Cập nhật nội dung chi tiết về Skkn Một Số Biện Pháp Giáo Dục Kỹ Năng Sống Qua Trò Chơi Cho Học Sinh Trường Thcs Luận Thành mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG QUA TRÒ CHƠI CHO HỌC SINH TRƯỜNG THCS LUẬN THÀNH Người thực hiện: Nguyễn Thị Oanh Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THCS Luận Thành SKKN thuộc lĩnh vực: Giáo dục kỹ năng sống THANH HÓA NĂM 2019 MỤC LỤC Mục Tên đề mục Trang 1 Mở đầu 1 1.1 Lí do chọn đề tài 1 1.2 Mục đích nghiên cứu 2 1.3 Đối tượng nghiên cứu 2 1.4 Phương pháp nghiên cứu 2 2 Nội dung 2 2.1 Cơ sở lí luận 2-3 2.2 Thực trạng vấn đề 3-4 2.3 Giải pháp thực hiện 4-12 2.4 Hiệu quả của sáng kiến 12-14 3 Kết luận, kiến nghị 14 3.1 Kết luận 14-15 3.2 Kiến nghị 15 16 Tài liệu tham khảo 16 17 Phụ lục 1. Phần mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài. Rèn luyện kỹ năng sống(KNS) cho học sinh là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này của cà thế hệ trẻ. Chính vì vậy, học sinh, đặc biệt là lứa tuổi học sinh THCS cần được trang bị kỹ năng sống để định hướng phát triển cá nhân một cách tốt nhất. Nội dung giáo dục KNS trong trường học lần đầu tiên được Bộ GD&ĐT nhắc đến trong năm học 2008 – 2009 với chủ trương xây dựng “Trường học thân thiện – Học sinh tích cực”. Từ đó, việc giáo dục KNS đã được quan tâm sớm hơn một bước và đã trở thành một nội dung quan trọng trong các hoạt động giáo dục trong Nhà trường nhằm hướng đến giáo dục toàn diện cho học sinh, giúp các em rèn luyện KNS vững vàng trong cuộc sống. Hiện nay xã hội càng ngày càng phát triển, kéo theo đó là nhiều tệ nạn xã hội, học sinh lại đang rất thiếu hụt kỹ năng sống, đặc biệt là trẻ em thuộc khu vực miền núi khó khăn như xã Luận Thành. Sự thiếu hụt này dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng như tai nạn thương tích ở trẻ em (đuối nước, tai nạn giao thông, điện giật, bỏng, ngộ độc, động vật cắn…), bạo lực học đường, trẻ em nữ bị xâm hại tình dục Học sinh THCS đang non nớt, kinh nghiệm sống chưa có, suy nghĩ và hành động thường bột phát, bốc đồng, nếu không có kỹ năng sống thì khó có khả năng ứng phó và giải quyết được các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống và học tập, từ đó dễ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Xã Luận Thành là một xã nằm ở trung tâm phía Nam của huyện, có đường Hồ Chí Minh chạy qua nên đời sống kinh tế tương đối phát triển. Gia đình học sinh có quan tâm đến việc học của con em nhưng vì lo phát triển kinh tế nên không dành nhiều thời gian và điều kiện giáo dục, quản lý con cái, thậm chí phó mặc cho Nhà trường. Nhà trường THCS Luận Thành đã tổ chức một số hoạt động giáo dục KNS cho HS nhưng do nhiều hoạt động chuyên môn, số lượng học sinh đông, kinh phí eo hẹp không thể thường xuyên tổ chức được. Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chỉ dựa chủ yếu vào việc lồng ghép vào hoạt động giáo dục và các tiết học trên lớp nhưng thời gian gò bó, các hình thức giáo dục chưa phong phú nên hiệu quả chưa cao. Trong những năm gần đây, nhận thấy một bộ phận không nhỏ học sinh kỹ năng giao tiếp kém, nhiều học sinh có ý định bỏ học, ham chơi đua đòi, không chú tâm vào việc học, hay vi phạm ATGT, dễ bị tai nạn rủi ro do thiếu hụt KNS và thiếu sự quan tâm giáo dục của gia đinh. Trước tình hình đó, cần đưa ra các biện pháp giáo dục KNS cho học sinh làm sao tiết kiệm được thời gian, kinh phí, thu hút được học sinh mà vẫn có thể linh hoạt sử dụng trong bất cứ hoạt động giáo dục nào. Và giáo dục KNS qua trò chơi là một lựa chọn tối ưu vì đây là hình thức giáo dục gây hứng thú mạnh mẽ cho học sinh. Các em vừa học, vừa chơi nhưng vẫn bổ ích, thiết thực. Từ những lí do trên tôi quyết định chọn đề tài “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường THCS Luận Thành qua một số trò chơi” để thực hiện. Với đề tài này, tôi mong muốn tạo thêm sân chơi bổ ích cho học sinh, góp phần tăng cường giáo dục KNS cho các em, giúp ích cho các em trong quá trình học tập và sinh sống. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Từ tình hình thực tế việc giáo dục KNS tại đơn vị, tôi đưa ra một số giải pháp rèn luyện, giáo dục KNS cho học sinh, giúp các em biết vận dụng nó để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống, trong học tập một cách hiệu quả, giúp các em phát triển một cách toàn diện Góp phần đa dạng hóa hình thức giáo dục KNS cho học sinh tại đơn vị, tiết kiệm thời gian, kinh phí, nâng cao hiệu quả giáo dục KNS nói riêng, giáo dục học sinh trong Nhà trường nói chung. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu về một số biện pháp rèn luyện KNS thông qua các trò chơi tập thể cho học sinh trong các hoạt động giảng dạy và giáo dục của Nhà trường. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Giáo dục KNS cho học sinh có rất nhiều phương pháp. Nhưng đề tài chỉ dừng lại ở việc rèn luyện KNS cho học sinh qua trò chơi tại đơn vị nên chỉ sử dụng một số phương pháp như: + Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu các tài liệu: Các văn bản của ngành về giáo dục KNS cho HS, các tài liệu về giáo dục KNS để làm căn cứ thực hiện đề tài. + Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Sử dụng phương pháp này để tìm hiểu lí do học sinh thiếu KNS, số lượng và lí do học sinh hay vi phạm các nội quy, thiếu tự tin, chán học, hay chống đối, có hành động, suy nghĩ cực đoan + Phương pháp thống kê: Sử dụng PP này để nắm được tỉ lệ có KNS của học sinh khi thực hiện khảo sát thực tế trước và sau khi thực hiện đề tài. + Phương pháp thực hành: Sử dụng phương pháp này trong quá trình rèn luyện kĩ năng cho HS, qua việc khảo sát kết quả việc thực hiện đề tài. 2. Nội dung 2.1. Cơ sở lí luận Trong môi trường không ngừng biến động con người luôn đối diện với áp lực cuộc sống từ những yêu cầu ngày càng đa dạng, ngày càng cao trong quan hệ xã hội, trong công việc và cả trong quan hệ gia đình. Quá trình hội nhập với thế giới đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ngoài kiến thức chuyên môn, yêu cầu về các kỹ năng sống ngày càng trở nên quan trọng. Thiếu kỹ năng sống con người dễ hành động tiêu cực, nông nổi. Giáo dục cần trang bị cho người học những kỹ năng thiết yếu như ý thức về bản thân, làm chủ bản thân, đồng cảm, tôn trọng người khác, biết cách hợp tác và giải quyết hợp lý các mâu thuẫn, xung đột. [1 ] Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành quan tâm chủ yếu tới cung cấp kiến thức cho học sinh. Chương trình như vậy được xây dựng theo hướng tiếp cận nội dung dạy học, khác với một chương trình được xây dựng theo hướng tiếp cận năng lực, tức là xuất phát từ các năng lực mà mỗi học sinh cần có trong cuộc sống và kết quả cuối cùng phải đạt các năng lực ấy bằng việc xây dựng chuẩn đầu ra về năng lực mà học sinh cần phải đạt được sau một quá trình dạy – học. Khác với cách tiếp cận nội dung, tiếp cận năng lực chú trọng vào việc yêu cầu học sinh học xong phải thể hiện được, làm được; biết vận dụng những kiến thức để giải quyết các tình huống đặt ra trong cuộc sống, … Vì thế, việc học tập theo hướng tiếp cận này trở nên gần gũi và thiết thực đối với cá nhân và cộng đồng. Theo đó, nội dung, phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá đều phải hướng tới năng lực tự học, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề trong học tập, trong cuộc sống; coi trọng rèn luyện kỹ năng sống. Trong thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức một số hoạt động hướng tới việc rèn luyện năng lực cho học sinh như: Tổ chức Chương trình đánh giá học sinh quốc tế PISA với cách đánh giá kỹ năng vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống; tổ chức cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn giải quyết các vấn đề thực tiễnỞ Việt Nam, với Đề án đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, mục tiêu giáo dục đang chuyển hướng từ trang bị kiến thức nặng lý thuyết sang trang bị những năng lực cần thiết và phẩm chất cho người học. Điều đó cũng khẳng định thêm tầm quan trọng và yêu cầu thiết yếu đưa giáo dục KNS vào trường học cùng với các môn học và các hoạt động giáo dục.[ 2] Sự phối hợp chặt chẽ giáo dục KNS với các hoạt động giáo dục vốn đã được lồng ghép vào chương trình giáo dục từ nhiều năm nay như giáo dục bảo vệ môi trường, phòng chống ma tuý, giáo dục pháp luật, sức khỏe sinh sản vị thành niên, tạo nhiều cơ hội và điều kiện để triển khai giáo dục KNS. 2.2 Thực trạng vấn đề 2.2.1. Thuận lợi Bộ và Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng giáo dục đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý, giáo viên về giáo dục KNS cho học sinh phổ thông; hướng dẫn tích hợp giáo dục KNS vào các địa chỉ qua một số môn học và hoạt động giáo dục ở các cấp học phổ thông nên cán bộ quản lý và giáo viên trong trường đã nắm được cơ bản việc giáo dục KNS cho học sinh. Một số hoạt động giáo dục KNS đã được Nhà trường chú ý thực hiện trong khuôn khổ và yêu cầu của Phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động. Giáo dục KNS từ nhà trường cũng như qua các phương tiện thông tin đại chúng đã thu hút được sự chú ý và hưởng ứng của xã hội, của phụ huynh học sinh. Hình thức tổ chức giáo dục KNS đã bước đầu được thực hiện trong một số môn học, thông qua hoạt động ngoại khoá và các hoạt động trải nghiệm. Việc giáo dục KNS cho HS trong Nhà trường được sự quan tâm và hỗ trợ của tổ chức “Tầm nhìn thế giới” nói chung và CT PTV Thường Xuân nói riêng. 2.2.2. Khó khăn, hạn chế Khi thực hiện giáo dục KNS, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng (chưa có tài liệu cho giáo viên và học sinh, tiêu chí đánh giá chưa cụ thể,). Tổ chức giáo dục KNS có những đặc thù riêng khác với các hoạt động giáo dục khác, nội dung giáo dục không chỉ diễn ra trong môn học mà còn thông qua một số hoạt động khác (hoạt động ngoài giờ lên lớp, câu lạc bộ,…) cho nên thiếu cơ sở vật chất, kinh phí để thực hiện. Một bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên, phụ huynh chưa được nhận thức một cách đúng mức trong ý nghĩa, tầm quan trọng của giáo dục KNS, còn ngại suy nghĩ, đổi mới trong phương pháp giáo dục học sinh. Giáo viên quen với việc tập trung cung cấp kiến thức mà không hoặc ít quan tâm giáo dục KNS cho học sinh. Mặt khác thời lượng tiết học là 45 phút rất nhanh nên giáo viên không có đủ thời gian lồng ghép giáo dục cho học sinh. Nhiều gia đình học sinh chưa quan tâm đến giáo dục con em, còn phó mặc cho Nhà trường. Ngoài ra, việc rèn luyện kĩ năng mềm cần tiến hành thông qua những hoạt động tích cực thực tiễn, trong khi nhiều học sinh vẫn quen với lối học thụ động. Học sinh của trường đa số xuất thân từ nông thôn nên khả năng thích ứng với xã hội hiện đại của các em còn yếu, các hiểu biết về kĩ năng mềm ở các em hầu như là chưa có. Số lượng học sinh trong trường quá đông, gần 500 học sinh, mà giáo dục và rèn luyện KNS cần cho học sinh trải nghiệm nên việc giáo dục KNS cho toàn bộ học sinh là việc vô cùng khó và không có hiệu quả. Hình thức giáo dục KNS cho HS còn nghèo nàn, chưa thu hút và hấp dẫn được học sinh do không đủ thời gian và kinh phí tổ chức. Vì những khó khăn trên nên hiện nay việc triển khai các hoạt động rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh như thế nào cho hiệu quả là vấn đề trăn trở của nhà trường và các giáo viên đang trực tiếp làm công tác giảng dạy và giáo dục. 2.3. Giải pháp thực hiện 2.3.1. Một số vấn đề chung a. Sự cần thiết phải giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết về cuộc sống. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thử thách, những áp lực tiêu cực. Nếu không được giáo dục kĩ năng sống, nếu thiếu kĩ năng sống, các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Một trong các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh phổ thông trong thời gian vừa qua chính là do các em thiếu những kĩ năng cần thiết như: kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ năng kiên định, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ năng thương lượng, kĩ năng giao tiếp. Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho các em là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hoà và lành mạnh. b. Một số phương pháp giáo dục KNS cho học sinh phổ thông thường được sử dụng: – Phương pháp động não – Phương pháp sắm vai(trải nghiệm) – Phương pháp trò chơi – Phương pháp vẽ tranh Có nhiều phương pháp giáo dục KNS cho học sinh, mỗi phương pháp có những ưu nhược điểm riêng. Trong các phương pháp trên thì phương pháp sắm vai và trò chơi là hai phương pháp học sinh rất yêu thích. Tuy nhiên phương pháp sắm vai để có hiệu quả thì phải xây dựng tình huống, có phục trang, đạo cụ phù hợp, số học sinh tham gia được ít nên việc sử dụng phương pháp trò chơi sẽ có hiệu quả hơn. c. Sử dụng phương pháp trò chơi trong giáo dục KNS cho học sinh * Mục đích: Phương pháp trò chơi giúp cho quá trình học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan nhàm chán nhằm lôi cuốn học sinh tham gia vào quá trình học tập một cách tự nhiên, hứng thú, có tinh thần trách nhiệm, đồng thời xua tan sự căng thằng trong học tập. * Các bước thực hiện: – Lựa chọn trò chơi phù hợp – Chuẩn bị phương tiện(nếu cần) – Lựa chọn không gian phù hợp – Huy động sự tham gia của người chơi – Giới thiệu tên trò chơi, luật chơi – Hướng dẫn chơi – Chơi thử – Tổ chức chơi – Xử lý theo luật chơi – Rút ra ý nghĩa của trò chơi(qua sử dụng các câu hỏi vấn đáp, gợi mở để học sinh rút ra được kỹ năng sống qua trò chơi)[4 ] * Lưu ý khi sử dụng phương pháp trò chơi – Trò chơi phải dễ tổ chức và thực hiện, đảm bảo mọi người đều có thể được tham gia – Trò chơi phải phù hợp(với đặc điểm, trình độ học sinh, hoàn cảnh thực tế của lớp học, phù hợp với KNS cần giáo dục) – Chú ý phát huy tính tích cực của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh tự tổ chức chơi. – Cuối trò chơi phải có hệ thống câu hỏi để học sinh rút ra KNS cần giáo dục.[5] * Những hoạt động giáo dục có thể sử dụng phương pháp trò chơi để giáo dục KNS – Qua tiết ngoại khóa trên lớp: Với tiết học ngoại khóa thời gian và không gian thuận lợi hơn nhưng chú ý không quá ồn và vận động mạnh làm ảnh hưởng đến lớp khác. – Qua các hoạt động ngoại khóa(sinh hoạt câu lạc bộ, các hoạt động tập thể), không gian và thời gian không bị hạn chế nên chọn các trò chơi vận động, có nhiều người tham gia để tạo không khí thoải mái cho học sinh. Tùy vào từng hoạt động mà giáo viên lựa chọn trò chơi phù hợp làm sao vừa khắc sâu nội dung hoạt động vừa kết hợp giáo dục KNS cho học sinh có hiệu quả. 2.3.2. Phương pháp giáo dục KNS cho học sinh qua một số trò chơi Bất cứ trò chơi lành mạnh nào nếu vận dụng tốt đều có thể dùng để giáo dục KNS cho học sinh. Trong đây, tôi xin được giới thiệu một số trò chơi dễ thực hiện trong các hoạt động giảng dạy và giáo dục ở trường phổ thông. a. Giáo dục “Kỹ năng hợp tác ” qua trò chơi “ Vượt biển” Mục đích của trò chơi này là giúp học sinh nhận thức được vai trò, ý nghĩa của việc hợp tác, từ đó giáo dục kỹ năng hợp tác cho các em. Chuẩn bị: Một số tờ giấy báo, không gian chơi đủ rộng Trò chơi tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Giới thiệu luật chơi Giáo viên chia học sinh thành các nhóm(chia ngẫu nhiên qua trò chơi “Kết bạn”), chia cho mỗi nhóm một tờ báo cũ, quy định khoảng sân(lớp) là biển, tờ báo là thuyền để vượt biển. Khi trò chơi bắt đầu, giáo viên cho các học sinh xung quanh sân vừa đi vừa hát. Giáo viên hô “Bão biển” thì tất cả học sinh phải chạy về đứng gọn trên thuyền, ai không đứng gọn trên thuyền thì bị loại. Khi giáo viên hô “Bão tan”, mọi học sinh lại đi xung quanh sân, lúc này thuyền bị rách nên chỉ còn lại một nửa tờ báo, khi có hiệu lệnh “Bão biển” thì lại phải chạy ngay về thuyền. Trò chơi cứ tiếp tục như vậy càng về sau càng khó(thuyền càng ngày càng nhỏ). Nhóm nào bảo tồn được số người sau cùng sẽ thắng cuộc. Bước 2: Chơi thử: Giáo viên cho học sinh chơi thử 2-3 lượt cho học sinh nắm rõ luật chơi. Bước 3: Tổ chức chơi Giáo viên cho học sinh chơi khoảng 3-5 lượt, tìm ra đội chơi thua nhanh nhất để “thưởng” bằng một hình thức vui nào đó. Bước 4: Rút ra ý nghĩa của trò chơi(giáo dục KNS): – Sau khi kết thúc trò chơi giáo viên đưa ra một số câu hỏi để học sinh rút ra ý nghĩa trò chơi: ? Để giành được thắng lợi trong trò chơi vừa rồi thì mội thành viên trong nhóm cần phải làm gì?( cần nhanh chóng chạy về thuyền, bám chặt vào nhau, chung sức giữ cho nhau đứng vững trên thuyền) ? Nếu trong nhóm có 1 người không bám chắc hoặc đứng không vững thì nhóm có đứng vững được không? Nhóm sẽ làm gì để đứng vững trên thuyền?(nhóm không thể đứng vững nếu một thành viên không kết hợp tốt, những thành viên còn lại sẽ hỗ trợ giúp cho bạn bám chắc và đứng vững ) ? Thuyền muốn đứng vững thì các em nên phân công nhiệm vụ như thế nào?(bạn to khỏe đứng giữa làm trụ, các bạn nhỏ, yếu đứng xung quanh, tất cả trong và ngoài đều giữ chặt lấy nhau thành một khối) Giáo viên kết luận: Kỹ năng hợp tác là một kỹ năng rất quan trọng với mội chúng ta, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Kỹ năng hợp tác là cùng chung sức, giúp đỡ, hỗ trợ nhau để đạt đến một mục đích chung. Hợp tác giúp chúng ta có thêm sức mạnh, vượt qua khó khăn, có được nhiều thành công. Muốn hợp tác tốt mỗi người cần phải biết tôn trọng, chia sẻ, lắng nghe các thành viên khác trong nhóm, có tinh thần trách nhiệm, luôn hỗ trợ mọi người trong nhóm hoàn thành nhiệm vụ chung. b. Giáo dục kỹ năng “Tự nhận thức” qua trò chơi “Soi gương” Mục đích của trò chơi này là học sinh nhận thức được rằng muốn thấy được vẻ bề ngoài của bản thân thì rất dễ bằng cách soi gương, nhưng để nhận biết được bên trong mỗi người thì cần có kỹ năng tự nhận thức bản thân. Trò chơi tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Phổ biến luật chơi – GV cho học sinh đứng thành vòng tròn xung quanh mình. Cử ra hai người quan sát để phát hiện người làm không đúng(luân phiên) – Luật chơi: Người quản trò đứng giữa vòng tròn làm động tác nào thì những người xung quanh phải làm theo nhưng làm ngược chiều(giống hình ảnh trong gương). Nếu ai làm cùng chiều với người quản trò thì sẽ được “thưởng” Bước 2: Chơi thử: Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi thử để học sinh nắm rõ luật chơi Bước 3: Tổ chức trò chơi: Giáo viên thực hiện các động tác( ví dụ như chải đầu soi gương, đánh răng, trang điểm, dắt xe. ) khoảng 3-5 lượt để tìm ra những người chơi chưa đúng để “thưởng” bằng một hình thức vui nào đó. Bước 4: Rút ra ý nghĩa của trò chơi(giáo dục KNS): – Sau khi kết thúc trò chơi giáo viên đưa ra một số câu hỏi để học sinh rút ra ý nghĩa trò chơi: ? Để nhận ra vẻ bề ngoài của bản thân thì chúng ta phải làm gì?(soi gương) ? Việc soi gương có giúp chúng ta nhìn thấy đặc điểm bên tro
Skkn Một Số Biện Pháp Giáo Dục Kỹ Năng Sống Cho Học Sinh Tiểu Học
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỨC PHỔ TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 3 PHỔ THẠNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
Lĩnh vực: Lĩnh vực khác Tên tác giả: Trần Thị Thiểu Chức vụ: Giáo viên Tiểu học
Năm học 2014 – 2015
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học
NỘI DUNG PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
3 -4
1.1. KĨ NĂNG SỐNG LÀ GÌ?
1.2. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÍ CỦA TRẺ CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 3.1. BÁM SÁT NỘI DUNG GIÁO DỤC KĨ NĂNG
9
SỐNG CHO HỌC SINH 3.2.THỰC HIỆN TỐT CÁC NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC
10
KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH 3.3. PHÁT HUY VAI TRÒ, TÁC DỤNG VÀ HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
3.4. XÂY DỰNG KẾ HOẠCH GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG 3.5 . VÍ DỤ MINH HỌA
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3
CHƯƠNG 5: TIỂU KẾT PHẦN 3: KẾT LUẬN
21 – 22
PHẦN I:
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học
ĐẶT VẤN ĐỀ Trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, việc đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người lao động có ích cho xã hội là việc làm cấp bách và cần thiết, đòi hỏi sự dày công của người giáo viên, bởi yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Bản thân là một giáo viên Tiểu học có nhiều năm công tác và giảng dạy khối lớp 5 tại trường Tiểu học số 3 Phổ Thạnh với nhiều bức xúc trước học sinh chưa có kinh nghiệm kỹ năng sống. Do đó, đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ, có năng lực phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với nghề, yêu thương tận tụy với học sinh, bởi giáo viên đóng vai trò quan trọng vì mọi kiến thức, hành vi , phẩm chất và năng lực được hình thành ở nhà trường, đặc biệt là cấp Tiểu học. Hơn nữa giáo viên Tiểu học là người trực tiếp giảng dạy và giáo dục các em học sinh, ngoài việc cung cấp kiến thức, văn hoá còn dạy các học sinh tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống hằng ngày như: tự chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường và phòng chống các tệ nạn xã hội,…để các em chủ động, tự tin không phụ thuộc hoàn toàn vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình. Chính vì vậy, người giáo viên ngoài việc trang bị cho học sinh vốn kiến thức cơ bản trong học tập, lao động còn phải giáo dục học sinh có kỹ năng sống đó là: Học để biết, Học để làm, Học để tự khẳng định mình và Học để cùng nhau chung sống. Năm học 2014-2015 là năm học tiếp tục thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một trong những nội dung của phong trào. Vì thế, nhà trường cần chú trọng hơn đến nội dung “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh”.
