Cập nhật nội dung chi tiết về Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Âm Nhạc Ở Trường Tiểu Học mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
1.1. Lí do chọn đề tài. Trong sự nghiệp xây dựng phát triển và đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã coi trọng rất nhiều mặt, trong đó, sự nghiệp giáo dục đã, đang và sẽ mãi mãi được coi là quốc sách hàng đầu. Vì giáo dục là sự nghiệp trồng người tạo ra những thiên tài về tri thức cho đất nước. Những năm qua giáo dục tiểu học đang có những đổi mới đồng bộ và toàn diện, nhằm góp phần đào tạo những con người toàn diện, lao động tự chủ, năng động sáng tạo trên tất cả các mặt: đức, trí, thế, mỹ. Bộ môn Âm nhạc cũng góp phần không nhỏ trong sự nghiệp cải cách giáo dục, môn Âm nhạc là một phần nội dung trong chương trình giáo dục bậc tiểu học và quan trọng hơn nó là “Phương tiện giáo dục” hấp dẫn mang tính đặc thù. Vì vậy mục tiêu giáo dục môn âm nhạc ở Tiểu học là: “Hình thành cho học sinh những cơ bản ban đầu để phát triển đúng đắn và lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất, năng lực, phẩm chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học tiếp các bậc học trên hoặc để đi vào cuộc sống lao động”. Âm nhạc có vai trò tích cực trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục Tiểu học. Trẻ em tham gia ca hát là được tự hoạt động để nhận thức thế giới xung quanh và bản thân mình. Do đó, từ việc nghe hát, tập hát và biết được một số kiến thức về âm nhạc sẽ góp phần giáo dục năng lực cảm thụ âm nhạc, kích thích tiềm năng nghệ thuật, làm cho đời sống tinh thần của trẻ thêm phong phú, lành mạnh, tạo điều kiện để các em bộc lộ và phát triển năng khiếu âm nhạc.[1] Hơn nữa, khi lớn lên các em sẽ càng hiểu biết hơn về những nét đặc sắc trong văn hoá Âm nhạc của dân tộc và của loài người. Từ đó các em biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những di sản văn hoá âm nhạc mà cha ông ta đã để lại, góp phần hỗ trợ cho việc học các môn học khác. Xuất phát từ những lí do trên, để giúp các em học tốt môn âm nhạc, tôi đã chọn đề tài: “ Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn âm nhạc ở trường Tiểu học ” tôi mong muốn đề tài này tiếp tục được hoàn thiện và được áp dụng rộng rãi. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Mục đích giáo dục hiện nay của chúng ta là đào tạo những con người phát triển toàn diện, những con người có đủ năng lực cần thiết, đáp ứng sự đòi hỏi của cuộc sống hiện đại. Tôi nhận thấy đại đa số các em rất thích bộ môn này. Qua thực tế giảng dạy từ những năm trước đây, đặc biệt là những năm gần đây các em được học chương trình sách giáo khoa Âm nhạc mới. Tôi nhận thấy rằng trước một bài hát, một bài tập đọc, ghi chép nhạc, hoặc khi nghe các bản nhạc, để các em hiểu, nắm được và thực hiện tốt yêu cầu của bài học cũng như nêu được những cảm nhận ban đầu của mình về giai điệu các bản nhạc, người giáo viên cần có một phương pháp truyền đạt, hướng dẫn thật tốt, đơn giản nhưng lại hiệu quả nhất, chính vì lẽ đó tôi mạnh dạn trình bày Đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn âm nhạc ở trường Tiểu học” nhằm giúp các em nắm bắt, tiếp thu nhanh nhất kiến thức bài học của bộ môn âm nhạc. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Vì đề tài nêu ra một số biện pháp giúp các em học tốt môn Âm nhạc trong trường Tiểu học nên đối tượng nghiên cứu của đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn âm nhạc ở trường Tiểu học” trước hết là các phương pháp dạy học truyền thống cũng như hiện đại, các hình thức tổ chức dạy học, nội dung chương trình của môn Âm nhạc ở các khối lớp, hệ thống câu hỏi, việc chuẩn bị đồ dùng, cũng như nghiên cứu về cách đánh giá thường xuyên tiết dạy theo TT22. 1.4. Phạm vi nghiên cứu: Để nghiên cứu đề tài trên, tôi chọn phạm vi nghiên cứu là học sinh trường Tiểu học Quảng Ninh.. 1.5. Phương pháp nghiên cứu. [2] – Phương pháp thuyết trình. – Phương pháp vấn đáp. – Phương pháp giảng giải. – Phương pháp nghiên cứu tài liệu, giáo trình. – Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục. 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. [1] Trong nhà trường, những học sinh có năng khiếu âm nhạc chiếm tỉ lệ rất thấp. Tuy nhiên, dạy Âm nhạc ở Tiểu học là việc dạy cho tất cả học sinh, mà đa số là các em không có năng khiếu âm nhạc, vì vậy môn học này không đặt mục tiêu giúp các em trở thành diễn viên, ca sĩ hay nhạc sĩ chuyên nghiệp. Mục tiêu của môn học này giúp các em phát triển toàn diện, tự nhiên và cân bằng trí tuệ, sáng tạo và cảm xúc thẩm mĩ. Dạy Âm nhạc nhằm phát triển nhận thức và các năng lực âm nhạc của học sinh, tạo cho các em có một trình độ văn hóa âm nhạc nhất định, góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh. Xuất phát từ công tác giảng dạy Âm nhạc cho học sinh ở lứa tuổi Tiểu học. Vấn đề học và kết quả học tập của các em là hết sức quan trọng, điều đó không chỉ phụ thuộc vào chương trình giảng dạy phù hợp mà còn phụ thuộc vào phương pháp truyền thụ của người thầy. Hơn nữa còn phụ thuộc vào ý thức học tập của các em, cùng với sự quan tâm chăm sóc, tạo điều kiện của gia đình và toàn thể xã hội. Âm nhạc là môn học mang tính nghệ thuật cao, nó khác rất nhiều so với môn học khác, tuy nó không đòi hỏi sự chính xác một cách tuyệt đối như những con số nhưng đòi hỏi người học phải có sự yêu thích, đam mê và có một chút gọi là “năng khiếu”, điều này không phải học sinh nào cũng có được. Học Âm nhạc mang đến cho học sinh những phút giây thư giãn, thoải mái, học mà chơi, chơi mà học. Thông qua giai điệu, lời ca, cử chỉ, điệu bộ, giúp các em nhận thức những hình tượng âm thanh, kích thích cảm xúc của các em, giúp các em cảm thụ những giai điệu đẹp qua từng bài hát, từng câu nhạc. Nhu cầu nhận thức của học sinh Tiểu học đang phát triển. Hành vi và thói quen đạo đức đang hình thành. Các em giàu cảm xúc, sống bằng tình cảm, thích sinh hoạt tập thể và múa hát. Xét về mặt tình cảm, các em rất dễ xúc động trước những cái hay, cái đẹp biểu hiện trong cuộc sống. Nhưng lên đến lứa tuổi cao hơn- độ tuổi 9-10, các em đã hình thành các phẩm chất cũng như các năng lực ở mức độ cao hơn, các em có những nhạy cảm riêng và đòi hỏi nhu cầu tiếp thu kiến thức một cách hoàn hảo hơn. Chính vì vậy người giáo viên cần phải có năng lực trong giao tiếp, trong sự truyền tải kiến thức cho các em. Muốn các em hiểu bài một cách tốt nhất, người giáo viên phải bỏ thời gian công sức, trí tuệ của mình để nghiên cứu tài liệu cũng như tìm tòi ra những phương pháp, những hình thức dạy học để giúp các em tiếp thu bài một cách trọn vẹn . . . Giáo viên Tiểu học là người hình thành ở các em những cơ sở ban đầu cho sự tiếp thu nghệ thuật âm nhạc và phát hiện những mầm non có năng khiếu âm nhạc để sớm có điều kiện bồi dưỡng các em thành nhân tài của đất nước. Muốn vậy, GV dạy môn Âm nhạc phải có hiểu biết cơ bản về lý thuyết âm nhạc, phải rèn luyện để có kĩ năng thực hành giúp các em hát kết hợp gõ đệm đúng với tất cả sắc thái biểu cảm và hình thành ở các em cảm xúc và thị hiếu lành mạnh. Chính vì vậy, không còn cách nào khác, người giáo viên cần phải tự học hỏi, trau dồi về chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia các chuyên đề đổi mới phương pháp; học hỏi cấp trên, đồng nghiệp, bạn bè, gần gũi, quan tâm đến mọi đối tượng học sinh. Biết nắm bắt tâm sinh lý lứa tuổi để gây cảm hứng cho các em trong học tập. Ngoài ra không ngừng luyện tập về chuyên môn như luyện giọng hát, luyện tập đàn, tập múa, biểu diễn và một vài thủ thuật khác để giúp các em học tốt nhằm nâng cao chất lượng môn Âm nhạc trong nhà trường, giúp các em phát triển một cách toàn diện về: Đức- Trí- Thể- Mĩ. Từ đó các em sẽ góp phần học tốt các môn học khác trong nhà trường. 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Trường Tiểu học Quảng Ninh là một trường nằm ở gần trung tâm của huyện Quảng Xương, điều kiện cơ sở vật chất cũng không còn nhiều khó khăn như trước nữa, phần nào nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá văn nghệ thuật của nhà trường nói riêng và của địa phương nói chung. Mặt khác việc tiếp cận các thông tin âm nhạc và việc được tham gia các hoạt động âm nhạc của các em học sinh đang còn rất hạn chế. Do vậy để các em học tốt và có hứng thú học tập bộ môn này, đòi hỏi người giáo viên phải có một phương pháp truyền đạt, phương pháp thu hút, tạo sự hứng thú cho các em với môn học. Đại bộ phận các em do ít được tiếp xúc với các loại hình nghệ thuật nên còn nhược điểm rất phổ biến là hát theo thói quen, hát tự do theo cảm tính… Vì vậy người giáo viên phải từng bước giúp các em nắm được các kiến thức, các kỹ năng cơ bản của ca hát từ đó giúp các em có được sự tự tin, phát triển tai nghe và khả năng thể hiện các tính chất Âm nhạc. Những năm trước đây, do trang thiết bị cho môn học còn hạn chế, giáo viên còn dạy truyền khẩu nhiều nên việc truyền đạt và giúp các em tiếp thu kiến thức Âm nhạc là hết sức khó khăn, thậm chí những kiến thức đó đến với các em hết sức trừu tượng. Việc truyền thụ các bài hát chỉ qua phương pháp truyền khẩu thuần tuý ít phát triển khả năng tư duy của các em. Do đó không tạo được sự thu hút, ít gây 2.2.1. Những việc đã làm được. Nhìn chung, SGK đã xác lập được một hệ thống tri thức âm nhạc nhẹ nhàng, phong phú. Trong chương trình từng lớp và toàn cấp học các nội dung được sắp xếp đan xen một cách hài hoà hợp lí. Tạo cơ sở để học sinh rèn luyện kĩ năng hát đúng, hát hay, giúp phát triển trí tuệ, bồi dưỡng tình cảm trong sáng, lành mạnh tạo điều kiện để các em bộc lộ và phát triển năng khiếu âm nhạc, hướng tới chân, thiện, mĩ góp phần làm thư giãn đầu óc, làm cân bằng các nội dung học tập khác ở Tiểu học. Mặt khác, sau khi Hội nghị công chức- viên chức đầu năm xong, tôi đã nắm bắt được kế hoạch của nhà trường trong việc dạy học môn Âm nhạc. Bản thân đã tự lên kế hoạch cho từng khối lớp. Từ đó đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng bộ môn Âm nhạc của mình phụ trách. Là một người giáo viên có tinh thần trách nhiệm cao, với khả năng của mình, bản thân đã