa vào cấu tạo số như trên, học sinh cần được hiểu ý nghĩa phép tính cộng một cách toàn diện hơn, khái quát hơn, đầy đủ hơn: 2 gộp 1 được 3 2 thêm 1 được 3 ð 2 + 1 = 3 2 tăng 1 được 3  Khi dạy các số tròn chục, giáo viên gợi ý cho học sinh nắm chắc cấu tạo số rồi hướng dẫn học sinh là nét đặc biệt của các số tròn chục là hàng đơn vị luôn bằng 0. Từ nhận biết cơ bản này, học sinh sẽ áp dụng vào việc thực hiện phép cộng, trừ các số tròn chục một cách thuận lợi. 30 + 50 = 80 80 – 30 = 50 Vì chữ số hàng đơn vị của các số tròn chục luôn bằng 0 (nên 0 đơn vị cộng với 0 đơn vị cho ta kết quả ở hàng đơn vị bằng 0) và (0 đơn vị trừ đi 0 đơn vị cũng cho ta kết quả ở hàng đơn vị bằng 0). Vì vậy học sinh chỉ cần cộng, trừ các chữ số ở hàng chục thì sẽ ra kết quả của phép tính. Ví dụ 3: Khi hình thành khái niệm “ Một chục” tôi hướng dẫn học sinh: + 10 que tính bó lại ta được 1 chục que tính + 10 quả trứng gà ta nói 1 chục trứng gà + 10 cái bát ta nói 1 chục cái bát. + 10 quả cam là 1 chục quả cam để rồi dẫn dắt học sinh nêu được: 10 đơn vị bằng 1 chục. (10 đơn vị = 1 chục) – Như vậy “chục” là đơn vị hàng cao hơn “đơn vị”. Trong cuộc sống ta hay nói: mua hai chục trứng, mua một chục bát, – Về số lượng 10 đơn vị và 1 chục là bằng nhau nhưng khác nhau về bản chất khái niệm. “Chục” là đơn vị hàng cao hơn, được hình thành qua đơn vị, để rồi chục lại là cơ sở hình thành các số lớn hơn tiếp theo. Ví dụ 4: Khi dạy giải toán có lời văn: Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như “thêm, và, tất cả, ” hoặc “bớt, bay đi, ăn mất, còn lại , ” (có thể kết hợp quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ ngữ chính trong đề bài. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn. Trước tiên giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đàm thoại “Bài toán cho biết gì? Hỏi gì?” và dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách rất tốt để giúp học sinh phân tích đề toán. Bài toán: Nhà Lan có 5 con gà, mẹ mua thêm 3 con nữa. Hỏi nhà Lan có tất cả mấy con gà? Giáo viên hướng dẫn: – Bài toán cho biết gì? (Nhà Lan có 5 con gà) – Bài toán còn cho biết gì nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà) – Bài toán hỏi gì? (Nhà Lan có tất cả mấy con gà?) Giáo viên nêu tiếp: “Muốn biết nhà Lan có tất cả mấy con gà em làm thế nào? (Lấy 5 + 4 = 9); hoặc: “Nhà Lan có tất cả mấy con gà ?” (có tất cả 9 con gà). – Em tính như thế nào để được 9 ? (Lấy 5 + 4 = 9). Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp “9 này là 9 con gà”, nên ta viết “con gà” vào trong dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà). Sau đó nhấn mạnh để học sinh hiểu từ “con gà” phải viết trong ngoặc đơn vì nếu viết 5 + 4 = 9 con gà là sai. Nếu muốn được kết quả là 9 con gà thì phải viết 5 con gà + 4 con gà = 9 con gà. Nhưng việc viết một phép tính giải với các danh số như vậy là rất khó khăn và tốn nhiều thời gian với các em nên ta dùng cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là cách viết tắt của một câu văn: “5 + 4 = 9, 9 ở đây là 9 con gà”. Giáo viên hướng dẫn cách viết đáp số: Trong đáp số của bài toán thì không có phép tính và đáp số là trả lời cho câu hỏi của bài toán nên ta không đặt đơn vị “con gà” ở trong ngoặc đơn mà ghi như sau: Đáp số: 9 con gà. Giáo viên lưu ý:“Khi giải toán các em phải nêu được phép tính để tìm ra đáp số (đáp số ở đây là 9 con gà). Nếu chỉ nêu đáp số thì chưa phải là giải toán. Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, đáp số giáo viên hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải. Một bài toán có nhiều cách đặt câu lời giải khác nhau chẳng hạn như: *Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi) và thay từ mấy bằng từ “số”, thêm từ “là” cuối câu để có câu lời giải: “Nhà Lan có tất cả số con gà là:” Bài giải Nhà Lan có tất cả số con gà là: 5 + 4 = 9 (con gà ) Đáp số: 9 con gà *Cách 2: Đưa từ “con gà” ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ “Hỏi” và thêm từ “Số” (viết trước từ con gà), thêm từ “là” ở cuối câu để có câu lời giải: “Số con gà nhà Lan có tất cả là:” Bài giải Số con gà nhà Lan có tất cả là: 5 + 4 = 9 (con gà ) Đáp số: 9 con gà *Cách 3: Dựa vào câu hỏi của bài

Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Toán Lớp 4.

