Cập nhật nội dung chi tiết về Sáng Kiến Kinh Nghiệm Vấn Đề Giáo Dục Đạo Đức Cho Học Sinh Lớp 3 Qua Môn Đạo Đức Ở Tiểu Học mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
TRƯỜNG TIỂU HỌC CÁT LINH Sáng kiến kinh nghiệm Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 qua môn Đạo đức ở Tiểu học. Giáo viên: Vũ Thị Hồng Giáo viên trường tiểu học Cát Linh NĂM HỌC 2009 – 2010 Phần I: Những vấn đề chung Lí do chọn đề tài Giáo dục đạo đức là một bộ phận rất quan trong của quá trình sư phạm, đặc biệt là ở tiểu học. Nó nhằm hình thành những cơ sở ban đầu về mặt đạo đức cho học sinh tiểu học, giúp các em ứng xử đúng đắn qua các mối quan hệ đạo đức hàng ngày. Có thể nói, nhân cách của học sinh tiểu học thể hiện trước hết qua bộ mặt đạo đức. Điều này thể hiện qua thái độ cư xử đối với ông bà, cha mẹ, anh chị em ruột trong gia đình, với thày cô giáo, bạn bè qua thái độ với học tập, rèn luyện hàng ngày… Đó là cơ sở quan trọng của việc hình thành những nguyên tắc, chuẩn mực đoạ đức cao hơn ở trung học cơ sở. Ở tiểu học, cụ thể là ở lớp 3, quá trình giáo dục đạo đức nhằm giúp học sinh: – Về nhận thức: Học sinh có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp 3 trong các mối quan hệ của các em với những người thân trong gia đình; với bạn bè, và công việc của lớp; của trường; với Bác Hồ và những người có công với đất nước, với dân tộc; với hàng xóm láng giềng; với thiếu nhi và khách quốc tế; với cây trồng, vật nuôi và nguồn nước; với lời nói, việc làm của bản thân. – Về thái độ: Học sinh bước đầu hình thành thái độ trách nhiệm đối với lời nói, việc làm của bản thân, tự tin vào khả năng của bản thân, yêu thương ông bà, cha mẹ, anh chị em và bạn bè, biết ơn Bác Hồ và các thương binh liệt sĩ; quan tâm, tôn trọng với mọi người, đoàn kết hữu nghị với thiếu nhi quốc tế; có ý thức bảo vệ nguồn nước và cây trồng, vật nuôi. Để thực hiện 3 mục tiêu trên và nhất là để góp phần giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 qua môn đạo đức 3 ở tiểu học, trong năm đầu thực hiện chương trình và sách giáo khoa mới, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 qua môn Đạo đức ở Tiểu học” Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài nhằm: 1/ Tìm hiểu việc giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 qua môn Đạo đức 3 ở tiểu học. 2/ Đề xuất một số biện pháp sư phạm cần thiết để giáo dục đạo đức cho học sinh. Nhiệm vụ nghiên cứu 1/ Tìm hiểu vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đạo đức ở tiểu học. 2/ Tìm hiểu về các vấn đề lí luận giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3. 3/ Tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 qua môn Đạo đức 3 ở trường tiểu học Cát Linh. 4/ Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng. 5/ Đề xuất một số giải pháp để tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 1/ Khách thể nghiên cứu: Việc rèn luyện đạo đức của học sinh lớp 3 – trường tiểu học Cát Linh. 2/ Đối tượng nghiên cứu: Việc giáo dục đạo đức cho học sinh lớp qua môn đạo đức 3 ở tiểu học. Các phương pháp nghiên cứu Giáo dục học tiểu học 2 (GS – TS Đặng Vũ Hoạt và TS Nguyễn Hữu Hợp) Chuyên đề giáo dục tiểu học. Bộ sách đạo đức 3 – Bộ Giáo dục đào tạo. Phương pháp điều tra: Trao đổi với giáo viên dạy môn đạo đức lớp 3 về những khó khăn, thuận lợi trong qua trình giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 thông qua môn Đạo đức 3. Phương pháp thực nghiệm: Kiểm tra tính khả thi và tác dụng của việc giáo dục đạo đức cho học sinh qua bài học Đạo đức. Phần II: Nội