Cập nhật nội dung chi tiết về Sinh Viên Thất Nghiệp Sau Khi Ra Trường mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
TÓM TẮT:
Những năm trước đây, tỷ lệ lao động qua học nghề, nhất là đào tạo nghề chính quy còn thấp, dẫn đến chất lượng lao động không đảm bảo, không đáp ứng được yêu cầu công việc. Hiện nay, mặc dù tình trạng học vấn của lao động không ngừng được cải thiện, hệ thống văn bằng được nâng cao và mở rộng nhưng tình trạng thất nghiệp vẫn tiếp tục gia tăng. Lượng sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học, cao đẳng chính quy trong cả nước không có việc làm ngày càng nhiều, một bộ phận sau khi tốt nghiệp đại học đảm nhận các công việc không cần bằng cấp; hiện tượng sinh viên sau khi tốt nghiệp làm công nhân, hoặc làm các công việc không cần đến trình độ đại học đang dần không còn xa lạ. Tình trạng sinh viên ra trường không có việc làm hay làm không đúng ngành nghề đang ở mức đáng báo động. Vì vậy, giải quyết tình trạng thất nghiệp cho người lao động nói chung và sinh viên nói riêng là mối quan tâm hàng đầu hiện nay.
Từ khóa: Thất nghiệp, sinh viên, chất lượng lao động, tình trạng học vấn.
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, sinh viên ra trường thất nghiệp đang là vấn đề đáng báo động trong xã hội. Câu hỏi đặt ra ở đây là nguyên nhân của tình hình thất nghiệp sinh viên hiện nay là do đâu? Hậu quả để lại là gì? Vấn đề đó đã gây thiệt hại gì cho nền kinh tế nước nhà? Và chúng ta phải làm gì để khắc phục tình trạng trên? Có rất nhiều câu hỏi và giải pháp được đặt ra, song vẫn chưa khắc phục triệt để được tình trạng thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường.
Có rất nhiều ý kiến khác nhau về thất nghiệp. Theo Luật Bảo hiểm thất nghiệp (viết tắt BHTN) Cộng hòa Liên bang Đức định nghĩa: “Thất nghiệp là người lao động tạm thời không có quan hệ lao động hoặc chỉ thực hiện công việc ngắn hạn”.
Tại Trung Quốc định nghĩa về thất nghiệp như sau: “Thất nghiệp là người trong tuổi lao động (dân thành thị) có khả năng lao động, chưa có việc làm, đang đi tìm việc làm, đăng ký tại cơ quan giải quyết việc làm”.
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền lương thịnh hành”.
Vậy, nguyên nhân từ đâu dẫn đến tình trạng sinh viên ra trường thất nghiệp và chúng ta cần phải làm gì để khắc phục tình trạng đó?
2. Thực trạng
Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê, đến quý 1 năm 2017, trong tổng lực lượng lao động cả nước có gần 918 nghìn lao động thiếu việc làm và lao động thất nghiệp là 1,14 triệu người. Thông thường, tình trạng thiếu việc luôn là vấn đề phổ biến ở khu vực nông thôn. Trong quý 1 năm 2017, hiện có gần 85,0% lao động thiếu việc làm sinh sống ở khu vực này. Xét về khác biệt giới, thị phần lao động nam thiếu việc là cao hơn so với lao động nữ (52,2% và 47,8 % tổng số lao động thiếu việc cả nước). Đồng thời, tình trạng thất nghiệp lại được quan tâm hơn ở khu vực thành thị. Mặc dù, tỷ trọng lao động thất nghiệp thành thị hiện thấp hơn, chỉ chiếm khoảng 47,6% tổng số lao động thất nghiệp cả nước. Hơn nữa, dựa trên kết quả điều tra lao động việc làm quý 1 năm 2017 cũng cho thấy lao động thất nghiệp nam là đông hơn so với lao động nữ (chiếm 58,9% và 41,1% trong tổng số lao động thất nghiệp cả nước). Nếu xem xét tình trạng thất nghiệp theo trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT) tức là sinh viên ra trường có trình độ chuyên môn nhất định, trong quý 1 năm 2016, có tới hơn 32,3% số lao động thất nghiệp cả nước là lao động đã qua đào tạo chuyên nghiệp hoặc nghề từ 3 tháng trở lên. Trong đó, nhóm lao động có trình độ từ đại học trở lên chiếm thị phần lớn nhất, khoảng 38,6% tổng số lao động thất nghiệp nhóm này. 6 nhóm ngành/nghề đào tạo hiện có tỷ trọng lao động thất nghiệp có trình độ CMKT từ 3 tháng trở lên theo thứ tự là “Kinh doanh và quản lý – 30,3%”, “Công nghệ kỹ thuật – 13,4%”, “Sức khỏe – 10,7%”, “Dịch vụ vận tải – 9,5%” và “Khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên – 9,0%”. Chỉ khoảng 3,6% nhóm lao động thất nghiệp có trình độ CMKT là có 2 bằng/chứng chỉ đào tạo trở lên.
Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động được tính cho nữ từ 15-54 tuổi và nam từ 15-59 tuổi. Quý 1 năm 2017, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động của cả nước đạt 2,30%. Trong đó, khu vực thành thị (3,24%) cao hơn nông thôn (1,83%). Chênh lệch giới về tỷ lệ thất nghiệp vào khoảng 0,5 điểm phần trăm. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp ở nam hiện là 2,52% và ở nữ là 2,04%.