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học Để thực hiện tốt giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, nhiệm vụ đầu tiên của giáo viên là nghiên cứu và nắm vững đặc điểm tâm sinh lí của học sinh, xây dựng mục tiêu, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục phù hợp vào hoàn cảnh, điều kiện dạy học cụ thể của lớp, của trường và vận dụng một cách linh hoạt sáng tạo với nhu cầu, trình độ của học sinh. Với những kinh nghiệm tôi rút ra từ thực tiễn sẽ góp phần xây dựng thế hệ học sinh năng động, thân thiện, phát triển toàn diện trong nhà trường.Vì vậy tôi đã chọn sáng kiến kinh nghiệm ” Một số biện pháp giáo dục Kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học”
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN Phương pháp giáo dục Phổ thông đang đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Nội dung giáo dục kĩ năng sống đã được tích hợp trong một số môn học và hoạt động giáo dục. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học còn thông qua nhiều chương trình, dự án như: Giáo bảo vệ môi trường, giáo dục phòng chống HIV/AIDS, giáo dục phòng chống ma túy, giáo dục phòng chống tai nạn thương tích. Đặc biệt, rèn kĩ năng sống cho học sinh được xác định là một trong những nội dung cơ bản của phong trào thi đua ” Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục và đào tạo chỉ đạo. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường là: – Trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp, hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống và các hoạt động hằng ngày. – Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học – Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là giáo dục cho các em có cách sống tích cực, xây dựng cho các em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học. 1.1. KỸ NĂNG SỐNG LÀ GÌ? Có nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng sống: – Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹ năng sống là khả năng để có hành vi thích ứng và tích cực , giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước nhu cầu và thác thức của cuộc sống hằng ngày. – Theo UNICEFF, Kỹ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Các tiếp cận này có sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kĩ năng. – Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO), kỹ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả của việc làm…; Học làm người: gồm các kỹ năng cá nhân như ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…; Học để chung sống: gồm các kỹ năng như giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông Học để làm: gồm kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như: kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm..; Tóm lại kỹ năng sống rất cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. 1.2. ĐẶC ĐIỂM TÂM SINH LÝ CỦA TRẺ – Trong thực tế cuộc sống cho thấy những trẻ có thể lực yếu thường hay ỷ lại, phụ thuộc nhiều vào những người thân trong gia đình những việc làm tự phục vụ mà lẽ ra chính trẻ phải tự làm như : rửa chân tay, mặc quần áo,…
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học – Hệ thần kinh của trẻ tiểu học đang trong thời kì phát triển mạnh, đến 9, 10 tuổi hệ thần kinh của trẻ căn bản được hoàn thiện và bộ óc của các em đang phát triển đi dần đến hoàn thiện nên các em dễ bị kích thích. Thầy cô giáo và cha mẹ, người thân của các em cần chú ý để giúp trẻ hình thành tính tự chủ, lòng kiên trì, sự kìm hãm của bản thân trước những kích thích của hoàn cảnh xung quanh, biết giữ gìn trật tự nơi công cộng và trong lớp học. Người lớn không được mắng, doạ dẫm, đe nạt các em, vì làm như thế không những bị tổn thương đến tình cảm mà còn gây tác hại đến sự phát triển thần kinh và bộ óc của các em. – Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học cũng được bắt đầu ngay từ những buổi đầu các em đến trường. Nếu không chuẩn bị chu đáo về mặt tâm lí cho trẻ trước khi đi học sẽ dẫn đến những tình huống như: đòi theo bố mẹ về nhà, không dám nói chuyện với bạn bè, không dám chào hỏi thầy cô, không dám xin phép cô khi ra vào lớp,… – Học sinh tiểu học thích bắt chước hành vi, cử chỉ, lời nói,… của các nhân vật trong phim, của các thầy cô giáo, của những người thân trong gia đình. tính bắt chước là con dao “hai lưỡi”, vì trẻ em bắt chước cái tốt cũng nhiều, cái xấu cũng nhiều. Chính vì vậy những tính cách hành vi của những người xung quanh là môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến tính cách, hành vi, ứng xử của trẻ. Các mối quan hệ của trẻ em là: Trẻ em – Gia đình; Trẻ em – Đồ vật; Trẻ em – Nhà trường; Trẻ em – Xã hội. Ở tiểu học, uy tín của người thầy giáo, cô giáo các quan điểm, niềm tin, toàn bộ những hành vi cử chỉ của thầy, cô thường là những mẫu mực cho hành vi của học sinh. Các em thường tin tưởng tuyệt đối ở nơi thầy, cô giáo nên chúng thường bắt chước những cử chỉ tác phong của thầy, cô giáo mình. Ở trường các em còn được tiếp xúc với bạn bè, với tập thể nhóm bạn, tổ, lớp; những hoạt động tập thể cũng ảnh hưởng không ít đến việc hình thành, phát triển nhân cách và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 2.1. THỰC TRẠNG Thực trạng ở trường Tiểu học số 3 Phổ Thạnh, một số học sinh còn thiếu kỹ năng sống như: thiếu tính tự lập; chưa tự giác, thiếu tự tin trước tập thể, chưa biết cách ứng xử phù hợp. Kỹ năng giao tiếp hạn chế, nói trỗng với người lớn, thầy cô, gọi bạn bằng mày, tao chúng tôi Để giúp học sinh có kỹ năng sống tốt, tôi đã tiến hành khảo sát thực tế một số kỹ năng của các lớp như sau: Khảo sát HS lớp 1 A1 phân hiệu trung tâm đầu năm học 2013 – 2014:
Nội dung khảo sát: Tự mặc quần áo. Tự giác ngồi học bài Tự mặc quần áo
TSHS
24
Tự giác ngồi học bài
Tự mình mặc
Cần người lớn
Tự giác không
Chưa tự giác,
quần áo
giúp mặc quần
cần nhắc nhở
bố mẹ phải
áo
nhắc nhở nhiều
SL
%
SL
%
SL
%
SL
14
58,3
10
41,7
41,7
14
58,3
%
10 Khảo sát lớp 2A 2 phân hiệu trung tâm đầu năm học 2013 – 2014:
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học
TSHS
SL % SL % 25 14 56,0 11 44,0 * Khảo sát lớp 5/3 phân hiệu trung tâm đầu năm học 2013 – 2014: * Nội dung khảo sát: ứng xử với bạn khi chơi các trò chơi dân gian tập thể. Khảo sát qua quan sát thực tế, kết hợp với giáo viên chủ nhiệm và tổng phụ trách đội đánh giá HS:
Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể Biết cách ứng xử hài hoà khá phù Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi chơi hợp SL 22
Từ thực trạng trên, qua nhiều năm giảng dạy tại trường Tiểu học số 3 Phổ Thạnh tôi tìm ra một số nguyên nhân dẫn đến các em học sinh chưa có kỹ năng sống tốt là: 2.2. NGUYÊN NHÂN 2.2.1.Về phía giáo viên: – Một số giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, mà chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức ở sách giáo khoa nên chưa chịu khó tìm tòi các hình thức và phương pháp tổ chức cho các hoạt động này nên làm mất sự hứng thú của học sinh. 2.2.2. Về phía học sinh: – Học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cô giáo, chưa có tính sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động.
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học – Học sinh chỉ có học kiến thức, khả năng ứng phó với các tình huống trong cuộc sống kém, thiếu sự tự tin trước đông người. – Kỹ năng giao tiếp hạn chế, nói trỗng với người lớn, thầy cô, gọi bạn bằng mày, tao,… 2.2.3. Về phía phụ huynh: Đa số phụ huynh cho rằng con em mình chỉ cần học giỏi kiến thức, chỉ khuyến khích con em tìm kiến thức mà quên hướng dẫn cho con em mình làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách ứng xử trong gia đình. Một số gia đình phụ huynh giao tiếp trong gia đình còn nhiều hạn chế, xưng hô chưa chuẩn mực nên các em bắt chước và xưng hô thiếu thiện cảm. Ngoài ra do ảnh hưởng của môi trường sống, các em bắt chước nói tục, chưởi thề. 2.2.4. Về phía nhà trường Trường Tiểu học số 3 Phổ Thạnh là một trường thuộc vùng ven biển, điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, trình độ dân trí của người dân chưa cao so với các xã ở thị trấn của huyện. Phần lớn người dân làm nghề đánh cá nên thường nói tục, chưởi thề do đó ảnh hưởng đến giáo dục của nhà trường. Vì thế trong hoạt động chuyên môn dạy và học, Nhà trường thường xuyên nghiên cứu, cải tiến nâng cao chất lượng giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, không ngừng đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với nội dung chương trình. Và đặc biệt chú trọng đến việc “Giáo dục kỹ năng sống” cho học sinh.