dung và kết quả nghiên cứu Chương I Cơ sở lí luận của đề tài Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đạo đức ở tiểu học Thế nào là đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học? Đổi mới phương pháp dạy học có thể hiểu là tìm con đường ngắn nhất để đạt được chất lượng và hiệu quả dạy học cao. Con đường này không co sẵn, không bằng phẳng, nó khúc khuỷu, gập ghềnh; đan xen giữa cái chung và cai riêng, cái cũ và cái mới. Đổi mới phương pháp bao hàm cả hai mặt: Phải đưa vào các phương pháp dạy học mới đồng thời tích cực phát huy những ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống. Đổi mới phương pháp là sự phối hợp đồng bộ của nhiều khâu: Bồi dưỡng giáo viên, biên soạn sách giáo khoa, thiết bị dạy học, đánh giá học sinh và quản lí chỉ đạo. Tại sao phải đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học? Đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục tiểu học. Phát huy tính năng động, sáng tạo trong phương pháp dạy học. Điều kiện cơ sở vật chất, môi trường học tập không giống nhau. Cập nhật thông tin, góp phần tích cực để đạt được mục tiêu dạy học. Việc đổi mới phương pháp dạy học được tiến hành như thế nào? Quá trình quản lí chỉ đạo chuyên môn cho thấy rằng thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học cần tập trung vào những vấn đề sau: Áp dụng hiệu quả các phương pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học mới: Dạy học đảm bảo sự thống nhất hợp lí hai yêu cầu đồng loạt và cá thể. Dạy học hợp tác nhóm. Dạy học tự phát hiện. Sử dụng phương tiện thiết bị dạy học hiện đại trong đổi mới phương pháp dạy học Thực hiện tốt quy trình dạy học hoà nhập. Xây dựng môi trường học tập thuận lợi cho học sinh. Đầu tư cơ sở vật chất thiết bị theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, số lượng học sinh trên mỗi lớp phải hợp lí (35 em). Xây dựng phòng học và tổ chức không gian lớp học mang tính thẩm mĩ, sư phạm. Môi trường học tập thuận lợi sẽ tác động tích cực đến sự thành công của đổi mới phương pháp dạy học. Sử dụng hợp lí, sáng tạo đồ dùng dạy học đã có và tự làm Đổi mới phương pháp soạn bài. Đổi mới công tác quản lí chỉ đạo. Quan điểm chung về đổi mới phương pháp dạy học môn đạođức ở lớp 3: Dạy học môn đạo đức cần đi từ quyền trẻ em, từ lời ích của trẻ em đến trách nhiệm, bổn phận của học sinh. Cách tiếp cận đó sẽ giúp cho việc dạy học đạo đức trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn, giúp cho học sinh lĩnh hội và thực hiện hành vi tự giác hơn, tránh được tính chật nặng nề, áp đặt trước đây. Dạy học môn đạo đức sẽ chỉ đạt hiệu quả khi học sinh hứng thú và tích cực, chủ động tham gia vào quá trình dạy học. Dạy học môn đạo đức phải là quá trình giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động, phát huy vốn kinh nghiệm và thói quen đạo đức, tự khám phá và chiễm lĩnh tri thức mới, khái niệm mới. Dạy học môn đạo đức phải gắn bó chặt chẽ với cuộc sống thực của học sinh. Các truyện kể, tình huống, tấm gương, tranh ảnh,…sử dụng để dạy học đạo đức phải lấy chất liệu từ cuộc sống thực của học sinh. Điều đó sẽ giúp cho bài học đạo đức thêm phong phú, gần gũi, sống động đối với các em. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học môn đạo đức đều có mặt mạnh và hạn chế riêng, phù hợp với từng loại bài riêng, từng khâu riêng của tiết dạy. Vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên cần căn cứ vào nội dung, tính chất từng bài, căn cứ vào trình độ học sinh và năng lực, sở trường của bản thân, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của trường mình, lớp mình mà lựa chọn, sử dụng kết hợp các phương pháp và hình thức dạy học hợp lí, đúng mức để giáo dục đạo đức cho học sinh qua các bài đạo đức. Các vấn đề lí luận về giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 Chương trình môn đạo đức ở lớp 3 bao gồm 14 bài phản ánh các chuẩn mực hành vi đạo đức cần thiết, phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các em với bản thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng và môi trường tự nhiên. Ở mỗi bài đạo đức đều phải thực hiện các nhiệm vụ và nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh như: Giáo dục ý thức đạo đức Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức. Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức. Giáo dục ý thức đạo đức Giáo dục ý thức đạo đức nhằm cung cấp cho học sinh những tri thức đạo đức cơ bản, sơ đẳng về chuẩn mực hành vi, hình thành niềm tin đạo đức cho học sinh. Các chuẩn mực hành vi này được xây dựng từ các phẩm chất đạo đức, chúng phản ánh các mối quan hệ hàng ngày của các em. Đó là: Quan hệ cá nhân với xã hội: Kính yêu Bác Hồ, biết ơn thương binh liệt sĩ, yêu quê hương, làng xóm, phố phường của mình… yêu mến và tự hào về trường, lớp, giữ gìn môi trường sống xung quanh… Quan hệ cá nhân với công việc, lao động: Biết chăm chỉ, kiên trì, vượt khó trong học tập, tích cực tham gia các công việc lao động khác nhau. Quan hệ cá nhân với những người xung quanh: Hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ, quan tâm giúp đỡ anh chị em trong gia đình, tôn trọng, giúp đỡ, đoàn kết với bạn bè, với thiếu nhi quốc tế, tôn trọng và giúp đỡ hàng xóm láng giềng… theo khả năng của mình. Quan hệ cá nhân với tài sản xã hội, tài sản của người khác: Tôn trọng và bảo vệ tài sản của nhà trường, của nhà nước và của người khác… Quan hệ cá nhân với thiên nhiên: Bảo vệ môi trường tự nhiên xung quanh nơi học, nơi chơi, bảo vệ cây trồng, cây xanh có ích, động vật nuôi, động vật có ích, diệt trừ động vật có hại, bảo vệ nguồn nước… Quan hệ cá nhân với bản thân: khiêm … án thành. + Thẻ màu trắng: lưỡng lự. ? Vì sao con tán thành (không tán thành) ý kiến đó? ? Con đã được ông bà, cha mẹ thương yêu,chăm sóc như thế nào? – GV nhận xét, kết luận 2/ Hoạt động 2: Xử lí tình huống và đóng vai. – GV mời một nhóm đóng vai tình huống mở sau: “Ông của Huy có thói quen đọc báo hàng ngày. Nhưng mấy hôm nay ông bị đau mắt nên không đọc báo được.” GV nêu yêu cầu: ? Nếu em là bạn Huy, em sẽ làm gì? vì sao? – Mời các nhóm lên xử lí. – GV hỏi: Ai đặt tên cho tiểu phẩm? ? Theo con nhóm nào thể hiện thương ông nhất? ? Kể tên những việc nhóm 2 làm thể hiện quan tâm ông? – Hỏi HS đóng vai ông: con nghĩ gì khi người cháu của nhóm 2 quan tâm? – GV chốt ý. 3/ Hoạt động 3: Liên hệ bản thân. – Yêu cầu HS tự liên hệ bản thân theo các gợi ý: ? Hàng ngày con thường làm gì để quan tâm, chăm sóc đối với ông bà, cha mẹ, anh chị em? ? kể lại 1 lần khi ông bà, cha mẹ, anh chị em ốm đau (hoặc gặp khó khăn, có chuyện buồn) em đã làm gì để quan tâm giúp đỡ họ? ? Bạn đã quan tâm, chăm sóc đến người thân trong gia đình chưa? – GV tuyên dương những học sinh đã biết quan tâm, chăm sóc những người thân. Khuyên nhủ những học sinh chưa biết quan tâm, chăm sóc những người than trong gia đình. – GV gợi ý để học sinh tự điều khiển chương trình, tự giới thiệu tiết mục. 5/ Củng cố – Dặn dò: – GV củng cố bài, nhận xét giờ học, tuyên dương 1 số học sinh tích cực học tập. – Dặn học sinh: + Thực hiện việc quan tâm, chăm sóc những người thân trong