Thứ bảy – 22/02/2014 16:09

Đề tài Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4

Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến

a. Sự cần thiết (Lí do nghiên cứu)

Giáo dục Việt Nam trong thập niên đầu tiên của thế kỉ 21 chứng kiến sự bứt phá ngoạn mục từ nội tại và cả sự tác động từ phía xã hội. Lộ trình đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp, thay sách giáo khoa như là một bước đột phá sống còn của giáo dục nhằm nâng cấp sản phẩm bắt kịp xu thế toàn cầu hóa của thời đại và bước đầu đã cho thấy những kết quả rất đáng ghi nhận. Trong đó, vai trò của thầy, cô giáo được xác định như là yếu tố mấu chốt để giải quyết kịp thời những bức bách, mâu thuẫn đang hiện hữu trong nền giáo dục chúng ta. Vì vậy, sự trăn trở cho mỗi giờ dạy, mỗi môn học là điều mà mỗi giáo viên như chúng tôi không thể không quan tâm. Qua nghiên cứu các tài liệu, tìm hiểu từ các phương tiện truyền thông và thông tin đại chúng và đặc biệt từ thực tế việc dạy, việc học tại Trường Tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc, bản thân tôi nhận thấy vẫn còn nhiều vấn đề không thể không trăn trở. Cho dù lộ trình đổi mới phương pháp đã có một thời gian dài thực hiện và những ưu thế của nó là điều không thể phủ nhận, song chưa có ai dám khẳng đinh rằng ở mọi nhà trường đã thực hiện một cách hoàn hảo nhất các tiêu chí của dạy học hiện đại. Một bộ phận không ít giáo viên vẫn tỏ ra chần chừ, không thật mặn mà với phương pháp mới và thiếu sự quyết liệt trong quá trình thực hiện đổi mới. Một bộ phận học sinh tiếp cận với phương pháp mới một cách hờ hửng, thiếu sẳn sàng và thiếu tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong xử lí thông tin còn hạn chế.Trường Tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc nơi tôi đang công tác cũng không thể tránh khỏi những khiếm khuyết chung của nền giáo dục nước nhà. Trước thực tế đó, bản thân đã dành một thời gian đáng kể đầu tư cho việc đổi mới phương pháp, đặc biệt là đối với môn toán, sau nhiều lần thử nghiệm, bước đầu chúng tôi đã tìm được một số biện pháp hữu hiệu giúp học sinh tiếp cận nhanh với phương pháp dạy học hiện đại.Chính vì vậy tôi đã đi sâu vào tìm hiểu “Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4 “, để giúp các em nắm vững các kiến thức trong môn học này.

2. Mục đích của việc thực hiện sáng kiến

Từ thực tiễn dạy học tiểu học nói chung và thực tiễn dạy học ở Trường Tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc nói riêng. Thu thập, tập hợp xử lí thông tin, tìm ra những giải pháp cần thiết để hoàn thiện dần phương pháp dạy học toán ở bậc tiếu học.

Với sáng kiến ” Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4″. Tôi đã triển khai và thực hiện trong toàn khối 4. Ngoài ra, sáng kiến còn có thể áp dụng tại trường tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc.

4.Mô tả sáng kiến:

4.1 Cơ sở lý luận

Môn toán ở tiểu học rất quan trọng với các em học sinh không chỉ biết cách tự học mà còn phát triển ngôn ngữ( nói, viết) để diển đạt chính xác, ngắn gọn và đầy đủ các thông tin, để giao tiếp khi cần thiết…mà còn giúp các em hoạt động thực hành vận dụng tăng chất liệu thực tế trong nội dung, tiếp tục phát huy để phát triển năng lực của học sinh.

4.2 THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP

– Bản thân nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở bậc tiểu học nên kinh nghiệm thực tế tích lũy được tương đối nhiều. – Hội đồng sư phạm trường nhiều đồng chí có kinh nghiệm, nhiều năm giảng dạy lại luôn có quyết tâm nhất quán trong đổi mới phương pháp nên bản thân học hỏi và rút kinh nghiệm được nhiều vấn đề hữu ích. – Học sinh phần lớn chăm ngoan và rất chịu khó, lại tiếp cận khá nhanh với phương pháp mới nên việc thử nghiệm đề tài luôn nhận được sự ủng hộ từ phía các em.

– Năng lực và thói quen nghiên cứu của bản thân còn nhiều hạn chế nên cho dù đã rất cố gắng, kết quả thu được vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. – Tài liệu tham khảo thiếu, thời gian và điều kiện nghiên cứu hạn hẹp ảnh hưởng khá nhiều đến việc sử dụng các giải pháp mới. – Một bộ phận học sinh chây lười trong học tập, gia đình lại không quan tâm nên việc tự học của các em cho dù đã được giáo viên hướng dẫn rất kĩ nhưng chưa thể đáp ứng được yêu cầu đề ra. – Đối tượng học sinh trong mỗi lớp không đồng đều, nhiều em quá yếu. Việc chú ý đối tượng đã ảnh hưởng nhiều đến quá trình nghiên cứu. – Phương tiện dạy học vẫn chưa thể đáp ứng tốt nhất yêu cầu của thực tiễn dạy học hiện đại.

c.Số liệu thống kê

Kết quả khảo sát chất lượng môn Toán lớp 4A2 đầu năm học 2012 – 2013 như sau:

Từ kết quả khảo sát cho thấy , việc nắm bắt kiến thức môn toán của các em còn chậm. vì vậy, tôi nghiên cứu ” Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4″.