Tình trạng thất nghiệp của sinh viên mới ra trường gia tăng đáng kể. Thậm chí, có một số trường hợp sinh viên ra trường cả hai, ba năm vẫn không tìm được việc làm, chứ đừng nói đến chuyện tìm được công việc đúng ngành nghề. Vậy nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp của sinh viên hiện nay là do đâu?
2.1. Không có định hướng nghề nghiệp trước khi học
Ở Việt Nam, việc chọn nghề phụ thuộc rất nhiều vào quyết định của các bậc phụ huynh. Với tâm lý luôn muốn che chở, bao bọc con, các bậc cha mẹthường thiên về những ngành “an toàn”, mang lại danh tiếng, như kỹ sư, bác sĩ,… và con cái thì cũng thụ động, cha mẹ chọn ngành gì con học ngành đó. Mặt khác, xu hướng thị trường cũng là một điều đáng nói. Một số bạn trẻ còn có xu hướng chạy theo các nghề “hot” để theo kịp bạn bè, chứ không thực sự vì đam mê và đúng sở trường.
Những thông tin trên như là một hồi chuông cảnh báo cho thực trạng định hướng nghề hiện nay khi mà các học sinh hầu như không có một định hướng nghề cho bản thân, không biết mình thích gì và có thể làm gì sau này, đâu là điểm mạnh và điểm yếu của bản thân? Không biết định hướng và lựa chọn cho mình ngành học phù hợp, sinh viên sẽ dẫn đến tình trạng chán nản, kết quả học tập sút kèm, không có sự yêu thích và tâm huyết,… Vì vậy, việc định hướng nghề nghiệp cho tương lại đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo dựng một sự nghiệp thành công.
2.2. Sinh viên ra trường thiếu kỹ năng làm việc
Nhiều doanh nghiệp lớn cho biết:”Kỹ năng của sinh viên mới ra trường là chưa hình thành nếu không muốn nói là không có”. Sinh viên ra trường hiện nay có kiến thức nhưng thiếu kỹ năng, đặc biệt là các kỹ năng cần thiết để làm việc. Một số bạn trẻ còn cho rằng, các nhà tuyển dụng chỉ cần tuyển người có năng lực chuyên môn, vi tính thành thạo, ngoại ngữ bằng A, B, C… Chính vì thế, các bạn đổ xô rủ nhau đi học bằng này bằng kia, khóa học này khóa học kia, nhưng các bạn không hề biết rằng, các chủ doanh nghiệp và công ty, nhất là các công ty nước ngoài luôn chú trọng đến các kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ năng làm việc theo nhóm, khả năng lập kế hoạch mục tiêu, xử lý nhanh những khó khăn trong tình huống bất ngờ…
Mặc dù, quá trình tìm việc cũng không phải dễ dàng gì. Trừ một số bạn có mối quan hệ rộng rãi hay được cha mẹ gửi gắm, số còn lại, đa phần các bạn còn quá thụ động trong quá trình tìm việc. Các bạn chưa tự tin vào bản thân, thiếu nghị lực và dũng cảm để đương đầu với những khó khăn, thậm chí có bạn còn chưa rõ mình thích làm gì, thích làm công việc như thế nào. Các bạn không biết rằng, trong môi trường công việc đầy cạnh tranh và năng động, trang bị tốt cho mình các kỹ năng giao tiếp, đàm phán, thuyết trình, quản lý thời gian,… mới thực sự là yếu tố quyết định giúp bạn khác biệt và làm việc hiệu quả.
2.3. Chất lượng đào tạo chưa thực sự gắn với nhu cầu xã hội
Trong thời gian qua, mặc dù Chính phủ đã đầu tư rất nhiều vào các trường đại học quốc gia nhưng kết quả không có gì khả quan khi số lượng sinh viên ra trường vẫn thất nghiệp. Bên cạnh đó, với tiếp cận xã hội hóa giáo dục cho phép nhiều trường đại học tư được mở ra rộng kích thích cạnh tranh giữa các trường nhà nước và trường tư.
Tuy nhiên, chúng ta cũng chẳng mong đợi gì nhiều ở kết quả này, bởi các đại học tư vì lợi nhuận chỉ cấp bằng, họ không đào tạo “đúng và trúng”. Cả hai cách cải tiến trên đều làm nảy sinh số người tốt nghiệp cao nhưng không có kỹ năng để làm việc trong công nghiệp. Bên cạnh đó, thành tích của các cấp học dưới đẩy lên các cấp học trên đã khiến những người làm giáo dục bất chấp hậu quả mà chính người học và xã hội phải gánh là tạo ra những sản phẩm không đủ chất lượng, dẫn đến hậu quả đầu ra của đội ngũ nhân lực nước ta yếu và nền giáo dục Việt Nam ngày càng tụt hậu.
Một nguyên nhân khác là do các trường đại học, cao đẳng còn xem nhẹ phần thực hành mà quá đặt nặng lý thuyết. Ngoài ra, còn do chương trình đào tạo ở các trường vẫn theo lối tư duy cũ, thiếu thực tế, cơ sở vật chất nghèo nàn…
Chúng ta chuyển dần từ giáo dục truyền thống, giáo dục thời đại công nghiệp sang giáo dục thời đại thông tin. Đây là hệ thống giáo dục mới tập trung phần lớn vào kiến thức kỹ thuật và ứng dụng của công nghệ để giải quyết các vấn đề kinh doanh, sinh viên học chính thức nền tảng không chỉ trong nhà trường, mà còn tiếp tục trong cả đời họ vì không ngại lúc nào cũng thay đổi.
