Cập nhật nội dung chi tiết về Sáng Kiến Kinh Nghiệm mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Những nguyên nhân kể trên đều có phần đúng nhưng chưa đầy đủ mà có thể kể thêm một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do trong thời gian qua, công tác giáo dục đạo đức, tuyên truyền tư tưởng đạo đức chưa được xem trọng. Vì vậy, tăng cường giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ (thế hệ tương lai của đất nước) là việc làm hết sức cấp thiết. Nhằm giúp cho học sinh hình thành cho mình những thói quen đạo đức, từ đó các em sẽ có những hành vi đạo đức phù hợp trong cuộc sống hằng ngày. Chính vì thế mà tôi chọn nghiên cứu và thực nghiệm đề tài “Hình thành thói quen đạo đức cho học sinh lớp 2”. PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI Với vai trò là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy rằng: muốn có những công dân tốt có ích cho xã hội, có ích cho nước, có lợi cho nhà thì trước tiên cần phải giáo dục đạo đức cho học sinh. Đặc biệt, là học sinh ở bậc học tiểu học, vì đây là bậc học nền tảng, bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Bậc tiểu học tạo những cơ sở ban đầu rất cơ bản và bền vững cho trẻ tiếp tục học lên những bậc trên, hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách. Những gì thuộc về tri thức kỹ năng, về hành vi con người … được hình thành và định hình ở học sinh tiểu học sẽ theo suốt cuộc đời mỗi người. Mặt khác, học sinh tiểu học dễ tiếp thụ sự nuôi dưỡng, sự giáo dục. Chính vì vậy, muốn hình thành cho trẻ những thói quen đạo đức cần bắt đầu từ bậc tiểu học. Đồng thời, ở lứa tuổi này các em bắt đầu được tiếp thu các kiến thức về tự nhiên, về xã hội và bước đầu đã có ý thức. Trong hoạt động nhận thức, lứa tuổi này có tâm sinh lý riêng dễ bắt chước, chưa ý thức rành mạch việc gì đúng, việc gì sai, việc gì nên làm và việc gì không nên làm. Vì vậy, giáo viên cần phải nắm rõ những đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi này sẽ giúp các em có ý thức hành động đạo đức đúng đắn chuẩn mực. Việc giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 2 không chỉ đơn thuần là những bài học đạo đức ở trên lớp; những lý thuyết chung chung học mà không hành. Do vậy, lời nói việc làm của người lớn (ông, bà, cha, mẹ, thầy cô giáo …) trong cuộc sống giao tiếp hàng ngày là khuôn mẫu, là gương sáng cho trẻ em ở bậc tiểu học. Để làm được điều đó, giáo viên chủ nhiệm không nên làm một mình mà cần tích cực kết hợp với phong trào đoàn thể trong nhà trường như phong trào Đội, sinh hoạt sao, các bậc phụ huynh và các phong trào đoàn thể ngoài nhà trường. Như vậy, từ việc giáo dục đạo đức, chúng ta sẽ hình thành cho trẻ những thói quen đạo đức thông qua giờ dạy đạo đức, các hoạt động ngoại khóa, tham quan du lịch Ngoài ra, nội dung các môn học khác trong chương trình học đều có chứa đựng nội dung giáo dục và hình thành những thói quen đạo đức nếu như ta biết khai thác. Ví dụ: Môn tiếng Việt với nhiều bài thơ, bài văn phong phú, đa dạng nói về quê hương, đất nước, con người, về cách ứng xử của các nhân vật khác nhau, nhờ đó mà có thể giáo dục hình thành cho các em tình yêu quê hương, đất nước, yêu lao động yêu con người, biết cách ứng xử trong các mối quan hệ xã hội và biết tỏ thái độ đối với các sự vật hiện tượng trong cuộc sống. Môn toán với hệ thống các bài học về bốn phép tính được mở rộng nâng cao dần từ đầu đến cuối chương trình học, các bài học về hình học, đặc biệt các bài toán có lời văn đều có ý nghĩa trong việc giúp học sinh hình thành những biểu tượng đạo đức và một số phẩm chất đạo đức tích cực như cần cù, chăm chỉ, kiên trì, chính xác, tôn trọng sự thật. Hoặc như môn thủ công, ngoài kỹ năng khéo léo, tỉ mỉ, giáo viên còn giúp học sinh yêu quý những sản phẩm mình bỏ công sức làm ra, biết giúp đỡ ban bè khi cần thiết, vừa làm vệ sinh lớp học. Từ đó, sẽ giúp các em hình thành nên những thói quen đạo đức lâu dài. Điều này phải cần thiết phù hợp, đúng lúc, đúng nơi, đúng chỗ. PHẦN III: ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH 1. Thuận lợi: – Được sự quan tâm của chính quyền địa phương, Phòng GD & ĐT, của Ban giám hiệu nhà trường, giúp cho tôi an tâm công tác và cố gắng nỗ lực hết sức mình vào sự nghiệp giảng dạy và giáo dục học sinh. – Ban giám hiệu nhà trường đặc biệt quan tâm, chỉ đạo đến công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. – Môn học đạo đức gắn liền với thực tiễn cuộc sống nên được sử dụng thường xuyên, có những ví dụ cụ thể trong cuộc sống hằng ngày để giáo dục và từ đó hình thành nên những thói quen, chuẩn mực hành vi cho các em. – Bản thân tôi đã trực tiếp giảng dạy nhiều năm ở bậc tiểu học. 2. Khó khăn: – Đa số các em học sinh là con em nông dân, công nhân nên thiếu sự quan tâm của gia đình, đồ dùng học tập còn thiếu, chưa được trang bị đầy đủ. – Tuy rằng hiện nay, Đạo đức là một trong những môn học chính nhưng thời lượng của môn học này chưa nhiều, chỉ 01 tiết / tuần. – Chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành. – Trình độ học sinh không đồng đều, kiến thức thực tế để xây dựng hành vi đạo đức cho các em còn hạn chế. PHẦN IV: NỘI DUNG THỰC HIỆN Nhờ đó, học sinh có cơ hội tham gia hoạt động, được luyện tập thực hành, trải nghiệm để hình thành các kĩ năng hành vi ứng xử và bày tỏ thái độ của mình khi áp dụng vào thực tiễn, đồng thời cũng tránh được hiện tượng học sinh đã nắm vững kiến thức, thuộc lòng các chuẩn mực hành vi đạo đức theo yêu cầu bài học nhưng trong cuộc sống vẫn không có được kĩ năng hành vi tương ứng. Dạy học theo sách vở, theo chương trình là chưa đủ mà cần phải giáo dục và hình thành đạo đức cho học sinh thông qua các hoạt động tập thể như hoạt động Đội, sao nhi đồng; thông qua các buổi lao động, các buổi tham quan du lịch, các hoạt động văn nghệ, TDTT… Và đặc biệt, không thể bỏ qua sự tự giáo dục đạo đức của mỗi cá nhân học sinh . PHẦN V: BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH 1/ Giáo dục, hình thành thói quen đạo đức cho học sinh thông qua môn Đạo đức : Để thực hiện tốt việc giáo dục và hình thành nên những thói quen hành vi chuẩn mực đạo đức cho học sinh thông qua môn Đạo đức, tôi luôn thực hiện đầy đủ và nghiêm túc các bài dạy đạo đức, không mang tâm lý xem nhẹ môn học này