CHƯƠNG 3
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học
BIỆN PHÁP THỰC HIỆN Giáo dục kỹ năng sống là điều cần thiết cho mọi người, mọi lứa tuổi. Đặc biệt là đối với lứa tuổi học sinh Tiểu học. Giáo dục kỹ năng sống là việc cần được tiến hành thường xuyên, liên tục, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, hoàn cảnh, hoạt động của từng loại đối tượng cụ thể. Để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học tôi đã thực hiện các biện pháp sau: 3.1. BÁM SÁT NỘI DUNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH Nội dung giáo dục kỹ năng sống ở Tiểu học hết sức đơn giản, gần gũi với trẻ em, là những kiến thức tối thiểu để các em có thể tự lập… Và mục đích quan trọng nhất là giúp các em tự tin hơn, tự lập hơn trong cuộc sống. Vì vậy khi tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh cần: – Bám sát vào nội dung của giáo dục kỹ năng sống và vận dụng linh hoạt các nội dung của giáo dục kỹ năng sống tuỳ theo từng hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và điều kiện cụ thể của từng môn học. – Xác định rõ các nội dung giáo dục kỹ năng sống (xác định rõ các kỹ năng sống cần hình thành và phát triển cho học sinh) để tích hợp vào nội dung của hoạt động giáo dục. – Tạo ra động lực cho học sinh tham gia một cách tích cực vào quá trình hình thành kỹ năng sống nói chung và kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng tự nhận thức về bản thân, kỹ năng ứng phó với cảm xúc… 3.2. THỰC HIỆN TỐT CÁC NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG Kỹ năng sống là tất cả những điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống. Vì thế GV cần nắm rõ 5 nguyên tắc về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. : 3.2.1. Tương tác:
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học Kỹ năng sống được hình thành tốt trong quá trình học sinh tương tác với bạn bè và những người xung quanh. Tạo điều kiện để các em có dịp thể hiện ý kiến của mình và xem xét ý kiến của người khác… Do vậy, giáo viên cần tổ chức các hoạt động có tính chất tương tác trong các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp để giáo dục kỹ năng sống cho các em. 3.2.2. Trải nghiệm: Kỹ năng sống chỉ được hình thành khi người học trải nghiệm qua thực tế và nó có kĩ năng khi các em được làm việc đó. Vì thế giáo viên cần phải có thiết kế và tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh được hoạt động thực, có cơ hội thể hiện ý tưởng, có cơ hội xử lí các tình huống. 3.2.3. Tiến trình: Là một quá trình từ nhận thức – hình thành thái độ – thay đổi hành vi. Do vậy giáo dục kỹ năng sống không thể là ngày một ngày hai mà cả một quá trình. 3.2.4. Thay đổi hành vi: Giúp người học thay đổi hành vi theo hướng tích cực. Giáo dục kỹ năng sống thúc đẩy người học thay đổi hay định hướng lại các giá trị, thái độ và hành động của mình. 3.2.5. Thời gian – môi trường giáo dục: Giáo dục giáo dục kỹ năng sống được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi; giáo dục trong mọi môi trường như gia đình, nhà trường, xã hội; cần phải tạo điều kiện tối đa cho HS tham gia vào các tình huống thật trong cuốc sống. Do đó trong quá trình tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh GV phải đảm bảo thực hiện tốt các nguyên tắc của giáo dục. 3.3. PHÁT HUY VAI TRÒ, TÁC DỤNG VÀ HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
Hoạt động giáo dục kỹ năng sống là hoạt động được tổ chức theo mục tiêu, nội dung, chương trình dưới sự hướng dẫn của giáo viên, giúp học sinh thực hiện
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học một cách tự giác, tích cực tri thức thành niềm tin, kiến thức thành hành động, biến yêu cầu của nhà trường thành chương trình hành động của tập thể lớp và của cá nhân học sinh, tạo cơ hội cho học sinh trải nghiệm tri thức, thái độ, quan điểm và hành vi ứng xử của mình trong môi trường an toàn, thân thiện có định hướng giáo dục. Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi như : kỹ năng giao tiếp ứng xử có văn hoá; kỹ năng tổ chức quản lý và tham gia các hoạt động tập thể với tư cách là chủ thể của hoạt động; kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện; củng cố, phát triển các hành vi, thói quen tốt trong học tập, lao động và công tác xã hội. Bồi dưỡng thái độ tự giác tích cực tham gia các hoạt động tập thể và hoạt động xã hội; hình thành tình cảm chân thành, niềm tin trong sáng với cuộc sống, với quê hương đất nước; có thái độ đúng đắn đối với các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Vì vậy cần phát huy tối đa vai trò, tác dụng và hiệu quả của hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. 3.4. XÂY DỰNG KẾ HOẠCH GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG – Tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các môn học, vào các hoạt động giáo dục khác. – Thường xuyên tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi tập thể lành mạnh, chơi các trò chơi dân gian, tổ chức các hoạt động văn nghệ thể thao, qua các hoạt động rèn cho học sinh kĩ năng ứng xử với bạn bè, xây dựng tinh thần đoàn kết tốt, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng hợp tác, kỹ năng quyết định, biết kiềm chế bản thân trong khi xử lí các tình huống với bạn bè. – Tổ chức các hoạt động lao động vừa sức với học sinh: vệ sinh sân trường, lớp học, trồng chăm sóc cây trên sân trường, bồn hoa, vườn trường, ; học sinh được rèn một số kỹ năng như: cầm chổi quét, nhặt rác, tưới cây, tỉa lá,…; thông qua đó HS biết sử dụng có hiệu quả đồ dùng lao động. – Giáo dục học sinh có ý thức xây dựng trường lớp “Xanh – Sạch – Đẹp” thường xuyên chăm sóc cây xanh trong trường học.
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học + Lễ phép, kính trọng ông bà, cha mẹ . + Vâng lời, giúp đỡ bố mẹ ; nhường nhịn em nhỏ . + Biết ứng xử với mọi người trong gia đình, biết nói ” cảm ơn “, ” xin lỗi “, ” vâng, ạ, dạ, thưa ” … với cả những người thân thiết trong gia đình, biết dùng từ ngữ phù hợp, đúng mực, phù hợp với hoàn cảnh đồng thời phải biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến mọi người ngay cả khi bất đồng quan điểm, cả khi việc không theo ý mình . * VÍ DỤ MINH HỌA: Một học sinh không làm bài về nhà, giáo viên cần để học sinh nêu được : + Lí do vì sao em không làm bài về nhà ? Giáo viên cần phối hợp với phụ huynh, yêu cầu bố mẹ học sinh tìm hiểu lí do, khuyến khích rằng con có khả năng làm được việc đó hơn là la mắng, đánh đập, học sinh sẽ cảm thấy tự tin, có cơ hội được trình bày vấn đề của mình . Giáo viên cần định hướng cho học sinh trong giao tiếp hàng ngày: + Lời đề nghị khi yêu cầu, mong muốn được giúp đỡ . + Lời từ chối khi không đồng ý, không muốn hoặc không thể thực hiện đúng yêu cầu của người khác . + Lời xin lỗi khi làm phiền, khi mắc lỗi, khi không làm đúng, khi từ chối, – Để giao tiếp tế nhị, khéo léo; giáo viên cần định hướng cho học sinh biết cách xác định các nhân tố giao tiếp : Xác định nhân vật giao tiếp; xác định nội dung giao tiếp; xác định khả năng của em ; xác định ngữ cảnh; xác định phương tiện biểu đạt .
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học * VÍ DỤ MINH HỌA: Lời đề nghị yêu cầu muốn được giúp đỡ – GV đưa tình huống cụ thể : ” Nhờ một người cùng trang lứa đóng giúp cửa sổ khi ngồi học ” – Học sinh có thể nêu lên một số ý kiến cá nhân : + Bạn có thể đóng giúp tớ cửa sổ được không ?
(*)
CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA SÁNG KIẾN:
TSHS
24
Tự giác ngồi học bài ở nhà
Tự mình mặc
Cần người lớn
Tự giác không
Chưa tự giác,
quần áo
giúp mặc quần
cần nhắc nhở
bố mẹ phải
áo
nhắc nhở nhiều
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
22
91,7
2
8,3
20
83,3
4
16,7
TSHS
* Nội dung khảo sát: ứng xử với bạn khi chơi các trò chơi dân gian tập thể. Khảo sát qua quan sát thực tế, kết hợp với giáo viên chủ nhiệm và tổng phụ trách đội đánh giá HS: TSHS
Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể Biết cách ứng xử hài hoà khá phù Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi chơi hợp
Một Số Biện Pháp Giáo Dục Kỹ Năng Sống Cho Học Sinh Thông Qua Tiết Sinh Hoạt Dưới Cờ
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua tiết sinh hoạt dưới sân cờ.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Nâng cao chất lượng giáo dục
3. Mô tả bản chất của sáng kiến:
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết:
Trường tiểu học Thị trấn Kiên Lương 1 là một trường trọng điểm nằm ở vị trí trung tâm Thị trấn Kiên Lương, được đầu tư cơ sở vật chất khá khang trang. Chính vì thế mọi hoạt động của trường cần phải đạt hiệu quả nổi bậc, tạo niềm tin cho phụ huynh, xây dựng thương hiệu, khẳng định vị thế là một trường trọng điểm có chất lượng cao về giảng dạy và giáo dục. Ngoài việc dạy và học, hoạt động Đội cũng giáo dục đạo đức, rèn kỹ năng sống cho các em thông qua các tiết sinh hoạt dưới sân cờ giúp cho học sinh tự rèn luyện, tự hoàn thiện mình và hình thành nhân cách cho các em.
Khi chưa lồng ghép, áp dụng giáo dục kỹ năng sống dưới sân cờ cho học sinh, các tiết sinh hoạt dưới cờ thường là tuyên truyền về các ngày lễ, về các dịch bệnh và nêu những nhận xét về hoạt động của các em trong tuần qua, đề ra phương hướng cho tuần tới mà như thế thì tiết sinh hoạt rất lắng không sôi nổi không có tác dụng giáo dục đạo đức cho các em nhiều.