4.3 Các biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4

* Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH vấn đáp kết hợp với một số PPDH khác trong hình thành tri thức mới. Học sinh muốn tiếp thu tri thức mới cần có sự hướng dẫn của giáo viên bắng một hệ thống câu hỏi phù hợp. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học nhằm chuyển giao ý đồ sư phạm của thầy thành nhiệm vụ học tập của trò. Ví dụ trong bài: ” Phép nhân phân số“. Hình thành phép tính nhân của 2 phân số và. Hình thành phép tính nhân của 2 phân số và cho học sinh là một vấn đề mới. nếu giáo viên chỉ giới thiệu quy tắc tính sau đó áp dụng vào luyên tập thì không phát huy được tính tích cực, tư duy, sáng tạo của học sinh. Do đó, giáo viên cần suy nghĩ, chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp để hướng dẫn học sinh tiếp thu tri thức mới một cách tích cực, sáng tạo. Với bài học này, giáo viên có thể tổ chức hoạt động dạy học bằng hệ thống câu hỏi sau: Dựa vào cách tính diện tích hình chữ nhật bằng đồ dùng trực quan hãy cho biết x = ? (HS nêu: x = ) – Quan sát hình và cho biết 8 là gì của hình chữ nhật mà ta phải tính diện tích? (8 là tổng số ô của hình chữ nhật.) * HS giải thích: Chiều dài HCN bằng 4 ô và được xếp thành 2 hàng nên tính được tổng số ô bằng cách lấy 4 x 2 = 8. – 4 và 2 là gì của các phân số trong phép nhân x ? ( 4 và 2 là tử số của các phân số trong phép nhân x ). – Để tính số ô vuông có trong hình vuông diện tích 1 m 2 ta làm thế nào? ( lấy 5 x 3 = 15 (ô)). – Vậy 5 và 3 là gì của các phân số trong phép nhân x ? ( 5 và 3 là mẫu số của các phân số trong phép nhân x ). – Như vậy, khi muốn nhân hai phân số với nhau ta làm thế nào? ( … ta lấy tử số nhân tử số, mẫu số nhân mẫu số). – Giáo viên nêu công thức tổng quát: = và yêu cầu học sinh nêu quy tắc nhân hai phân số, sau đó tổ chức: luyện tập, củng cố.

*.Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề, kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học.

Ví dụ trong bài: ” Phép cộng phân số ” ( tiếp theo ). * : Có một băng giấp màu, bạn Hà lấy băng giấy, Bạn An lấy băng giấy. Hỏi cả 2 bạn lấy bao nhiêu phấn băng giấy màu? ( Toán 4 trang 127 ). Sau khi học xong học sinh biết cách cộng hai phân số khác mẫu số và rèn luyện kỹ năng tính toán cho học sinh Hướng dẫn giải như sau: Muốn tìm số phần băng giấy của 2 bạn Hà và An đã lấy, cần thực hiện phép tính gì? ( phép cộng: + ). Như vậy, việc yêu cầu học sinh tính tổng hai phân số khác mẫu số là một tình huống gợi vấn đề, là một yêu cầu nhận thức mà học sinh chưa thể giải quyết được bằng vốn kiến thức và kinh nghiệm sẵn có của mình (học sinh chỉ mới biết tính tổng hai phân số có cùng mẫu số). Tuy nhiên nếu học sinh chịu khó suy nghĩ hoặc được giáo viên hướng dẫn tìm cách biến đổi để đưa hai phân số đã cho thành hai phân số có cùng mẫu số (Quy đồng mẫu số) thì học sinh có thể giải quyết vấn đề kết hợp với PPDH vấn đáp để tổ chức hoạt động dạy học hình thành phép cộng 2 phân số khác mẫu số.

*. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH hợp tác theo nhóm nhỏ và kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo, hợp tác của học sinh.

Mục tiêu, nội dung bài học yêu cầu hình thành tri thức mới cho học sinh. Tri thức mới đó cần có sự kiểm nghiệm kết quả qua nhiều học sinh khác nhau, cần có sự phát hiện, đóng góp trí tuệ. Tập thể học sinh cần phải đo đạc, thu thập các số liệu điều tra thống kê. Ví dụ bài: Diện tích hình thoi. – Yêu cầu tính diện tích hình thoi ABCD, khi biết 2 đường chéo AC = m, BD = n (hình a) – Để tìm công thức tính diện tích hình thoi theo độ dài 2 đường chéo, học sinh có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau: * Cách 1: Cắt hình tam giác AOD và hình tam giác COD rồi ghép với hình tam giác ABC để được hình chữ nhật AMNC (hình b). Ta có: Diện tích( hình thoi ABCD) = diện tích ( hình chữ nhật AMNC ) = m * Cách 2: Cắt hình tam giác COB và hình tam giác COD rồi ghép với hình tam giác ABC để được hình chữ nhật MNBD (hình c). Ta có: Diện tích ( hình thoi ABCD ) = diện tích (hình chữ nhật MNBD) ( Hình a ) ( Hình b ) ( Hình c ) Do đó để kiểm nghiệm kết quả, phát huy tính chủ động sáng tạo và tinh thần hợp tác của học sinh. Giáo viên yêu cầu học sinh hợp tác theo nhóm nhỏ để tổ chức hoạt động dạy học.

*. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán là cơ sở giải loại toán sắp học.

Giải các bài toán có tính chất chuẩn bị này, học sinh có thể tính ra được kết quả dễ dàng nhằm tạo điều kiện cho các em tập trung suy nghĩ vào các mối quan hệ toán học và các từ mới chứa trong đầu bài toán: Ví dụ 1: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và tỉ số của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: ” Cô có 30 bút chì, chia thành 3 phần bắng nhau. Bạn nam được 1 phần, bạn nữ được 2 phần. Hỏi bạn nam được mấy bút chì?”. Ví dụ 2: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và hiệu của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “Hai bạn Nam và Hùng có tất cà 15.000 đồng, Nam có nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Hỏi mỗi bạn có bao nhiêu tiền?”. – Tổ chức cho học sinh làm việc trên đồ dùng học tập: +Mỗi học sinh lấy 15 que tính (tượng trưng cho 15.000 đồng ). Chia bảng con làm 2 phần, phần lớn là số tiền của Nam, phần nhỏ là số tiền của Hùng. +Nam nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Vậy ta lấy 5 que tính cho Nam trước rồi chia đôi phần còn lại:! Học sinh lấy 5.000đồng cho nam trước (đặt 5 que tính vào phần lớn). – Còn mấy nghìn đồng ? (15.000 – 5.000 = 10.000 đồng ). – Vậy chia đều cho 2 bạn, mỗi bạn được mấy nghìn ? ( 10.000 : 2 = 5.000 đồng ). – Bỏ vào hai phần mỗi phần 5.000 đồng ( 5 que tính ) – Vậy Hùng được mấy nghìn ? ( 5.000 đồng ). – Còn Nam được mấy nghìn ? ( 5.000 +5.000 = 10.000 đồng ). – Tương tự hướng dẫn bài toán trên sơ đồ và giải.