Ngoài ra, chúng ta cải tiến kỹ năng công nghiệp cho mọi người dân, tạo cho người dân có trí thức sẵn có để làm việc, đây là nhân tố chính cho tăng trưởng kinh tế của địa phương. Đặc biệt, chúng ta thay đổi tư duy nên nhìn nhận các trường đại học như là một doanh nghiệp, họ có thể đào tạo sinh viên đúng thực chất bằng việc cộng tác với công nghiệp gắn với nhu cầu thị trường và cập nhật chương trình đào tạo tương ứng.
2.4. Trình độ ngoại ngữ vẫn còn nhiều hạn chế
Một trong các lý do tạo nên làn sóng “cử nhân thất nghiệp” chính là vấn đề tiếng Anh. Chúng ta đều biết tiếng Anh được xem như là tấm vé thông hành trong tất cả mọi ngành nghề trong thời kỳ hiện đại. Thực ra, hầu hết sinh viên ở các trường đại học đều được học tiếng Anh, nhưng chính thái độ học thụ động, không áp dụng thực tế thì khi ra trường, kỹ năng ngoại ngữ chỉ là con số 0. Chỉ có được động lực học, cách học phù hợp, khoa học, áp dụng vào môi trường thực tế mới có thể nâng cao trình độ tiếng Anh, đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng.
2.5. Luôn than trách và đổ lỗi cho số phận
Đó là điều mà sinh viên vẫn thường làm để che đậy sự lười nhác của bản thân. Luôn đổ lỗi cho không có chỉ tiêu rồi đào tạo nhưng không đảm bảo đầu ra. Tốt nghiệp và ngồi chờ nhà tuyển dụng. Luôn than trách không có việc làm, đó là điều càng khiến sinh viên vùi mình sâu hơn vào nguy cơ thất nghiệp. Đỗ lỗi cho không có cơ hội việc làm, đỗ lỗi cho chất lượng đào tạo của giáo dục…
Phải thừa nhận rằng, có quá nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp ngày càng lớn như hiện nay. Nhưng trước khi mổ xẻ những nguyên nhân sâu xa, chúng ta cần làm rõ nguyên nhân ngay trước mắt. Đó là sự kém cỏi của sinh viên ngay trên giảng đường. Đừng chỉ tốt nghiệp với tấm bằng trên giấy mà hãy bước ra khỏi giảng đường với những kiến thức cần thiết cho tương lai.
3. Giải pháp
Hiện nay, Việt Nam đã và đang tiếp cận và áp dụng các khuyến nghị mới của Tổ chức Lao động Quốc tế về lao động và việc làm. Tuy nhiên, với những nước đang phát triển – nền kinh tế vẫn mang đậm dấu ấn nông nghiệp hoặc việc làm phi chính thức chiếm thị phần đáng kể trong nền kinh tế hay mức sống của người dân chưa cao và an sinh xã hội chưa đầy đủ, vì vậy người lao động thường chấp nhận làm bất cứ loại công việc gì, kể cả những công việc có mức thu nhập thấp, bấp bênh, điều kiện làm việc không đảm bảo nhằm nuôi sống bản thân và gia đình hơn là thất nghiệp dài để chờ đợi công việc tốt hơn. Vì vậy, để giải quyết rõ rệt tình trạng sinh viên thất nghiệp sau khi ra trường hiện nay, cần:
– Về phía sinh viên:
Thứ nhất, học sinh; sinh viên cần định hướng sơ bộ về nghề nghiệp của mình trong tương lai. Học sinh, sinh viên cần thay đổi nhận thức, hiểu được đầu ra của ngành học. Học sinh, sinh viên cần học những ngành nghề mà trong đó có sự đam mê, yêu thích của bản thân và phù hợp với khả năng của mình. Đồng thời, các giảng viên của nhà trường nên kết hợp cùng với lãnh đạo của các doanh nghiệp trao đổi và định hướng nghề nghiệp phù hợp với từng tân sinh viên, dựa trên việc phân tích tính cách, đặc điểm gia đình, sở thích…của từng cá nhân để đưa ra lời khuyên cho các em nên chọn ngành nào phù hợp với mình, có cơ hội việc là tốt nhất và phát huy được năng lực cao nhất.
Thứ hai, trải nghiệm thực tế tại các doanh nghiệp là điều vô cùng quan trọng. Nâng cao chất lượng đào tạo, kỹ năng làm việc cho sinh viên cần có sự kết hợp giữa sinh viên và nhà trường. Việc học đi đôi với thực hành, học đến đâu có thể thực hành đến đó để việc giảng dạy không còn mang ý nghĩa trừu tượng mà còn mang tính ứng dụng thiết thực. Sinh viên cần thực hiện nghiêm túc trong quá trình đi kiến tập, thực tập. Nếu sinh viên coi hoạt động kiến tập, thực tập cho hết môn thì sẽ không khác gì vẫn chạy theo lý thuyết mà không có thực tế.
Thứ ba, sinh viên cần nghiêm túc học hành ngay khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường. Sự nghiêm khắc trong quá trình học tập của bản thân sẽ giúp sinh viên tự rèn luyện tính cách, kỹ năng đồng thời đạt kết quả tốt trong quá trình học tập, sẽ giúp ích rất nhiều cho công việc chuyên môn ngay sau khi ra trường.