vì cho rằng đó là môn phụ và không phải thi cử nên có tâm lý chủ quan, dạy qua loa, chiếu lệ. Đối với 3 tiết dạy dành cho địa phương, tôi tiến hành khảo sát xem những vấn đề nào cần phải tăng cường giáo dục để từ đó biên soạn các tiết dạy này cho sát với tình hình thực tế ở địa phương. Khi giảng dạy môn đạo đức, tôi thường xuyên đổi mới phương pháp, hình thức dạy học để tạo hứng thú cho các em khi tham gia học tập. Bên đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng, nó ảnh hưởng sâu sắc đến chất lương và hiệu quả dạy học. Việc đánh giá kết quả học tập có nhiều hình thức khác nhau như: quan sát thái độ học tập, kiểm tra vấn đáp, trắc nghiệm, bày tỏ thái độ Từ đó, học sinh có điều kiện thể hiện được bản thân và đặc biệt thực hiện được hành vi đạo đức của mình trong cuộc sống hằng ngày. Do đó, việc đánh giá phải được thể hiện trên tất cả các mặt: kiến thức, tình cảm thi độ và kỹ năng hành vi ứng xử của các em ở gia đình, nhà trường, cộng đồng. Năm học 2005 – 2006, Bộ GD – ĐT đã ra quyết định số 30/2005/BGD&ĐT về việc ban hành quy định đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học trong đó môn đạo đức không đánh giá bằng định lượng (điểm số) mà được đánh giá bằng nhận xét theo hai hình thức: hoàn thành tốt (xếp loại A+) – hoàn thành (xếp loại A) và hình thức thứ hai là chưa hoàn thành (xếp loại B). Vì thế, giáo viên cần có kỹ năng và tinh thần thái độ tích cực trong việc vận dụng các tiêu chí, các chứng cứ biểu hiện mới để đánh giá kết quả học tập của học sinh cho đúng và chính xác. 2/ Giáo dục hình thành thói quen đạo đức thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp: – Mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Để giúp các em bớt thời gian chơi vô bổ. Ngoài những giờ học, vào giờ ra chơi nên tổ chức cho học sinh vui chơi với các trò chơi dân gian như: nhảy dây, bắn bi, bịt mắt bắt dê, thi kể chuyện, thi chạy nhanh, thi hát hay múa dẻo, ô ăn quan, chơi chuyền… Hoặc tập cho học sinh những bài tập thể dục với gậy, vòng để rèn luyện thân thể vui chơi nhưng bổ ích. Các em không còn thời gian để gây gổ hay chửi thề. – Ngoài giờ học chính khóa, tổ chức các hoạt động ngoại khoá cho học sinh tham gia. Chẳng hạn, tổ chức cho học sinh thăm các di tích lịch sử, di tích văn hoá để học sinh học tập các tấm gương của các danh nhân hoặc đến thăm các danh lam thắng cảnh, các khu vui chơi giúp các em có cơ hội vận dụng những điều đã học vào thực tế. – Ở trường Tiểu học, hoạt động ngoài giờ lên lớp rất phong phú, đa dạng. Trong đó, có những hoạt động được tổ chức thực hiện theo tiến độ thời gian hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng. Ví dụ: hoạt động 15 phút truy bài đầu giờ, đọc báo, văn nghệ; 30 phút ra chơi thì bao gồm thể dục giữa giờ, vui chơi giải trí; chào cờ đầu tuần; sinh hoạt Sao; hoạt động thi đua trong tháng; hoạt động hè ở địa phương…, có những hoạt động được tổ chức theo chủ điểm để kỷ niệm các ngày lễ lớn như: Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11; mời các vị lão thành cách mạng hoặc các vị có chức trách trong chính quyền địa phương đến ôn lại truyền thống của bộ đội nhân ngày 22/12.. Ngoài ra, Giáo viên chủ nhiệm phối hợp với Liên đội hình thành các câu lạc bộ, đội nhóm sở thích như Câu lạc bộ cờ vua, Đôi bạn cùng tiến, Nói lời hay làm việc tốt, Hoa bé ngoan, Nét chữ nết người hướng các em đến các hoạt động vui chơi bổ ích và giúp nhau cùng tiến bộ. Qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, học sinh có cơ hội được vận dụng kiến thức vào thực tiễn, rèn luyện các phẩm chất đạo đức, các giá trị nhân văn và kĩ năng ứng xử trong cuộc sống… Do đó, có thể khẳng định hoạt động ngoài giờ lên lớp là một hình thức quan trọng để giáo dục học sinh. Để tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp đạt được kết quả như mong muốn, việc xây dựng kế hoạch là rất cần thiết, bao gồm kế hoạch hoạt động cho từng ngày, từng tuần, từng tháng, từng chủ điểm, từng học kì và từng năm học. Trong đó cần nêu rõ nội dung giáo dục đạo đức được thể hiện trong từng hoạt động được tổ chức. Vì thế muốn tổ chức tốt hoạt động ngoài giờ lên lớp tôi phải học hỏi, tìm hiểu thu thập thông tin về thực tế cuộc sống, tình hình chính trị xã hội để cung cấp triển khai nội dung cho các em học sinh. Tuy nhiên, để có được bản kế hoạch khoa học, phù hợp với đặc điểm nhà trường thì cần phối hợp chặt chẽ giữa tổng phụ trách đội , nhà trường, nên thiết kế và tổ chức một số hoạt động mẫu có lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức để học sinh học tập. Có thể chọn hoạt động hàng ngày, hàng tuần, hoặc hoạt động theo chủ điểm để làm hoạt động mẫu. Ví dụ: chọn hoạt động theo mẫu ở chủ điểm tháng 11: “Biết ơn thầy cô giáo”. Nội dung của chủ điểm bao gồm nhiều hoạt động đa dạng như thi đua nề nếp học tập tốt, giờ học tốt, giành nhiều điểm 10 kính tặng thầy cô, mit – tinh kỉ niệm và biểu diễn văn nghệ, thi viết chữ đẹp, thi kể chuyện… Mục tiêu của các hoạt động này nhằm giáo dục ý thức “Tôn sư trọng đạo”. Điều đó được thể hiện bằng lòng tôn kính, chăm chỉ học tập giành nhiều điểm tốt, vâng lời thầy cô… Về cách thức tổ chức, điều kiện thực hiện, thời gian,… cần phải được thiết kế, lên kế hoạch khoa học, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nhà trường. Trong quá trình thực hiện nên phối hợp chặt chẽ với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để tạo điều kiện về mọi mặt để tổ chức tốt hoạt động. Khi đánh giá, cần xây dựng tiêu chí, chuẩn mực đánh giá cho mỗi hoạt động cụ thể và sử dụng nhiều hình thức kiểm tra nhằm thực hiện cho việc đánh giá kết quả hoạt động một cách khách quan, công bằng, chính xác, tạo tâm lý phấn khởi, tích cực thi đua hoạt động ở học sinh. Ví dụ: hình thức kiểm tra từ trên xuống, kiểm tra chéo, kiểm tra của đội sao đỏ, lớp trực tuần…). Hàng ngày, học sinh thực hiện hành vi đạo đức theo mẫu các chuẩn mực được học ở mọi lúc, mọi nơi trong các mối quan hệ, các tình huống khác nhau. Nhờ việc thực hiện thường xuyên như vậy hành vi của các em sẽ trở thành kỹ xảo thói quen bền vững (như lễ phép với người lớn tuổi, đi thưa về chào, bỏ rác đúng nơi quy định, giữ gìn trật tự vệ sinh nơi công cộng) Khi luyện tập hành vi đạo đức cho học sinh có thể sử dung biện pháp tạo tình