*.Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán phát huy tính trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh.

Để giải được các bài toán này giáo viên cần triển khai các hoạt động mang tính chất thực tiễn, học sinh phải được thao tác trên đồ dùng trực quan. Từ đó các em sẽ tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ bài học. Ví dụ: Trong bài “Phép cộng phân số”. Để hình thành phép cộng hai phân số có mẫu số bằng nhau, giáo viên và học sinh cùng thực hành trên băng giấy – Chia băng giấy thành 8 phần bằng nhau, bằng cách gấp đôi ba lần theo chiều ngang: + Tô màu vào băng giấy + Tô màu vào băng giấy Nhìn vào băng giấy HS dễ nêu được hai lần đã tô màu được băng giấy. Học sinh nêu: + = . Kết luận: Nêu được cách cộng hai phân số bằng cách lấy tử số cộng với nhau và giữ nguyên mẫu số.

*. Khi dạy thực hành luyện tập GV cần lưu ý giúp mọi học sinh đều tham gia vào hoạt động thực hành, luyện tập theo khả năng của mình, bằng cách:

– Cho các em làm các bài theo thứ tự trong sách giáo khoa, không bỏ bài nào, kể cả bài dễ, bài khó. – Không bắt học sinh chờ đợi nhau trong khi làm bài. Làm xong chuyển sang bài tiếp theo. – Học sinh này có thể làm nhiều bài hơn học sinh khác: – Ví dụ: Khi dạy bài : ” Tính bằng cách thuận tiện nhất “ – + + = + ( + ) = + = Có thể một số em vẫn thực hiện theo thứ tự của các phép tính trong biểu thức, ra kết quả đúng nhưng chưa nhanh và chưa hợp lí. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh các tính chất đã học của phép cộng để tìm ra cách giải thuận tiện. Hoặc trong bài luyện tập của phép nhân thì giáo viên phải dẫn dắt học sinh nhớ lại kiến thức đã học đó là: Tính chất giao hoán của phép nhân. Tính chất kết hợp của phép nhân. Tính chất nhân một số với một tổng ( Hoặc một tổng nhân với một số ). Tính chất nhân một hiệu với một số ( Hoặc một số nhân với một hiệu ). Học sinh phải vận dụng nhanh các tính chất này vào giải toán: Khi nào vận dụng tính chất này, khi nào vận dụng tính chất kia: Ví dụ: 2 10 + 10 5 = 10 ( 2 + 5 ) = 10 10 = 20 ( Áp dụng tính chất nhân một số với một tổng ).

Từ việc đổi mới các phương pháp dạy học như trên tôi thấy chất lượng học sinh dần dần được nâng cao. Học sinh đã tự giác, hứng thú, chủ động và tích cực tham gia các hoạt động dạy học, không rụt rè, tự ti như trước nữa. Chất lượng học sinh ngày một tiến bộ do trình độ nhận thức của các em ngày càng được nâng cao, tích cực phát biểu xây dựng bài hứng thú và ham thích học toán, làm bài, học bài đầy đủ . học sinh dần dần chiếm lĩnh kiến thức mới và giải quyết các vấn đề gần gũi với đời sống. Sự tiến bộ của các em biểu hiện cụ thể qua kết quả như sau: Khảo sát chất lượng đầu năm 2012-2013:

Kết quả kiểm tra cuối năm học 2012 – 2013:

Qua bảng thống kê chất lượng trên phần nào cho thấy số lượng học sinh khá giỏi tăng lên giảm được học sinh yếu, số học sinh ham thích học môn toán cũng tăng lên so với đầu năm học. Nếu chúng ta vận dụng linh hoạt việc đổi mới phương pháp dạy học thì chắc chắn chất lượng cuối năm sẽ tăng cao.

6. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến:

-Trước hết phải nói đội ngũ giáo viên tham gia giảng dạy tích cực và nhiệt tình trong đổi mới PPDH, góp phần chứng minh ưu thế và hiệu quả việc giảng dạy môn toán. – Muốn nâng cao chất lượng dạy học toán ở tiểu học chúng ta cần lưu ý: + Linh hoạt trong đổi mới PPDH. + Tạo cho học sinh hứng thú và ham thích học môn toán. + Nắm được từng đối tượng học sinh, tạo được nhu cầu học tập trong các em. + Tổ chức hướng dẫn các phương pháp học tập chu đáo( học nhóm, học tổ,…) + Công tác chuẩn bị từng bài dạy thật kĩ phù hợp từng nội dung, soạn giảng chu đáo gọn nhẹ. + Dụng cụ, phương tiện dạy- học phải đầy đủ. + Tổ chức nhiều hình thức học tập cho có tính hấp dẫn. + Thường xuyên kiểm tra, củng cố hệ thống kiến thức. + Phát huy tính tích cực, tính tự học, tìm tòi, tự phát hiện cái mới, cái hay,… để tự chiếm lĩnh tri thức.