Về phía gia đình, phụ huynh chỉ quan tâm đến điểm số, kiến thức chưa chú trọng đến việc rèn kỹ năng sống cho con từ đó các em hạn chế về khả năng tự học, tự tìm tòi và đặc biệt là các kỹ năng giải quyết mâu thuẫn, đề kháng cám dỗ, thích nghi, thoát hiểm. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi mạnh dạn đưa ra đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua tiết sinh hoạt dưới sân cờ”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc MÔ TẢ SÁNG KIẾN Mã số: . 1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua tiết sinh hoạt dưới sân cờ. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Nâng cao chất lượng giáo dục 3. Mô tả bản chất của sáng kiến: 3.1. Tình trạng giải pháp đã biết: Trường tiểu học Thị trấn Kiên Lương 1 là một trường trọng điểm nằm ở vị trí trung tâm Thị trấn Kiên Lương, được đầu tư cơ sở vật chất khá khang trang. Chính vì thế mọi hoạt động của trường cần phải đạt hiệu quả nổi bậc, tạo niềm tin cho phụ huynh, xây dựng thương hiệu, khẳng định vị thế là một trường trọng điểm có chất lượng cao về giảng dạy và giáo dục. Ngoài việc dạy và học, hoạt động Đội cũng giáo dục đạo đức, rèn kỹ năng sống cho các em thông qua các tiết sinh hoạt dưới sân cờ giúp cho học sinh tự rèn luyện, tự hoàn thiện mình và hình thành nhân cách cho các em. Khi chưa lồng ghép, áp dụng giáo dục kỹ năng sống dưới sân cờ cho học sinh, các tiết sinh hoạt dưới cờ thường là tuyên truyền về các ngày lễ, về các dịch bệnh và nêu những nhận xét về hoạt động của các em trong tuần qua, đề ra phương hướng cho tuần tới mà như thế thì tiết sinh hoạt rất lắng không sôi nổi không có tác dụng giáo dục đạo đức cho các em nhiều. Về phía gia đình, phụ huynh chỉ quan tâm đến điểm số, kiến thức chưa chú trọng đến việc rèn kỹ năng sống cho con từ đó các em hạn chế về khả năng tự học, tự tìm tòi và đặc biệt là các kỹ năng giải quyết mâu thuẫn, đề kháng cám dỗ, thích nghi, thoát hiểm... Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi mạnh dạn đưa ra đề tài: "Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua tiết sinh hoạt dưới sân cờ". 3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận: 3.2.1. Mục đích của giải pháp: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua tiết sinh hoạt dưới sân cờ là xây dựng cho các em các mối quan hệ phong phú, đa dạng, một cách có mục đích, có kế hoạch có nội dung và phương pháp nhất định, gắn giáo dục với cộng đồng và tạo sự thân thiện trong mọi tình huống. Các hoạt động giáo dục kỹ năng sống là rất cần thiết cho học sinh, giúp học sinh biết cách làm chủ bản thân, thích ứng và biết cách ứng phó trước những tình huống khó khăn trong cuộc sống và để góp phần nâng cao giáo dục toàn diện. 3.2.2: Nội dung của giải pháp: Các bước thực hiện giải pháp mới: a. Nhận thức sâu sắc về việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh: Giáo dục kỹ năng sống bắt đầu từ những việc nhỏ nhất, gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các em để tạo cho các em một thói quen, một hành động, một cử chỉ tốt, với những câu từ đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với tâm lý lứa tuổi của từng bậc học. Giáo dục kỹ năng sống tuyệt đối không áp đặt suy nghĩ chủ quan của người lớn. b. Xây dựng và triển khai kế hoạch: Từ tình hình thực tế tôi nghĩ nếu các em có khả năng giao tiếp tốt sẽ tạo điều kiện cho các em học tốt các môn học cũng như tham gia các hoạt động do Liên đội tổ chức. Tôi đã lên kế hoạch và tham mưu với Ban Giám Hiệu trong tiết sinh hoạt dưới sân cờ ở mỗi tuần sẽ lồng ghép với giáo dục kỹ năng sống cho các em nhằm tạo cho các em có một số kỹ năng cơ bản trong đời sống và biết được những nhiệm vụ cũng như công việc mà bản thân các em có thể giúp đỡ cha mẹ, bạn bè,... rèn luyện cho các em tinh thần đoàn kết, khả năng làm việc nhóm, mạnh dạn trước tập thể. c. Cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản cần giáo dục cho học sinh: Rèn luyện thói quen "Chu toàn bổn phận trong vui vẻ": Qua nội dung này các em sẽ biết làm những việc như: giúp đỡ cha mẹ, hòa thuận yêu thương tôn trọng anh chị,... học hành chăm chỉ, ngoan ngoãn lễ phép, kính trọng, vâng lời thầy cô, có ý thức bảo quản tài sản, giữ gìn vệ sinh trường lớp, tuân thủ nội quy nhà trường,... Rèn luyện văn hóa ứng xử nơi học đường: Giúp các em hiểu thế nào là văn hóa ứng xử nơi học đường, những yếu tố cấu thành văn hóa ứng xử nơi học đường, giá trị ứng xử, những biểu hiện thiếu văn hóa nơi học đường, qua đó giáo dục các em có ý thức hơn trong giao tiếp xã hội từ lời nói, thái độ, cử chỉ,... Rèn luyện ý thức về nhu cầu bản thân và tự chăm sóc bản thân: Qua hoạt động này giúp các em nhận thức về bản thân, biết những mặt tích cực, những mặt hạn chế, những mong đợi của chính mình, biết những điều cần thiết để tự chăm sóc bản thân từ việc ăn uống vui chơi đến giao tiếp với mọi người, tự trau dồi đạo đức. Rèn luyện cách ứng phó với tình trạng bị bắt nạt nơi học đường: Khi bị bắt nạt các em sẽ tổn thương về thể xác và tinh thần,... do đó ta cần giúp các em vượt qua những nỗi sợ để an tâm học tập như: hòa đồng với mọi người, có thái độ dứt khoát với những yêu cầu phi lý của bạn hoặc tìm thầy cô bạn bè để giúp đỡ, bên cạnh đó giáo dục cho các em không nên hùa vào cùng với các bạn hoặc không nên im lặng làm ngơ trước sự bắt nạt của các bạn. Rèn luyện đức tính trung thực: Qua các hoạt động giúp các em hiểu được giá trị của đức tính trung thực, có đức tính trung thực từ việc nhỏ đến việc lớn, biết nói thật, biết trung thực với chính mình sau nữa là trung thực trong các mối quan hệ với thầy cô, bạn bè, cha mẹ,...từ đó giáo dục các em yêu quý đức tính trung thực nhất là trung thực trong học tập, thực hiện tốt mùa thi nghiêm túc: thi thực chất, không gian lận trong thi cử,... d. Giúp học sinh phát triển các kĩ năng sống qua việc tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường: Phối hợp với chính quyền nhà trường tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều hoạt động một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Duy trì việc sinh hoạt ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm để học sinh được học được chơi để rèn sự tự tin, kĩ năng trình bày lưu loát và kĩ năng nói chuyện trước đám đông cho học sinh. Qua đó rèn cho học sinh kĩ năng ứng xử với bạn bè, xây dựng tinh thần đoàn kết tốt, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng hợp tác, kỹ năng quyết định, biết kiềm chế bản thân trong khi xử lí các tình huống với bạn bè. Bên cạnh đó thực hiện lồng ghép và tích hợp các nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các môn học có ưu thế và các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của nhà trường. Để rèn luyện cách tư duy tích cực, hình thành thói quen tốt thông qua các hoạt động và bài tập trải nghiệm, chứ không đặt mục đích "rèn nếp" hay "nghe lời". f. Phối hợp thực hiện: Vì đây là một nội dung khá mới ở trường chúng tôi nhất là trong tiết sinh hoạt dưới cờ, vì thế để chuẩn bị tốt cho các kỹ năng để giáo dục học sinh được nêu trên tôi đã tham mưu với Ban Giám hiệu, kết hợp với các đoàn thể trong nhà trường để hỗ trợ cho tôi chuẩn bị các nội dung như tranh ảnh, áp phích, các câu ca dao tục ngữ hay tiếp trong việc tập dợt các tiểu phẩm, sắm vai, tập hát, làm hoa để gắn hoa việc tốt, hoa yêu thương,... 3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp: Giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của tôi nêu ra đã áp dụng thành công tại Liên đội trường tiểu học Thị trấn Kiên Lương 1. Ngoài ra giải pháp có thể nhân rộng với các Liên đội của các trường trong huyện, tỉnh. 3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được: Sau khi thực hiện giáo dục kỹ năng sống dưới sân cờ, các em đã ham thích tiết sinh hoạt dưới cờ, nói chuyện rõ ràng, tự tin, sôi nổi hơn. Ở lớp các em đoàn kết chan hòa, vui vẻ, cởi mở trong giao tiếp. Có ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân sạch sẽ, biết giữ gìn đồ dùng học tập, sắp xếp sách vở gọn gàng, ngăn nắp, biết quý trọng mọi người trong gia đình, đoàn kết giúp đỡ bạn bè, đã biết cám ơn và xin lỗi, có ý thức chắm sóc bảo vệ cây xanh, bảo vệ môi trường, biết giúp đỡ các bạn,... Qua một năm áp dụng, các em đã có sự tiến bộ rõ rệt ở từng kỹ năng và được thể hiện qua bảng so sánh sau: Nội dung TSHS Năm học 2017 - 2018 Đầu năm Cuối năm So sánh % tốt tăng T % Đ % T % Đ % Kỹ năng chu toàn bổn phận trong vui vẻ 1293 932 72,1 361 27,9 1087 84,1 206 21,8 Tăng 12 % Kỹ năng văn hóa ứng xử nơi học đường 1293 1088 84,1 205 15,9 1197 92,6 96 7,4 Tăng 8,5% Kỹ năng ý thức về nhu cầu bản thân và tự chăm sóc bản thân 1293 993 76,7 300 23,3 1137 87,9 156 12,1 Tăng 11,2% Kỹ năng ứng phó với tình trạng bị bắt nạt nơi học đường 1293 842 65,1 451 34,9 1097 84,8 196 12,2 Tăng 19,7% Kỹ năng rèn luyện đức tính trung thực 1293 1016 78,6 277 21,4 1195 92,4 98 7,6 Tăng 13,8% 3.5.Tài liệu kèm theo gồm: (10 chuyên đề Giáo dục kỹ năng sống dưới cờ - NXB Văn Hóa - Thông tin). Kiên Lương, ngày 7 tháng 5 năm 2018 Người mô tảSkkn Một Số Biện Pháp Giáo Dục Kĩ Năng Sống Cho Học Sinh Lớp 5 Thông Qua Công Tác Chủ Nhiệm
I. Tên đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 5/6 THÔNG QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM.
II. Đặt vấn đề: Nền giáo dục của nước ta hiện nay có nhiều sự thay đổi, nhưng Đảng và nhà nước ta vẫn coi trọng giáo dục là quốc sách hàng đầu, là nghề không cho phép tạo ra phế phẩm. Một trong những nguyên lí giáo dục cơ bản của đất nước chúng ta là giáo dục con người toàn diện. Như vậy, người giáo viên không chỉ vừa dạy chữ vừa dạy cách làm người mà còn trang bị, cung cấp kiến thức về kỹ năng sống cho học sinh. Đặc biệt cho đối với học sinh lớp 5, đây là đối tượng học sinh cuối cấp tiểu học, các em cần có một hành trang thật tốt để bước vào một môi trường mới đang chờ đón các em phía trước. Hơn nữa, giáo dục kĩ năng sống cũng là một trong năm nội dung của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” giai đoạn 2008 – 2013 do Bộ Giáo dục phát động theo chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT, ban hành ngày 20 tháng 07 năm 2008. Và từ năm học 2009 – 2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã đưa giáo dục kĩ năng sống vào nhiệm vụ năm học. Để thực hiện thành công nhiệm vụ giáo dục giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, chỉ giao phó trách nhiệm cho nhà trường là không đủ mà cần có sự phối hợp hiệu quả giữa “Giáo dục nhà trường kết hợp với gia đình và ngoài xã hội”. Trong “ba ngôi giáo dục” này, giáo dục nhà trường đóng vai trò chủ đạo và vai trò của giáo viên chủ nhiệm được coi là một khâu
2
quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến mức độ thành công của việc giáo dục kĩ năng sốngMặc dù, hiện nay chúng ta trong thời đại Công nghệ -Thông tin, tất cả lĩnh vực phát triển như vũ bão, các em được học tập và sinh hoạt trong các môi trường khá đầy đủ và tiện nghi nên học sinh có những hiểu biết khá phong phú, ngoài ra thông qua các kênh thông tin, đặc biệt là nhờ truy cập Internet, nhưng tôi nhận thấy kỹ năng sống của các em còn nhiều hạn chế. Các em nhận thức chưa đúng về kỹ năng sống. Hầu hết các em lúng túng khi trả lời hoặc chưa biết cách xử lý các tình huống thường gặp trong cuộc sống, trong giao tiếp. Đặc biệt các em học sinh lớp 5, kỹ năng tự bảo vệ trước những vấn đề xã hội có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe và an toàn cuộc sống như: kỹ năng nhận diện một vấn đề, biết cách xác định tình huống, biết cách từ chối, kỹ năng xử lý mâu thuẫn, kỹ năng ra quyết định, tự chăm sóc sức khỏe… còn gặp nhiều khó khăn. Để thực hiện thành công nhiệm vụ giáo dục giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, không thể không quan tâm đến công tác chủ nhiệm lớp. Bởi lẽ, thầy cô chủ nhiệm lớp có nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt nhiệm vụ này. Vì thầy cô là người hiểu các em nhất, gần gũi với các em nhất trong thời gian các em đến trường học tập. Các em dễ tâm tình chia sẽ với thầy cô chủ nhiệm về những khó khăn mà các em gặp phải. Bên cạnh đó, thầy cô chủ nhiệm lớp còn là người được nhà trường giao trách nhiệm trực tiếp tổ chức các hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp. Có thể nói, giáo viên chủ nhiệm vừa là nhà giáo dục, người quản lý, người tổ chức, người nuôi dưỡng các ước mơ, khát vọng của tập thể cũng như của từng cá nhân học sinh, vừa là người đại diện, là cầu nối giữa nhà trường, cha mẹ và các giáo viên khác trong trường với học sinh. Người giáo viên chủ nhiệm lớp vừa là thầy dạy học vừa là người cha, người mẹ và cũng có lúc phải là người bạn tốt nhất của các em. Từ đó có thể uốn nắn các em đi theo đúng qui định giáo dục trong nhà trường, có những tác động tích cực đến các em cũng như giúp các em điều chỉnh hành vi theo hướng tích cực, có lợi nhất. Vì vậy, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp ngày càng trở nên thiết yếu. Nhưng việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phải phù hợp với lứa tuổi, với đặc điểm tình hình riêng của từng lớp học, cấp học, văn hóa của từng địa phương… sao cho học sinh cảm thấy gần gũi với cuộc sống của bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội, chứ không chỉ trên sách vở hay những lời nói suông. Từ nhận thức đó, là người giáo viên chủ nhiệm lớp 5, tôi hết sức tâm đắc trong việc hướng dẫn và đào tạo các em thành “con người mới” với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mỹ”, “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”.