huống giáo dục, tức là chủ động tạo ra tình huống đạo đức một cách tự nhiên, đặt ra cho học sinh một cách “tình cờ”. Trước tình huống đó, các em tự lựa chọn cách ứng xử xho mình. Khi đó, việc thực hiện hành vi của trẻ không do thầy cô, cha mẹ, bạn bè ép buộc mà hoàn toàn theo ý thức, thái độ tự giác của các em. Từ đó, học sinh biết lựa chọn hành vi sao cho phù hợp chuẩn mực đạo đức, trên cơ sở luyện tập các hành vi lặp đi lặp lại nhiều lần hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng sẽ hình thành nên những thói quen tích cực và bền vững. Mặt khác, phương tiện quan trọng để tập thói quen hành vi là chế độ giờ giấc. Việc tuân thủ theo chế độ giờ giấc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng, vì ở chúng, ý chí chưa hình thành đầy đủ. Với chế độ giờ giấc nghiêm ngặt, chặt chẽ sẽ giúp trẻ củng cố các hành động tích cực, điều khiển ước muốn của mình, tạo ra các thói quen tích cực. Ngoài những việc làm trên, chúng ta có thể sử dụng thêm những gương danh nhân, những gương đạo đức thực tế trong cuộc sống sẽ trở nên cụ thể hơn, sinh động hơn và có sức thuyết phục hơn để kích thích các em bắt chước theo. Bên cạnh đó, kết quả giáo dục đạo đức của học sinh còn chịu sự ảnh hưởng của gia đình. Vì thế, trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, tôi phải thực hiện liên kết với gia đình các em để tìm hiểu, nắm vững hoàn cảnh sống , đặc điểm về thể chất, tâm sinh lý của các em. Nhờ đó, mà giúp các em phát huy những mặt mạnh của bản thân như giúp đỡ bạn, nhân hậu, vị tha khi bạn không phải với mìnhĐồng thời, tôi cũng trao đổi với gia đình qua điện thoại, hoặc gặp trực tiếp thông báo về trường hợp học sinh có những biểu hiện cá biệt để cùng phối hợp giáo dục đạo đức đạt kết quả tốt hơn. Qua đó, tôi sẽ làm công tác tư vấn giúp cha mẹ các em hiểu rõ về giáo dục đạo đức cho học sinh với những vấn đề cơ bản sau: – Trách nhiệm của gia đình trong việc phối hợp với nhà trường để giáo dục đạo đức cho con em họ . – Do khả năng nhận thức của học sinh còn hạn chế, nặng về cảm tính, chưa biết độc lập phân tích và đưa ra những đánh giá, nhận xét của riêng mình về các hiện tượng diễn ra trong cuộc sống, vì vậy gia đình cần hiểu và thống nhất với nhà trường về mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục học sinh. Nếu thiếu sự thống nhất đó thì rất dễ dẫn tới việc sai lầm các giá trị đạo đức ở các em . – Ngoài ra, gia đình cũng cần tạo điều kiện thuận lợi (Phương tiện dụng cụ học tập, thời gian học tập, vui chơi giải trí…) cho con em mình học tập và rèn luyện, đồng thời dành sự quan tâm chăm sóc và tạo bầu không khí gia đình đầm ấm, hạnh phúc * Phối hợp với chính quyền địa phương và các đoàn thể xã hội: Thực chất đây là sự liên kết giáo dục giữa nhà trường với xã hội. Các lực lượng xã hội gồm: chính quyền địa phương, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Chữ thập đỏ cùng liên kết để giáo dục các em. Trên cơ sở đó, tổ chức các hoạt động như: tuyên truyền công tác bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh công cộng, an toàn giao thông, nghe nói chuyện về truyền thống đấu tranh cách mạng ở địa phương, tham quan di tích lịch sử Điều đặc biệt quan trọng là mỗi thành viên của lực lượng xã hội khi tham gia công tác phải thực sự gương mẫu, là tấm gương về lao động, công tác, nhân ái, vị tha, văn minh trong quan hệ ứng xử với mọi ngườiđó là những tấm gương sống động và mạnh mẽ sẽ ảnh hưởng tích cực đến việc hình thành nhân cách của các em và đây cũng chính là môi trường tốt và lành mạnh để các em thể hiện rõ hành vi của mình. Giáo viên là yếu tố cốt lõi, là người khởi xướng và thực hiện, là tấm gương sáng tự học và tự rèn cho học sinh noi theo. Mọi cử chỉ lời nói của giáo viên đều có ảnh hưởng sâu sắc đến học sinh lớp mình chủ nhiệm cho nên nếu các hành vi đó không mẫu mực cũng sẽ làm cho học sinh dễ bắt chước theo. Mọi cử chỉ nói năng, ăn mặc, đi đứng, thái độ biểu hiện của giáo viên đều có ảnh hưởng nhất định đến nhân cách học sinh. Chính vì thế, mà tôi luôn không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trau dồi phẩm chất đạo đức, luôn mẫu mực trong cuộc sống, thiết lập mối quan hệ thường xuyên, thân thiết quan tâm gần gũi với các em như một người chị, người mẹđể dẫn lối chỉ đường nhằm hoàn thiện nhân cách đạo đức cho các em. Kỹ năng thể hiện hành vi của các em là quan trọng nhất và cũng là khó khăn nhất, nên trong công tác giảng dạy tôi luôn cố gắng hướng các em vào những việc làm, hành động cụ thể để các em thực hiện được những hành vi tích cực đó trong cuộc sống hằng ngày. PHẦN VI: KẾT QUẢ Sau một thời gian thực hiện các kinh nghiệm trên, lớp tôi dạy (sĩ số 32 học sinh) đã đạt kết quả như sau: – Loại hoàn thành tốt (A+) đạt 18 em, chiếm tỉ lệ: 56,25%. – Loại hoàn thành (A) đạt 14 em, chiếm tỉ lệ: 43,75%. – Không có học inh xếp loại chưa hoàn thành. Trong thực tế áp dụng các kinh nghiệm trên, tôi nhận thấy học sinh do lớp mình phụ trách có những bước tiến triển sau: – Hình thành cho các em ý thức về những chuẩn mực hành vi đạo đức (tri thức và niềm tin) tạo nên những già trị đạo đức phù hợp với những chuẩn mực quy định. – Hình thành được cho các em những kỹ năng, hành vi phù hợp với các chuẩn mực và trên cơ sở đó rèn luyện thành thói quen đạo đức tích cực. – Vận dụng những thói quen đạo đức trong cuộc sống hàng ngày của học sinh. Nói chung mỗi hành vi thói quen đạo đức của học sinh đều đòi hỏi người giáo viên phải có sự kiên trì, nhẫn nại dẫn dắt học sinh trong từng bài học, tình huống, hành vi hoạt động cụ thể nhất là khâu vận dụng vào thực tiễn cuộc sống hằng ngày để rèn luyện nó trở thành thói quen tích cực và bền vững. PHẦN VII: BÀI HỌC KINH NGHIỆM. Trong quá trình dạy và áp dụng những kinh nghiệm trên nhằm góp phần hình thành nên những thói quen đạo đức cho học sinh ở lớp 2, tôi cũng đã đọc kỹ và tìm hiểu nội dung chương trình môn học Đạo đức của lớp 2. Điều này rất có ích để tôi giáo dục đạo đức tốt hơn cho học sinh. Bên cạnh đó tôi cũng rút ra được một vài kinh nghiệm trong việc dạy học, tổ chức các hoạt động trong việc hình thành những thói quen đạo đức cho học sinh tiểu học. 1. Người giáo viên phải thực sự có lòng yêu nghề, mến trẻ, kiên trì, nhẫn nại, nhiệt tình trong công tác, không ngại khó, ngại khổ.