– Tất cả các giáo viên giảng dạy ở tiểu học phải sử dụng các PPDH linh hoạt, phù hợp với lớp, với từng học sinh. – Nhiệt tình trong giảng dạy, đảm bảo đầy đủ ĐDDH, thiết bị dạy học. – Tổ chuyên môn cần thường xuyên tổ chức hội thảo các chuyên đề về đổi mới phương pháp, đố vui để học, thi học tốt môn toán. – Có kế hoạch bồi dưỡng và phụ đạo học sinh về môn toán.

– Tăng cường tài liệu nghiên cứu, sách tham khảo cho giáo viên. – Bổ sung đồ dùng dạy học đủ cho các lớp sử dụng.

Dạy toán, học toán ở trường Tiểu học là một phạm trù rộng lớn. Nó chứa đựng một chuỗi hệ thống các quan điểm, phương pháp và kĩ thuật dạy học. Vì thế, bản thân luôn xác định đổi mới phương pháp dạy học toán ở bậc tiếu học không hề đơn giản và cũng không thể thực hiện nhanh chóng trong ngày một ngày hai. Vì thế, khi nghiên cứu đề tai này, thực sự chúng tôi không có tham vọng tạo chuyển biến có tính chất đột phá trong việc dạy, việc học môn toán ở trường tiểu học mà chỉ hi vọng góp một phần nhỏ tháo gỡ một vài khía cạnh để góp phần nâng cao chất lượng dạy học toán tại trường tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc nói riêng và bậc tiểu học nói chung. Tuy nhiên, do ràng buộc hạn chế về kinh nghiệm, sự thiếu hụt về mặt thời gian và tầm nhìn. Chúng tôi biết chắc đề tài vẫn còn chứa đựng quá nhiều khiếm khuyết. Vì vậy, rất mong được quan tâm tham gia bàn bạc của quý cấp quản lí và các đồng nghiệp.

Trần Kim Cương Giáo viên Trường TH 1 Khánh Bình Tây Bắc, TVT, CM.

Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Môn Tin Học Ở Trường Tiểu Học Nga Lĩnh