3
Chính vì những lí do nêu trên mà tôi đã chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: ” Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5/6 thông qua công tác chủ nhiệm “. III. Cơ sở lý luận Trong Luật giáo dục Việt Nam năm 2005, điều 2 chương 3 đã quy định như sau: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” Hơn thế, giáo dục là quá trình bao gồm giáo dục và giáo dưỡng. Trong giáo dục thì có giáo dưỡng, trong giáo dưỡng thì có giáo dục. Vậy người giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò như thế nào trong công tác rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh làm? Làm thế nào để hai quá trình này tạo thành một mục tiêu chung? Làm thế nào để những người chủ tương lai của đất nước có đủ đức lẫn tài? Làm thế nào để sự nghiệp giáo dục mang lại hiệu quả tốt? Đây chính là trách nhiệm của toàn xã hội, của những người làm công tác giáo dục, của những người làm công tác chủ nhiệm lớp, đặc biệt là người giáo viên chủ nhiệm lớp 5. Trong Điều 34, chương IV, thông tư số 41/2010/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu rõ: Giáo viên chủ nhiệm là người có trách nhiệm thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch nhà trường giao và từ giáo viên đến học sinh nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên lý giáo dục và mục tiêu giáo dục cấp học. Không những thế mà giáo viên chủ nhiệm còn phải rèn luyện cho học sinh về mặt đạo đức cũng như các mặt hoạt động khác. Như vậy vấn đề giáo dục học sinh trở thành những con người phát triển toàn diện là nhiệm vụ hàng đầu biến các mục tiêu giáo dục thành hiện thực, mà người giữ vai trò quyết định thực hiện nhiệm vụ này chính là giáo viên chủ nhiệm lớp. Mới đây nhất, theo Thông tư số 04/2014/TT-BGDĐT ngày 28/02/2014 của Bộ trưởng Bộ GDĐT cũng đã quy định về nội dung giáo dục KNS đối với học sinh Tiểu học như sau: Tiếp tục rèn luyện những kỹ năng đã được học ở mầm non, tập trung hình thành cho học sinh kỹ năng giao tiếp với cha mẹ, thầy cô, bạn bè; kỹ năng xây dựng tình bạn đẹp; kỹ năng kiên trì trong học tập; kỹ năng đúng giờ và làm việc theo yêu cầu, kỹ năng đồng cảm,… tạo tiền đề cho sự phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, phẩm chất, học vấn và năng lực của HS. Xác định được những yêu cầu trên, để thấy rõ vai trò của người giáo viên chủ nhiệm trong việc rèn kĩ năng sống cho học sinh, các tổ chức trên thế giới cũng đã đưa ra rất nhiều quan niệm về kĩ năng sống:
4
5
đặt ra lúc này là vận dụng các biện pháp nào cho có hiệu quả. Vận dụng ra sao, như thế nào cho phù hợp. Và khi áp dụng vào thực tiễn trong từng năm học, bản thân tôi đã có những thuận lợi và khó khăn sau: 1. Thuận lợi: Trong quá trình dạy học luôn được sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời của lãnh đạo và bộ phận chuyên môn nhà trường. Những năm qua, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện – học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ trung ương đến địa phương, nhà trường cũng đã có kế hoạch từng năm học với những biện pháp cụ thể để rèn kỹ năng sống cho học sinh một cách chung nhất cho các khối lớp học, đây chính là những định hướng giúp giáo viên thực hiện như: Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kĩ năng phòng, tránh tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hóa, tự bảo vệ bản thân, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội. Được sự hỗ trợ nhiệt tình của hội cha mẹ học sinh, của các đoàn thể trong nhà trường. Nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện cho các lớp có đầy đủ phòng học, bàn ghế khang trang vừa tầm với học sinh, phòng học thoáng mát, nhà vệ sinh sạch sẽ ,… Trong thực tế nhiều năm học qua, với yêu cầu sử dụng công nghệ thông tin đổi mới hình thức phương pháp dạy học của nhà trường, bản thân mỗi giáo viên đã thường xuyên ứng dụng công nghệ thông tin trong các tiết học để cung cấp cho các em các kênh hình ảnh, kênh thông tin cần thiết và thiết thực để tăng cường giáo dục KNS cho các em qua các bài học, môn học. Ngoài ra còn được tham gia các buổi sinh hoạt chuyên đề: giáo dục KNS cho học sinh trong các môn học, nâng cao chất lượng các tiết sinh hoạt lớp. Học sinh được tham gia nhiều buổi sinh hoạt ngoại khóa, giao lưu do nhà trường tổ chức, đưa các trò chơi dân gian vào lớp học. 2. Khó khăn : Một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học tập cũng như giáo dục đạo đức của con em mình. Một số học sinh con em gia đình làm thuê, làm mướn, điều kiện kinh tế khó khăn, gia đình chủ yếu lo làm kiếm sống cho nên ít có điều kiện quan tâm giáo dục các em. Địa bàn rộng, một số học sinh nhà xa nên công tác phối kết hợp giữa gia đình và giáo viên còn hạn chế. Một số học sinh chưa làm chủ về hành vi và khả năng tập trung trong lớp còn chưa đạt. Đơn giản là vì những học sinh này thường không có khả năng chờ đến lượt, chưa thực sự chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho
6
các em không thể tập trung lĩnh hội những điều giáo viên dạy. Vì vậy, giáo viên phải tốn rất nhiều thời gian đầu tư, vận dụng và linh hoạt thay đổi nhiều biện pháp để giúp học sinh có được những kĩ năng sống cơ bản ở môi trường tiểu học mà cụ thể hơn là ở lớp cuối cấp, đặt nền móng cho các em chuẩn bị bước sang môi trường tự lập của lớp đầu tiên của bậc THCS. 3. Thực trạng của lớp chủ nhiệm : Năm 2014- 2015, tôi được lãnh đạo nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 5/6, là một giáo viên trẻ, đầy nhiệt huyết với công việc, có nhiều năm công tác, được sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường, sự động viên của tập thể cộng với những kinh nghiệm mà bản thân đã tích lũy nhiều năm trong giảng dạy đặc biệt là công tác chủ nhiệm lớp. Tuy nhiên khi tiếp nhận lớp mới, tôi vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn và nhiều điều cần quan tâm: Lớp 5/6 gồm có 40 học sinh trong đó có : 21 em nam , 19 em nữ; 30 em tham gia học bán trú. Đây là lớp có số lượng học sinh tham gia bán trú ít nhất khối. Bởi nhiều em có hoàn cảnh khó khăn, hơn 50% phụ huynh trong lớp là lao động chân tay, có 2 em thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo, 4 em có hoàn cảnh khó khăn, và 4 em cha mẹ không có công việc ổn định. Thông tin 2 chiều và sự phối hợp giữa phụ huynh và giáo viên là vấn đề làm cho tôi luôn lo lắng…Nhiều phụ huynh có hoàn cảnh khó khăn nên lơ là, thiếu quan tâm trong công tác giáo dục và kết hợp với ban Đại diện cha mẹ học sinh của lớp để chăm lo việc học và giáo dục cho các em. Các em thích nói chuyện trong giờ học, chưa thật sự tập trung, rất ngại tiếp xúc với thầy cô, ít tham gia các hoạt động học tập. Sự tập trung chú ý của học sinh ở lớp chưa cao, thiếu bền vững, các em rất ngại tham gia các hoạt động nhóm, ngại suy nghĩ để tìm ra hướng giải quyết vấn đề. Khó khăn nhất là trong giao tiếp với bạn bè các em có thói quen xưng hô ” ông, bà, tui,…”. Học sinh nam thì thích đi chân đất, hay văng tục, thiếu kiểm soát trong ngôn ngữ khi giao tiếp với bạn. Còn học sinh nữ thì thích chơi theo nhóm, có sự phân biệt trong mối quan hệ bạn bè, các em còn nổi cáu khi bạn chọc ghẹo… Từ những khó khăn trên là giáo viên chủ nhiệm lớp 5/6, bản thân tôi đã nghĩ ngay đến việc phải tích cực giáo dục kĩ năng sống cho các em. Vì thế tôi luôn tìm tòi, vận dụng và thay đổi các biện pháp trong công tác chủ nhiệm. Với mong muốn được hiểu, gần gũi, giúp đỡ, định hướng kịp thời cho các em, được góp một phần kinh nghiệm nhỏ bé của mình vào việc giáo dục nhân cách, giáo dục ý thức kỷ luật, nề nếp, hình thành các kĩ năng sống cần thiết cho các em thông qua công tác chủ nhiệm lớp 5/6. V. Nội dung nghiên cứu:
7
Trong xu thế phát triển và đổi mới giáo dục hiện nay, vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh không phải là mới cũng không phải là việc gì to tác rộng lớn. Tuy nhiên nội dung nào được đưa vào giáo dục cho các em, vấn đề cụ thể nào cần quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống hiện nay là cấp bách! Vì sao vậy? Chúng ta thấy, ngày nay các em học sinh rất thông minh, tiếp thu kiến thức nhanh và vận dụng rất tốt nhưng việc ứng xử một số vấn đề mang tính văn hoá, mang tính xã hội còn rất hạn chế. Vì thế mà việc đưa ra những giải pháp để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp 5 là điều rất cần thiết. Và tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp sau: 1. Biện pháp 1: Nhận thức sâu sắc về sự cần thiết của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5. Ngày xưa tôi đi học thầy cô rất quan tâm đến việc giáo dục nền nếp đạo đức, tình cảm thầy cô bạn bè, cách ứng xử văn hoá… Hiện nay, áp lực công việc của giáo viên quá nhiều, nào là hồ sơ giáo án, nào là dự giờ kiểm tra, nào là các phong trào thi đua… chiếm nhiều thời gian công việc quá lớn. Nhưng chúng ta đã không vì áp lực công việc mà thiếu đi quan tâm giáo dục chuẩn mực, vì điều đó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến các em…Nhận thức được điều đó bản thân tôi không chỉ lo dạy kiến thức mà còn quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống cho các em, nhất là đối với học sinh lớp 5, các em đang ở lớp cuối cấp của tiểu học. Ở học sinh lớp 5 việc chuẩn bị chuyển tiếp từ bậc tiểu học lên bậc THCS được coi là bước ngoặc trong cuộc đời, các em đã bắt đầu thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành nên giáo viên chớ ” coi thường” lứa tuổi dễ ” nổi loạn” này. Vì đây là giai đoạn bắt đầu dậy thì. Lứa tuổi này các em có bước nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần. Các em đang tập khẳng định mình. Các em biết cách bảo vệ lời nói của mình bằng lời nói và hành động. Vì vậy người giáo viên cần phải biết cách tôn trọng tính độc lập và quyền bình đẳng của các em, cần gương mẫu, khéo léo trong mọi vấn đề. Thầy cô cần nhận thức sâu sắc về sự cần thiết của việc giáo dục kĩ năng sống cho các em. Vậy những kĩ năng nào cần trang bị cho các em? Theo tôi nghĩ vấn đề giáo dục đạo đức lối sống, văn hoá con người, văn hoá dân tộc, văn hoá ứng xử là vấn đề cần quan tâm nhất. Muốn làm được điều đó tôi đã từng bước phân loại các nhóm KNS cần tăng cường cho các em như: + Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình: tự nhận thức, xác định giá trị, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, tự trọng, tự tin…Đây là nhóm kĩ năng mà giáo viên cần chú tâm rèn cho học sinh thông qua tính cách của mỗi cá nhân, giúp các em cảm nhận biết được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác và trong tập thể lớp. Nhóm kĩ năng sống này giúp các em luôn cảm thấy tự tin với chính mình trong mọi tình huống ở mọi nơi.