không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Tham gia các buổi chuyên đề của nhà trường và của PGD&ĐT tổ chức. Thực hành nghiên cứu tài liệu, soạn giảng các kế hoạch bài học, tìm tòi các phương pháp đổi mới, các hình thức dạy học để giúp học sinh tiếp thu bài tốt. Kết quả chất lượng môn Âm nhạc ngày một đi lên. Đầu năm các em còn hát sai nhạc, gõ tiết tấu chưa đúng, gõ phách còn lẫn lộn, nhất là các em học sinh lớp Một, mới vào cấp Tiểu học còn nhiều bỡ ngỡ. Nhưng đến bây giờ, chất lượng học tập của các em đã chuyển biến rõ rệt. Các em say mê học hát hơn, yêu thích môn Âm nhạc hơn, hát đúng và còn hát hay nữa. Những động tác phụ hoạ cùng với lời hát có phần điêu luyện hơn, gõ phách và gõ tiết tấu đã chính xác với lời của bài hát. Vì vậy, tính đến thời điểm cuối tháng tư, toàn trường có 388 em đều đạt mức độ hoàn thành và hoàn thành tốt, Đó cũng là một dấu hiệu đáng mừng cho chất lượng dạy học môn Âm nhạc ở trường chúng tôi. 2.2.2. Những mặt còn hạn chế. * Về phía nhà trường. Nhìn chung, nhà trường cũng đã rất quan tâm trong việc chỉ đạo dạy và học môn Âm nhạc, tuy nhiên khi tổ chức các tiết chuyên đề, thường là ở các môn như Toán; Tiếng Việt; TNXH; Khoa học; Địa lý; Đạo đức. Môn Âm nhạc ít được đề cập đến. * Về phía đồng nghiệp. Hầu như giáo viên chủ nhiệm chưa coi trọng môn học âm nhạc và thường đánh giá môn học âm nhạc là môn phụ nên nhiều lúc họ cho rằng học cũng được và không học cũng chẳng sao, cái chính là phải học Toán và Tiếng Việt nên sự tương tác giữa giáo viên dạy môn Âm nhạc và học sinh chưa được coi trọng. * Về phía phụ huynh. Đa phần phụ huynh học sinh thường cho con em mình tập trung học ở các môn nhiều giờ như Toán; Tiếng Việt, TNXH hay Đạo đức. Phụ huynh thường quan niệm rằng, môn Âm nhạc là một môn học phụ, học nhiều cũng được, học ít cũng xong. Họ đâu có biết đấy là một môn bắt buộc trong tám môn học ở trường Tiểu học. Có học tốt môn Âm nhạc, tinh thần của các em mới phấn chấn để tiếp tục học các môn học khác, hoặc chính nhờ thông qua việc học môn Âm nhạc các em đang được học kỹ năng biểu diễn, kỹ năng tự tin trước đám đông, kỹ năng thuyết trình Học tốt môn Âm nhạc sẽ phục vụ cho cuộc sống sau này của các em rất nhiều. * Về phía giáo viên. Bản thân giáo viên phụ trách môn Âm nhạc cũng đã rất nhiệt tình trong công tác giảng dạy, xong với tuổi đời đã có nhưng kinh nghiệm cũng chưa nhiều, nhà trường có 2 giáo viên nhạc, bản thân thường làm giáo viên tổng phụ trách đội, Chưa có nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu, băng hình cũng như các tập san, tạp chí để tìm ra các phương pháp hữu hiệu trong mỗi tiết dạy nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Âm nhạc cho học sinh. Chưa tham gia được nhiều về việc dạy các tiết chuyên đề cũng như tham gia sinh hoạt chuyên môn cụm. Chưa tìm hiểu nhiều được tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh ở từng khối lớp. * Về phía học sinh. Nhất là học sinh lớp 1 bước đầu mới làm quen môn âm nhạc, nhiều em còn chưa biết đọc, hát còn ngọng chưa chính xác, rụt rè nhút nhát trong giờ học. Các em chưa làm quen hát kết hợp gõ đệm theo các cách, chưa phân biệt được từng cách gõ đệm theo tiết tấu, theo phách, theo nhịp khác nhau như thế nào trong một bài hát. Vì thế, các em hát còn tùy tiện lúc nhanh, lúc chậm dẫn đến việc hát sai giai điệu của bài hát. Đối với học sinh các khối lớp 2; 3; 4; 5, tuy các em có lớn hơn chút ít nhưng kĩ năng hát hay, hát đúng nhạc chưa được nhiều. Có chăng các em cũng hát được phần cơ bản. Vì vậy, về kĩ thuật các em chưa thẩm thấu dẫn đến các em hát sai nhạc, gõ phách và tiết tấu sai Cụ thể như sau: – Khả năng thuộc lời bài hát còn kém. – Khả năng nghe nhạc chưa chuẩn. – Tập đọc nhạc còn sai. – Hát chưa đúng giai điệu. – Hát kết hợp gõ đệm, gõ tiết tấu chưa tốt. – Hát kết hợp vận động chưa nhịp nhàng. Sau một tháng giảng dạy ở các lớp, kết quả khảo sát chất lượng môn Âm nhạc của học sinh các khối lớp trong toàn trường đã thu được như sau: Khối Sĩ số Hoàn thành tốt % Hoàn thành % Chưa hoàn thành % 1 93 38 40.8 49 52,7 6 6,5 2 55 19 34.5 33 60 3 5.5 3 94 45 47.9 47 50 2 2,1 4 63 24 38.1 37 58.7 2 3.2 5 83 30 36.1 51 61.5 2 2.4 Tổng số 388 156 40.2 217 55.9 15 3.9 Từ kết quả khảo sát cho thấy, việc tiếp thu các kiến thức âm nhạc và sự yêu thích học tập bộ môn của các em chưa cao lắm. Vì thế bản thân tôi cảm thấy rất trăn trở, tôi tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi, bổ sung một số giải pháp giúp học sinh học tốt môn âm nhạc ở trường tiểu học. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 2.3.1. Giải pháp giúp học sinh yêu thích môn Âm nhạc. Như chúng ta đã biết, giáo dục âm nhạc cho HS tiểu học phải bằng mọi hình thức và nhiều biện pháp vì thế tổ chức giờ học dưới nhiều hình thức như tổ chức trò chơi âm nhạc, Tập vận động phụ hoạ – biểu diễn – trình bày bài hát, Lồng ghép hoạt động Giáo dục ngoài giờ lên lớp vào hoạt động dạy học Âm nhạc, Tổ chức trò chơi âm nhạc rất được HS thích thú và là biện pháp mang lại hiệu quả rất cao trong dạy và học Âm nhạc. Các biện pháp này thu hút sự chú ý và say sưa học tập, đồng thời tạo sân chơi, giúp các em HS gắn bó, hòa đồng với nhau, yêu thích và mong chờ được học môn Âm nhạc. GV tổ chức cho HS thực hiện bằng nhiều hình thức: cho HS lên biểu diễn trước lớp, trình bày bài hát bằng hình thức hát xô và hát xướng, kể các bài hát dân ca mà em biết Giúp HS được học mà chơi, chơi mà học, làm thư giãn tinh thần qua những tiết học văn hóa, làm giờ học âm nhạc phong phú, hấp dẫn. Góp phần giúp HS phát triển trí tuệ. 2.3.2. Giải pháp giúp học sinh học hát, phát triển khả năng nghe nhạc, tập đọc nhạc. Âm nhạc ở Tiểu học gồm các mạch nội dung như: Học hát, phát triển khả năng nghe nhạc, Tập đọc nhạc. Ở lớp 1, 2, 3 Học hát và Phát triển khả năng nghe nhạc. Qua học hát, HS được rèn luyện về tai nghe, trí nhớ âm nhạc, phát triển nhạc cảm và làm quen với việc thể hiện chính xác về độ cao, trường độ. Học kì II lớp 3 HS được tiếp cận bước đầu với một vài kí hiệu ghi chép nhạc. Đến lớp 4, 5 bổ sung thêm nội dung Tập đọc nhạc. Âm nhạc được tách riêng thành một môn học có SGK cho HS và sách hướng dẫn giảng dạy cho giáo viên. – Học hát: Học sinh Tiểu học được học từ 10 đến 12 bài hát trong một năm học. HS cần hát đúng cao độ, trường độ và phát âm rõ lời, chính xác. Tiếng hát phải có sức biểu cảm với những trạng thái khác nhau như: vui vẻ, hồn nhiên, nhí nhảnh … Dạy hát gồm các bước sau: giới thiệu bài, hát mẫu, đọc lời ca, khởi động giọng, dạy hát từng câu, hát cả bài, hát kết hợp gõ đệm bằng nhạc cụ, hát kết hợp vận động phụ hoạ. – Phát triển khả năng nghe nhạc: Học sinh được nghe Quốc ca, dân ca, bài hát thiếu nhi chọn lọc hoặc nhạc không lời. Nghe kể chuyện Âm nhạc. Được nghe, xem giới thiệu hình dáng một vài nhạc cụ trong và ngoài nước. Nghe âm sắc qua băng đĩa các trích đoạn nhạc được diễn tấu bằng các loại hình nhạc cụ này. – Tập đọc nhạc: Ở lớp 4, 5 các em được làm quen với 8 bài TĐN, giọng Đô trưởng, nhịp 2/4, 3/4 gồm 5 âm Đô-Rê-Mi-Son-La hoặc 7 âm: Đô-Rê-Mi-Pha-Son-La-Si với hình nốt đen, nốt trắng, móc đơn, trắng chấm dôi, đen chấm dôi, dấu lặng đen và dấu lặng đơn. Khi dạy TĐN, giáo viên cho các em nhận biết tên nốt, hình nốt và từ nốt thấp đến nốt cao trong bài. Tập lần lượt cao độ, tiết tấu riêng. Sau đó đàn giai điệu vài lần cho các em đọc theo từng câu ngắn. Khi đã đọc đúng giai điệu thì cho HS ghép lời. Trong khi đọc GV nhắc các em gõ phách đều đặn, nhịp nhàng. 2.3. 3. Biện pháp luyện hát đúng giai điệu, hát kết hợp gõ đệm, gõ tiết tấu. Giáo viên phải xây dựng nền nếp học tập ngay từ bài học đầu tiên như: xác định thái độ, ý thức học tập đối với môn Âm nhạc, tư thế ngồi hát, kỹ năng phát âm, nhả tiếng, quan sát, lắng nghe và cảm nhận âm sắc, giai điệu. * Biện pháp: Luyện hát đúng giai điệu. Giới thiệu bài hát một cách sinh động, gây sự chú ý, tò mò cho học sinh. Các em nghe hát mẫu và đọc lời ca. Ví dụ: Trong bài “Lớp chúng ta đoàn kết” (Nhạc và lời của Mộng Lân). Khi đọc lời ca phải hướng dẫn các em đọc theo tiết tấu và ngắt ở cụm từ như sau: Lớp chúng mình/ rất rất vui,/ anh em ta chan hoà tình thân./… Để các em đọc đúng tiết tấu, giáo viên chỉ bảng phụ và hướng dẫn các em đọc câu theo mẫu. Sau khi giúp học sinh đọc đúng lời ca giáo viên phải hướng dẫn các em khởi động giọng. Ví dụ : Mề ê ế ê mà a á a à Khi tập cần sự đồng đều hoà giọng chính xác và diễn cảm với những trạng thái khác nhau. Để các em cảm nhận giai điệu của từng câu hát, giáo viên đàn, hát mẫu. Việc tập hát từng câu và tập hát theo lối móc xích sẽ giúp các em mau nhớ lời ca và hát chuẩn xác giai điệu hơn. Việc củng cố luyện tập từng đoạn của bài hát giúp các em cảm nhận giai điệu và lời ca, tự tin. Đặc biệt là giúp các em loại bỏ sự chán nản khi chưa thực hiện được bài học. * Biện pháp: Hát kết hợp gõ đệm. Việc sử dụng các nhạc cụ gõ đệm theo khi hát làm cho bài hát sinh động, gây hứng thú, giúp các em giữ được nhịp độ của bài mà không bị cuốn nhanh. Thông thường, có 3 cách gõ đệm để luyện tập củng cố bài hát đó là: Hát gõ đệm theo nhịp, phách, tiết tấu lời ca. Tuy nhiên tuỳ theo từng bài hát cụ thể mà vận dụng cho phù hợp. Ví dụ: Bài “ Bầu trời xanh ” Nhạc và lời: Nguyễn Văn Quỳ ( lớp 1) Sử dụng cách gõ đệm theo phách và gõ đệm theo tiết tấu đã được viết sẵn vào bảng phụ trên khuông nhạc chia làm 2 cách gõ đệm khác nhau. Gõ đệm theo phách: Gõ theo tiết tấu: Mỗi nốt trên khuông nhạc giáo viên đã đánh dấu “x” tương ứng với tiếng được gõ theo ô nhịp. Không giải thích vì sao chỉ nhận xét về hai cách gõ. Sau đó hướng dẫn học sinh cách tự xác định tiết tấu, phách ở những câu còn lại trong bài hát. Để phân biệt h
Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Địa Lí Ở Tiểu Học
Môn học Địa lí ở tiểu học là một trong những môn học vó vị trí quan trọng trong chương trình giáo dục. nó cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về thiên nhiên và cuộc sống con người của các vùng miền trong đất nước Việt Nam. Việc dạy học môn địa lý đã có chương trình riêng biệt và được in chung với môn học lịch sử gọi là sách Lịch sử và Địa lý.