Mô Tả Sáng Kiến Kinh Nghiệm
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc MÔ TẢ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Mã số: ………………………
– Họ và tên : DANH HOÀI TÂM
– Chức danh: Giáo viên
– Đơn vị công tác : Trường THPT Hòa Hưng
huyện Giồng Riềng tỉnh Kiên Giang.
1.Tên sáng kiến:
Hướng dẫn học sinh phân tích biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa trong sách giáo khoa môn Địa lí lớp 7.
Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: giảng dạy
Mô tả bản chất của sáng kiến:
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết
– Hiện trạng trước khi áp dụng giải pháp:
Một thực tế đã diễn ra trong nhiều năm qua ở trường THPT Hòa Hưng là đa số học sinh khối 7 các em e ngại khi học tập bộ môn Địa lý vì phải ghi nhớ rất nhiều số liệu khi phân tích các biểu đồ cụ thể là biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa.
Các em chưa có một phương pháp học tập phù hợp và đạt hiệu quả cao trong giờ học Địa lý.
Vì vậy có nhiều em học sinh chưa có hứng thú học tập bộ môn, cho nên kết quả học tập đạt chưa cao.
– Sự cần thiết của việc đề suất giải pháp:
Chúng ta đã biết nếu các em biết phân tích biểu đồ nhiệt và lượng mưa thì các em sẽ dễ dàng hiểu về đặc điểm khí hậu của bất một vùng đất nào trên thế giới.
Trong sách giáo khoa địa lí 7 có rất nhiều biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa để các em tham khảo và tìm hiểu.
Nếu biết cách phân tích biểu một cách có hiệu quả thì các em sẽ không còn e ngại vì phải ghi nhớ nhiều số liệu và e ngại khi học tập bộ môn Địa lí.
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
– Mục đích của giải pháp: Giúp học sinh tự phân tích biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa trong sách giáo khoa môn Địa lí cấp THCS.
– Nội dung giải pháp: được thực hiện khái quát qua các bước sau:
Yêu cầu hs cho biết nhưng yếu tố nào được thể hiện trên biểu đồ?Trong thời gian bao lâu?
+ Yếu tố nào được biểu hiện theo đường?
+ Yếu tố nào được biểu hiện bằng hình cột?
– Yêu cầu hs cho biết trục bên phải; trục bên trái dùng để đo tính đại lượng nào?
+ Xác định đơn vị tính nhiệt độ và đơn vị tính lượng mưa?
Bước 2: Đọc các đại lượng nhiệt độ và lượng mưa cần khai thác.
Đọc đại lượng nhiệt độ cần khai thác:
+ Tháng nóng nhất là tháng mấy, nhiệt độ là bao nhiêu? Tháng lạnh nhất là tháng mấy, nhiệt độ là bao nhiêu?
+ Chênh lệch nhiệt độ (biên độ nhiệt) ? Nhiệt độ trung bình năm?
Đọc đại lượng mưa cần khai thác:
+ Mưa nhiều nhất vào tháng nào? Lượng mưa là bao nhiêu? Mưa ít nhất là tháng nào? Lượng mưa là bao nhiêu?
Biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa của Singapore
Để xác định được tháng nóng nhất, cần hướng dẫn học sinh làm theo cách sau:
Học sinh xác định đỉnh cao nhất của đường biểu diễn màu đỏ, đó là thời điểm nhiệt độ cao nhất. Các em cần đặt thước kẻ của mình trùng với điểm nhô lên cao nhất đó nằm ngang song song với trục hoành cắt trục tung bên phải tại một điểm. Đọc trị số nhiệt độ tại điểm đó sẽ xác định được nhiệt độ tháng cao nhất. Sau đó học sinh quay thước kẻ hạ vuông góc từ điểm đó xuống trục hoành. Đọc số chỉ tháng ở trục hoành để xác định tháng nóng nhất.
Để xác định nhiệt độ tháng thấp nhất, học sinh cần tìm được điểm thấp nhất trên đường biểu diễn màu đỏ. Sau khi xác định được điểm đó, đặt thước kẻ ngang với điểm đó song song với trục hoành, cắt trục tung bên phải tại một điểm. Đọc trị số nhiệt độ ở điểm đó sẽ xác định được nhiệt độ tháng thấp nhất.
Biên độ nhiệt năm được tính bằng hiệu của tháng nóng nhất với tháng lạnh nhất.
Để xác định lượng mưa tháng cao nhất và tháng thấp nhất, học sinh cần tìm cột màu xanh cao nhất và cột thấp nhất. Đối với lượng mưa, dưới chân cột đã được đánh số tháng nên học sinh có thể đọc được ngay. Đặt thước lên đầu cột cao nhất hoặc thấp nhất đó, nằm ngang song song với trục hoành, cắt trục tung bên trái tại một điểm. Đọc trị số tại trục tung bên trái sẽ xác định được tháng mưa nhiều nhất hay ít nhất đó là bao nhiêu.
Bước 4: Trình bày các kết quả đã khai thác.
Trên cơ sở lựa chọn các đối tượng khai thác ở bước 3 học sinh hoàn thiện các kiến thức và trình bày kết quả.
3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Giải pháp đã áp dụng có hiệu quả tại 2 năm học vừa qua ở lớp 7 và có khả năng mở rộng cho toàn khối THCS của trường THPT Hòa Hưng.
3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp
Trong quá trình triển khai, áp dụng qua hai năm học gần đây là năm học: 2014 – 2015 và năm học: 2015 – 2016, tôi đã nhận thấy có những kết quả:
Tỉ lệ học sinh tự phân tích được biểu đồ theo thời gian ngày càng tăng, các em đã hình thành được các kĩ năng khai thác lược đồ. Vì vậy việc phân tích lược đồ ngày càng có hiệu quả, giúp học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu kiến thức. Qua đó, ngày càng có nhiều em học sinh yêu thích học bộ môn hơn.
Từ đó, tỷ lệ học sinh yếu và học sinh trung bình ngày càng giảm, số học sinh khá, giỏi ngày càng tăng. Kết quả cụ thể qua ba năm như sau:
3.5. Tài liệu kèm theo gồm:
– Sách giáo khoa địa lí 6,7,8,9
– Các biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa trong chương trình dạy học
Hòa Hưng, ngày 10 tháng 03 năm 2017 Người mô tả Danh Hoài Tâm
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Lớp 3
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG NÓI – VIẾT QUAPHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 3, GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN TIẾNG VIỆT.
II.Lí do chọn đề tàiMôn Tiếng Việt cùng các môn học khác có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh bốn kỹ năng: ” nghe – nói – đọc – viết” . Tập làm văn là phân môn thực hành và rèn luyện tổng hợp bốn kỹ năng đó, có tính chất tích hợp các phân môn khác trong môn Tiếng Việt. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản nói hoặc viết. Ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. chính vì vậy hướng dẫn cho học sinh nói đúng, viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ đó phụ thuộc phần lớn vào việc dạy Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng.Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy Tập làm văn là phân môn khó trong các phân môn của môn Tiếng Việt . Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập, do vốn từ còn hạn chế nên học sinh còn ngại nói vì vậy tiết học chưa đạt hiệu quả cao.Xuất phát từ thực tế đó, tôi tiến hành nghiên cứu và thực hiện đề tài: ” Rèn kỹ năng nói – viết qua phân môn Tập làm văn lớp 3, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt” để áp dụng trong giảng dạy.III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tất cả giáo viên và học sinh khối lớp 3.Phạm vi đề tài: Do năng lực của bản thân còn hạn chế , vì vậy dựa trên thực tế về việc dạy – học phân môn Tập làm văn lớp 3, tôi chỉ trình bày ” Một số biện pháp rèn kỹ năng nói – viết qua phân môn Tập làm văn lớp 3, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt” nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh, giúp học sinh học tốt các môn học khác trong chương trình giáo dục bậc Tiểu học.