– Về phía Nhà nước:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế thị trường lao động, tạo khung pháp lý phù hợp, bảo đảm đối xử bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động. Thực hiện đúng các luật về lao động, tiền lương tối thiểu, bảo hiểm lao động, xuất khẩu lao động, pháp lệnh đình công… Người lao động được quyền hưởng lương đúng với số lượng và chất lượng lao động họ đã bỏ ra, phải được bảo đảm về chỗ ở và những điều kiện môi trường lao động, an sinh khác theo đúng luật pháp.
Thứ hai, Nhà nước cùng các doanh nghiệp cần phải quan tâm đào tạo công nhân trình độ cao, trình độ lành nghề, trình độ văn hóa đối với lao động trẻ, khỏe, nhất là khu vực nông thôn để cung ứng cho các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu du lịch, dịch vụ và xuất khẩu lao động.
Thứ ba, đa dạng hóa các loại hình thị trường, các lớp dạy nghề của Nhà nước, của tư nhân và quốc tế; áp dụng cơ chế thị trường trong dạy nghề, dần dần hình thành thị trường dạy nghề phù hợp với pháp luật. Thực hiện quy hoạch đầu tư tập trung hệ thống dạy nghề, kỹ thuật thực hành qua lao động trực tiếp; đặc biệt là xây dựng các trường dạy nghề trọng điểm quốc gia.
Thứ tư, thực hiện hiệu quả dự án hỗ trợ đào tạo giảng viên; xây dựng cơ chế xác định chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo trung cấp, đào tạo cao đẳng, đại học hàng năm trên cơ sở nhu cầu của thị trường lao động, năng lực đào tạo và tỷ lệ người học tốt nghiệp có việc làm của cơ sở đào tạo; chỉ đạo các cơ sở đào tạo đầu tư nâng cao điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo, hợp tác với đơn vị sử dụng lao động để xây dựng chương trình đào tạo cân đối giữa lý thuyết và thực hành, xây dựng chuẩn đầu ra, hỗ trợ sinh viên thực tập và đánh giá sinh viên tốt nghiệp theo yêu cầu của thị trường lao động.
4. Kết luận
Việt Nam là nước có cơ cấu dân số tương đối trẻ, đây là một thế mạnh rất lớn để thực hiện mục tiêu “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” dựa trên lợi thế và tiềm năng của nguồn nhân lực. Có thể thấy việc tạo công ăn việc làm cho người lao động nói chung và sinh viên sau tốt nghiệp nói riêng không phải là vấn đề của riêng ai. Tuy nhiên, điều đó không thể giải quyết được trong một sớm một chiều, mà đây là vấn đề xuyên suốt của xã hội từ thời kì này qua thời kì khác cần được Nhà nước quan tâm và giải quyết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Tổng cục Thống kê năm 2016 – 2017
2. ThS. Nguyễn Thúy Hà, Chính sách việc làm: Thực trạng và giải pháp, Trung tâm Nghiên cứu khoa học – Viện Nghiên cứu Lập pháp
UNEMPLOYED STUDENTS AFTER GRADUATION CAUSES AND SOLUTIONS
MA. NGUYEN THI THU TRANG
Faculty of Environmental and Natural Resources Economics
Hanoi University of Natural Resources and Environment
ABSTRACT:
In previous years, the rate of trained workers, especially formal vocational training, was still low, leading to unsafe work quality and unsatisfactory job requirements. Currently, although the educational status of labor is constantly improving, the degree system is enhanced and expanded but unemployment rate continues to increase. The number of unemployed graduate students from regular universities and colleges in the country is increasing, and some graduates work in sectors that dont require degrees. The phenomenon of students after graduation becoming workers, or doing jobs that do not need to college degrees are no strange things. The status is alarmingly dangerous. Therefore, addressing unemployment for workers in general and students in particular is a top concern today.
Keywords: Unemployment, students, labor quality, education status.
Sinh Viên Ngành Phục Hồi Chức Năng Làm Gì Sau Khi Ra Trường?
Phục hồi chức năng là một trong những ngày cực hot hiện nay và nhận được sự quan tâm của đông đảo bạn trẻ. Những kiến thức cơ bản về ngành này như ngành phục hồi chức năng làm gì, kỹ năng và kiến thức cần có của một sinh viên phục hồi chức năng cũng như lựa chọn nơi nào để theo đuổi ước mơ vào ngành là điều mà rất nhiều bạn tân sinh viên tương lai cần phải tìm hiểu.
1. Ngành phục hồi chức năng làm gì?
Học ngành phục hồi chức năng ra làm gì? Đó là câu hỏi mà bất cứ bạn trẻ nào cũng quan tâm khi tìm hiểu về ngành. Sau khi ra trường, bạn có thể làm việc tại khoa phục hồi chức năng của các bệnh viện, trung tâm y tế, các trường đại học, cao đẳng y tế – phục hồi chức năng, trung tâm phục hồi chức năng, các bệnh viện y học cổ truyền, các trường chuyên biệt dành cho trẻ em khuyết tật hay tổ chức của chính phủ và phi chính phủ về hỗ trợ trẻ em khuyết tật.