Nhưng một thực tế hiện nay việc học tập của học sinh ở tiểu học các em không tích cực học tập môn học này một cách say sưa và tự giác. Các em thường chú trọng vào hai môn học chính là Toán và Tiếng Việt do đó việc nắm bắt kiến thức về Địa lý còn ở mức trung bình. Bên cạnh đó việc giúp đỡ của bố mẹ các em ở nhà cũng không được quan tâm nhiều nên chất lượng học tập môn học này ngày càng có dấu hiệu yếu hơn cho dù giáo viên đã tìm nhiều cách giúp đỡ để cho các em học tập tốt.
Với vai trò là một cán bộ quản lý phụ trách công tác chuyên môn, bản than tôi luôn chu trọng vào chất lượng giáo dục chung của nhà trường, tôi thường khuyến khích giáo viên cần quan tâm đến chất lượng học tập của mỗi học sinh, giúp các em học đều các môn, không phân biệt môn nào là chính, môn nào là phụ. Cuối môi tháng, mỗi kì tôi thường tổ chức các lớp chuyên đề nhằm giúp giáo viên rút kinh nghiệm trong công tác giảng dạy cũng nư học hỏi lẫn nhau nhằm tìm ra những phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh tại địa phương.
Đây cũng là một trong những nhiệm vụ hàng đầu mà tôi đề ra đầu mỗi năm học. Riêng năm học 2015-2016 này tôi đã lạp kế hoạch cụ thể, chi tiết việc nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường đối với giáo viên các lớp, nhất lừ môn học Địa lý. Đây cũng là nội dung đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn địa lí mong rằng sáng kiến nhỏ này sẽ góp phần vào sự thành công của nền giáo dục huyện nhà.
Mục tiêu: giúp giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học nhằm nâng cao kiến thức địa lí thông qua bản đồ, lược đồ, tranh ảnh, thơ ca…một cách tốt nhất. Từ đó tạo hứng thú cho học sinh trong học tập môn học này.
Nhiệm vụ: Để thực hiện thành công đề tài tôi thực hiện các nhiệm vụ chính sau đây:
– Nghiên cứu lý luận về nội dung đề tài, tâm sinh lí lứa tuổi học sinh
– Khảo sát tình hình và chất lượng học tập của học sinh học tập môn địa lí hiện nay ở tiểu học nói chung và trường tiểu học …………….. nói riêng.
– Từ thực trạng đó đề ra biện pháp có hiệu quả giúp học sinh học tốt môn Địa lí. Từ kết quả thực nghiệm để triển khai và đánh giá kết quả rút ra bài học kinh nghiệm bổ ích. Từ đó triển khai mở chuyên đề bồi dưỡng phương pháp dạy học cho giáo viên của trường tiểu học ………………
Học sinh khối 4,5 trường Tiểu học ……………… Nghiên cứu các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học địa lí ở tiểu học hiện nay.
Do điều kiện hạn chế về thời gian và không gian nen phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ nghiên cứu trong trường tiểu học.
Dựa trên những tư liệu về các chuyên đề đã được nghiên cứu, tôi tiến hành khảo sát đối tượng học sinh, từ đó có cơ sở xây dựng kế hoạch khảo nghiệm sao cho đạt kết quả tốt hơn
Sau khi đã có kết quả nghiên cứu về việc học tập môn Địa lý của học sinh. Qua đó tôi tiến hành tổ chức khảo nghiệm nhằm đánh giá tính khả thi vấn đề nghiên cứu.
Sau khi triển khai thực hiện chuyên đề theo kế hoạch đề ra, tôi đã bám sát kết quả thu được, trên cơ sở đó tôi điều chỉnh cách làm để phù hợp với nội dung nghiên cứu. sau đó tổng kết quá trình thực hiện, từ đó có cơ sở đề xuất những biện pháp thực hiện đại trà đến nhiều học sinh hơn nhằm nâng cao chất lượng học tập môn Địa lí.
Ngoài ra tôi còn sử dụng thêm một số phương pháp nghiên cứu khác để bổ trợ cho quá trình nghiên cứu của sáng kiến.
Môn địa lí ở tiểu học góp phần bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan khoa học và những quan điểm nhận thức đúng đắn. Địa lý là một môn học có tính tổng hợp. Trong quá trình học tập địa lý học sinh luôn phải tìm hiểu mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển và biến đổi không ngừng của chúng. Những kiến thức đó góp phần hình thành cho học sinh thế giới quan duy vật biện chứng. Học Địa lý giúp học sinh nhận thức đúng vai trò của tự nhiên, của con người trong các hoạt động kinh tế – xã hội trên lãnh thổ từ đó góp phần bồi dưỡng cho học sinh quan điểm duy vật lịch sử, tư duy kinh tế, tư duy sinh thái… Giáo dục cho học sinh lòng yêu nước, thái độ nhiệt tình lao động, ý thức làm chủ và lòng mong muốn góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Giúp học sinh nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên trong việc tỏ thái độ với các hành động tiêu cực…Qua việc học Địa lý Thế giới giúp học sinh đồng tình với cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân lao động trên thế giới để giành độc lập, dân chủ, tiến bộ và tự do…
Tất cả các nhận thức, tình cảm nói trên là những yếu tố cơ bản góp phần hình thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta việc dạy học nói chung và bồi dưỡng nhân tài nói riêng được chú trọng ngay từ khi dựng nước vì như Thân Nhân Trung đã nói ” Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thế nước lên nguyên khí suy thế nước xuống.”
Ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước việc dạy học nói chung và bồi dưỡng nhân tài nói riêng càng được chú trọng nhằm hình thành những con người có ý thức và đạo đức XHCN, có trình độ, có văn hóa, có hiểu biết kỹ thuật, có năng lực lao động cần thiết, có óc thẩm mĩ và có kiến thức tốt để kế tục sự nghiệp cách mạng, xây dựng vào bảo vệ tổ quốc.
Với mục tiêu giáo dục: Nâng cao dân trí- Đào tạo nhân tài – Bồi dưỡng nhân tài. Môn địa lí khả năng bồi dưỡng cho học sinh một khối tri thức phong phú về tự nhiên -kinh tế -xã hội và những kỹ năng kỹ xảo hết sức cần thiết trong cuộc sống. Và còn có khả năng to lớn trong việc bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan khoa học và những nhận thức dúng đắn, khả năng hình thành cho học sinh nhân cách con người mới trong xã hội hiện đại và năng động này.
Ở bậc tiểu học từ trước tới nay với quan niệm cho rằng bộ môn địa lí là môn học phụ. Vì thế dạy và học địa lí ít được coi trọng, nên chất lượng giảng dạy thấp, học sinh thiếu hứng thú khi học bài, khi học lại chủ yếu là học vẹt để đối phó với giáo viên khi kiểm tra. Vì vậy Đa số học sinh nắm kiến thức sơ đẳng về địa lí còn nhiều hạn chế, số lượng học sinh biết tổng hợp vốn kiến thức về Tự nhiên – xã hội, vị trí địa lí của các vùng miền trên đất nước ta còn hạn chế, tỷ lệ học sinh chưa hoàn thành môn học vẫn còn cao.
Là cán bộ quản lý được trưởng thành từ một giáo viên tâm huyết với nghề; tôi thấy rất băn khoăn trước chất lượng môn địa lí trong nhà trường trong những năm gần đây, tôi thấy mình phải có trách nhiệm thay đổi quan niệm đó và không có gì tốt hơn là chứng minh bằng thực tiễn rằng: môn Địa lí là môn học chính trong chương trình phổ thông và học Địa lí có vai trò rất quan trọng trong đời sống hằng ngày và trong sản xuất.
Ngay từ khi thành lập đến nay trường luôn có số lượng học sinh khá đông hai điểm trường,với tổng số lớp là 19 lớp, gồm 490 học sinh trong đó học sinh dân tộc chiếm tỷ lệ 50%. Đội ngũ cán bộ giáo viên và nhân viên gồm 33 người. 100% các đồng chí giáo viên đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, đội ngũ giáo viên phần lớn còn trẻ tuổi nên rất nhiệt tình trong mọi phong trào, ham học hỏi, yêu nghề mến trẻ, yên tâm công tác dạy học tại địa phương. Trong nhưng năm gần đây chất lượng dạy và học được năng lên rõ rệt. Đạt được điều đó trường đã gặp những thuận lơi -khó khăn sau:
Thuận lợi: Trường luôn nhận được sự chỉ đạo chuyên môn kịp thời của Phòng Giáo dục huyện. Luôn được sự quan tâm của cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương cũng như quý bậc phụ huynh.
Được sự quan tâm của Đảng và nhà nước cũng như ngành giáo dục đã đầu tư nhiều trang thiết bị dạy học, bên cạnh đó trường đã thường xuyên tổ chức tập huấn đổi mới phương pháp trong dạy học nhằm đưa chất lượng giáo dục ngày một nâng cao trong đó có môn địa lí.
Sự nhận thức của các bậc phụ huynh nông thôn về việc học của con em mình ngày một khả quan. Đội ngũ giáo viên đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn chiếm hơn 100%
Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi thì còn nhiều khó khăn trong dạy và học địa lí hiện nay ở trường chúng tôi đó là:
Là một trường tiểu học duy nhất chỉ có hai điểm trường đóng trên địa bàn xã Cư kLông thuộc vùng đặc biệt khó khăn của huyện Krông Năng, địa bàn rộng gồm 8 thôn, gia đình học sinh sống xa trường, một nửa số học sinh là người dân tộc thiểu số,bố mẹ ít quan tâm đến việc học tập của con em, bên cạnh đó điều kiện kinh tế cũng như đường sá đi lại khó khăn nên phần lớn đã ảnh hưởng đến chất lượng dạy học nói chung và môn địa lý nói riêng.
Ý thức học tập của học sinh chưa cao. Luôn xem môn địa lí là môn phụ kể cả cha mẹ các em. Đó là nếp nghĩ từ bao đời nay của người dân Việt Nam. Bên cạnh đó học sinh tiểu học nhớ nhanh nhưng ghi nhớ đó lại không bền vững, trình độ nhận thức của các em còn hạn chế chưa đồng đều.
Song song với những thuận lợi -khó khăn trên, thực trạng môn địa lý ở trường có được những thành công và hạn chế sau:
Thành công: Tuy có nhiều khó khăn nhất định nhưng trong những năm qua dạy và học môn địa lí ở trường tiểu …………….. đã có những thành công đáng ghi nhận đó là:
– Việc thực hiện đánh giá học sinh theo thông tư 30/2014/TT-BGD ĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 Về phía học sinh, được trực tiếp tham gia đánh giá kết quả học tập của mình, của bạn, các em phát triển khả năng giao tiếp và học tập đạt kết quả tốt hơn. Phụ huynh cùng tham gia đánh giá cũng giúp họ nắm rõ hơn về tình hình học tập, rèn luyện của con. Việc đánh giá học sinh bằng lời, không dùng điểm số tránh được việc so sánh giữa học sinh này với học sinh khác, tạo tâm lý thoải mái cho các em trong học tập và các hoạt động giáo dục. Giáo viên kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ hay hạn chế của học sinh để động viên, khích lệ, hướng dẫn, hỗ trợ trong quá trình học tập, rèn luyện. Cách đánh giá này buộc giáo viên có trách nhiệm hơn với công việc, luôn tích cực đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, điều chỉnh hoạt động dạy học và giáo dục phù hợp với từng đối tượng học sinh để đạt hiệu quả cao.
– Số học sinh có điểm môn địa lí khá giỏi trong những năm qua tăng lên đáng kể. Số em không đạt yêu cầu chiếm tỉ lệ nhỏ. Đa số các em có kiến thức cơ bản về môn địa lí trong chương trình tiểu học.
– Về xã hội đã quan tâm hiều hơn về môn học này, biểu hiện qua một số chương trình tìm hiểu địa lí Việt Nam trên ti vi.
– Nhà trường đã có nhiều chuyên đề, hội thảo về môn học này. Cũng như tổ chức nhiều cuộc thi tìm hiểu về địa lí như Tìm hiểu về biển đảo Việt Nam, tìm hiểu về các dân tộc Việt Nam, Thiết kê thời trang biển…
Hạn chế: Tuy có nhiều thành công nhưng vẫn còn tồn tại những hạn chế chưa được khắc phục đó là:
– Hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu, dạy trên lớp là chủ yếu. Các hình thức dạy học cá nhân, ngoài trời chưa được thực hiện, hoặc thực hiện chưa có hiệu quả.
– Cơ sở vật chất phục vụ dạy học, các phương tiện dạy học còn thiếu và chưa đồng bộ.
– Học sinh có tính ỉ lại, không chịu tìm tòi, không chủ động nắm bắt kiến thức, không tập trung vào bài học, khả năng tổng hợp kiến thức kém, tiếp thu bài chậm.