TT NỘI DUNG Trang 1 Mở đầu 2 1.1 Lí do chọn đề tài 2 1.2 Mục đích nghiên cứu 3 1.3 Đối tượng nghiên cứu 3 1.4 Phương pháp nghiên cứu 3 2 Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm 3 2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 3 2.2 Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 4 2.3 Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 5 2.3.1 Tăng cường giáo dục ý thức học tập, thường xuyên uốn nắn tư thế thực hành cho học sinh 5 2.3.2 Vận dụng linh hoạt và sáng tạo, lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng dạng bài và đối tượng học sinh để nâng cao chất lượng dạy học Tin học 7 2.3.3 Thường xuyên kết hợp lý thuyết và thực hành giúp học sinh nắm vững kiến thức và thao tác thành thạo máy tính. 10 2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản than, đồng nghiệp và nhà trường. 12 3 Kết luận, kiến nghị 14 3.1 Kết luận 14 3.2 Kiến nghị 15 Tài liệu tham khảo 16 1. Mở đầu: 1.1. Lí do chọn đề tài: Đất nước ta đang chuyển dần sang thời kì thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam nhiều khoá đã nhấn mạnh: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và phát huy nguồn nhân lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế nêu rõ mục tiêu tổng quát của giáo dục và đào tạo là giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả [4]. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng các phương tiện hiện đại càng quan trọng và cần thiết. Do đó, Tin học trở thành công cụ không thể thiếu trong đời sống xã hội. Ngày nay tin học đã có những bước tiến nhanh chóng về ứng dụng của nó trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Tin học được quan tâm nhiều hơn bao giờ hết vì nó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống văn minh góp phần đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tiến đến nền kinh tế tri thức. Máy tính cùng với phần mềm là công cụ đắc lực giúp chúng ta học tập, quản lý, tổ chức, sắp xếp và xử lý công việc một cách nhanh chóng và chính xác. Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Đảng và nhà nước ta đã yêu cầu Bộ giáo dục và Đào tạo đưa môn Tin học vào trong nhà trường ngay từ Tiểu học. Học sinh được tiếp xúc với môn Tin học để làm quen dần với lĩnh vực công nghệ thông tin, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những phần nâng cao trong các cấp tiếp theo. Trong những năm gần đây Tin học là môn học mới được đưa vào nhà trường nên các em học sinh say mê hứng thú học và được các nhà trường quan tâm đầu tư, đáp ứng yêu cầu dạy và học. Cũng như các môn học khác, việc xây dựng chương trình môn Tin học theo đúng quy trình và đảm bảo đầy đủ các thành tố như: mục tiêu dạy học, nội dung và chuẩn cần đạt tới, phương pháp và phương tiện dạy học, cách thức đánh giá kết quả học tập của học sinh. Qua quá trình nghiên cứu và thực tế giảng dạy môn tin học khối 3, 4, 5 tại Trường tiểu học Nga Lĩnh tôi thấy rằng môn Tin học ở bậc tiểu học bước đầu giúp học sinh làm quen với một số kiến thức ban đầu về công nghệ thông tin, hình thành cho học sinh một số phẩm chất và năng lực cần thiết cho người lao động hiện đại. Tuy nhiên việc dạy học Tin học vẫn còn những bất cập và hạn chế nhất định, hiệu quả chưa thực sự cao. Bởi vậy, việc dạy học tốt môn Tin học là yêu cầu bức thiết hiện nay. Vậy người giáo viên phải nghiên cứu nội dung và vận dụng phương pháp dạy học như thế nào để giúp học sinh học khối 3 học tốt môn Tin học? Đó là điều bản thân tôi trăn trở, suy nghĩ và mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt môn Tin học ở Trường Tiểu học Nga Lĩnh – Nga Sơn” nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 3 học tốt môn tin học trong giai đoạn hiện nay. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Môn tin học lớp 3. Học sinh khối 3 Trường tiểu học Nga Lĩnh – Nga Sơn – Thanh Hóa. 1.4. Các phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm, bản thân đã áp dụng một số phương pháp chính sau đây: – Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc và nghiên cứu một số tài liệu về phương pháp dạy học môn Tin học tiểu học. – Phương pháp khảo sát thực tiễn : Khảo sát bằng bài kiểm tra và thông qua các tiết học Tin học. – Phương pháp thống kê: Thống kê, phân loại học sinh theo mức đạt được. – Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp: Phân tích lý luận và thực tiễn ứng dụng các biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt môn tin học. – Phương pháp thực nghiệm: Thực nghiệm một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt môn tin học để đúc rút kinh nghiệm. 2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm: Tin học là môn học mang tính khoa học và công nghệ. Học sinh học tốt môn Tin học có điều kiện thuận lợi để trẻ thích ứng với đời sống xã hội hiện đại, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và trở thành người có ích cho xã hội để xây dựng và bảo vệ đất nước trong tương lai. Chính vì lẽ đó nên Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện cho giáo dục tin học trong các nhà trường được phát triển. Điều đó thể hiện qua các chỉ thị, nghị quyết, thông tư hướng dẫn, đặc biệt là Chỉ thị 29/CT của Trung Ương Đảng về việc đưa công nghệ thông tin vào nhà trường. Và quyết định số 50/QĐ-BGD&ĐT ngày 30/10/2003 về việc ban hành chương trinh môn Tin học ở bậc tiểu học. Mục đích của việc ứng dụng CNTT vào nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng là sử dụng CNTT như một công cụ lao động trí tuệ, giúp lãnh đạo các nhà trường nâng cao chất lượng quản lý các nhà trường, giúp các thầy cô giáo nâng cao chất lượng dạy học, trang bị cho học sinh kiến thức về CNTT, học sinh sử dụng máy tính như một công cụ học tập nhằm nâng cao chất lượng học tập góp phần rèn luyện học sinh một số phẩm chất cần thiết của người lao động trong thời kỳ hiện đại. Đối với chương trình tin học tiểu học môn Tin học là môn tự chọn nên học sinh tiếp thu kiến thức một cách thoải mái không bị gò ép. Là môn học trực