8
9
cách thương yêu và biết cách vượt lên hoàn cảnh sống. Nó giúp các em biết cách tổ chức cá nhân, cách chào hỏi, cách sắp xếp thời gian, cách trình bày vấn đề ngắn gọn súc tích. Vì thế, thầy cô phải nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục cho học sinh học kỹ năng sống. Dạy kỹ năng sống là dạy cho các em những điều gần gũi trong cuộc sống, những tình huống có thật xảy ra trong cuộc sống, cần một quá trình và phải tạo được sự hứng thú cho các em. Muốn vậy thầy cô phải luôn nhận thức đúng đắn để có những chuẩn mực đúng đắn, nghiêm túc bởi lẽ tôi nghĩ muốn học trò tốt thì thầy cô phải tốt; muốn học trò ngoan thì thầy là tấm gương toàn diện. Thầy cô giáo không chỉ trang bị cho trẻ vốn kiến thức sống đồng thời hãy giáo dục các em lối sống có văn hoá chuẩn mực từ những công việc nhỏ nhất. Mỗi ngày, mỗi tuần cần có một chuyên đề có một câu chuyện giáo dục đạo đức thực tế, có định hướng cụ thể để dạy cho các em cách sống, cách ứng xử tốt với nhau, biết sống đẹp để trở thành con người hữu ích. Tôi tin rằng với nhận thức đó, thầy cô không chỉ trang bị cho học sinh mình các kỹ năng văn hóa sống mà còn giúp các em tồn tại đúng nghĩa trong cuộc đời, giúp các bạn biết bảo vệ chính mình để có cuộc sống an toàn trong hiện tại, tương lai, định hướng một cách hợp lý cho tương lai… 2. Biện pháp 2 : Làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Một thầy, cô muốn hoàn thành nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm trước hết phải có tâm, có tấm lòng yêu thương học sinh, có sự độ lượng, bao dung, đồng thời phải giỏi về tâm lý lứa tuổi, có nhiều biện pháp giáo dục tinh tế. Cùng đó, giáo viên chủ nhiệm còn cần am hiểu và biết cách tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp. Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 5, tôi đã mạnh dạn thực hiện một số công việc sau: 2.1. Xác định đúng vai trò, vị trí, nhiệm vụ của mình. Khi được nhà trường phân công nhiệm vụ dạy lớp 5 trong năm qua, bản thân tôi đã nhận thức được rằng: Công tác chủ nhiệm lớp 5 là một trong những nhiệm vụ cực kỳ khó khăn nếu thực hiện đầy đủ và có trách nhiệm các yêu cầu, nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm; Người giáo viên chủ nhiệm phải tham gia các hoạt động dạy học, phải rèn luyện đạo đức, tác phong sư phạm đây vừa là trách nhiệm vừa yêu cầu cần thiết trong việc giáo dục học sinh. Chính vì vậy ngay những ngày đầu tiên gặp lớp bản thân tôi đã soạn sẵn nội dung khi gặp lớp, luôn chỉnh chu trong cách ăn mặc, trong từng cử chỉ hành động, từng lời ăn, tiếng nói với phụ huynh và đặc biệt là các em học sinh mới vào lớp 5. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ rất rõ ngày đầu tiên tôi bước vào nhận lớp mới, các em lớp 5/6 đã reo hò, vỗ tay..tôi ngạc nhiên và có chút lo lắng…và rồi tôi cảm thấy có thêm
10
động lực trước câu trả lời rất đơn giản của các em: ” Chúng em thích cô giáo trẻ….” Vì vậy để làm tốt công tác chủ nhiệm trước hết phải xây dựng được hình tượng cô giáo trong lòng học sinh, được học sinh tin yêu quý trọng, có vậy thì trong lời nói, cử chỉ, hành động của thầy mới có tính thuyết phục cao đối với học sinh. Ngoài ra, trong thời gian các em mới tiếp xúc với chương trình học lớp 5, tôi luôn nhận thức phải làm sao để học sinh tiếp thu chậm, học sinh ít chịu học tập, học sinh có hoàn cảnh khó khăn biết phấn đấu vượt khó, duy trì việc học tập của mình…Đó là công việc hết sức cần thiết và cũng là một trong những mục tiêu, yêu cầu đầu tiên đối với công tác chủ nhiệm. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm rất quan trọng trong việc quản lý học sinh trên mọi phương diện và cũng là trung tâm thu hút học sinh đến trường đến lớp. Lớp học là một tổ chức nhỏ trong nhà trường, có nhiều lớp tốt sẽ đưa phong trào nhà trường đi lên và đây cũng là một mục tiêu quan trọng trong giáo dục, tạo nên môi trường thân thiện, hình thành nên sự tích cực trong học sinh. Người giáo viên chủ nhiệm, trước hết phải thực hiện tốt những nhiệm vụ của một thầy giáo nói chung, đó là mẫu mực về đạo đức, tác phong, gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật và những quy định của nhà nước, nắm vững đường lối, chủ trương, quan điểm, lý luận giáo dục và biết vận dụng sáng tạo vào thực tiển giáo dục thế hệ trẻ, làm tốt công tác giáo dục, vũ trang tri thức khoa học, phát triển trí tuệ của học sinh. Đồng thời, giáo viên chủ nhiệm có trách nhiệm giáo dục cho học sinh những phẩm chất đạo đức, rèn luyện năng lực để các em trở thành những công dân tốt mai sau. Tôi nhận thức rằng là người giáo viên chủ nhiệm lớp tôi cần phải: + Nghiên cứu nắm vững đường lối quan điểm, lí luận giáo dục để vận dụng vào công tác chủ nhiệm lớp. Đặc biệt cần nắm vững phương pháp, nghệ thuật sư phạm. + Nắm vững mục tiêu giáo dục nói chung, mục tiêu lớp học, kế hoạch, nhiệm vụ giáo dục, dạy học của năm học. + Có kế hoạch nghiên cứu đặc điểm gia đình và đặc điểm của từng học sinh của lớp chủ nhiệm, biết phân loại học sinh theo các đặc điểm để có giải pháp tác động phù hợp. + Giữ mối quan hệ thường xuyên với phụ huynh học sinh để nắm thông tin về học sinh và qua phụ huynh trao đổi thêm về kết quả học tập của học sinh, về đạo đức tác phong… để gia đình cùng cộng tác trong việc giáo dục, nhắc nhở, động viên các em trong học tập và sinh hoạt. + Có năng lực lí luận thuyết phục điều này rất cần thiết. + Có trình độ chuyên môn, tri thức, phương pháp giảng dạy, sự mẫu mực, tâm huyết trong khi giảng dạy. Muốn giảng dạy tốt, không chỉ có tri thức,
11
phương pháp mà phải truyền đạt bằng cả nhiệt huyết của người giáo viên chủ nhiệm với khẩu hiệu “Tất cả vì học sinh thân yêu”, “Vì các em hôm nay là vì tương lai của dân tộc, đất nước”. 2.2. : Tìm hiểu đặc điểm tình hình lớp: Tìm hiểu tình hình đặc điểm lớp là một bước rất quan trọng trong công tác chủ nhiệm, nhận thức được tầm quan trọng này tôi đã thực hiện từng bước sau: 2.2.1. Tìm hiểu về phía học sinh: Đối tượng giáo dục của giáo viên chủ nhiệm là học sinh. Người giáo viên chủ nhiệm lớp muốn nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục của lớp mình thì giáo viên phải có những biện pháp cụ thể phù hợp với lứa tuổi , đặc điểm tâm sinh lý , nhân cách của từng học sinh trong lớp . Vì vậy, khi nhận phân công của BGH nhà trường nhận lớp chủ nhiệm . Tôi phải tìm hiểu hoàn cảnh , đặc điểm tâm sinh lý , nhân cách , những ưu điểm , hạn chế của từng học sinh thông qua các biện pháp sau : – Gặp giáo viên chủ nhiệm cũ để nắm bắt tình hình chung, tình hình của một số học sinh trong lớp (như học sinh tiếp thu nhanh , học sinh cá biệt , học sinh có hoàn cảnh đặc biệt,…) . – Tiếp tục nghiên cứu quá trình học tập của từng học sinh thông qua bài kiểm tra và kết quả học tập của học sinh năm trước qua sổ học bạ , phiếu liên lạc . – Trao đổi trò chuyện trực tiếp hoặc gián tiếp với học sinh thông qua các buổi sinh hoạt tập thể , hoạt động ngoại khoá hoặc trong các giờ ra chơi . – Thăm hỏi gia đình học sinh nhất là những học sinh có hoàn cảnh khó khăn , những học sinh cá biệt , trò chuyện với phụ huynh tìm hiểu hoàn cảnh , năng lực sở trường của học sinh để từ đó có biện pháp giáo dục tích cực . – Kết hợp với Ban phân hội cha mẹ học sinh lớp trong buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm để cập nhật thông tin về học sinh lớp mình . – Cập nhật những thông tin đã tiếp cận , ghi chép cụ thể những thông tin của từng học sinh lớp mình vào nhật ký chủ nhiệm lớp . Tuy nhiên, để nắm được tình hình cụ thể của từng học sinh ngay từ những ngày đầu nhận lớp, tôi xem xét hồ sơ, lý lịch của từng học sinh đặc biệt chú ý đến những em có hoàn cảnh khó khăn. Tổ chức tốt việc tìm hiểu hoàn cảnh, lý lịch học sinh như hoàn cảnh gia đình, trình độ năng lực, sở trường của từng em thông qua phiếu Lý lịch học sinh mà tôi phát về cho ba mẹ các em để điền thông tin đầy đủ. Nắm bắt được các thông tin về hoàn cảnh , đặc điểm tâm sinh lý , nhân cách , những ưu điểm , hạn chế của từng học sinh , đây là những cơ sở rất quan trọng trong suốt quá trình giáo dục học sinh , từ đó giáo viên mới xây dựng kế hoạch
12
chủ nhiệm và có những phương pháp giáo dục phù hợp nhằm thúc đẩy nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh lớp mình. Trên cơ sở ấy tôi phân công trách nhiệm hoặc tìm cách khắc phục những tồn tại mà học sinh đang mắc phải làm ảnh hưởng đến việc học tập và rèn luyện của các em. Chính nhờ sự gần gũi, nắm bắt tình hình kịp thời của học sinh và bằng cách xử lý kịp thời nhanh chóng, hợp lý sự chuyển biến tốt của học sinh thể hiện rất rõ, tạo sự phấn khởi trong học sinh giúp các em có hớng phấn đấu đi lên. 2.2.2. Tìm hiểu về phía cha mẹ học sinh: Sau khi nắm bắt lý lịch học sinh, tôi nắm bắt những điểm mạnh, điểm yếu của cha mẹ các em, lựa chọn những người tiêu biểu, có khả năng tuyên truyền và biết thu hút mọi người cùng quan tâm đến các phong trào chung của lớp. Đối với những phụ huynh có hoàn cảnh khó khăn, tôi tiếp xúc, gặp gỡ để nắm bắt và chia sẽ, động viên về mặt tinh thần cũng như giúp đỡ, hướng dẫn làm các thủ tục miễn giảm cho các em, nhận các xuất học bổng của trường và của các đoàn thể. Nhờ vào việc nắm bắt đặc điểm tình hình của lớp tốt nên bước đầu tôi đã có dược những thuận lợi trong công tác chủ nhiệm, nắm bắt các thông tin kịp thời từ phụ huynh và học sinh giúp tôi xây dựng được một kế hoạch chủ nhiệm phù hợp, sát tình hình thực tế và có tính khả thi cao. 2.3. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm Kế hoạch chủ nhiệm là bước thiết kế lộ trình thực hiện nội dung giáo dục mang tính khoa học, giúp cho giáo viên chủ nhiệm lớp tiến hành tổ chức, giáo dục học sinh một cách chủ động, có mục đích rõ ràng . Để lớp có nề nếp tốt, ngay từ đầu năm học tôi đã lên kế hoạch cho cả năm học, từng tháng, từng tuần dựa trên kế hoạch của nhà trường của bộ phận chuyên môn. Việc xây dựng và lập kế hoạch này giúp tôi có tầm nhìn xa, bao quát hơn trong công tác chủ nhiệm. Kế hoạch chủ nhiệm cần xác định rõ mục tiêu, chỉ tiêu các mặt giáo dục học sinh theo từng tháng, học kì, cả năm học và đặc biệt đề ra những biện pháp cụ thể nhằm đạt mục tiêu đề ra, phải được quán triệt đến tất cả phụ huynh trong các cuộc họp Cha mẹ học sinh đầu năm học. Sau mỗi học kỳ đều phải tổ chức đánh giá rút kinh nghiệm cụ thể và lập phương hướng hoạt động trong học kỳ 2 Những biện pháp giáo dục phải phù hợp với đặc điểm riêng của lớp, của từng học sinh trên cơ sở các thông tin đã thu thập. Chú trọng việc giáo dục toàn diện và đồng thời cũng nâng cao, phát huy những điểm mạnh của các em để từng bước nâng cao chất lượng giáo dục. Vì thế dựa trên sự tìm hiểu và nắm bắt đội ngũ học sinh, dựa vào kế hoạch nhà trường tôi lập kế hoạch rất tỷ mỉ sát thực ( Đính kèm KH phần phụ lục)
13
14
Tất cả hệ thống cán bộ lớp phải gương mẫu điều hành công việc dưới sự chỉ đạo của giáo viên chủ nhiệm. Chia các tổ có số học sinh nam nữ; học sinh có học lực đều giống nhau.