Nhìn chung giờ học Địa lý chưa mang lại nhiều hứng thú cho học sinh. Có thể nói cách dạy và học Địa lý như trên đã gây ảnh hưởng không nhỏ đối với chất lượng dạy học, đồng thời hạn chế việc phát triển trí tuệ của học sinh khi học môn Địa lý. Vì vậy tiếp tục đổi mới một cách mạnh mẽ, có hiệu quả các phương pháp dạy học Địa lý là một trong những vấn đề quan trọng nhất cần phải được tiếp tục quan tâm và tìm cách giải quyết.
Mặt mạnh: Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm đầu tư chất lượng chuyên môn nói chung trong đó có môn địa lí nói riêng. Khuyến khích động viên giáo viên tham gia hội giảng với nhiều hình thức, với nhiều môn học khác nhau. Luôn động viên khen thưởng kịp thời với những giáo viên giỏi, giáo viên có nhiều sáng kiến trong dạy học.
– Một số giáo viên vẫn chưa thực sự thấm nhuần tích cấp thiết, tầm quan trọng, bản chất phương hướng và cách thức đổi mới phương pháp dạy học Địa lý, hiểu biết về cơ sở lý luận, thực tiễn của đổi mới phương pháp dạy học còn chưa sâu sắc.
– Đa số giáo viên vẫn chú trọng truyền thụ kiến thức theo kiểu thuyết trình xen kẽ với hỏi đáp, nặng về thông báo, giảng giải kiến thức, nhẹ về phát huy tính tích cực và phát triển tư duy học sinh, học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động.
Có nhiều nguyên nhân và yếu tố dẫn đến những thực trạng trên, tuy nhiên trong quá trình thực hiện đề tài đi sâu vào nghiên cứu mở rộng nhiều vấn đề tôi nhận thấy:
– Giáo viên mới chỉ quan tâm đến kiến thức nội dung chính của bài và những kiến thức nào cần học thuộc.
– Bài giảng còn chưa thật hấp dẫn, chưa thu hút học sinh.
– Các phương pháp giảng dạy còn hạn chế, chưa thật sự phát huy được vai trò của đồ dùng dạy học (mà ở đây là bản đồ; tranh ảnh…)
– Bài giảng cứng nhắc, nặng về nội sung văn bản, thiếu tính sáng tạo. Giáo viên chưa cập nhật thông tin địa lí thường xuyên và chưa có kiến thức chuyên sâu về môn học này.
-Thời lượng 1 tiết trong 1 tuần với môn học này quả là ít, nếu không muốn nói là “cưỡi ngựa xem hoa”.
– Suy nghĩ của phụ huynh vẫn chưa mấy thay đổi khi xem địa lí là môn phụ dẫn đến hệ quả là không hướng dẫn con em mình đầu tư thời gian học và nghiên cứu về môn học này.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những thực trạng trên nhưng theo tôi nguyên nhân cơ bản sau gây nên việc học sinh chưa mặn mà với môn học này. Đó là:
Thứ nhất: Hiện nay, các trường tiểu học đã có bản đồ, lược đồ, tranh, ảnh, quả địa cầu,… nhưng các thiết bị và phương tiện dạy học hiện đại thì đa số là chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay. Cơ sở vật chất ở các trường tiểu học còn thiếu, chưa đủ, các tài liệu nghiên cứu chưa cập nhật kiến thức mới thường xuyên. Trong mỗi lớp học ở tiểu học tính trung bình chỉ có một đến hai bản đồ treo tường, một vài tranh ảnh treo tường và vài lớp chung nhau 1 một quả địa cầu. Các thiết bị hiện đại kèm theo chúng như ti vi, đầu video, đèn chiếu, máy vi tính… chưa được trang bị.
Thứ hai: Giáo viên hiện nay rất ngại sử dụng đồ dùng dạy học trong giờ học. Tình trạng dạy “chay” là phổ biến, các đồ dùng nếu được sử dụng thì cũng chỉ mang tính chất hình thức, đối phó là chính và hầu như chúng được sử dụng như là những phương tiện minh hoạ, hỗ trợ cho lời giảng của giáo viên trên lớp. Giáo viên chỉ quan tâm đến tính chất minh hoạ của thiết bị mà chưa chú ý hoặc chú ý chưa đầy đủ đến việc khai thác tri thức bên trong của chúng. Bên cạnh đó, việc sử dụng đồ dùng không phù hợp với tiến trình bài học, không đúng lúc, đúng chỗ cũng là một trường hợp khá phổ biến. Một lí do khác rất quan trọng là, những giáo viên có ý thức sử dụng đồ dùng trong giờ học nhưng lại không biết cách tổ chức cho học sinh làm việc với các đồ dùng như thế nào cho hiệu quả. Với cách tổ chức giờ học và cách sử dụng các đồ dùng dạy học như hiện nay, hoạt động của học sinh trong giờ học trên lớp chủ yếu là nghe giảng, quan sát, ghi nhớ và tái hiện thông tin đã được giáo viên truyền đạt. Như vậy học sinh chỉ đóng vai trò thụ động trong quá trình nhận thức chứ chưa phải là chủ thể trong quá trình nhận thức. Học sinh không khai thác được nội dung kiến thức tiềm ẩn trong các đồ dùng dạy học, không phát huy được tính tích cực nhận thức trong quá trình học tập, không được phát huy tư duy, mối quan hệ giữa người học và các đồ dùng dạy học chỉ mang tính chất hình thức bên ngoài. Điều đó đồng nghĩa với việc học sinh chưa tiếp cận được với mục tiêu cần đạt được của bài học, không nắm được khái niệm một cách đầy đủ, chính xác. Do đó, không nâng cao được chất lượng dạy học, đặc biệt là kết quả nhận thức của học sinh.
Thứ ba: Một vấn đề nữa là công tác quản lí, chỉ đạo lãnh đạo của nhà trường còn thiếu chặt chẽ, không kiểm tra thường xuyên việc sử dụng các đồ dùng dạy học của giáo viên. Bên cạnh đó giáo viên ý thức để học, trau dồi tay nghề cho mình còn hạn chế. Việc thăm lớp dự giờ không thường xuyên nếu không muốn nói là đối phó.
Thứ tư: Phụ huynh và học sinh chưa đầu tư thời gian cho môn học này. Bên cạnh đó hoạt động ngoài giờ lên lớp tìm hiểu về địa lí chưa phong phú, chưa thu hút được các em tham gia.
Thực trạng trên đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp thay đổi phương pháp dạy, tích cực hơn nữa trong việc dạy và học môn địa lí nhằm tạo hứng thú, ý thức học tập cho học sinh, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy.
II.3. Biện pháp thực hiện.
Mục tiêu của biện pháp: Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu:
– Giúp học sinh có kĩ năng khai thác tri thức địa lí từ bản đồ, lược đồ, từ những tranh ảnh về địa lý, khai thác tri thức địa lý qua sách giáo khoa.
– Giúp giáo viên biết cách sử dụng tục ngữ, ca dao vào bài giảng để giúp học sinh ghi nhớ kiến thức nhanh hơn, bài giảng của giáo viên sinh động hơn. Từ đó gây hứng thú cho các em trong khi học địa lí.
– Từ những kiến thức địa lí bồi dưỡng cho các em tình yêu quê hương, đất nước, tự hào về con người và đất nước Việt Nam.
– Bản đồ là một phưng tiện trực quan, một nguồn tri thức địa lý quan trọng. Qua bản đồ, học sinh có thể nhìn một cách bao quát các khu vực lãnh thổ rộng lớn, những vùng lãnh thổ xa xôi trên bề mặt Trái Đất mà học sinh chưa bao giờ có điều kiện đi đến tận nơi để quan sát.
– Về mặt nội dung, bản đồ có khả năng phản ảnh sự phân bố và những mối quan hệ của các đối tượng địa lý trên bề mặt Trái Đất một cách cụ thể, mà không có một phương tiện nào khác có thể làm được. Những kí hiệu, màu sắc, cách biểu hiện trên bản đồ là những nội dung địa lý đã được mã hóa, trở thành một ngôn ngữ đặc biệt, ngôn ngữ bản đồ.
– Về mặt phương pháp, bản đồ được coi là phương tiện trực quan, giúp học sinh khai khác, củng cố tri thức và phát triển tư duy trong quá trình dạy học địa lý.
– Để khai thác được những tri thức trên bản đồ, trước hết học sinh phải hiểu bản đồ, đọc được bản đồ, nghĩa là phải nắm được những kiến thức lý thuyết về bản đồ, trên cơ sở đố có được những kỹ năng làm việc với bản đồ.
– Đối với giáo viên, hướng dẫn học sinh khai thác tri thức trên bản đồ, chủ yếu là hướng dẫn học sinh đọc được bản đồ ở các mức độ trên, quan trọng nhất là hai mức độ sau.
– Giáo viên hướng dẫn học sinh cách chỉ bản đồ, một địa danh, một khu vực, một con sông,…giáo viên hướng dẫn chậm để các em theo kịp.
– Muốn hiểu và đọc được bản đồ học sinh cần phải xem bảng chú giải để biết được các kí hiệu thể hiện trên bản đồ.
Các em cần phải xác định rõ các khu vực địa hình, cấu trúc của từng khu vực dựa trên các kí hiệu bản đồ, thang màu sắc để thấy rõ đặc điểm của từng khu vực địa hình, phân biệt sự khác biệt giữa các khu vực thông qua câu hỏi hướng dẫn của giáo viên.
Do đó tôi hướng dẫn giáo viên sử dụngn bản đồ trong dạy học địa lý bằng hai cách:
Cách 1: in Màu phóng to trên giấy A0, đây là phương pháp sử dụng thông thường nên không tạo được nhiều hứng thú trong học tập cho học sinh.
Cách 2 (tôi khuyên khích giáo viên tăng cường sử dụng):
Dùng bản đồ bằng hình ảnh động trình chiếu qua máy tính. Đây là một hình thức dạy học phong phú và hấp dẫn sẽ thu hút được học sinh học tập.
Với cách sử dụng này, giáo viên tuy mất chút ít thời gian mà bản đồ nhưng lại mang đến tính hiệu quả cao hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài Địa hình và khoáng sản (địa lí lớp 5). Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát lược đồ Địa hình Việt Nam trang 69 và thực hiện các yêu cầu sau:
– Chỉ vùng đồi núi và đồng bằng so sánh diện tích của vùng đồi núi và đồng bằng nước ta. (lúc giáo viên bấm máy, những vùng sáng ở hai vùng trên sẽ nấp nháy, vừa vui mắt vừa giúp học sinh dễ nhận biết
– Kế tên các dãy núi và cho biết dãy núi nào có hướng Tây-Bắc; Đông- Nam. Những dãy núi nào có hình cánh cung. Chỉ trên lược đồ đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng Nam Bộ và đồng bằng duyên hải miền Trung. (tương tự như trên, giáo viên có thể tạo nhiều hiệu ứng khác nhau sao cho học sinh thích thú và dễ hiểu bài)
Như vậy để thực hiện được yêu cầu trên học sinh phải tư duy vừa quan sát lược đồ đồng thời phân tích tổng hợp kiến thức thể hiện qua lược đồ để so sánh và hoàn thiện yêu cầu. nhưng nhờ cách sử dụng bản đồ bằng máy chiếu nên học sinh sẽ tập trung hơn so với cách xem bản đồ trong sách giao khoa hoặc trong bản đồ giấy giáo viên treo bảng.
Tóm lại: Khi các em được quan sát trên bản đồ trong máy chiếu và kết hợp lược đồ sách giáo khoa thông qua các hiện tượng địa lý được thể hiện các em sẽ biết được kiến thức địa lí tốt hơn. Như vậy dựa vào các kiến thức địa lý thông qua bản đồ học sinh có thể phân tích, giải thích được các mối quan hệ giữa các đối tượng địa lý rồi rút ra kết luận.
Một loại bản đồ khác được sử dụng trong học tập địa lý cũng góp phần rèn luyện kĩ năng và củng cố kiến thức cho học sinh, nhấn mạnh thêm những hiện tượng, sự vật địa lý được Giáo viên sử dụng thêm đó là bản đồ trống. Loại này được sử dụng trong những tiết ôn tập, thực hành…
Để thực hiện hiệu quả việc sử dụng bản đồ và lược đồ giáo viên cần lưu ý:
+ Trong quá trình học tập môn Địa lý việc sử dụng bản đồ để rèn các kĩ năng cho học sinh thì giáo viên phải cần có kế hoạch từng bước, liên tục bồi dưỡng cho học sinh những tri thức về bản đồ, học tập kết hợp bản đồ dần dần hình thành thói quen nhớ lâu hiểu sâu, khi không trực tiếp sử dụng bản đồ thì các em vẫn hình dung được. Và giáo viên cũng cần chú ý kết hợp đối tượng trên bản đồ với thực tế địa phương (nếu có).