IV.Mục đích nghiên cứu:Đề tài nhằm trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp trong công tác chuyên môn. Giúp giáo viên từng bước nâng cao hiệu quả trong giảng dạy phân môn Tập làm văn, rèn cho hs kĩ năng nói – viết đoạn văn giàu hình ảnh. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt.V.Điểm mới trong kết quả nghiên cứu:Việc nghiên cứu để xây dựng đề tài sáng kiến kinh nghiệm này đã tiến hành trong thời gian dài, được bản thân rút kinh nghiệm qua quá trình giảng dạy các môn học, đặc biệt là phân môn Tập làm văn. Những kinh nghiệm tích luỹ được trong giảng dạy trong đó có sự tiến bộ của học sinh ở phân môn Tập làm văn, được giáo viên ghi chép vào nhật kí dạy học. Những kết quả giảng dạy được bản thân thường xuyên cập nhật để so sánh, rút kinh nhiệm vào từng thời điểm trong năm học và so sánh kết quả với những năm học trước. Từ đó đề ra những biện pháp để giảng dạy đạt kết quả cao hơn.
PHẦN NỘI DUNGI. Cơ sở lí luận:Trong công cuộc đổi mới hiện nay, sự phát triển Công nghiệp hoá
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Môn Sinh Học 6
Sáng kiến kinh nghiệm môn sinh học
MỤC LỤC Phần 1. MỞ ĐẦU
2
1.Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm……………………………………………………….2 2.Tính mới và ưu điểm nổi bật của sáng kiến……………………………………………….3 3.Đóng góp của sáng kiến………………………………………………………………………….4 Phần 2. NỘI DUNG
5
Chương 1: Mục tiêu hướng tới khi thực hiện việc tổ chức các trò chơi trong dạy học sinh học 6……………………………………………………………………………………5 Chương 2. Những giải pháp đã được áp dụng……………………………………………7 1.Giải pháp 1……………………………………………………………………………………………7 2.Giải pháp 2………………………………………………………………………….. ………………8 3.Giải pháp 3………………………………………………………………………………………….12 4.Giải pháp 4………………………………………………………………………………………….14 5.Giải pháp 5………………………………………………………………………………………….15 6.Giải pháp 6………………………………………………………………………………………….16 Chương 3: Kiểm chứng các giải pháp đã được triển khai của sáng kiến kinh nghiệm…………………………………………………………………………………………………..18 Phần 3: KẾT LUẬN
20
1.Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến của sáng kiến kinh nghiệm..20 2.Hiệu quả thiết thực của sáng kiến kinh nghiệm………………………………………..21 3.Kiến nghị với các cấp quản lý………………………………………………………………..21 Phần 4: PHỤ LỤC
23
-Tư liệu tham khảo………………………………………………………………………………….23
1
Sáng kiến kinh nghiệm môn sinh học
2
Sáng kiến kinh nghiệm môn sinh học dễ ảnh hưởng đến việc học tập của lớp khác. Giáo viên phải chuẩn bị vất vả mất nhiều thời gian, có thể gây cháy giáo án. Với đặc thù của bộ môn Sinh học, là bộ môn khoa học thực nghiệm. Việc xây dựng tổ chức các trò chơi học tập phù hợp với nội dung bài học trong môn Sinh học, cũng không phải là vấn đề quá khó, đặc biệt là đối với chương trình Sinh học 6 thì chỉ cần 5- 7 phút là giáo viên có thể tổ chức được một trò chơi phù hợp để dẫn dắt học sinh tiếp thu kiến thức, củng cố kiến thức đã học hoặc thực hiện trong những buổi ngoại khoá Sinh học. Ngoài ra, còn giáo dục được thái độ của học sinh trong việc học tập Sinh học, gây được hứng thú học tập bộ môn từ đó đem lại thành công cho tiết dạy Sinh học. Học sinh lớp 6 cũng khá tò mò, ham hiểu biết, thích tìm tòi cái mới, muốn khẳng định mình, muốn được tham gia vào các hoạt động một cách độc lập, muốn thử sức mình…thích học mà chơi, chơi mà học nên việc tổ chức các trò chơi trong dạy học Sinh học 6 chắc chắn sẽ gây được hứng thú học tập của học sinh, hình thành và phát triển ở học sinh kỹ năng quan sát, phân tích tổng hợp khái quát hoá kiến thức, khả năng suy luận phán đoán, rèn luyện tác phong nhanh nhẹn của học sinh. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên và để góp phần hoàn thiện và nâng cao các phương pháp dạy học tích cực học tập trong dạy học Sinh học tôi đã mạnh dạn nghiên cứu việc “Tổ chức các trò chơi trong dạy học sinh học 6”. 2. Tính mới và ưu điểm nổi bật của sáng kiến * Sáng kiến với các giải pháp được trình bày có nhiều điểm khác, mới so với các giải pháp cũ trước đây: – Lấy lý luận dạy học hiện đại làm cơ sở. – Dựa vào tâm lý học hiện đại. – Đáp ứng được mục tiêu dạy học. – Tổ chức vào thời điểm phù hợp nhất trong giờ học
3
Sáng kiến kinh nghiệm môn sinh học – Hướng tới mọi đối tượng học sinh. – Được chuẩn bị kỹ càng trước giờ học. – Tạo được hứng thú học tập cho học sinh. * Sáng kiến được áp dụng lần đầu thực tiễn tại đơn vị bắt đầu từ đầu năm học 2015-2016; ưu điểm nổi bật của sáng kiến là: – Hướng dẫn thiết kế, xây dựng và tổ chức được một số trò chơi học tập trong dạy học Sinh học để nâng cao chất lượng hiệu quả giảng dạy bộ môn. – Rèn tư duy nhanh nhạy, kỹ năng quan sát, phân tích tổng hợp, khái quát hoá kiến thức, phát triển kỹ năng phán đoán của học sinh. – Vận dụng và thực hiện được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay: giáo viên thực sự là người tổ chức, hướng dẫn, điều khiển hoạt động của học sinh còn học sinh là đối tượng tham gia trực tiếp, chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động học tập của mình tạo ra một không khí phấn khởi, hào hứng trong học tập Sinh học. 3. Đóng góp của sáng kiến: – Góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Sinh học. Thông qua các trò chơi giúp học sinh nắm được các kiến thức cơ bản của Sinh học tiềm ẩn trong các tình huống trò chơi, giúp học sinh biết vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn sinh động và giáo dục đạo đức học sinh. – Kích thích hứng thú, phát huy tính tích cực, tự giác, tư duy sáng tạo và khả năng hợp tác cao trong học tập cũng như trong cuộc sống của học sinh. – Tạo điều kiện để cá thể hoá hoạt động dạy học. – Giáo dục học sinh tính tự giác, trung thực, sự kiên trì, tính kỷ luật và tinh thần đồng đội trong học tập cũng như trong cuộc sống hàng ngày.