Công việc của kỹ thuật viên phục hồi chức năng cụ thể như sau:
Hướng dẫn người bệnh điều trị bằng các kỹ thuật, đảm bảo an toàn khi thực hiện các quy trình. Các kỹ thuật chính được thực hiện trong ngành phục hồi chức năng là nhiệt trị liệu, điện trị liệu, laser trị liệu, xoa bóp…
Thực hiện các kỹ thuật, lượng giá vật lý trị liệu phục hồi chức năng và các kỹ thuật thông thường, chuyên sâu cho người bệnh.
Thực hiện lập kế hoạch điều trị và tiên lượng thời gian phục hồi cho người bệnh.
Theo dõi tình hình tiến triển bệnh của bệnh nhân theo thời gian cụ thể đồng thời có những tác động vào tinh thần người bệnh như an ủi, động viên, hướng dẫn các điều trị bệnh.
Phối hợp với các kỹ thuật viên phục hồi chức năng khác để thực hiện các kỹ thuật điều trị.
Kiểm tra các trang thiết bị y tế trước khi đưa vào điều trị đồng thời quản lý máy móc và báo cáo cho cán bộ quản lý nếu máy móc có vấn đề trong quá trình sử dụng.
2. Những kiến thức kỹ năng nào sinh viên cần có khi học ngành phục hồi chức năng?
Sinh viên học ngành phục hồi chức năng sẽ được đào tạo các kiến thức cơ sở và chuyên ngành thông qua các giờ học và thực hành. Các kiến thức cần có:
Sinh viên học ngành phục hồi chức năng cần phải nắm được các kiến thức khoa học cơ bản, y học cơ sở, nguyên lý kỹ thuật công nghệ cùng với các kiến thức chuyên môn để vận dụng vào thực tế trong quá trình thực hiện các kỹ thuật điều trị cho bệnh nhân.
Sinh viên phải hiểu biết rõ về các quy tắc, quy trình vận hành, bảo quản, bảo dưỡng các trang thiết bị, đảm bảo thực hiện quy trình và vận hành máy móc an toàn đồng thời báo cáo cho cán bộ quản lý nếu máy móc có vấn đề, hỏng hóc.
Sinh viên phải có kiến thức về phương pháp luận khoa học trong thực hành kỹ thuật, học tập, nghiên cứu khoa học.
Sinh viên cần phải tìm hiểu về pháp luật và các chính sách về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân để có thể tham gia các hoạt động y tế cộng đồng, từ thiện.
Sinh viên ngành phục hồi chức năng cần phải biết ngoại ngữ (tiếng Nhật, tiếng Anh, …) để không chỉ làm việc tại Việt Nam mà còn nâng cao cơ hội làm việc tại nước ngoài sau khi ra trường.
Thiết lập các kỹ thuật khám – lượng giá vật lý trị liệu phục hồi chức năng và thực hiện các quy trình một cách thành thạo, đảm bảo an toàn cho người bệnh.
Vận hành máy móc một cách thành thạo, cẩn thận, bảo quản trang thiết bị dựa trên nền tảng công nghệ thông tin.
Sinh viên học ngành phục hồi chức năng cần phải có khả năng làm việc nhóm, khả năng phối hợp và chia sẻ công việc với đồng nghiệp để thực hiện các kế hoạch hồi phục cho bệnh nhân. Đây là kỹ năng mà rất nhiều sinh viên ngành phục hồi chức năng còn thiếu.
3. Trường Đại học Y khoa Tokyo – nơi chắp cánh cho ước mơ
Trường Đại học Y khoa Tokyo Việt Nam được coi là nơi mà các bạn sinh viên có thể du học Nhật Bản ngay tại đất nước mình. Đây là ngôi trường Y khoa đầu tiên được xây dựng trên nền tảng liên kết, hỗ trợ của hai Chính phủ Việt Nam và Nhật Bản.
Tại ngôi trường danh giá này, các bạn sinh viên sẽ được học tập và đào tạo bởi các giảng viên hàng đầu ngành y của Nhật Bản và Việt Nam, những người sẽ cung cấp cho các bạn kiến thức chính xác về ngành học cùng những kinh nghiệm, kỹ năng khi vào nghề.
Trường luôn chú trọng về cơ sở vật chất để các sinh viên có thể học tập trong một môi trường đầy đủ và hiện đại nhất. Hơn 80 bàn máy tính được mở trong cả giờ học và giờ tự học, phòng thực hành dụng cụ chỉnh hình, thực hành phục hồi chức năng vật lý trị liệu có đầy đủ thiết như tay, chân giả, xe đạp thể dục, thang song song đi bộ, các loại máy vận động, … giúp sinh viên được thực hành một cách thực tế nhất. Phòng thực hành điều dưỡng và thực hành y học cơ sở cũng có đầy đủ các mô hình để sinh viên được thực hành ngay sau giờ học.
Để giúp các sinh viên có thể gắn kết với nhau trong suốt quá trình học tập, nâng cao tinh thần làm việc nhóm – điều mà rất nhiều sinh viên hiện nay còn thiếu, trường Đại học Y khoa Tokyo Việt Nam còn trang bị nhà ăn với không gian thân thiện, trung tâm đào tạo y tế Nhật Việt với không gian rộng lớn là nơi tổ chức các sự kiện, giao lưu trong các buổi lễ.
Hy vọng những chia sẻ hữu ích của chúng tôi sẽ giúp bạn có thêm cơ sở đưa ra quyết định học ngành phục hồi chức năng và biết được ngành phục hồi chức năng làm gì. Đại học Y khoa Tokyo Việt Nam sẽ là nơi chắp cánh cho ước mơ của bạn.