+ Sử dụng bản đồ và tranh ảnh thường xuyên trong mỗi tiết học. Ngay từ những bài đầu tiên chúng ta rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng bản đồ theo từng bước, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
+ Sử dụng bản đồ tranh ảnh trong các kiểu bài lên lớp như bài mới, bài ôn tập, thực hành.
+ Phải khéo léo khi sử dụng, chọn những đồ dùng thích hợp nhất, đánh giá đồ dùng trước khi sử dụng để khỏi lãng phí thời gian và làm loãng trọng tâm giờ học, không nên sử dụng quá nhiều đồ dùng trong một tiết dạy.
Phim tư liệu là một phần minh chứng sống động và thực tế nhất trong quá trình dạy học, không chỉ là nguồn kiến thức cung cấp cho học sinh mà còn phát triển tư duy cho học sinh, có sức thu hút học sinh bởi vì Địa lý tiểu học đa số các tranh ảnh chỉ được nêu ra trong lý thuyết mà thực tế các em chưa được thấy thực tế. Trong giảng dạy địa lý, việc quan sát các sự vật, hiện tượng bằng thực tế qua phim tư liệu về địa lý xảy ra trong các không gian lãnh thổ khác nhau không phải lúc nào cũng làm được, vì vậy trong việc hình thành các biểu tượng và khái niệm cụ thể cũng rất hạn chế.
Để giúp học sinh khắc phục nhược điểm này, trong quá trình dạy học địa lý, giáo viên thường bắt buộc phải hình thành cho học sinh những biểu tượng và khái niệm tưởng tượng dựa vào một số phương tiện dạy học như: tranh ảnh, mẫu vật, mô hình …
Cần xác định và đánh giá được những đặc điểm và thuộc tính của đối tượng mà chúng biểu hiện. Trong các đặc điểm và thuộc tính đó, học sinh có thể khai thác được những gì cần thiết cho việc hình thành biểu tượng và khái niệm.
Xác định những đặc điểm và thuộc tính cần phải bổ sung bằng các nguồn tri thức khác như: bản đồ, tài liệu giáo khoa, tài liệu tham khảo…
Dự kiến cách hướng dẫn học sinh khai thác những tri thức cần thiết phục vụ cho mục đích dạy học.
Khi dạy bài Châu Mĩ (lớp 5) thay vì yêu cầu học sinh quan sát các bức tranh ở trang 122 để khai thác kiến thức, giáo viên sử dụng một đoạn phim tư liệu các em sẽ biết được ở châu Mĩ có núi An-đét ở Pê-ru, đồng bằng trung tâm ở Hoa Kì, thác Ni-a-ga-ra ở Hoa Kì, sông A-ma-dôn ở Bra-xin, hoang mạc A-ta-ca-ma ở Chi-lê, biển Ca-ri-bê.
Ngoài tranh ảnh trang 122 trong bài. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh những kiến thức mở rộng thông qua các hình ảnh sau để biết được đặc điểm của rừng rậm nhiệt đới mùa mưa và mùa khô.
Trong thực tế địa lí đã có trong những câu tục ngữ, ca dao. Từ xa xưa, trải qua hàng nghìn năm những câu ca dao tục ngữ đã được cha ông ta đúc kết lại từ những kinh nghiệm thực tế: các mối quan hệ giữa tự nhiên với tự nhiên, giữa thiên nhiên – con người, thiên nhiên – sản xuất, các quy luật thời tiết khí hậu, các quy luật tự nhiên…mặc dù trình độ nhận thức chưa được sâu sắc lắm.
Chính ý nghĩa phong phú và rộng rãi của ca dao, tục ngữ mà nó trở thành một phần trong kho tàng kiến thức của khoa học địa lí. Tận dụng điều này giáo viên có thể làm mới bài giảng của mình giúp bài học trở nên sáng tạo, mới lạ, phong phú hơn và giảm bớt tính khô khan như nhiều người thường nhận xét.
Để rèn luyện kĩ năng học đi đôi với hành, vốn là một kĩ năng còn yếu đối với học sinh khi học môn địa lí thì việc khai thác ý nghĩa của những câu ca dao, tục ngữ này giúp học sinh cảm thấy dễ dàng liên hệ kiến thức sách vở với các hiện tượng tự nhiên của cuộc sống bên ngoài.
“Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng mười chưa cười đã tối”
Khi dạy bài Hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng Bắc bộ (lớp4) giáo viên cho học sinh biết thời tiết của từng mùa, từng tháng trong năm là yếu tố quyết định cây trồng thể hiện qua các câu sau:
“Tháng chạp là tháng trồng khoai, Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà. Tháng ba cày vỡ ruộng ra“
Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng
Khi dạy bài Khí hậu (lớp 5) giáo viên có thể cho học sinh nhận biết dự đoán đặc điểm khí hậu của từng mùa, từng tháng trong năm thể hiện qua những hình ảnh trong các câu sau.
“Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy”
“Cơn đàng Nam vừa làm vừa chơi”
“Cơn đàng Bắc đổ thóc ra phơi”
“Mồng chín, tháng chín có mưa
Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn
Mồng chín, tháng chín không mưa
Thì con bán cả cày bừa đi buôn”
Chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng”
“Trời nồm tốt mạ, trời giá tốt rau”
“Én bay thấp mưa ngập bờ ao Én bay cao mưa rào lại tạnh”
“Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”
“Gió heo may, chuồn chuồn bay thì bão”
“Trăng quầng thì hạn trăng tán thì mưa”
Giáo viên có thể giải thích vào tháng 7, mùa hè của miền Trung và Bắc Bộ Việt Nam, nhiệt độ không khí ở trên lục địa cao hình thành khu áp thấp hút gió (khối khí ẩm) từ Thái Bình dương vào gây nên những trận mưa lớn cùng với sự xuất hiện của các khí áp thấp gây nên mưa bão ở Bắc bộ và Bắc trung Bộ.
Nên trong dân gian mới có câu: “Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy”
Nhưng nếu thấy: “Cơn đàng Nam vừa làm vừa chơi”
Hay: “Cơn đàng Bắc đổ thóc ra phơi”
Do ảnh hường của địa hình: dãy Hoàng Liên Sơn ở Bắc Bộ, dãy Trường Sơn Bắc ở Bắc Trung Bộ nên khi có gió Tây Nam chỉ gây mưa ở Nam bộ và Tây Nguyên. Còn ở vùng đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ và ven biển Nam Trung Bộ không có mưa. Tương tự “cơn đàng Bắc…” là ảnh hưởng của khối khí ôn đới xuất phát từ cao áp lục địa tính chất lạnh và khô nên không gây mưa.
Khi dạy bài Thương mại và du lịch (lớp 5) ta có thể sử dụng câu sau để biết được vẻ đẹp cũng như nhưng danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử của những vùng đất trên lãnh thổ nước ta.
Vui ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”
“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh”
Khi dạy bài Đồng bằng duyên hải miền Trung (lớp 4) giáo viên sử dụng các câu sau để biết được vị trí địa lí và đặc điểm của từng địa danh.
“Đường thủy thì sợ sóng thần Hang Dơi”
Qua những câu ca dao trên chúng ta thấy rằng không những giúp học sinh lĩnh hội kiến thức hiệu quả mà nó còn có ý nghĩa giáo dục rất lớn.
Như vậy qua thực hiện áp dụng đề tài vào giảng dạy đã thu được kết quả như sau:
– Có hiểu biết cơ bản và nâng cao về văn hóa, phong tục tập quán, những nét sinh hoạt truyền thống đặc sắc của dân tộc ta.
– Các em hào hứng hăng say khi học địa lí.
– Có thể vận dụng những điều đã học vào thực tế sản xuất.
– Biết được các thế mạnh về điều kiện tự nhiên, về kinh tế, xã hội của nước nhà.
– Có khả năng nhận biết một số hiện tượng địa lí nơi mình sinh sống.
– Có niềm tin vào sự phát triển của địa phương và nâng cao ý thức xây dựng quê hương và bảo vệ tổ quốc.
– Biết sưu tầm hình ảnh, ca dao, tục ngữ, tư liệu vào bài học.
– Có kĩ năng tốt trong việc sử dụng bản đồ, lược đồ và sách giáo khoa để khai thác kiến thức.
– Đã nhận thức được tầm quan trọng của môn học địa lí.
– Từ đó đã tự học, tự bồi dưỡng kiến thức địa lí cho mình.
– Tự tin hơn khi dạy chuyên đề, thao giảng với môn học này.
– Riêng bản thân tôi đã tham dự giáo viên dạy giỏi cấp Huyện 3 lần với môn tự chọn là Địa lí.
Đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn địa lí tuy làm một nội dung không phải quá mới, có thể đã có nhiều giáo viên sử dụng trên toàn quốc. Nhưng với trường tiểu học …………….. xã Cư Klông thì hoàn toàn mới vì đây là một đơn vị thuộc vùng khó khăn của huyện Krông Năng nên cơ sở vật chất còn hạn chế, máy chiếu mới chỉ có một cái dùng chung cho toàn trường nên tương đối khó khăn cho giáo viên triển khai làm phương tiện dạy học theo ý kiến trình bày trong đề tài. Tuy nhiên giáo viên không thể dùng thường xuyên thì cũng áp dụng 1 tuần một lần nhằm gây hứng thúc cho các em và giúp các em hăng say trở lại với môn học Địa lí. Việc sử dụng phương tiện dạy học vừa phải dựa trên chức năng, tác dụng của mỗi loại, đồng thời phải sử dụng phù hợp với từng đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh tiểu học. Đây là việc đòi hỏi người giáo viên phải phát huy cao độ vai trò của mình trong giảng dạy, phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của các em trong quá trình học tập. Vì vậy, trong viêc giúp học sinh học tốt môn địa lí là việc làm khó, đòi hỏi sự nỗ lực rất nhiều từ cả hai phía: Thầy và trò.
Nhà trường cần quan tâm và đầu tư nhiều trang thiết bị phục vụ môn học. Cần tổ chức chuyên đề, hội thảo về môn học này để giáo viên chia sẽ những khó khăn khi dạy môn này về cách sử dụng bản đồ, lược đồ, khai thác tranh ảnh…cũng như kinh nghiệm mà họ đã có khi dạy môn này.