4
Sáng kiến kinh nghiệm môn sinh học
Phần 2. NỘI DUNG Chương 1: Mục tiêu hướng tới khi thực hiện việc tổ chức các trò chơi trong dạy học sinh học 6. Trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích trước tiên và chủ yếu là vui chơi giải trí, thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng mệt mỏi. Nhưng qua trò chơi người chơi được rèn luyện thể lực, trí lực, rèn luyện các giác quan tạo cơ hội giao lưu với mọi người, cùng hợp tác với bạn bè đồng đội trong nhóm trong tổ…… Trò chơi phải hướng vào học sinh, lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn. Giáo viên phải tìm trò chơi có tác dụng phát huy trí sáng tạo, tính tích cực của học sinh, nhằm tạo ra những thế hệ biết tìm tòi sáng tạo nhanh nhẹn trên mọi lĩnh vực. Khắc sâu được kiến thức vừa học. Rèn luyện kỹ năng quan sát, tư duy nhanh nhạy và khả năng phán đoán của học sinh. Giáo dục được đạo đức thái độ của học sinh. Phải chú ý đến tính vừa sức đối với học sinh, không dễ quá cũng không khó quá. Nội dung trò chơi đưa ra phải phù hợp với tâm lí lứa tuổi thiếu niên thì học sinh mới có thể tham gia một cách tích cực và đạt hiệu quả cao được. Các trò chơi đưa ra phải được các em nhiệt tình hưởng ứng. Phải thực hiện được chức năng dạy học thông qua trò chơi để học tập, rèn luyện. Tùy theo nội dung và mục tiêu của từng phần trong bài mà tổ chức hoạt động trò chơi cho phù hợp, có thể giữa tiết học hoặc ở phần củng cố. Không được lạm dụng trò chơi làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy học, lấn át thời gian chính của giờ học. Giáo viên không nên chỉ tập trung vào những học sinh khá giỏi mà còn để ý, khuyến khích động viên những học sinh yếu, học sinh có tác phong chậm hay
5
Sáng kiến kinh nghiệm môn sinh học rụt rè nhút nhát tham gia, tạo điều kiện cho các em rèn luyện tác phong, hoà đồng với tập thể. Trò chơi phải được thiết kế phù hợp với đặc điểm nhận thức và khả năng của học sinh. Tuỳ theo độ tuổi, theo lớp mà thiết kế tổ chức các trò chơi phù hợp. Giáo viên phải nắm được phương pháp tổ chức trò chơi cho học sinh trong dạy học sinh học 6 gồm: Giai đoạn chuẩn bị: – Xác định mục tiêu dạy học: Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất có tính chất quyết định. Bởi trò chơi được thiết kế phải đạt được các mục tiêu dạy học. – Xây dựng, lựa chọn trò chơi: phù hợp đáp ứng các mục tiêu dạy học đó đề ra. – Giáo viên xác định: số nhóm chơi, số người trong nhóm và các đồ dùng, dụng cụ cần thiết như: mô hình, tranh, phấn viết bảng, mảnh bìa, hệ thống câu hỏi… Giai đoạn thực hiện: Trình bày trò chơi: – Chọn lối giải thích rõ ràng: ngắn gọn, dễ hiểu, dí dỏm. Giải thích sao cho người chậm hiểu nhất cũng hiểu được, dẫn dắt người chơi từng bước để tạo sự hấp dẫn. – Nói và cử động làm mẫu dễ hiểu, nếu cần có thể chơi thử để giảng lại luật lệ trò chơi. – Giáo viên phải quán triệt về sự nghiêm túc với học sinh khi tham gia trò chơi
.
Điều khiển trò chơi: – Đề cao tinh thần tự giác, thẳng thắn trung thực, dành cho người phát huy sáng kiến trong phạm vi luật lệ trò chơi. – Phải đổi người chơi sao cho ai cũng có dịp thắng cuộc. 6
Sáng kiến kinh nghiệm môn sinh học – Khi bắt lỗi phải khách quan, chính xác, dứt khoát, công bằng. – Phải biết dừng trò chơi đúng lúc, khi mọi người có dấu hiệu mệt mỏi, chán nản hay khi trò chơi đó có kết quả thắng thua rõ ràng và đặc biệt phải đảm bảo thời gian như dự kiến. Giai đoạn kết thúc: Phạt những người thua bằng những hình phạt nhẹ nhàng, thoải mái. Đánh giá ưu khuyết điểm của trò chơi? Về luật lệ, cách chơi và tính hấp dẫn, sự giáo dục của trò chơi đến đâu? Chương 2: Những giải pháp đã được áp dụng. 1. Giải pháp thứ nhất: Tìm hiểu quy trình tổ chức trò chơi học tập trong dạy học sinh học: Bước 1:. Ổn định: Để tập trung sự chú ý của cả lớp (sau khi học một nội dung nào đó hoặc học song kiến thức trọng tâm của bài ). Bước 2: Giới thiệu trò chơi: Có thể làm cách nào đó để học sinh thấy được sự hấp dẫn và hứng thú của trò chơi tuy nhiên giáo viên cần trình bày ngắn gọn, xúc tích. Bước 3: Hướng dẫn phổ biến cách chơi, luật chơi: Tuỳ theo mỗi trò chơi mà giáo viên linh động hướng dẫn. Có những trò chơi phức tạp cần hướng dẫn đầy đủ trước rồi mới chơi, nhưng cũng có những trò chơi đơn giản thì có thể chơi ngay, vừa chơi vừa giải thích, làm sao cho dễ hiểu, dễ nắm mới thu hút được học sinh. Bước 4: Chơi thử (chơi nháp): Rất quan trọng nhưng cần lưu ý : – Nếu thử nhiều: khi chơi thật sẽ nhàm chán. – Nếu không chơi thử hoặc chơi thử quá ít thì người chơi chưa nắm được cách chơi sẽ gây khó khăn cho người điều khiển khi hướng dẫn chơi.