gia đình. + Chuẩn bị bài học sau: “Chia sẻ vui buồn với bạn” – HS hát tập thể – 1-2 HS trả lời – 2 HS: Bài hát nói lên tình cảm yêu thương giữa những người thân trong gia đình. – Một số học sinh lần lượt kể. – HS trao đổi với nhau trong nhóm theo yêu cầu. – 1 số HS trình bày trước lớp. – HS lớp suy nghĩ trả lời. + Các bạn ấy sẽ được nhận làm con nuôi, được xã hội giúp đỡ, quan tâm… HS lắng nghe. 1 HS kể lại hoặc đọc lại. + Chị em Ly đã hái những bông hoa dại ven đường xếp thành một bó và đem tặng mẹ nhân ngày sinh nhật. + Khi nhận hoa, mẹ vui mừng ôm hai chị em Ly vào lòng và nói: “Đây là bó hoa đẹp nhất mà mẹ được tặng đấy” + Vì mẹ Ly thấy 2 con mình đã nhớ đến sinh nhật của mẹ mà chính bản thân mẹ quên mất sinh nhật mình, chị em Ly đã biết quan tâm, chăm sóc đến mẹ khiến mẹ rất vui và hạnh phúc. – Cả lớp trao đổi bổ sung. – 2-3 HS trả lời. + Con cháu có bổn phận phải quan tâm, chăm sóc ông bà,cha mẹ và những người thân trong gia đình. + Sự quan tâm, chăm sóc của các em sẽ mạng lại niềm vui, hạnh phúc cho ông bà, cha mẹ và mọi người trong gia đình. – 1 HS đọc kết luận cuối bài, cả lớp đọc đồng thanh. – HS các nhóm mở vở bài tập. – 1 HS đọc yêu cầu của bài tập 3. – Đại diện các nhóm trình bày (Mỗi nhóm trình bày ý kiến nhận xét về một tình huống). + Việc làm của các bạn thể hiện tình thương yêu chăm sóc và sự quan tâm ông bà, cha mẹ: Hương (tình huống a), Phong (tình huống c), Hồng (tình huống d). + Việc làm của các bạn chưa quan tâm đến bà, em nhỏ: Sâm (tình huống b), Linh (tình huống d). – HS liên hệ để trả lời. – HS kể – 1 số HS trả lời. – HS đọc từng ý kiến sau mỗi lần GV đưa ra. – HS bày tỏ thái độ bằng cách giơ các tấm thẻ màu. – HS giải thích lí do tán thành, không tán thành từng ý kiến. – HS khác nhận xét bổ sung. – HS kể. – 1 nhóm học dinh đóng vai tình huống mở, lớp theo dõi. – các nhóm lên đóng vai. Ví dụ: + Nhóm 1: Đi chơi, mặc kệ ông và không quan tâm đến ông. + Nhóm 2: Lấy thuốc cho ông uống, đọc báo cho ông nghe. – HS: Ông và cháu, cháu thương ông nhất… – Nhóm 2 – Giúp ông uống thuốc, đọc báo cho ông nghe. – HS: con thấy rất vui. – Mỗi tổ cử 2-3 đại diện lên liên hệ, HS lớp lắng nghe. – HS nhận xét. – HS tự giới thiệu và biểu diễn các tiết mục đan xen. Như vậy những nhiệm vụ và nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua bài học này đựơc giải quyết như sau: 1/ Giáo dục ý thức đạo đức: Yêu cầu của chuẩn mực: Giúp học sinh hiểu: Con cháu trong gia đình cần phải quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em. Quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em làm cho gia đình ấm hơn hạnh phúc hơn. Ý nghĩa , tác dụng, tác hại. Cần quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em vì: + Ông bà sinh ra cha mẹ, cha mẹ sinh ra ta, là những người có công sinh thành, nuôi dưỡng ta khôn lớn, dành cho ta những gì đẹp nhất. + Làm cho ông bà, cha mẹ, anh chị em: Phấn khởi, mau khỏi bệnh, chia sẻ bớt công việc với mọi người trong gia đình, giúp gia đình đầm ấm, bản thân học sinh được ông bà, cha mẹ, anh chị em yêu thương, quý mến, khen ngợi. Tác hại: nếu không quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em làm cho ông bà, cha mẹ, anh chị em buồn phiền, sức khoẻ giảm sút, lâu lành bệnh, không khí gia đình nặng nề, bản thân học sinh bị mọi người xung quanh chê cười. Để quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em em cần làm gì? làm như thế nào? Khi ông bà, cha mẹ già yếu: Bưng cơm, mời nước, đọc sách báo. Khi ông bà, cha mẹ, anh chị em ốm đau: mua thuốc, nấu cơm, cháo. mua