– Khuyến khích giáo viên dạy môn địa lí thi tham gia hội thi, hội giảng…
Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Môn Toán
NỘI DUNG TRANG I. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI : 2 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: 2 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 2 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 3 II. NỘI DUNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN 4 2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ: 4 3 . MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 HỌC TỐT MÔN TOÁN 5 3.1 . Hướng dẫn học sinh học sinh thuộc bảng nhân, chia. 5 3. 2. Hướng dẫn đọc, viết, so sánh các số tự nhiên. 7 3.3. Hướng dẫn cách đặt tính, thực hiện phép tính 9 3.4. Hướng dẫn giải toán có lời văn. 13 3.5. Hướng dẫn học sinh nắm, thuộc các qui tắc đã học. 17 4. KẾT QUẢ . 18 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 19 1. KẾT LUẬN 19 2. KIẾN NGHỊ: 20 I. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trong các môn học, môn toán là một trong những môn có vị trí rất quan trọng. Các kiến thức, kỹ năng của môn toán có nhiều ứng dụng trong đời sống, giúp học sinh nhận biết mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh.Môn toán còn góp phần rẻn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đó ; góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác, các kiến thức, kĩ năng môn toán ở tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế. Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin đã làm cho khả năng nhận thức của trẻ cũng vượt trội. Điều đó đã đòi hỏi những nhà nghiên cứu giáo dục luôn luôn phải điều chỉnh nội dung, phương pháp giảng dạy phù hợp với nhận thức của từng đối tượng học sinh nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện góp phần đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho quê hương, đất nước. Qua thực tế giảng dạy ở các khối lớp, đặc biệt nhiều năm đứng lớp ở khối 3, tôi thấy: Phần nhiều học sinh chưa nắm vững chắc những kiến thức cơ bản về toán như: Chưa thuộc bảng nhân, chia. Chưa nắm vững cách đọc, viết và so sánh số tự nhiên (đến hàng nghìn, chục).Chưa biết đặt tính, thực hiện phép tính ( cộng, trừ, nhân, chia cột dọc). Đặc biệt các em còn rất yếu trong việc giải toán có lời văn. Chưa thuộc các quy tắc đã học trong giải toán.Trước thực tế đó, bản thân đã dành một thời gian đáng kể đầu tư cho việc đổi mới phương pháp, đặc biệt là đối với môn toán, sau nhiều lần thử nghiệm và trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp, tôi đã rút ra được: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt môn toán” để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường nói chung và đối với học sinh lớp 3B nói riêng. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Nhằm đưa ra Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt môn Toán. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: – Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa toán 3. – Nghiên cứu những nguyên nhân dẫn đến học sinh chưa hoàn thành môn toán. – Nghiên cứu những biện pháp, phương pháp giáo dục hay phù hợp để khắc sâu kiến thức, hình thành thói quen, giúp học sinh nắm và để học tốt môn Toán. – Học sinh khối 3 . Trường Tiểu học Yên Thái. – Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 3b . Trường Tiểu học Yên Thái. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: – Phương pháp đàm thoại, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp với học sinh lớp 3 B. – Phương pháp quan sát. – Phương pháp điều tra. – Phương pháp thực hành luyện tập. – Phương pháp tổng kết. II. NỘI DUNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN Trong quá trình dạy học toán ở phổ thông nói chung, ở tiểu học nói riêng, môn toán là một trong những môn học quan trọng nhất trong chương trình học ở tiểu học. Môn toán có hệ thống kiến thức cơ bản cung cấp những kiến thức cần thiết, ứng dụng vào đời sống sinh hoạt và lao động. Những kiến thức kĩ năng toán học là công cụ cần thiết để học các môn học khác và ứng dụng trong thực tế đời sống. Toán học có khả năng to lớn trong giáo dục học sinh nhiều mặt như: Phát triển tư duy lôgic, bồi dưỡng những năng lực trí tuệ . Nó giúp học sinh biết tư duy suy nghĩ, làm việc góp phần giáo dục những phẩm chất, đạo đức tốt đẹp của người lao động. Giáo dục toán học là một bộ phận của giáo dục tiểu học. Môn toán ở tiểu học rất quan trọng với các em học sinh không chỉ biết cách tự học mà còn phát triển ngôn ngữ( nói, viết) để diển đạt chính xác, ngắn gọn và đầy đủ các thông tin, để giao tiếp khi cần thiếtmà còn giúp các em hoạt động thực hành vận dụng tăng chất liệu thực tế trong nội dung, tiếp tục phát huy để phát triển năng lực của học sinh. 2. THỰC TRẠNG VẤN ĐÊ Qua quá trình dạy học nhiều năm ở tiểu học, được trực tiếp giảng dạy môn toán cho học sinh nhất là học sinh lớp 3, tôi nhận thấy khi học toán đa phần các em có những hạn chế sau: 2.1. Học sinh chưa thuộc bảng nhân, chia Vì không biết cấu tạo của bảng nhân, bảng chia.Với các chữ số khá lớn, nhiều học sinh cảm thấy gặp khó khăn ngay từ khi bắt đầu học thuộc lòng nó một cách máy móc. Trong khi đó giáo viên chưa giúp các em nhận biết các dấu hiệu của từng bảng nhân, chia. 2.2. Học sinh chưa nắm vững cách đọc, viết và so sánh số tự nhiên (đến hàng nghìn, chục). Chưa nắm vững cách đọc, viết và so sánh số tự nhiên vì học sinh chưa nắm được cấu tạo các số tự nhiên 2.3. Học sinh chưa biết đặt tính, thực hiện phép tính ( cộng, trừ, nhân, chia cột dọc). Các em chưa biết đặt tính, thực hiện phép tính ( cộng, trừ, nhân, chia cột dọc) vì học sinh chưa nắm được quy tắc đặt tính nên khi thực hiện phép tính chưa đúng. 2.4 Đặc biệt các em giải toán có lời văn chưa đúng Các em giải toán có lời văn chưa đúng vì Các em đọc chưa thạo và chưa hiểu đề bài, các em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết phân tích đề toán để tìm ra lối giải, chưa biết cách trình bày bài giải, diễn đạt vụng và thiếu logic. 2.5 Học sinh chưa thuộc các quy tắc đã học trong giải toán. Chưa thuộc các quy tắc đã học trong giải toán vì các quy tắc thường khô khan khó nhớ. Sau khi tiến hành kiểm tra trước thực nghiệm, tôi thu được kết quả sau: Sĩ số Bảng nhân, chia Đọc, viết và so sánh số tự nhiên Đặt tính, thực hiện phép tính Giải toán có lời văn Các quy tắc đã học trong giải toán Hoàn thành Chưa hoàn thành Hoàn thành Chưa hoàn thành Hoàn thành Chưa hoàn thành Hoàn thành Chưa hoàn thành Hoàn thành Chưa hoàn thành 28 em 10em = 35,7% 18 em = 64,3% 12em = 42,9% 8em = 57,1% 8em = 28,6% 20em = 71,2% 5em = 17,9% 23em = 82,1% 8em = 28,6% 20em = 71,2% Từ những thực trạng trên tôi mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy như sau: 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 HỌC TỐT MÔN TOÁN . 3.1 . Hướng dẫn học sinh học sinh thuộc bảng nhân, chia. – Để luyện cho học sinh thuộc và khắc sâu các bảng nhân, bảng chia tôi làm như sau: + Khi dạy tôi hướng dẫn học sinh lập được bảng nhân, bảng chia và tôi hướng dẫn cho học sinh nắm sâu hơn và dễ nhớ hơn như sau: VD: Bảng nhân 9 9 x 1 = 9, 9 x 2 = 18, 9 x 3 =27, 9 x 4 = 36, 9 x 5 = 45 Ta thấy số hàng chục tăng từ 0-1-2-3-4.9. Ngược lại số hàng đơn vị giảm từ 9-8-7-60 Những dấu hiệu này giúp cho học các em thấy được tính biến ảo, linh động của các con số và do vậy các em thấy hưng phấn, yêu thích với cón số hơn. Mặt khác, đó cũng là các dấu hiệu giúp các em có thể kiểm tra tính đúng đắn khi phát biểu các kết quả. Là những điểm tựa quan trọng giúp các em tự tin hơn khi học các bảng nhân, chia. Ví dụ: 9 x 7 = 62 : Kết quả sai Bởi vì dựa vào một cột mốc nào đó mà các em đã ghi nhớ ( 45 chăng hạn) thì các em sẽ tính nhanh ra được : 45, 54 63, 72 ..Như vậy trong bảng nhân 9 không có số 62. Hoặc các em có thể dựa vào só cuối cùng 9 x 9 = 81 để tính ngược lại 72,63 và suy ra 9 x 7 = 63 -Tính nhân thực chất là phép tính viết gọn của phép tính cộng, do vậy khi dạy học hình thành các bảng nhân và chia, giáo viên cần giúp học sinh nắm cấu tạo của bảng. Nhất là giúp các em biết cách chuyển đổi thuần thục giữa phép tính nhân và phép tính cộng; kiểm tra sự chính xác giữa phép tính nhân và chia. Ví du: Chuyển đổi giữa phép tính nhân( một tích) và phép tính cộng (tổng các số hạng bằng nhau) 9 x 3 = 27 Nghĩa là 9 lấy ba lần bằng 27. Chuyển sang phép cộng ta có: 9 + 9 + 9 = 27 Nếu học sinh nắm vững cấu tạo này học sinh sẽ dễ dàng kiểm tra được tính chính xác của các kết quả về bảng nhân . Mặt khác dựa trên quy tắc này, học sinh sẽ biết cách thành lập các bảng một cách tuần tự và do vậy các em học các bảng nhân thuận lợi hơn . Ví dụ : – 9 x 3 = 27 vậy thì vậy thì 9 x 4 sẽ bằng kết quả 9 x 3 lấy thêm một lần – 9 x 4 = 27 + 9 = 36 Việc học như vậy có căn cơ hơn và do vậy có kết quả vững chắc hơn VD: Bảng chia 6. * Các số bị chia trong bảng chia 6 là các tích của bảng nhân 6, và hơn kém nhau 6 đơn vị. * Số chia trong bảng chia 6 là các thừa số thứ nhất của bảng nhân 6 đều là 6. * Các thương của bảng chia 6 là thừa số thứ hai của bảng nhân 6. + Hàng ngày, đầu giờ học môn toán, thay vì cho học sinh vui, để khởi động, tôi thay vào đó là cả lớp cùng đọc một bảng nhân hoặc chia và cứ thế lần lượt từ bảng nhân 2, bảng chia 2 đến bảng nhân, chia hiện học. + Cuối mỗi tiết học toán tôi thường kiểm tra những học sinh chưa thuộc bảng nhân, chia từ 2 đến 4 em. + Tôi thường xuyên kiểm tra học sinh bảng nhân, chia bằng cách in bảng nhân, chia trên giấy A4, nhưng không in kết quả và bỏ trống một số thành phần của phép nhân, chia trong bảng. Vào cuối tuần dành thời gian khoảng 10 phút cho các em ghi đầy đủ và hoàn chỉnh bảng nhân, chia như yêu cầu. Tôi và học sinh cùng nhau nhận xét, khen ngợi học sinh làm bài tốt, nhắc nhở các em làm bài chưa tốt. + Tôi cũng thường xuyên cho học sinh chép bảng nhân nào mà các em chưa thuộc vào tập riêng. Ngày sau trình bày và đọc cho tổ trưởng nghe vào đầu giờ, sau đó tổ trưởng báo cáo cho giáo viên. * Để khắc sâu kiến thức, tôi còn cho học sinh chơi trò chơi. VD: Trò chơi “Ong đi tìm nhụy” – Chuẩn bị : + 2 bông hoa 5 cánh, mỗi bông một màu, trên mỗi cánh hoa ghi các số như sau, mặt sau gắn nam châm. 5 7 9 6 8 + 10 chú Ong trên mình ghi các phép tính, mặt sau có gắn nam châm 24 : 6 42 : 6 54 : 6 48 : 6 36 : 6 + Phấn màu – Cách chơi : + Chọn 2 đội, mỗi đội 4 em + Giáo viên chia bảng làm 2, gắn mỗi bên bảng mộ bông hoa và 5 chú Ong, ở bên dưới không theo trật tự, đồng thời giới thiệu trò chơi. – 2 đội xếp thành hàng. Khi nghe hiệu lệnh “bắt đầu” thì lần lượt từng bạn lên nối các phép tính với các số thích hợp. Bạn thứ nhất nối xong phép tính đầu tiên, trao phấn cho bạn thứ 2 lên nối, cứ như vậy cho đến khi nối hết các phép tính. Trong vòng 1 phút, đội nào nối đúng và nhanh hơn là đội chiến thắng. Sau khi áp dụng với các bảng nhân, chia từ bảng nhân, chia 2 đến 9 lớp tôi có 28/ 28 học sinh thuộc tất cả bảng nhân chia từ 2 đến 9. 