Giải Quyết Việc Làm Cho Sinh Viên Sau Tốt Nghiệp
(HNM) – Giải quyết việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp đang là mối quan tâm hàng đầu của TP Hồ Chí Minh nhằm phát huy nguồn nhân lực có trình độ đại học. Để mọi sinh viên ra trường có việc làm phù hợp với ngành nghề đào tạo, thành phố cam kết hỗ trợ các điều kiện cần thiết để tăng cường sự kết nối giữa nhà trường và doanh nghiệp.
Là sinh viên năm thứ 4 Trường Đại học Sài Gòn, Lê Bảo Trân cho biết mới đây nhà trường đã tổ chức ngày hội việc làm. Sau khi được tư vấn, Trân đã điền đầy đủ vào mẫu đơn đăng ký… Lê Bảo Trân rất vui vì ra trường sẽ có nhiều cơ hội được đi làm ngay. Còn Nguyễn Văn Nhân, sinh viên năm thứ 3, Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh rất mừng khi tìm được vị trí trợ giảng. “Vì chưa tốt nghiệp nên em tìm những trường có nhu cầu tuyển trợ giảng để nộp đơn đăng ký. Em muốn đi làm để có kinh nghiệm và không sợ phải thất nghiệp sau khi ra trường”, Nguyễn Văn Nhân cho hay.
Thực tế, số sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng tại TP Hồ Chí Minh hiện nay đạt 72,3%. Phần lớn sinh viên ra trường còn gặp nhiều khó khăn trong tìm việc làm ổn định do chưa định hướng đúng về nghề nghiệp – việc làm. Ông Trần Anh Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo nguồn nhân lực và thị trường lao động TP Hồ Chí Minh cho biết, hiện có không ít sinh viên chọn ngành học chưa phù hợp với năng lực, sở trường và xu hướng phát triển thị trường lao động. Còn các doanh nghiệp lại rất quan tâm tuyển chọn sinh viên tốt nghiệp có kiến thức ngoại ngữ, khả năng hợp tác, kỹ năng làm việc, giao tiếp, những hiểu biết về văn hóa doanh nghiệp và tác phong công nghiệp.
Theo ông Trần Anh Tuấn, các trường đại học tại TP Hồ Chí Minh hằng năm cung cấp hơn 70.000 lao động có trình độ đại học, trong khi nhu cầu nhân lực ở trình độ này chỉ khoảng 40.000 chỗ làm việc/năm. Thị trường lao động đang thiếu trầm trọng lao động có kỹ năng thực hành, nhân lực chất lượng cao.
Nhằm phát huy nguồn lực giáo dục đại học, Tiến sĩ Đinh Công Khải, Trưởng khoa Quản lý nhà nước, Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh cho rằng, các trường cần chủ động trong công tác đào tạo và liên kết với các doanh nghiệp. Chính quyền thành phố nên tạo cơ chế động viên khuyến khích và đóng vai trò chủ chốt trong việc kết nối các cơ quan hữu quan để dự báo nhu cầu nhân lực, tránh tình trạng lãng phí trong đào tạo.
Còn Phó Giáo sư, Tiến sĩ Cao Hào Thi, Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn cho hay: “Thành phố có rất nhiều doanh nhân đang làm quản lý ở các doanh nghiệp, họ không chỉ có kinh nghiệm thực tiễn mà còn có trình độ chuyên môn… Họ có nguyện vọng tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học, báo cáo chuyên đề hoặc hướng dẫn luận văn cho sinh viên. Đây có thể xem là đội ngũ “giảng viên thực tiễn” rất có giá trị với nhà trường. Vì vậy, đề nghị các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục có chính sách công nhận đội ngũ này là giảng viên của trường đại học”.
Để giải quyết việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp, mới đây, UBND TP Hồ Chí Minh phối hợp với Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo “Liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong giải quyết việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp”. Tại hội thảo, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Nguyễn Thành Phong cho biết, công tác giải quyết việc làm cho người lao động đã trở thành một chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hằng năm của thành phố. Bình quân mỗi năm, thành phố giải quyết trên 300.000 việc làm, tạo thêm 135.000 việc làm mới và giảm tỷ lệ thất nghiệp đô thị dưới 3,8%. Chủ tịch UBND thành phố khẳng định, giải quyết việc làm cho sinh viên là trách nhiệm của thành phố, đồng thời cam kết sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi để sớm hoàn chỉnh hệ sinh thái thị trường lao động, cũng như hỗ trợ các điều kiện cần thiết để tăng cường sự kết nối giữa nhà trường và doanh nghiệp, giảm khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu doanh nghiệp.