đồ ăn, mời bác sĩ khám bệnh… Khi ông bà cha mẹ mệt nhọc: Xách đồ hộ, lấy nước uống… Khi có miếng ngon, vật quý: mời ông bà, cha mẹ, anh chị em ăn trứơc. Khi anh chị em bận việc: Không nghịch đồ, làm ồn… Hình thành ở học sinh những thái độ tình cảm: Đối với ông bà, cha mẹ: Kính yêu, biết ơn; anh chị em: kính yêu, nhường nhịn. Thực hiện việc quan tâm, chăm sóc một cách tự nguyện, tận tình, chu đáo. 3/ Giáo dục hành vi thói quen quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em: Hình thành ở học sinh những hành vi thể hiện sự quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em, trong cuộc sống hang ngày khi ông bà, cha mẹ, anh chị em ốm đau, mệt nhọc… Để học sinh thể hiện sự quan tâm chăm sóc ông bà, cha mẹ. anh chị em, tôi tiến hành điều tra bằng cách phát phiếu điều tra và yêu cầu học sinh điền vào rồi báo cáo kết quả sau (sau 1tháng). Thời gian Công việc em quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em Kết quả Thứ……………. Ngày………….. Nhận xét của giáo viên Nhận xét của ông bà, cha mẹ, anh chị em Kết quả đạt được như sau: Tổng số học sinh HS biết quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em HS chưa biết quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em. Tổng số % Tổng số % 93 85 91,4 8 8,6 B/ Nguyên nhân của thực trạng trên: Qua thực tế giảng dạy tôi còn thấy một số hạn chế, tồn tại trong việc giải quyết các nhiệm vụ, nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua bài học là do: Đây là năm đầu tiên thực hiện chương trình và sách giáo khoa mới nên việc chuyển tải toàn bộ nộ dung và nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh qua bài học cần phải dần dần. Học sinh lớpp 3 còn nhỏ(9 tuổi) nên trong gia đình các em được quan tâm, chăm sóc nhiều hơn, do đó các em còn lúng túng trong khi thực hiện quyền và bổn phận của mình đối với người thân trong gia đình; còn một số học sinh chưa biết quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em của mình. Chương III Một số đề xuất kiến nghị Xuất phát từ những nguyên nhân trên tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nhằm phát huy những kết quả tích cực đạt được, khắc phục những tồn tại góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh qua các tiết hoc. 1/ Đối với giáo viên: Cần tìm hiểu đặc điểm riêng của mỗi học sinh để có biện pháp giáo dục đạo đức phù hợp. Luôn lấy những câu chuyện, tấm gương gần gũi với học sinh hoặc của chính gia đình học sinh, giúp bài hoc đạo đức thêm phong phú gần gũi, sống động đối với các em và các em cũng tiếp nhận bài học nhẹ nhàng sinh động và hiệu quả. Người giáo viên cần phối hợp với các lực lượng đạo đức trong nhà trường và trong gia đình học sinh để cùng có biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh, giúp cho việc giáo dục đạo đức được gắn liền với thực tiễn. 2/ Về phía nhà trường: Cần tổ chức cho các em tham gia vào hoạt động tập thể, giúp các emmạnh dạn, có cơ hội bộc lộ những phẩm chất đạo đức từ đó giúp giáoviên có biện pháp giáo dục đạo đức cho các em hợp lí. 3/ Về phía gia đình học sinh: Cần phối hợp với các lực lượng giáo dục trong nhà trường để có biện pháp giáo dục đạo đức cho con em mình, không quá nuông chiều các em, không làm thay, làm hộ các em những việc vừa sức với lứa tuổi. Tạo điều kiện để các em phát triển toàn diện nhân cách. Phần III: Kết luận Qua thời gian tìm hiểu và nghiên cưu đề tài này tôi thấy vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các môn học, đặc biệt là môn Đạo đức ở tiểu học là rât cần thiết; đó cũng là nhiệm vụ và