3.2. Hướng dẫn đọc, viết, so sánh các số tự nhiên. 3.2.1.Hướng dẫn đọc, viết các số tự nhiên. Khi dạy nội dung này cần cho học snh nắm vững: – Kiến thức về hàng và lớp: + Lớp đơn vị gồm có ba hàng: Hàng đơn vị, hàng chục và hàng trăm + Lớp nghìn gồm có hai hàng : Hàng nghìn , hàng chục nghìn và hàng trăm nghìn – Sơ đồ cấu tạo của hàng và lớp: Lớp nghìn Lớp đơn vị Trăm nghìn Chục nghìn Nghìn Trăm Chục Đơn vị – Vị trí của từng chữ số theo hàng và lớp – Biết qui tắc các giá trị theo vị trí của các chữ số trong cách viết số. – Hướng dẫn phân hàng: VD số: 46971. + Hàng chục nghìn, hàng nghìn, hàng trăm, hàng chục, hàng đơn vị. . Số 46971: Có 4 chục nghìn, 6 nghìn, 9 trăm, 7 chục, 1 đơn vị. . Đọc số 46971: Bốn mươi sáu nghìn, chín trăm bảy mươi mốt. Giáo viên viết: 46971. Phân tích: 4 6 9 7 1 4 chục nghìn 6 nghìn 9 trăm 7 chục 1 đơn vị. Hoặc: lớp nghìn lớp đơn vị. . Khi viết, ta viết từ hàng cao đến hàng thấp (viết từ trái sang phải). . Khi đọc lớp nào ta kèm theo đơn vị lớp đó. . Học sinh đọc: Bốn mươi sáu nghìn, chín trăm bảy mươi mốt. – Hơn thế nữa, tôi còn hướng dẫn thêm cho học sinh cách đọc như sau: VD: Số 46971 và 46911. . Số 46971 đọc là: Bốn mươi sáu nghìn, chín trăm bảy mươi mốt. . Số 46911 đọc là: Bốn mươi sáu nghìn, chín trăm mười một. – Nói cụ thể hơn, từ hai số trên cho học sinh nhận ra được cách đọc ở cùng hàng đơn vị của hai số là khác nhau chỗ mốt và một. Nghĩa là số 46971, hàng đơn vị đọc là mốt, còn số 46911 hàng đơn vị đọc là một. Tuy cùng hàng và đều là số “1” nhưng tên gọi lại khác nhau. Tôi còn phát hiện và giúp học sinh đọc và nhận ra cách đọc của một vài số lại có cách đọc tương tự trên: VD: Số 46705 và 46725 cùng hàng đơn vị là số “5” nhưng lại đọc là “năm” và “lăm”. VD: Số 12010: Học sinh nhiều em đọc là “Mười hai nghìn không trăm linh mười”. Tôi hướng dẫn các em. Trong số tự nhiên chỉ được đọc “linh một, linh hai, . . . .linh chín, không có đọc là linh mười” vậy số 12010 đọc là: Mười hai nghìn không trăm mười. 3.2.2 Hướng dẫn so sánh các số tự nhiên. Trong qui tắc là: Khi ta so sánh trong hai số thì: Số nào có ít chữ số hơn thì số đó bé hơn và ngược lại. VD: 99999 9999. + Còn các số có cùng chữ số thì sao? Ngoài việc làm theo qui tắc thì tôi còn làm như sau: VD: Để tìm số lớn nhất trong các số: 7576 ; 7765 ; 7567 ; 7756. Tôi hướng dẫn họ sinh như sau: – Xếp theo cột dọc, sao cho thẳng hàng nghìn, trăm, chục, đơn vị với nhau. Cụ thể trên bảng phần được xoá là: 7 5 7 6 7 7 6 5 7 7 6 5 7 5 6 7 7 7 5 6 7 7 5 6 Số lớn nhất 7765. 7 7 7 7 5 – Phân theo hàng nghìn, trăm, chục, đơn vị. – So sánh từng hàng để chọn ra số lớn nhất trong hàng như: hàng nghìn đều bằng nhau là 7. Đến hàng trăm chọn được hai số lớn là 7 có trong 4756 và 7765. Sau đó yêu cầu các em chỉ so sánh hai số này và tìm được số lớn nhất là 7765. * Để khắc sâu kiến thức, tôi còn cho học sinh chơi trò chơi. VD: Trò chơi “ Ai đúng-Ai sai ” – Chuẩn bị: Mỗi đội 10 tờ giấy A4 , 5 bút dạ. – Cách chơi: . Gv phát cho mỗi em 2 tờ giấy và 1 bút dạ. Mỗi đội 5 em học sinh đứng thành 1 hàng. Hai đội bốc thăm giành quyền đọc trước. GV cho mỗi đội 2 phút, mỗi em viết 1 số có từ 4-5 chữ số vào một mặt của tờ giấy ( viết to để ở dưới lớp có thể nhìn rõ; ghi cách đọc ở góc trên bằng chữ nhỏ, khi giơ lên đối phương không nhìn thấy). Mặt còn lại ghi cách đọc một số nào đó, cũng ghi cách viết ở góc trên bằng chữ nhỏ. Hết thời gian 2 phút, cô hô: “ Lần thứ nhất bắt đầu” thì đội được đọc trước sẽ nêu cách đọc số mình chuẩn bị ( mỗi số đọc to 2 lần), đội kia phải viết lại được.Sau khi đọc đủ 5 số thì đổi vai trò ngược lại . Lần thứ 2 thì đội đi trước phải nhìn các số của đội kia viết rồi đọc to cho cả lớp nghe và đổi vai trò ngược lại. Sau khi 2 đội kết thúc đọc và viết, GV cùng cả lớp sẽ kiểm tra kết quả. Đội đọc phải giơ đáp án, đội viết phải giơ kết quả. – Cách tính điểm : Cứ mỗi số đúng 10 điểm, đọc chậm và sữa lỗi trừ đi 2 điểm. Nếu làm sai trừ 5 điểm, đội nào nhiều điểm hơn sẽ thắng. Qua một thời gian các em có tiến bộ rõ rệt. Mỗi lần thực hiện các em viết rất rõ ràng và chính xác. 3.3. Hướng dẫn cách đặt tính, thực hiện phép tính Theo tôi, đặt tính cũng là một việc hết sức quan trọng trong quá trình làm tính. Nếu học sinh không biết cách đặt tính hoặc tính sai sẽ dẫn đến kết quả sai. Vì thế theo tôi nghĩ, để học sinh có căn bản khi thực hiện phép tính phải cộng trừ, nhân chia. * Đối với phép cộng, trừ: ( giúp học sinh nhớ và áp dụng) – Phép cộng: VD : 43521 + 54452 = 79973 Số hạng số hạng Tổng + Nếu ta thay đổi chỗ các số hạng của tổng thì tổng không thay đổi. 43521 + 54452 = 54452 + 43521= 79973 + Muốn tìm tổng ta lấy số hạng thứ nhất cộng với số hạng thứ hai. 43521 + 54452 = 79973 + Muốn tìm số hạng chưa biết, ta lấy tổng trừ đi số hạng đã biết. 43521 – x = 79973 x = 79973- 43521 + Bất kì số nào cộng với 0 cũng bằng chính số đó. 5 + 0 = 5 – Phép trừ: VD: 7268 – 3142 = 4124 Số bị trừ số trừ hiệu + Muốn tìm hiệu ta lấy số bị trừ, trừ đi số trừ. 7268 – 3142 = 4124 + Muốn tìm số bị trừ chưa biết, ta lấy hiệu cộng với số trừ. x – 3142 = 4124 x = 3113 + 3142 x = 7268 + Muốn tìm số trừ chưa biết, ta lấy số bị trừ trừ đi hiệu. 7268 – x = 4124 x = 7268 – 4124 x = 3142 + Bất kì số nào trừ 0 cũng bằng chính số đó. 8 – 0 = 8 – Đặt tính và tính: 568 127 695 Lần: 321 Cần hướng dẫn học sinh kĩ là phải đặt tính thẳng hàng (hàng đơn vị thẳng hàng đơn vị, hàng chục thẳng hàng chục, hàng trăm thẳng hàng trăm, hàng nghìn thẳng hàng nghìn). Hướng dẫn học sinh bắt đầu cộng từ hàng đơn vị (hoặc từ phải sang trái). Nên lưu ý học sinh đối với phép trừ có nhớ, cần bớt ra khi trừ hàng kế tiếp. VD: Phép cộng có nhớ một lần. – 8 cộng 7 bằng 15, viết 5 nhớ 1. – 6 cộng 2 bằng 8, thêm 1 bằng 9, viết 9. – 5 cộng 1 bằng 6, viết 6. Chú ý: Trong phép cộng, trừ chỉ nhớ số 1, không nhớ 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. (trừ khi có nhiều số hạng cộng với nhau như bài tập 1b trang 156). * Đối với phép nhân, chia: – Phép nhân: VD: 1427 x 3 = 4281 Thừ số Thừa số Tích + Muốn tìm tích, ta lấy thừa số thứ nhất nhân với thừa số thứ hai. 1427 x 3 = 4281 + Muốn tìm thừa số chưa biết, ta lấy tích chia cho thừa số đã biết. 1427 x x = 4281 x = 4281 : 1427 + Khi ta thay đổi các thừa số trong một tích thì tích không thay đổi. 3 x 9 = 9 x 3 = 27 + Số nào nhân với 1 cũng bằng chính số đó. 3 x 1 = 3; 6 x 1 = 6; . . . + Số nào nhân với 0 cũng bằng 0. 3 x 0 = 0 – Đặt tính và tính: Khi đặt tính giáo viên lưu ý cho học sinh: Viết thừa số thứ nhất ở 1 dòng, viết thừa số thứ hai ở dòng dưới sao cho thẳng cột với hàng đơn vị (nhân số có 2, 3, 4 chữ số với số có 1 chữ số). Viết dấu nhân ở giữa hai dòng thừa số thứ nhất và thừa số thứ hai và lùi ra khoảng 1, 2 mm, rồi kẻ vạch ngang bằng thước kẻ. Khi thực hiện phép nhân này, ta phải thực hiện tính bắt đầu từ hàng đơn vị, sau đó đến hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn , hàng chục nghìn(hoặc tính từ phải sang trái). Các chữ số ở tích nên viết sao cho thẳng cột với theo từng hàng, bắt đầu từ hàng đơn vị, chục, trăm, nghìn của thừa số thứ nhất. VD: 23214 – 3 nhân 4 bằng 12, viết 2 nhớ 1. x 3 – Không viết 1 nhớ 2. 69642 – 3 nhân 1 bằng 3, thêm 1 bằng 4, viết 4. – 3 nhân 2 bằng 6, viết 6. – 3 nhân 3 bằng 9, viết 9. – 3 nhân 2 bằng 6, viết 6. Đối với cách viết từng chữ số của tích có nhớ, ta nên viết số đơn vị, nhớ số chục. (hoặc nhắc học sinh viết số bên tay phải nhớ số bên tay trái). * Nhắc thêm cho học sinh: Nếu trường hợp như: 8 nhân 3 bằng 24, thì viết 4 nhớ 2, …( đối với phép nhân thì chỉ có nhớ 1, 2,… 8, không có nhớ 9) – Phép chia: VD: 36369 : 3 = 12123 + Muốn tìm thương, ta lấy số bị chia, chia cho số chia. 6369 : 3 + Muốn tìm số bị chia chưa biết, ta lấy thương nhân với số chia. x : 3 = 12123 x = 12123 x 3 + Muốn tìm số chia chưa biết, ta lấy số bị chia, chia cho thương. 45 : x = 9 x = 45 : 9 + Số nào chia cho 1 cũng bằng chính số đó. 2 : 1 = 2; . . . . . 9 : 1 = 9 + 0 chia cho bất kỳ số nào cũng bằng 0. 0 : 6 = 0 * Nhắc thêm cho học sinh: không thể chia cho 0. 6 : 0 + Muốn tìm số chia trong phép chia có dư, ta lấy số bị chia trừ đi số dư rồi chia cho thương. 7 : 3 = 2(dư 1) Vậy: (7 – 1) : 2 + Muốn tìm số bị chia trong phép chia có dư, ta lấy thương nhân với số chia rồi cộng với số dư. 9 : 4 = 2 (dư 1) Vậy: 2 x 4 + 1 = 9 + Trong phép chia có dư, số dư nhỏ nhất là 1, số dư lớn nhất kém số chia 1 đơn vị. ( trong chương trình toán 3 số dư trong phép chia nhỏ nhất là 1, lớn nhất là 8). VD: Số chia là 9, thì số dư là 1, 2, 3, 4, . . 8. (số dư phải nhỏ hơn số chia) – Đặt tính và tính: Tôi nghĩ thực hiện đặt tính và tính cộng, trừ, nhân, chia theo cột dọc, thì phép chia là khó nhất vì: – Học sinh hay quên, thực hiện chưa đầy đủ các hàng cao đến hàng thấp hướng dẫn kĩ cho học sinh cách nhân ngược lên và trừ lại, . . . Đặc biệt đối với học sinh chưa hoàn thành toán, tôi hướng dẫn kĩ cách đặt tính, nhằm giúp các em thấy được hàng
Một Số Giải Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Hơn Môn Mĩ Thuật Ở Cấp Học Tiểu Học
Như chúng ta đã biết “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, đó là mục tiêu của Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra, nhằm để đáp ứng được mục đích yêu cầu của giáo dục nước nhà. Đưa nền giáo dục nước nhà xứng tầm với quốc tế, thì việc đầu tiên là phải tìm ra những biện pháp, giải pháp cụ thể về Chân – Thiện -Mĩ giúp học sinh có cái nhìn bao quát chung và học tốt hơn, hiểu hơn về cái đẹp Môn Mĩ thuật ở bậc học tiểu học .
Cùng với sự phát triển của giáo dục hiện nay, cộng thêm sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam. Thì việc đưa môn Mĩ thuật vào trong 9 môn học bắt buộc trong nhà trường là rất quan trọng và cần thiết. Nhằm giáo dục thẩm mĩ cho học sinh trong những năm đầu đi học, và từng bước giúp học sinh hòa nhập thế giới xung quanh, cũng như biết suy xét và mong muốn làm theo cái đẹp chính là giúp học sinh tự hoàn thiện mình, và có tính độc lập cho bản thân để có nền tảng cho những nhân tài của đất nước, cũng như trở thành những công dân có ích cho xã hội. Giúp xã hội ngày càng vươn cao và vươn xa hơn nữa trong giáo dục thì việc hòa nhập với Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước cùng góp phần làm nên một xã hội vững mạnh, văn minh và giàu đẹp hơn.