Giải Pháp Việc Làm Cho Sinh Viên Mới Ra Trường
Một thực tế khác đang diễn ra đó là sinh viên của một số ngành thì dễ dàng xin việc bên cạnh đó một số ngành khác thì lại khó khăn trong cơ hội việc làm. Đó có thể là một trong những vấn đề lo ngại của sinh viên khi bước vào cánh cửa trường đại học. Nhận thấy rõ nhất điều này qua sự so sánh hai bộ phận sinh viên đối với sinh viên ngành tài chính ngân hàng và sinh viên ngành sư phạm. Trong khi các bạn sinh viên học ngành tài chính ngân hàng thì dễ dàng kiếm cơ hội việc làm cho mình với một mức lương khá cao thì các bạn sinh viên ngành sư phạm lại vất vả tìm kiếm việc làm khi tốt nghiệp ra trường. Một bạn sinh viên tốt nghiệp một trường đại học với ngành học sư phạm cầm trên tay tấm bằng giỏi song lại khó khăn khi tìm kiếm việc làm là một sự thật có thể xảy ra do vị trí công việc của ngành này không còn chỉ tiêu. Với trình độ đào tạo đại học các bạn sinh viên sư phạm còn khó xin việc thì những bạn học cao đẳng sau khi tốt nghiệp càng khó xin việc hơn. Trong những năm gần đây đặc biệt là năm 2010 các ngân hàng nước ngoài đầu tư vào Việt Nam ngày càng lớn chính vì thế số lượng lao động cần bổ sung sẽ lớn. Sau vài năm vất vả đèn sách tích luỹ kiến thức và tìm kiếm việc làm sinh viên đành phải chấp nhận một công việc mà không phải như những gì mình đã được đào tạo. Có những sinh viên còn chẳng sử dụng một chút kiến thức đã được trang bị trong những năm học ở trường. Đó có thể coi là một sự lãng phí cả về nguồn lao động cũng như nguồn vốn cho nhà nước. Sinh viên học chuyên ngành này lại đi làm một chuyên ngành khác là một thực tế đang diễn ra khá phổ biến trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Bên cần nguồn lao động nhưng lao động này cần có kiến thức cao, có trình độ. Nhưng các bạn sinh viên lại khó có thể đáp ứng được những yêu cầu khắt khe đó.
Theo số liệu thống kê thì năm 2003 – 2004 tổng số sinh viên Đại học và Cao đẳng là 1.131.030 sinh viên nhưng đến năm 2007-2008 con số này đã tăng lên 1.603.484 sinh viên. Và đến 2010 con số này là 1,7triệu sinh viên. Những con số ở trên có thể thấy rõ rằng số lượng nguồn lao động của nước ta được đào tạo ngày càng tăng lên. Nhưng nó cũng là một thách thức không nhỏ khi cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo thì chất lượng nguồn lao động được đào tạo sẽ không đảm bảo. Có khoảng 63% sinh viên tốt nghiệp ra trường không có việc làm và trong số sinh viên ra trường kiếm được việc làm thì lại có nhiều sinh viên làm không đúng ngành mình được học. Với số lượng sinh viên ra trường ngày càng lớn như hiện nay thì áp lực về cơ hội việc làm ngày càng trở nên khó khăn.
Một câu hỏi đặt ra đối với những nhà quản lý, những người có quyền hạn trong Bộ Giáo dục và Đào tạo là tại sao lại có tình trạng sinh vien ra trường khó kiếm được việc làm. Để đào tạo một sinh viên ra trường phải mất khoảng 4-5 năm, một phần kinh phí không nhỏ của nhà nước và xã hội hơn thế trong thời gian đó cũng mất đi một nguồn lao động cho đất nước. Nhưng kết quả thu về là sinh viên đó cầm tấm bằng tốt nghiệp ra trường lại không thể kiếm được việc làm. Vậy nguyên nhân của tình trạng này là do đâu?
Thứ nhất, sau một thời gian được học tập và đào tạo trên ghế nhà trường các bạn sinh viên được trang bị nhiều kiến thức lý thuyết nhưng lại ít được trang bị kiến thức thực tế nên việc áp đáp ứng được những yêu cầu của công việc là một trở ngại lớn. Hiện nay phần lớn các nhà doanh nghiệp các công ty tư nhân đều cần những người có kinh nghiệm làm việc, song đối với các bạn sinh viên kinh nghiệm gần như là không có hoặc có nhưng mà ít. Đó chính là khó khăn các bạn sinh viên gặp phải trong việc hoà nhập với công việc có tâm lý chung là sau khi tốt nghiệp thì phải cố gắng ở lại các thành phố lớn để làm việc. Lý do này cũng dẫn đến một thực trạng là có quá ít công việc trong khi đó số lượng các sinh viên tìm việc làm lại rất lớn không đáp ứng kịp thời nguồn cung đòi hỏi. Hàng năm có rất nhiều doanh nghiệp, công ty tư nhân được thành lập tạo ra một khối lượng không nhỏ công việc mới cho các bạn sinh viên mới ra trường. Song một thực tế là số sinh viên tốt nghiệp sau khi ra trường lại quá lớn làm cho số công việc mới không đủ để đáp ứng với nhu cầu số lượng lao động được đào tạo ra.
Thứ hai, các cơ quan quản lý và Bộ Giáo dục đào tạo vẫn còn một số bất cập trong việc giao chỉ tiêu từng ngành nghề cho các trường. Đôi khi khó kiểm soát được hoạt động đào tạo của các trường Đại học hiện nay. Năm 2008 nước ta có 209 trường Cao đẳng và 160 trường Đại học nhưng đến năm 2010 con số này đã là hơn 200 trường Đại học. Với một mức tăng nhanh như vậy thì chất lượng, cơ sở thiết bị đào tạo khó có thể đáp ứng kịp thời. Bên cạnh đó đào tạo vẫn chưa gắn với nhu cầu thực tế của xã hội cũng là một trong những hạn chế cần được khắc phục.