7
Sáng kiến kinh nghiệm môn sinh học Bước 5: Chơi: – Học sinh tham gia trò chơi với sự giá sát, điều khiển của giáo viên hoặc học sinh do giáo viên hoặc lớp bầu ra. – Khi chơi người giáo viên phải quan sát học sinh chơi để biết được thái độ, cử chỉ, phong cách … từ đó giáo dục điều chỉnh phong cách cho phù hợp. – Trong quá trình chơi, giáo viên có thể chuyển hướng khác với dự kiến ban đầu một ít, giáo viên nên linh động khéo léo dẫn đắt. Đừng quá nguyên tắc, cứng nhắc quá làm mất vui, mất không khí lớp học. – Người giáo viên đóng vai trò là người quản trò phải công bằng xử lý tình huống một cách khách quan, không thiên vị, không quá dễ dãi. – Tác phong người quản trò phải chuẩn mực, ngôn ngữ phải sư phạm không thô thiển, phong cách vui tươi, dí dỏm, duyên dáng. – Trò chơi hình phạt (đảm bảo nhẹ nhàng): hãy quan niệm hình phạt là một trò chơi nhỏ, đừng nên bắt ép quá đáng mà nên khuyến khích động viên người bị phạt tham gia. Bước 6: Nhận xét, đánh giá: – Cần phải biết lúc nào ngừng trò chơi (do kinh nghiệm quan sát, kinh nghiệm chơi). Đảm bảo thời gian của tiết học hoặc buổi ngoại khoá, đảm bảo sức khỏe cho người chơi, tạo sự luyến tiếc cho lần chơi sau và mang lại hiệu quả giáo dục cao. – Tiến hành đánh giá nhận xét về kết quả của trò chơi học tập và rút kinh nghiệm những sai phạm, có thể tiến hành khen, phạt nhẹ nhàng (mang tính chất khích lệ học sinh). 2. Giải pháp thứ hai: Tổ chức trò chơi giải ô chữ: Trò chơi này tổ chức vào cuối tiết học, tiết ôn tập để củng cố hoặc tái hiện kiến thức. Trong các tiết ngoại khoá có thể dùng trò chơi này vào một phần chơi cũng rất thú vị và cho hiệu quả cao. – Mục đích :
8
9
10
11
V
Â
T
S
I N H C
H
Â
12
T
Sáng kiến kinh nghiệm môn sinh học đội gắn chú thích trên mô hình, một đội gắn chú thích trên tranh hoặc cùng gắn vào hai bên của tranh nếu không có mô hình. + Thời gian chơi: 2 – 3 phút. – Tiến hành: – Khi giáo viên hô ” bắt đầu”, lần lượt học sinh số 1 của mỗi đội lên gắn chú thích cho một cơ quan, sau đó về chỗ đưa lại các mảnh bìa để học sinh số 2 lên gắn tiếp… cứ như vậy cho đến hết thời gian quy định. Nhóm nào hoàn thành nhanh, chính xác thì nhóm đó thắng và được thưởng bằng một tràng pháo tay… – Vận dụng: Ví dụ: Bài 9 “Các loại rễ, các miền của rễ”. + GV chuẩn bị tranh H9.3 (tranh câm) và các mảnh bìa nhỏ ghi chú thích tên các miền của rễ cùng chức năng có dán băng dính 2 mặt ở đằng sau (dành cho 2 đội). Các miền đó là: Miền trưởng thành, miền hút có các lông hút, miền sinh trưởng, miền chóp rễ. + Yêu cầu học sinh tự nghiên cứu thông tin trong H9.3 (trang 30 SGK) trong 1 phút để xác định tên và vị trí các miền của rễ. + Giáo viên chia lớp thành 2 đội chơi theo 2 dãy bàn của lớp học + Hai đội chơi mỗi đội cử 3 học sinh đại diện cho đội mình xếp thành 2 hàng đứng lên phía trước lớp. Giáo viên đặt 2 bộ chữ (có đính băng dính 2 mặt) trên bàn cho mỗi đội một bộ để sử dụng khi chơi. + Giáo viên yêu cầu mỗi đội gắn chú thích trên một bên của tranh, (đã có tên trên các mảnh giấy nhỏ có gắn băng dính 2 mặt ở đằng sau) trong khoảng thời gian 3 phút. + Khi giáo viên hô ” bắt đầu”, lần lượt học sinh số 1 của mỗi đội lên gắn chú thích cho một miền, sau đó về chỗ đưa lại các mảnh bìa để học sinh số 2 lên gắn tiếp… cứ như vậy cho đến hết thời gian quy định. Nhóm nào hoàn thành nhanh, chính xác thì nhóm đó thắng và được thưởng bằng một tràng pháo tay… 4. Giải pháp thứ tư: Tổ chức trò chơi: Chức năng.
13
Sáng kiến kinh nghiệm môn sinh học Có thể dùng để dạy một phần kiến thức trong bài hoặc để củng cố cuối bài. – Mục đích của trò chơi: Rèn luyện phản xạ, tạo không khí để hoạt động và ôn lại chức năng của các cơ quan trên cơ thể thực vật. – Chuẩn bị: Giáo viên dự kiến các cơ quan của thực vật: Cơ quan sinh dưỡng, cơ quan sinh sản, rễ, thân, lá… – Tiến hành: + Nói và nêu đúng chức năng của các cơ quan. + Giáo viên cho tập thể lớp chơi và nêu đúng các cơ quan: – Cách chơi: Giáo viên hoặc học sinh được cử hô chức năng của cơ quan, người chơi nêu đúng tên cơ quan. Phạm luật: + Nêu tên cơ quan sai với chức năng. + Làm chậm so với quy định, làm không dứt khoát.
* Lưu ý: Tốc độ nói nhanh, chậm tùy thuộc vào đối tượng chơi. Ví dụ: Áp dụng củng cố bài 4 “Có phải tất cả thực vật đều có hoa” để khắc sâu kiến thức về thực vật có hoa và thực vật không có hoa. – Giáo viên cho học sinh nghiên cứu kỹ H4.1 và bảng thông tin trang 13 SGK để xác định tên các cơ quan và chức năng của các cơ quan đó ở thực vật. – Giáo viên gọi một học sinh bất kì lên bục giảng sát với vị trí treo tranh. Giáo viên hô “nuôi dưỡng” Học sinh phải nêu được tên rễ, thân, lá và chỉ được vị trí các cơ quan đó trên tranh vẽ. – Tương tự: Giáo viên hô “sinh sản duy trì và phát triển nòi giống”. Học sinh phải nêu được tên hoa, quả, hạt…Phần thưởng cho học sinh chỉ đúng và xác định đúng chức năng là một tràng pháo tay hoặc cũng có thể là điểm thưởng nếu
14
Sáng kiến kinh nghiệm môn sinh học hoặc sinh đó hoàn thành tốt nhiều câu hỏi trong một lần tham gia hoặc một tiết học . 5. Giải pháp thứ năm: Tổ chức trò chơi: Tiếp sức. Dùng để dạy một phần kiến thức mới hoặc củng cố cuối bài – Mục đích trò chơi: + Củng cố khắc sâu kiến thức của bài học, biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo kiến thức đã học vào trong trò chơi. + Rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, phối hợp nhịp nhàng giữa các thành viên trong nhóm. + Giáo dục ý thức tích cực và tinh thần hợp tác trong các hoạt động tập thể. – Chuẩn bị: + Chia lớp thành 2 hoặc 3 nhóm, cũng có thể tổ chức cho 2 hoặc 3 cá nhân. + Chia phần bảng và phấn viết cho mỗi nhóm. + Quy định thời gian chơi: 2 hoặc 3 phút. – Tiến hành: + Khi trọng tài hô bắt đầu thì 2 nhóm hoặc 2 cá nhân làm bài: lần lượt học sinh số 1 của mỗi nhóm lên làm, sau đó về chỗ giao phấn cho bạn thứ hai lên làm tiếp… cứ như vậy cho đến hết thời gian quy định. + Cá nhân hoặc nhóm nào hoàn thành với số lượng nhiều hơn trong khoảng thời gian đã cho, và đúng yêu cầu thì sẽ là đội thắng và được thưởng (bằng điểm hoặc bằng tràng pháo tay). + Giáo viên nhận xét, xác định đội thắng, đội thua để cho điểm hoặc thưởng bằng các hình thức khác. + Với các bài về cấu tạo của các cơ quan. Giáo viên hoàn toàn có thể áp dụng trò chơi này. Ví dụ – Bài 13: “Cấu tạo ngoài của thân” – Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm, mỗi nhóm là 5 dãy bàn, dãy bàn bên trái là nhóm 1, dãy bàn bên phải là nhóm 2 và chia bảng thành 2 phần.