Ban chỉ huy Chi đội lớp 5/6 năm học 2014 – 2015 Tôi hướng dẫn giao nhiệm vụ cụ thể với kế hoạch từng tuần rõ ràng. Xây dựng một đội ngũ cán bộ lớp gương mẫu, tự giác là một yếu tố quan trọng giúp tôi thành công trong công tác chủ nhiệm lớp. Tôi luôn đề cao vai trò của cán bộ lớp và luôn thay đổi lớp trưởng trong các học kỳ để tạo cơ hội cho các em phát huy năng lực lãnh đạo của mình, các em này thực sự là những cô giáo nhỏ của lớp học. Nhưng tất cả các hoạt động của các em đều phải trong sự kiểm soát của giáo viên chủ nhiệm lớp. Chúng ta đừng vô hình dung tạo cho các em những quyền lực quá mức. Đây cũng chính là rèn và giáo dục kỹ năng lãnh đạo cho các em trong ban cán sự lớp. Chính nhờ nhận thức và giáo dục được cho các em kỹ năng lãnh đạo lớp nên trong năm học 2014 – 2015, ban cán sự lớp 5/6 đã luôn nhận được sự hỗ trợ và đồng hành của tất cả các bạn trong lớp. Vì vậy tất cả các hoạt động của lớp đều đi vào nề nếp một cách tự nhiên, không gò bó, không khuôn khổ. 2.5. Xây dựng nề nếp học tập và ý thức tự quản trong giờ học: Công tác chủ nhiệm lớp là một trong hai công tác vô cùng quan trọng của người giáo viên, điều này càng quan trọng hơn khi được đặt trong phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện – Học sinh tích cực”. Để lớp chủ nhiệm của mình thực sự thân thiện, học sinh của mình thực sự tích cực, bên cạnh việc nắm chắc vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm, tôi đã có định hướng cụ thể cho công việc của mình. Đặc biệt để các em xích lại gần nhau hơn,
15
16
học sinh tiếp thu chậm trong lớp, giành cho các em này những câu hỏi đơn giản để các em cảm thấy tự tin khi phát biểu ý kiến. Tôi cũng luôn tạo ra trong lớp một không khí thi đua học tập tốt, sôi nổi trong mọi tiết dạy. Duy trì phong trào thi đua Đôi bạn cùng tiến. Khi xếp chỗ ngồi, tôi luôn chú ý xếp xen kẽ học sinh tiếp thu chậm với học sinh tiếp thu nhanh để các em tự giúp đỡ nhau trong học tập, cuối tuần luôn có bình bầu đôi bạn nào tiến bộ nhất trong tuần đó. Duy trì nề nếp truy bài đầu giờ và kiểm tra bài của nhau trong các tiết dạy giúp giáo viên tiết kiệm được thời gian và hướng các em vào mục tiêu tự đánh giá kết quả của mình. Luôn có kế hoạch kèm cặp các em tiếp thu chậm, thường xuyên gọi các em nhút nhát để các em tự tin và mạnh dạn hơn. Phát động phong trào thi đua học tập giữa các tổ, nhóm, cá nhân có tiến hành tổng kết tuyên dương, khen thưởng nhằm khuyến khích tinh thần học tập tiến bộ của các em. 2.5.3. Tập trung duy trì, rèn nề nếp tự quản: Thực chất của việc xây dựng nề nếp tự quản là quá trình từng bước chuyển hóa tâm huyết, nhiệt tình của thầy cô thành ý thức tự quản tự giác đầy trách nhiệm và thích thú của trò, tức cũng là biến lớp học của những cá nhân học sinh thành một tập thể học sinh biết tự quản dưới sự lãnh đạo của giáo viên chủ nhiệm (GVCN) lớp và ban cán sự lớp. Tôi luôn chú trọng việc phải lấy học sinh làm trung tâm trong các hoạt động để giáo dục ý thức tự giác của các em, hình thành cho các em kĩ năng tự quản. Giáo viên chủ nhiệm không chỉ có nhiệm vụ thông qua dạy chữ để dạy người mà còn cần phải thông qua việc dạy các em làm người tốt để học chữ tốt. Trong 5 phút đầu giờ mỗi tiết học, tôi đã hướng dẫn các em tổ trưởng kiểm tra bài các bạn trong tổ của mình, dần dần xây dựng một ý thức tự quản dưới sự điều khiển của lớp trưởng và lớp phó. Các học sinh tiếp thu chậm được lên bảng thường xuyên làm những bài tập bắt đầu từ đơn giản trước. Từ đó, các em có ý thức tự học và ham học hơn. Với hình thức xây dựng ” Đôi bạn cùng tiến”, các em học sinh tiếp thu nhanh đã giúp đỡ các em học sinh tiếp thu chậm vào những giờ tự học, và những lúc ở nhà. Học sinh không những được tiến bộ trong học tập mà có thêm tình thân, sự đoàn kết, gắn bó với nhau hơn. Đó cũng là yếu tố hình thành nhân cách tốt cho các em.
17
Tôi đã giáo dục học sinh ý thức giờ nào việc nấy, biết chú ý nghe bạn nói, biết lắng nghe thầy cô giảng bài. Tôi không quên tạo phong trào thi đua giữa các tổ, cá nhân. Phong trào thi đua này được tiến hành liên tục tuần nối tuần, suốt trong cả năm học. Với hình thức khen thưởng, động viên kịp thời là một yếu tố vô cùng quan trọng không thể thiếu vì đó là động lực giúp các em cố gắng, nổ lực hơn. Ngoài ra, đối với những học sinh vi phạm nội quy, tôi sẽ xử lí tùy theo mức độ như đổi chỗ ngồi, phê bình trước lớp hoặc trao đổi với cha mẹ học sinh. Để rèn tính tự quản, tôi giao trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ lớp tự quản lý, điều hành, giải quyết mọi công việc của lớp nhất là khi không có mặt giáo viên chủ nhiệm. Sau khi vận dụng biện pháp này, tôi thấy các em học sinh lớp 5/6 đã phát huy được tính tự giác rất cao của ban cán sự lớp nói riêng và các thành viên trong lớp nói chung. Trong mọi hoạt động hàng ngày, không em nào không nảy sinh ý thức muốn tự khẳng định mình và tìm cách hòa mình với tập thể. Các em rất cần tự biết mình là ai. Xây dựng nề nếp lớp tự quản dựa trên nội quy của trường, lớp không những thỏa mãn được nét tâm lý phổ biến ấy của các em, mà còn giúp các em có cơ hội để nó được nuôi dưỡng, rèn luyện và phát triển theo. 2.6. Nâng cao chất lượng giờ sinh hoạt lớp. Cùng với việc xây dựng cho học sinh có nề nếp về học tập, tự quản tôi còn hướng đến tập trung bồi dưỡng, rèn luyện học sinh nâng cao chất luợng giờ sinh hoạt lớp. Để làm tốt công tác chủ nhiệm thì giáo viên chủ nhiệm (GVCN) cần phải tổ chức tốt giờ sinh hoạt lớp, tổ chức làm sao cho học sinh thích học từ đó sẽ giáo dục học sinh học tốt hơn. Muốn tổ chức tốt tiết sinh hoạt lớp trước hết GVCN cần phải có kĩ năng tổ chức giờ sinh hoạt lớp. Để giờ sinh hoạt lớp được thành công, phát huy vai trò của Ban cán sự lớp, đảm bảo sự công bằng cho mọi thành viên trong lớp, bản thân tôi luôn chú trọng các nội dung sau: 2.6.1. Nội dung trong giờ sinh hoạt lớp. Trong những giờ sinh hoạt lớp, tôi luôn chủ bị các nội dung cần chuyển đến các em, đặc biệt là các nội dung, kế hoạch của nhà trường trong buổi họp giao ban ( thứ năm hằng tuần). Các nội dung này được soạn cụ thể như một giáo án lên lớp.( Có giáo án minh họa) . Tránh các nội dung khô cứng, lập đi lập lại, không thực sự gắn với nhu cầu học sinh. Để giờ sinh hoạt lớp có thu hút được sự quan tâm của học sinh cả lớp thì hình thức tổ chức giờ sinh hoạt lớp cũng rất quan trọng, tránh đơn điệu, nhàm chán, không hứng thú với học sinh. Bản thân tôi luôn thân mật và gần gũi với các em, không quá nghiêm khắc luôn đặt mình vào vị trí của học sinh . Tôi luôn hướng dẫn và tập cho các em cùng nhau tổ chức và tham gia.
18
19
20
– Quan tâm và chia sẻ qua kênh thông tin cây sinh nhật của lớp: Giáo viên cần giáo dục các em có thói quen biết quan tâm, chia sẻ, động viên, thăm hỏi lẫn nhau trong học tập cũng như trong cuộc sống. Giáo viên chủ nhiệm cũng cần phải nắm được ngày sinh của các em trong lớp và thông báo trên bảng tin của lớp để lớp tổ chức sinh nhật cho bạn của mình. Quà sinh nhật có thể là những lời chúc mừng hay những lời ca tiếng hát của các bạn trong lớp. Bên cạnh đó giáo viên chủ nhiệm có thể chuẩn bị một món quà nhỏ có thể là quyển vở, hộp màu,…để tặng các em trong ngày sinh nhật. Điều này giúp các em thấy được sự quan tâm của cô giáo và các bạn trong lớp. Từ đó, giúp các em tự tin hơn trong học tập, rèn luyện cũng như việc tham gia các hoạt động tập thể.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Skkn Một Số Biện Pháp Giáo Dục Kỹ Năng Sống Qua Trò Chơi Cho Học Sinh Trường Thcs Luận Thành trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!