Là người giáo viên dạy Mĩ thuật, tôi luôn mong với kiến thức của mình có thể giúp học sinh nhìn nhận và thể hiện cái đẹp thông qua các bài vẽ làm sao cho đúng và giống với mẫu hơn. Cũng như giúp các em tìm hiểu thêm về những cảnh thiên nhiên mà học sinh thấy được từ thực tế, từ những cuộc đi tham quan những danh lam thắng cảnh muôn màu, muôn vẻ mà vốn có từ trên mọi miền đất nước Việt Nam cũng như những cảnh vật xung quanh nơi mà học sinh sinh sống và học tập. Bên cạnh đó tôi muốn giúp học sinh nhận biết được những điều thú vị từ những dáng đi của các con vật cũng như những nét vẽ tự tin và hồn nhiên, ngây thơ của học sinh. là giáo viên dạy môn Mĩ thuật tôi rất trăn trở là làm sao để giúp học sinh có trí tưởng tượng phong phú và có óc sáng tạo, độc lập trong học tập, giúp cho các em có được sự tự tin trong cái nhìn tổng thể về cái đẹp từ thế giới thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Giúp cho học sinh vẽ được đúng, đẹp theo mẫu, cũng như là học sinh hiểu được cách chọn nội dung trong tiết vẽ tranh đề tài sao cho phong phú và biết cách vẽ hình ảnh chính, phụ trong bức tranh để cho nổi rõ được về hình cũng như màu sắc trong tranh. Song cũng nhằm giúp cho học sinh tìm hiểu thêm về các hoạ sĩ lớn trong làng hội hoạ Việt Nam cũng như trên thế giới chẳng hạn như phân môn thưởng thức mĩ thuật và tạo đựơc những gam màu đẹp cũng như tìm ra được những hoạ tiết phong phú và đa dạng trong tiết vẽ trang trí. Là giáo viên nhiều năm giảng dạy, được học hỏi ở thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp với chút kinh nghiệm tích lũy được xuất phát từ thực tế cũng như những gì tôi đã làm, tôi luôn tâm niệm làm sao để giúp cho học sinh có hứng thú học tập, không bị chán nản trong tiết học mĩ thuật. đó là nguyện vọng của bản than tôi muốn góp một phần nhỏ bé vào nhà trường hoàn thành tốt mục tiêu vào sự nghiệp giáo dục, đổi mới Đất nước hiện nay. Với ý tưởng như thế tôi đã nghiên cứu và viết đề tài: “Một số giải pháp giúp học sinh học tốt hơn môn Mĩ thuật ở cấp học
1. Giải pháp thứ nhất: Giáo viên giúp học sinh đi từ vẽ đúng đến vẽ đẹp. Muốn học sinh vẽ đúng và vẽ đẹp thì người giáo viên cần phải nắm vững mục tiêu
Mục đích giúp học sinh vẽ đúng, vẽ đẹp ở trong mỗi bài vẽ, tạo sự hào hứng khi các em được học ở trong môn Mĩ thuật.
Muốn hình thành được một bài vẽ theo mẫu thì học sinh cần biết ®îc c¸c bíc vÏ nh:
Ví dụ: Bài 9 vẽ theo mẫu : Vẽ cái Mũ của lớp 2. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh trình tự theo các bước sau:
Bước 1: Phác khung hình
Bước 2: Vẽ nét thẳng
Bước 3: Vẽ nét cong
Bước 4: Vẽ chi tiết cho giống mẫu và hoàn chỉnh
Bước 5: Vẽ màu
Tôi đưa ra ví dụ trên là nhằm chứng minh rằng với những phương pháp trên và áp dụng vào bài dạy sao cho phù hợp, hiệu quả hơn trong từng bài học.
– Qua thực tế điều tra cơ bản, tôi thấy học sinh rất thích học vẽ, và hăng say phát biểu, có sự hứng thú được thể hiện trong bài vẽ của mình. Bên cạnh đó còn có một số học sinh còn nhút nhát, chưa mạnh dạn phát biểu những suy nghĩ mà mình muốn nói, một số học sinh còn chán nản với việc học môn này, nên có ảnh hưởng rất lớn đến việc dạy của giáo viên cũng như việc học tập của các em. Vì vậy tôi đã tiến hành điều tra một số lớp nhìn chung các em chưa hoàn thành là khá cao, từ đó tôi đã tìm ra hướng khắc phục nhằm tạo ra không khí vui tươi thoái mái, nhẹ nhàng và có sức hấp dấn lôi cuốn trong sự hướng dẫn của giáo viên kèm theo những câu hỏi gợi mở tạo không khí vui tươi và hào hứng cho các em trong tiết học. Bên cạnh đó đồ dùng trực quan là cần thiết và quan trọng để giúp cho học sinh thích thú và làm bài có hiệu quả hơn.
Ví dụ như: Bài thưởng thức Mĩ thuật xem tranh thiếu nhi vui chơi của hoc sinh lớp 1, giáo viên tạo những câu hỏi hấp dẫn như: Trong tranh vẽ những hình ảnh gì? Màu sắc trong tranh có những màu gì? Em cảm nhận như thế nào về bức tranh? Học sinh trả lời được giáo viên kịp thời khen gợi và gợi ý cho những học sinh khác cũng có tinh thần như bạn đó.
Tôi cũng thường xuyên cho học sinh ra ngoài lớp để vẽ thực tế như bài vẽ tranh trường em ở lớp 2, Để học sinh có cái nhìn thực tế hơn khi vẽ cảnh trường mà mình hằng ngày học sao cho đúng và đẹp.
Giáo viên kịp thời động viên tinh thần học tập của các em trong tiết học, tạo cho học sinh có tính mạnh dạn hơn khi xung phong phát biểu, xây dựng bài. Tránh tình trạng, chê những học sinh bài làm chưa được tốt. Mà giáo viên cần trao đổi riêng với học sinh đó, và chỉ ra những điểm tốt ở trong bài của em để khích lệ động viên em làm bài sau cho tốt hơn.
Với môn học này yêu cầu giáo viên phải là người trực tiếp và giúp học sinh có cái nhìn tổng thể, từ hình vẽ cũng như cách sắp xếp bố cục sao cho vừa với phần giấy quy định
– Giúp học sinh có hứng thú trong khi vẽ, cũng như có tinh thần hăng say phát biểu ở những bài như thưởng thức mĩ thuật..
– Tạo được sự thoải mái trong khi vẽ, cũng như giúp học sinh có óc tư duy, sáng tạo,
cũng như óc tưởng tượng của học sinh, nhằm giúp học sinh có những bài vẽ có kết quả cao, cũng như sự tự tin trong các sản phẩm mà mình làm ra.
Vì thế trong mỗi bài dạy, tôi phải tìm ra những biện pháp sao cho học sinh có sức hấp dẫn, cũng như giúp học sinh thèm muốn được học vẽ trong mỗi giờ học vẽ.
Như các phân môn vẽ tranh đề tài, thưởng thức mĩ thuật tuỳ theo bài học giáo viên có thể chia nhóm ra để học sinh tích cực hơn, và muốn thể hiện trước nhóm một cách thật tốt để mỗi nhóm có sự tư duy sáng tạo một cách bất ngờ trong mỗi phân môn đó.
Với cách làm này, thì mỗi học sinh tự phân ra nhóm trưởng, cũng như tạo được một guồng máy làm việc của nhóm, có sự lôgic hơn trong cùng một nhóm, và tôi tin rằng cách làm việc nhóm có hiệu quả hơn vì ai cũng muốn thể hiện mình một cách tốt nhất.
Trong thực tế nếu muốn đạt được một tiết học lôi cuốn, hấp dẫn cũng như sự tìm tòi, khám phá thì người giáo viên cần phải biết cách giúp học sinh tìm ra cũng như vận dụng vào bài học một cách hiệu quả và truyền thụ cho học sinh hiểu thêm về mục đích, yêu cầu cũng như mục tiêu của đề bài thì mới có một sản phẩm tốt. Và giáo viên cần phải khích lệ và động viên kịp thời để cho bài vẽ của học sinh đạt hiệu quả một cách tốt nhất.
Giải pháp thứ ba: Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, để giúp học sinh có những hình ảnh học tốt hơn môn Mĩ thuật.
Với Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước hiện nay, thì công nghệ thông tin không thể thiếu trong giáo dục, nhất là trong giảng dạy Mĩ thuật cũng như một số môn học khác. Với bản thân tôi qua nhiều năm giảng dạy tôi thấy được việc ứng dụng, công nghệ thông tin vào môn Mĩ thuật rất hiệu quả như: giáo viên không phải hoạt động nhiều như khi dạy bằng bảng, mà giáo viên có thể dạy bằng giáo án điện tử để giúp học sinh có sự thích thú, say mê với tiết dạy có sử dụng công nghệ thông tin vì có rất nhiều hình ảnh phong phú, đa dạng và đẹp mắt tạo được sự chú ý cho học sinh nên bài vẽ của học sinh cũng như sự truyền thụ của giáo viên rất hiệu quả. Giúp cho giáo viên cũng như học sinh thấy thoải mái và có nhiều hình ảnh đẹp để học sinh thích thú hơn.
Dạy học là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người giáo viên. Muốn dạy học trở thành niềm vui, niềm đam mê thì người thầy cần phải có tâm huyết với nghề. Vì vậy, chúng ta phải luôn tìm tòi phát hiện những phương pháp mới, tích cực và có tính điển hình để giảng dạy nhằm trang bị cho mọi đối tượng học sinh. Cần tìm tòi và nghiên cứu thêm nhiều phương pháp để giúp học sinh học tốt hơn và vận dụng vào làm thực hành có hiệu quả thì giáo viên sẽ thành công trong sự nghiệp giảng dạy của mình.
Người giáo viên cần phải có sự phối hợp chặt chẽ và có sự phối hợp nhẹ nhàng trong mỗi bài học
Tạo không khí thoải mái và vui tươi trong giờ học
Luôn tạo cho học sinh thành lập nhóm để học sinh trong nhóm có cơ hội thể hiện khả năng của mình trong nhóm.
Có những đồ dùng trực quan hấp dẫn cũng như những vật mẫu thật đẹp mắt…
Nhằm hướng cho học sinh từ cái nhìn tổng thể và giúp học sinh hướng đến Chân – Thiện -Mĩ.
Hướng cho học sinh có tính tự lập, cũng như giúp các em dần dần hình thành về cái đẹp, và tạo cho học sinh có cách sống, cách nhìn thế giới xunh quanh một cách tích cực và người giáo viên phải là một tấm gương sáng để cho học sinh noi theo.
Cũng như trước kghi lên lớp cần phải tìm hiểu bài thật kĩ từng mục tiêu cũng như đồ dùng trực quan đẹp mắt và hấp dẫn.
Phải nghiên cứu và tìm ra những biện pháp, giải pháp cụ thể để truyền đạt cho học sinh một cách tối ưu nhất cũng như những kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm qua.
Phải biết khai thác và gợi mở cho học sinh trả lời những câu hỏi mà giáo viên đưa ra sao cho phù hợp với nội dung của từng bài học.
Giúp học sinh nắm được các bước vẽ cơ bản cũng như cách vẽ thể nào cho phù hợp với phần giấy qui định, màu sắc hài hòa và tạo được những hình chính, phụ cho sinh động trong mỗi bài vẽ.
Kịp thời động viên, khích lệ học sinh khi học sinh nhận xét sản phẩm của bạn cũng như khi học sinh trả lời đúng những câu hỏi mà giáo viên nêu ra.
Cũng cần tránh chỉ trích học sinh trong khi học sinh trả lời những câu hỏi mà giáo viên nêu ra. Giáo viên cần phải gọi một học sinh nhắc đúng và cho học sinh đó nhắc lại cho đúng.
Giáo viên cần phải biết phối hợp tích hợp môi trường biển đảo quê hương cũng như nói thêm cho học sinh hiểu về biển đối khí hậu.
Tôi còn hướng cho học sinh thực hiện đúng với khẩu hiệu ” Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cưc”.
Trong những bài học về giữ gìn vệ sinh sạch sẽ tôi còn nhắc nhở học sinh rằng hãy thân thiện với môi trường và tạo một không khí trường học ” Xanh – Sạch – Đẹp” hướng tới cho học sinh có sự tích cực trong việc giữ gìn vệ sinh hơn.
Giáo viên cũng phải là người tìm hiểu về sở thích cũng như niềm đam mê học vẽ của các em và nhằm nâng cao được tầm quan trọng của môn Mĩ thuật trong 9 môn học mà Bộ Giáo Dục đã đưa vào để giúp học sinh cũng như một số phụ huynh và giáo viên chủ nhiệm quan tâm hơn về môn học này. Và không xem môn học này là môn phụ nữa.
Ngoài những kiến thức mà tôi giảng dạy, thì tôi cũng giúp học sinh hiểu thêm về kĩ năng sống cho học sinh để học sinh hình thành được một nhân cách tốt cho mình cũng như xã hội tốt hơn. Nhằm lồng ghép, tích hợp dạy học với môi trường biển đảo, biến đổi khí hậu…
Giáo viên cần phải nắm rõ được kĩ phương pháp dạy học một cách tốt nhất để giúp học sinh nắm rõ được các bước cũng như cách tìm tòi và sáng tạo theo cách học với phương pháp mới nhất để đạt hiệu quả tốt nhất.
Bấm vào đây để tải về
Bạn đang đọc nội dung bài viết Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Âm Nhạc Ở Trường Tiểu Học trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!