15
16
Sáng kiến kinh nghiệm môn sinh học + 1 chậu cây cảnh nhỏ trên có cài các câu hỏi hoặc bài tập để trên bục giảng + Kê riêng 2 bàn dành cho học sinh ngồi chuẩn bị câu trả lời sau khi đã bốc câu hỏi. – Tiến hành: + GV phổ biến cách học thông qua trò chơi này: học sinh lựa chọn câu hỏi của mình đã được gài trên các cành cây, học sinh có thể trả lời ngay hoặc về chỗ chuẩn bị trong 2 phút (không được sử dụng tài liệu). Học sinh cũng có thể đổi câu hỏi nếu câu đó không trả lời được (chỉ 1 lần). Nhưng đổi câu hỏi phải bị trừ đi 1 điểm trong kết quả cuối cùng. + Sau khi chọn song câu hỏi học sinh đọc to câu hỏi cho các bạn phía dưới lớp biết và có thời gian 2 phút để chuẩn bị (có thể trả lời ngay). + Sau 2 phút giáo viên gọi học sinh đã bốc câu hỏi trả lời và cho 1 học sinh chuẩn bị bằng việc bốc một câu hỏi khác. + Học sinh trả lời song giáo viên gọi học sinh phía dưới nhận xét, giáo viên tổng hợp và cho điểm. + Với học sinh trả lời tốt cho điểm tương ứng với mức độ đó đồng thời tán thưởng bằng một tràng pháo tay. Đối với các học sinh trả lời chưa tốt hoặc chưa trả lời được cần phê bình nhưng mang tính chất động viên để các em tiếp tục phấn đấu, không bị chán nản. – Vận dụng: có thể áp dụng trò chơi này vào các tiết bài tập hoặc phần cuối của tiết ôn tập học kì môn sinh học 6. Ví dụ: Tiết 29 – Bài tập – Yêu cầu học sinh về nhà xem lại và ôn tập tất cả các câu hỏi, bài tập cuối bài trong sách giáo khoa và các câu hỏi, bài tập trong sách bài tập Sinh học 6 từ bài mở đầu cho tới tiết 28. – GV chuẩn bị hệ thống câu hỏi gồm: Câu 1: Giữa vật sống và vật không sống có những điểm gì khác nhau?
17
Sáng kiến kinh nghiệm môn sinh học Câu 2: Các đặc điểm chung của cơ thể sống là gì? Câu 3: Nhiệm vụ của thực vật học là gì? Câu 4: Đặc điểm chung của thực vật là gì? Câu 5: Dựa vào đặc điểm nào để nhận biết thực vật có hoa và không có hoa? Câu 6: Tế bào thực vật gồm những thành phần chủ yếu nào? Câu 7: Quá trình phân chia của tế bào thực vật diễn ra như thế nào? Câu 8: Rễ gồm mấy miền, chức năng của mỗi miền? Câu 9: Nêu vai trò của nước và muối khoáng đối với cây? Câu 10: Kể tên các loại rễ biến dạng và chức năng của chúng? Câu 11: Thân cây gồm những bộ phận nào? Câu 12: Thân cây dài ra và to ra do đâu? Câu 13: Mạch gỗ và mạch rây có chức năng gì? Câu 14: Thế nào là quang hợp? Sơ đồ tóm tắt quá trình quang hợp? Câu 15: Kể tên các loại lá biến dạng cùng chức năng của chúng? – Tiến hành: + GV viết 15 câu hỏi trên vào 15 mảnh giấy nhỏ cắt hình bông hoa và gấp lại gài lên các cành của cây cảnh được đặt trên bục giảng. + GV có thể gọi học sinh xung phong hoặc chỉ định bất kì học sinh nào (mỗi đợt gọi 2 học sinh, 1 học sinh trả lời và 1 học sinh chuẩn bị). + Thưởng điểm với các học sinh trả lời tốt, phê bình các em làm chưa tốt. Lưu ý: Gv chú ý tạo cho lớp học không khí sôi nổi để học sinh tích cực tham gia, tránh tình trạng căng thẳng hoặc gây cho học sinh sự sợ sệt. Chương 3: Kiểm chứng các giải pháp đã triển khai của sáng kiến Tiến hành dạy học thực nghiệm theo đề tài tại trường THCS Nhân Thắng đối với các lớp học sinh khối 6 tôi thu được kết quả sau: – Học sinh tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, thoải mái. – Nâng cao năng lực tư duy nhanh nhạy, tác phong nhanh nhẹn. 18
Sáng kiến kinh nghiệm môn sinh học – Học sinh tỏ ra hào hứng, chờ đợi đến tiết học tiếp theo và yêu thích bộ môn hơn. – Tạo thái độ hợp tác trong nhóm, chuẩn bị cho sự phân công lao động hợp tác trong công việc trong tương lai. – Bồi dưỡng và giáo dục tinh thần đoàn kết hợp tác giữa các em học sinh trong học tập và lao động. * Kết quả đạt được:
Lớp
Tổng
6 18,75 9 28,1 15 46,9 8 23,5 10 29,4 12 35,3 14 21,2 19 28,8 27 40,9
Qua kết quả trên đã cho thấy rõ việc đưa các trò chơi vào dạy học đã có hiệu quả. Chất lượng điểm bài kiểm tra của học sinh đã có sự tiến bộ so với kết quả khảo sát đầu năm. Hơn thế, học sinh đã tự giác, tích cực, chủ động, bước đầu đã tự tìm tòi và phát hiện được kiến thức. Đồng thời học sinh đã có lòng yêu thích, hứng thú đối với môn sinh. Một số học sinh đã say mê với môn học, đầu tư nhiều thời gian và trí tuệ cho môn học hơn, điểm số cũng theo đó mà cao hơn. Qua điều tra sơ bộ cho thấy chất lượng học tập của học sinh có tiến bộ hơn, tuy nhiên con số dưới trung bình vẫn còn chiếm với tỉ lệ khá cao.
Phần 3: KẾT LUẬN
19
Sáng kiến kinh nghiệm môn sinh học 1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến của sáng kiến kinh nghiệm. Để có được kết quả dạy và học tốt nhất đòi hỏi người giáo viên phải có tâm huyết với nghề, bên cạnh đó còn cần sự hỗ trợ của chuyên môn nhà trường, gia đình, các đoàn thể…., để giáo dục học sinh phát triển toàn diện cả về đức, trí, thể, mĩ … chuẩn bị hành trang vững chắc cho các em bước vào cuộc sống. Là một giáo viên tôi luôn mong ước mang đến cho học sinh những giờ học thật sự hấp dẫn, tạo mọi điều kiện cho các em tự khẳng định mình, lĩmh hội kiến thức, học tập tốt, nâng cao chất lượng học và hiệu quả của tiết học. Bằng những kinh nghiệm có được qua những giờ lên lớp, trao đổi với các bạn đồng nghiệp, dự giờ thăm lớp, thao giảng liên trường hay hội thảo chuyên đề. Qua quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm tôi nhận thấy để dạy tốt, học tốt chương trình môn sinh học lớp 6: – Để một giờ dạy sinh học đạt kết quả tốt giáo viên phải chịu khó tìm tòi nghiên cứu, thiết kế giáo án mà trong đó sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực. Tổ chức trò chơi trong giờ dạy sinh học cũng là một trong những cách thức để nâng cao hiệu quả dạy học. – Cần vận dụng các trò chơi một cách sáng tạo, hợp lý về nội dung và có tác dụng giáo dục học sinh. – Không nên quá lạm dụng trò chơi học tập, biến cả tiết học thành tiết chơi hoặc tổ chức quá nhiều trò chơi trong tiết học dẫn đến học sinh mệt mỏi vì chơi nhiều. Cần phải tránh tổ chức trò chơi lặp lại trong cùng một tiết học vì sẽ làm giảm tính hấp dẫn của trò chơi, khó thu hút được sự chú ý của học sinh. – Kinh nghiệm của tôi là chỉ nên sử dụng trò chơi học tập vào dạy một phần nội dung trong bài hoặc sử dụng vào cuối tiết học thay cho việc củng cố kiến thức kỹ năng đã học. Trò chơi học tập tạo sự hưng phấn về môn học vừa để kết thúc tiết học vừa tạo sự thư giãn cho học sinh trước khi bước vào tiết học tiếp theo.
20
Bạn đang đọc nội dung bài viết Sáng Kiến Kinh Nghiệm trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!