Thứ ba, tình trạng sinh viên làm trong các doanh nghiệp nhưng lại không gắn bó làm mất đi nhiều cơ hội cho chính bản thân. Thông thường sinh viên mới tốt nghiệp ra trường thì doanh nghiệp phải mất khoảng 6 tháng để đào tạo mới có thể làm được công việc phụ trách. Nhưng có thực tế là sinh viên dễ chuyển từ công ty này tới công ty khác trong một thời gian ngắn. Đó làm cho các doanh nghiệp và công ty gặp nhiều khó khăn trong công tác đào tạo Chi phí đào tạo lại cũng khá tốn kém.
Đầu tiên, dù học bất cứ ngành nghề lĩnh vực nào đi nữa thì mỗi bạn sinh viên cũng cần tạo cho mình một nền tảng kiến thức vững chắc thì mới có thể làm tốt công việc của mình. Tạo cho bản thân một niềm đam mê công việc, một sự nhiệt tình khao khát thể hiện bản thân. Sinh viên ngoài những kiến thức được học trên lớp còn những kĩ năng cả trong công việc và cuộc sống. Nó cũng là một trong những nhân tố không thể nào thiếu khi sinh viên tốt nghiệp ra trường. Sinh viên có thể học các kĩ năng này bất kì đâu. Trong hoạt động giao tiếp hàng ngày, trong các tổ chức, trong các hoạt động chung của trường (trong các câu lạc bộ, các cuộc thi,.. ). Tất cả đều tạo cho sinh viên những kĩ năng, sự tự tin và khả năng thích ứng với công việc và môi trường mới. Bên cạnh một kiến thức chuyên môn sâu và chắc chắn các bạn cần có phải có kiến thức về ngoại ngữ, tin học, khả năng làm việc theo nhóm, kĩ năng làm việc, cách trình bày diễn đạt tự tin, đam mê nghề nghiệp. Đó thật sự và không thể thiếu đòi hỏi các bạn sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường. Điều đó có thể nhận thấy trong thực tế hiện nay. Khó có bạn sinh viên nào khi ra trường lại chỉ cầm một tấm bằng đại học duy nhất bên cạnh tấm bằng đại học các bạn cần có thêm tấm bằng tiếng anh với chuẩn mực quốc tế, mọi kiến thức vững về tin học để có thể làm việc bằng máy tính. Chỉ có vậy sinh viên mới có cơ hội kiếm cho mình những việc làm theo như mong ước của mình.
Về phía các cơ quan quản lý và Bộ Giáo dục đào tạo:
Một là, các nhà hoạch định chính sách cần nghiên cứu để có cái nhìn chiến lược lâu dài theo sự biến đổi của đất nước, từ đó sẽ giảm tình trạng sinh viên ngành thì thừa ngành lại thiếu. Để làm tốt việc thì cần có nhiều sự tính toán phân tích tỉ mỉ của các nhà quản lý. Nghiên cứu sự thay đổi biến động của nền kinh tế, cơ cấu ngành trong nước để từ đó có một tầm nhìn chiến lược, một giải pháp hiệu quả thúc đẩy nền kinh té phát triển. Đào tạo ra một nguồn lao động chất lượng phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.
Hai là, cần chú trọng công tác đào tạo hơn nữa. Để đào tạo một sinh viên có chất lượng, có khả năng làm việc thì chương trình đào tạo cũng cần gắn với thực tế, hiệu quả. Hơn thế lý thuyết là chưa đủ sinh viên còn cần được trang bị kiến thức thực tế. Nhiều trường đại học của Việt Nam hiện nay vẫn quá chú trọng vào đào tạo lý thuyết mà chưa đầu tư cho sinh viên kiến thức thực tế. Học tập cách đào tạo của các nước đang phát triển như Mỹ, Nhật, Singapore…Có thể thấy các trường Đại học của các nước này đào tạo cho sinh viên một nền tảng kiến thức vững chắc. Điều đó lý giải tại sao tấm bằng đại học của Việt Nam vẫn chưa được quốc tế công nhận. Chúng ta cần dần những thay đổi chương trình đào tạo để phù hợp với thực tế hơn. Cần có một tiêu chuẩn để đánh giá khả năng đào tạo của các trường Cao đẳng và Đại học hiện nay hạn chế tình trạng có quá nhiều trường được thành lập song chất lượng đào tạo lại thấp không đáp ứng được những tiêu chuẩn xã hội đòi hỏi.
Có được việc làm sau khi ra trường là ước muốn mỗi bạn sinh viên ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường nhưng để có cơ hội việc làm rộng mở thì không những cần có sự cố gắng của các bạn sinh viên mà còn cần sự cố gắng của nhà trường và các cấp quản lý. Cần có một chiến lược lâu dài trong đào tạo giáo dục hiện nay thì mới có thể tận dụng hiệu quả nguồn lao động cho đất nước.
Về phía các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp cần tạo điều kiện, giúp đỡ cho sinh viên nhiều cơ hội để tiếp cận với công việc. Từ đó sinh viên sẽ có thể đóng góp công sức và gắn bó với các doanh nghiệp hơn. Tạo ra mối liên hệ chặt chẽ và hiệu quả. Bên cạnh đó cần có một cầu nối linh hoạt hiệu quả giữa các trung tâm giới thiệu việc làm để sinh viên thuận lợi hơn trong việc tìm kiếm công việc phù hợp vớn bản thân.
Nguyễn Văn Vĩnh – CQ47/02.01
Bạn đang đọc nội dung bài viết Sinh Viên Thất Nghiệp Sau Khi Ra Trường trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!