quan, sinh động, môn học khám phá những lĩnh vực mới nên học sinh rất hứng thú học, nhất là những tiết thực hành. Học sinh tiểu học tư duy trìu tượng chưa phát triển, tư duy cụ thể giữ vai trò quan trọng. Chính vì thế, giáo viên phải lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp. Do vậy việc dạy học môn Tin học cần được quan tâm và tổ chức có hiệu quả, vận dụng phù hợp và linh hoạt với điều kiện thực tế trong nhà trường để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. * Về phía nhà trường: Trường tiểu học Nga Lĩnh là trường chuẩn Quốc gia Mức độ 2 nên đã được trang bị một phòng máy tính. Bên cạnh đó được sự quan tâm của các cấp uỷ, chính quyền, các ban ngành hỗ trợ cơ sở vật chất cho nhà trường. Tạo điều kiện mua sắm sửa chữa máy móc, trang thiết bị, sách giáo khoa và phần mềm kèm theo tạo điều kiện cho giáo viên trong việc giảng dạy môn Tin học được tốt hơn. Song bên canh đó vẫn còn hạn chế về số lượng cũng như chất lượng máy tính, mỗi ca thực hành có tới 3 em ngồi cùng một máy nên các em không có nhiều thời gian để thực hành, làm bài tập một cách đầy đủ. Hơn nữa nhiều máy cấu hình máy đã cũ, chất lượng không còn tốt nên hay hỏng hóc, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập của học sinh. * Về phía giáo viên: – Việc dạy của giáo viên còn chưa bài bản, chưa phát huy hết tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập. Thêm vào đó việc đầu tư cho nghiên cứu bài dạy chưa nhiều, việc đổi mới phương pháp chưa triệt để, hình thức tổ chức dạy học còn rập khuôn, máy móc. Dẫn đến nội dung các tiết dạy còn nghèo nàn, đơn điệu. – Giáo viên đã biết lựa chọn hình thức tổ chức dạy học cho học sinh nhưng việc vận dụng các hình thức tổ chức dạy học chưa linh hoạt. – Tài liệu tham khảo dành riêng cho bộ môn tin học còn quá ít. Nhất là những tài liệu nói về phương pháp dạy học đặc trưng của môn Tin học. – Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc tiểu học nên chương trình và phân phối chương trình bước đầu chưa có sự thống nhất và đang hoàn chỉnh. – Tuy giáo viên đã được đào tạo cơ bản về kiến thức Tin học, nhưng khi thực hành, máy móc gặp sự cố, trục trặc, giáo viên không xử lý kịp thời dẫn đến học sinh thiếu máy, không thực hành được. * Về phía học sinh: – Đời sống kinh tế của địa phương còn gặp nhiều khó khăn, rất ít học sinh ở nhà có máy vi tính. Vì vậy học sinh chỉ được tiếp xúc với máy vi tính ở trường là chủ yếu, do đó sự tìm tòi và khám phá máy tính với các em học sinh còn hạn chế, nên thao tác của các em chưa thành thạo. – Học sinh thường ngồi tự do, chưa đúng tư thế trước máy tính khi thực hành. – Một số học sinh đứng trước máy tính còn có tâm lý sợ máy hỏng nên việc sử dụng máy tinh còn rất hạn chế. Kết quả khảo sát thực tế tại thời điểm tháng 9/2017 ở khối lớp 3 với tổng số học sinh 54 em như sau: Mức độ thao tác Trước khi thực hiện chuyên đề Số HS Tỷ lệ Thao tác nhanh, đúng 4 7,4 Thao tác đúng 18 33,3 Thao tác chậm 21 38,9 Chưa biết thao tác 11 20,4 Bảng 1 Từ kết quả thực trạng và bảng số liệu trên cho thấy: Tỷ lệ học sinh thao tác nhanh và đúng rất ít. Số học sinh thao tác chậm và chưa biết thao tác còn chiếm tỷ lệ cao. Ngồi trước máy tính học sinh đang còn rất lúng túng, thao tác chậm, chưa tự tin. Qua tìm hiểu, tôi thấy nổi bật lên các nguyên nhân sau: Một là: Ban giám hiệu, tổ chuyên môn chưa quan tâm chú trọng nhiều trong việc bồi dưỡng về đổi mới phương pháp dạy học đối với môn Tin học. Hai là: Bản thân giáo viên chưa chịu khó học hỏi tìm tòi để đổi mới PPDH. Việc đầu tư thời gian nghiên cứu cho tiết dạy chưa nhiều. Ba là: Trong quá trình lên lớp giáo viên tổ chức các giờ học còn thiếu linh hoạt, nặng về áp đặt, chưa phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Bốn là: Việc đổi mới phương pháp dạy học còn hạn chế, lúng túng, vận dụng chưa có chiều sâu, các giờ học giáo viên chưa mạnh dạn giao việc thực hành cho học sinh. Còn thói quen đọc – chép, thuyết – giảng, lệ thuộc sách giáo khoa. Trăn trở với chất lượng học sinh, tôi luôn đặt ra câu hỏi làm thế nào để học sinh thao tác nhanh, đúng cao hơn và đặc biệt là có nhiều học sinh sử dụng thành thạo máy tính. Bởi vậy cần phải có những giải pháp phù hợp và hữu hiệu để nâng cao chất lượng dạy học tin học ở khối lớp 3. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyêt vấn đề: Để giúp học sinh lớp 3 học tốt môn Tin học góp phần tích cực trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, tôi xin đề xuất một số giải pháp sau: 2.3.1. Tăng cường giáo dục ý thức học tập, thường xuyên uốn nắn tư thế thực hành cho học sinh. Giáo viên luôn chú trọng giáo dục ý thức học tập của học sinh, tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng công nghệ thông tin và tầm quan trọng của môn Tin học trong thực tiễn và tương lai sau này. Học sinh khối 3 là lứa tuổi hồn nhiên, chưa có ý thức nhiều về hành vi của mình nên giờ thực hành rất dễ xảy ra tình trạng lộn xộn, đùa giỡn trong khi thực hành, ngồi thực hành với tư thế tùy tiện theo thói quen của mình. Vì vậy giáo dục ý thức học tập cho học sinh có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách của học sinh sau này. Giáo viên cần phải chú ý đúng mức, kịp thời uốn nắn những sai lệch, hình thành những thói quen, thao tác đúng đắn cho học sinh. Bởi vì vốn kiến thức ban đầu luôn có vai trò hết sức quan trọng, là nền tảng cho các cấp học sau này. Những sai lệch ngay từ ban đầu sẽ tạo nền những thói quen không đúng và rất khó sửa chữa, ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Phải tạo không khí lớp học thoải mái nhẹ nhàng, giáo viên phải làm cho học sinh thương yêu, tôn trọng mình thì tiết học mới đạt hiệu quả. Giáo viên không nên dùng biện pháp mạnh khi học sinh không chép bài vì làm như thế học sinh sẽ không thu hoạch được gì. Đồng thời, trong giờ học giáo viên nên động viên đúng mức đối với học sinh chưa hoặc không làm bài tập, cho dù các em làm sai, trên cơ sở đó giáo viên có thể chỉ ra chỗ sai, chỗ thiếu cho từng học sinh. Bên cạnh đó giáo viên cần khen ngợi, khích lệ kịp thời đối với từng học sinh, làm cho học sinh có lòng tin vào bản thân mình. Giờ học thực hành vẽ của học sinh lớp 3A- Trường TH Nga Lĩnh Giờ thực hành phải thực hiện nghiêm túc giống như một tiết học lý thuyết bình thường. Giáo viên hướng dẫn học sinh ngồi thực hành phải đúng tư thế và đảm bảo các yêu cầu sau:      – “Ngồi thẳng, tư thế thoải mái sao cho không phải ngẩng cổ hay ngước mắt khi nhìn vào màn hình, không ngồi nghiêng, ngồi ngửa khi thực hành.      – Tay đặt ngang tầm bàn phím và không phải vươn xa, chuột đặt bên tay phải.      – Nên giữ khoảng cách giữa mắt học sinh đến màn hình từ 50cm đến 80cm.      – Không nên nhìn quá lâu vào màn hình.      – Máy tính nên đặt ở vị trí sao cho ánh sáng không chiếu thẳng vào màn hình và không chiếu thẳng vào mắt của học sinh”. Hoc sinh lớp 3B – Trường TH Nga Lĩnh đang thực hành đúng yêu cầu Mặt khác, phòng máy tính phải gọn gàng, sạch sẽ đảm bảo an toàn cho học sinh. Học Tin học phải thường xuyên tiếp xúc với máy tính, mà nhất là học sinh tiểu học ở lứa tuổi còn nhỏ nếu không giáo dục tốt cho học sinh về ý thức vệ sinh học đường khi thực hành máy tính thì học sinh rất dễ mắc các bệnh như cận thị, vẹt cột sống, mệt mỏi khi ngồi học ảnh hưởng đến sự phát triển cả về thể lực, trí lực của học sinh sau này. 2.3.2. Vận dụng linh hoạt và sáng tạo, lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng dạng bài và đối tượng học sinh để nâng cao chất lượng dạy học Tin học.       Để thực hiện tốt biện pháp này, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành thái độ, biết thực hành, vận động một cách linh hoạt không bị động hoàn toàn theo lệnh của giáo viên. Giáo viên đóng vai trò chủ đạo điểu khiển, định hướng quá trình hoạt động của học sinh. Học sinh thông qua những hoạt động cụ thể để định hướng thành động cơ, kiến tạo tri thức mới cho mình. Chẳng hạn khi dạy một nội dung lý thuyết Tin học người giáo viên cần đưa ra một hệ thống rất nhiều câu hỏi từ dễ đến khó. Lúc đầu bao giờ cũng nêu ra những câu hỏi rất dễ để lôi cuốn, phát huy tính tích cực hoạt động đến tất cả các đối tượng học sinh mà nhất là những học sinh chưa hoàn thành, giáo viên cần ưu tiên, khuyến khích các đối tượng này. Sau đó đưa ra các câu hỏi khó dần để tất cả học sinh tham gia ý kiến và tự hình thành tri thức mới, giáo viên góp ý, nhận xét để học sinh xác nhận lại tri thức mới đó. Ví dụ: Chương 1: Làm quen với máy tính. Ở chương này, ngay từ bài học đầu tiên “Người bạn mới của em”. Khi dạy học nội dung là cách tắt máy. Trong sách giáo khoa không trình bày quy trình cũng như các thao tác để tắt máy. Chính vì vậy, giáo viên không nêu trực tiếp cách tắt máy, làm như vậy là áp đặt cho học sinh phải nắm ngay kiến thức mới. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học khơi dậy sự tích cực, tự giác hoạt động của học sinh. Học sinh tự hoạt động, khám phá, tìm tòi và đưa ra cách tắt máy an toàn. Chẳng hạn: Khi tổ chức hoạt động dạy học, giáo viên nêu câu hỏi: Khi không làm việc nữa, cần tắt máy tính. Nếu em không tắt máy tính mà cứ để máy tính hoạt động suốt cả ngày thì có ảnh hưởng gì? + Đại diện nhóm trả lời. + Giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét và đưa ra kết luận. + Học sinh nhận xét và đưa ra kết luận: Em không tắt máy tính mà cứ để máy tính hoạt động suốt cả ngày thì sẽ tốn điện, máy tính sẽ bị hao mòn nên nhanh hỏng,      Vậy em tắt máy bằng cách nào? Học sinh trả lời theo nhiều cách khác nhau như: Rút nguồn điện, nhấn vào nút Power trên thân máy và trên màn hình, dùng chuột để tắt máy, dùng bàn phím để tắt máy. Giáo viên có thể đưa ra liên hệ thực tế gợi mở để học sinh dễ dàng tìm ra cách giải quyết. Chẳng hạn, một chiếc xe đang chạy trên đường với tốc độ cao nếu phanh gấp dừng đột ngột thì chiếc xe đó như thế nào? Học sinh trả lời được câu hỏi này thì sẽ trả lời được câu hỏi trước đó. Giáo viên có thể nêu câu hỏi để kết luận: Vậy cách tắt máy nào là an toàn nhất, ít làm hư hỏng máy tính? Học sinh tự tìm ra kiến thức mới cho mình. Giáo viên nhận xét: Em tắt máy theo từng bước bằng cách sử dụng chuột hoặc bàn phím là an toàn nhất, máy tính không bị hư hỏng và bền hơn. Học sinh xác nhận lại tri thức mới.      Hay khi dạy học với nội dung thực hành, giáo viên không thể áp đặt, bắt buộc học sinh thực hành một cách thụ động theo ý muốn của mình, mà người giáo viên phải có phương pháp để phát huy tính tích cực, tự giác bằng các biện pháp như khuyến khích, khen thưởng, để học sinh tích cực thực hành, chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho mình. Trong mỗi tiết học giáo viên cần quan tâm đến từng đối tượng học sinh tùy theo trình độ, giáo viên sẽ giao những nhiệm vụ học tập vừa với sức học, tránh những yêu cầu quá dễ hoặc quá khó cho học sinh. Dạy học theo nhóm, trình độ, kết hợp các phương pháp dạy học phù hợp giúp cho tất cả các học sinh cùng tiến bộ. Trong mỗi lớp học bao giờ cũng có những học sinh ở các mức độ khác nhau như: học sinh hoàn thành tốt, học sinh hoàn thành và học sinh chưa hoàn thành. Do vậy nếu giáo viên không phân loại mức độ học sinh, không có phương pháp giảng dạy thích hợp dễ gây nhàm chán cho học sinh hoàn thành tốt, học sinh hoàn thành và tâm lý căng thẳng cho học sinh chưa hoàn thành từ đó dễ nảy sinh tâm lý chán nản, lười biếng cho học sinh. Giáo viên thường xuyên cải tiến nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học phù hợp trong mỗi tiết học như: – Phối hợp các hình thức dạy học theo lớp, theo nhóm hay hoạt động cá nhân một cách phù hợp có hiệu quả. Tạo nhiều hình thức thi đua trong tổ, nhóm. Ví dụ: Trong chương “Em tập gõ bàn phím” Đây cũng là phần trọng tâm của chương trình lớp 3. Phần này đòi hỏi phải có sự tập luyện thường xuyên thì mới đạt hiệu

Bạn đang đọc nội dung bài viết Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Các Bài Toán Tính Giá Trị Của Biểu Thức trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!