mục tiêu giáo dục ở tiểu học. Qua đề tài này tôi đã thu được những kết quả sau: Tìm hiểu những vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đạo đức ở tiểu học, từ đó thấy được sự cần thiết phaie đổi mới phương pháp và nắm được một số giải pháp triển khai để đổi mới phương pháp dạy học đạo đức ở tiểu học. Nắm được các vấn đề lí luận về giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 để vận dụng chúng vào những bài học cụ thể. Thấy rõ thực trạng của vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 qua môn đạo đức 3 ở trường tiểu học. Từ đó có kết hoạch, biện pháp giáo dục hợp lí, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường cùng giáo dục đạo đức cho học sinh; góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh, giúp các em không chỉ là trò giỏi mà còn là những người con hiếu thảo, ngoan ngoãn. Tài liệu tham khảo Giáo trình giáo dục tiểu học 2 (GS – TS Đặng Vũ Hoạt; TS. Nguyễn Hữu Hợp)- NXB Đại học Sư phạm. Bộ sách đạo đức 3. Chuyên đề giáo dục tiểu học- Vụ GD tiểu học – 2004. Phương pháp nghiên cứu KHGD-NXBBGD.
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Giáo Dục Đạo Đức Học Sinh Tiểu Học
Do thực tế từ đầu năm học có một số đối tượng học sinh hay nói tục, chửi thể, chọc ghẹo, gây rổ và thậm chí còn đánh nhau với bạn bè trong trường. Vì lí do đó, tôi chọn đề tài: “Giáo dục đạo đức học sinh Tiểu học” để góp phần làm nền tảng, hành vi đạo đức cho các em trong cư xử với ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo với mọi người và bạn bè cùng trang lứa. 2. Mục đích nghiên cứu: Giúp cho từng đối tượng học sinh hình thành thói quen, kỹ năng ứng xử phù hợp với mọi thành phần trong xã hội như: Biết đi thưa về trình đối với ông bà, cha mẹ anh chị trong gia đình. Biết tỏ thái độ thông cảm chia sẻ đối với những người tàn tật, những trường hợp bị bệnh hiểm nghèo. Biết lịch sự chào hỏi người lớn khi gặp mặt. Tôn trọng, lễ phép với thầy cô giáo trong quá trình học tập, rèn luyện và ứng xử… Giáo dục kỹ năng cho các em có những đức tính tốt trong cuộc sống hàng ngày. Trong lớp không có học sinh nào vi phạm đạo đức, học sinh đều xếp loại hạnh kiểm cuối năm là thực hiện đầy đủ đạt 100%. Tuy nhiên thời gian gần đây đã xuất hiện một số em đã có những lời lẽ thiếu thiện cảm khi tiếp xúc với bè bạn như nói tục, chửi thề đôi lúc còn có hành vi đánh nhau… xuất phát từ những thái độ, hành vi đó là do nhiều yếu tố tác động như: môi trường xã hội, điều kiện sinh hoạt gia đình hay vấn đề giáo dục chỉ quan tâm về tri thức, thiếu đầu tư về giáo dục nhân cách, đạo đức học sinh nên tình trạng một bộ phận học sinh bị sa sút về đạo đức. Xuất phát từ thực tiễn trên và nhận thấy đạo đức học sinh đang có chiều hướng giảm xúc, do đó bản thân tôi quyết định chọn sáng kiến kinh nghiệm “Giáo dục đạo đức học cho sinh Tiểu học” nhằm góp một phần công sức vào việc giáo dục nhân cách và đạo đức học sinh hiện nay. 3. Đối tượng nghiên cứu: Giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học 4. Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 4C trường Tiểu học Cửa Tùng 5. Phương pháp nghiên cứu: – Nhóm phương pháp Thuyết phục: Tổ chức tuyên truyền, nâng cao nhận thức đối với các thành viên tham gia. – Nhóm phương pháp Rèn luyện: Tổ chức chỉ đạo, thực hiện tốt công tác giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học. – Nhóm phương pháp Thúc đẩy: Khen thưởng, tán thành, coi trọng, khích lệ những cố gắng của học sinh làm cho bản thân học sinh đó vươn lên hơn nữa và động viên khuyến khích các em khác noi theo. – Nhóm phương pháp Kỷ luật tích cực: Kiểm tra, đánh giá, xử lí công tác giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học. 6. Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 4C trường Tiểu học Cửa Tùng. Năm học 2015-2016 II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận: Hòa theo khí thế thi đua sôi nổi của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, toàn ngành đang hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Thực hiện theo hướng dẫn của ngành về viết sáng kiến kinh nghiệm và đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, giá trị đạo đức, nhân cách, lối sống của không ít giới trẻ đang có chiều hướng sa sút do những lối sống thực dụng thì việc đưa nội dung giáo dục đạo đức học sinh Tiểu học trong nhà trường là việc làm hết sức cần thiết, đó chính là giải pháp tích cực nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường. Xã hội phát triển kéo theo nhiều hệ lụy như sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự hội nhập của nhiều nền văn hóa của các nước phương tây, của lối sống thực dụng Gia đình, cha mẹ phải bươn chải trong công cuộc mưu sinh, bỏ quên con cái, dẫn đến sự buông lỏng trong quản lý, điểm tựa gia đình đối với các em không còn nữa. Đã có thời gian chúng ta chỉ coi trọng việc dạy văn hóa sao cho học sinh học thật giỏi mà quên đi điều quan trọng là dạy cho học sinh “Học làm Người”, quên đi việc tạo cho các em có một sân chơi với các trò chơi mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, các em không được cung cấp những kỹ năng sống, kỹ năng hòa nhập cộng đồng. Ngoài việc học văn hóa, số còn lại thì không quan tâm đến mọi việc xảy ra chung quanh, lạnh lùng, vô cảm chỉ biết sống cho riêng mình. 2. Cơ sở thực tiễn: Đối với học sinh trong quá trình hình thành thì trường học chính là nơi các em được chính thức học tập và rèn luyện một cách nghiêm túc nhất. Bước vào trường học mỗi học sinh được tạo ra cơ hội để tiếp thu giáo dục, ý thức đầy đủ nghĩa vụ trách nhiệm đối với toàn bộ các hoạt động học tập và rèn luyện của bản thân. Trong môi trường mới các em được hình thành và tiếp thu các mối quan hệ xã hội đa dạng, nhất là tiếp xúc với bạn bè xung quanh được phát triển và có định hướng rõ ràng. Bên cạnh đó hầu như các em chưa thật sự nỗ lực, phấn đấu để trở thành một học sinh phát triển toàn diện. Song bên cạnh những cái hay, cái đẹp vẫn còn tồn tại những cái xấu, cái chưa hoàn hảo. Nói cách khác học sinh khá giỏi về học lực khá nhiều, tốt về đạo đức rất nhiều. Những học sinh yếu về học lực, có đạo đức chưa tốt vẫn còn. Hầu như những học sinh có đạo đức chưa tốt là các em có những hành vi đạo đức xuất phát từ những động cơ xấu, không theo một chuẩn mực đạo đức nào. Những học sinh chưa ngoan thường có tầm hiểu biết hạn chế. Nhưng những cái xấu lại đa dạng, các em thường tập hợp thành nhóm riêng không thích hòa đồng với mọi người, thường dửng dưng trước các hoạt động học tập của trường, của lớp. Nhìn chung những học sinh này thường có hành vi chưa tốt với mọi người như: thường nghỉ học, chọc ghẹo bạn bè, quậy phá, hổn hào với thầy cô, không tuân thủ theo nội quy của trường, của lớp. Thậm chí còn đánh nhau với bạn bè. Những hành động trên cho thấy do nhận thức của các em còn kém. Vì vậy đòi hỏi phải có sự giáo dục kịp thời từ các môi trường xã hội, gia đình và nhà trường. 3. Thực trạng và những mâu thuẫn: Do tính hiếu động, do bạn bè xấu lôi cuống, do sự thiếu quan tâm của gia đình, nhà trường và xã hội. Vô tình lôi kéo các em vào những việc làm không tốt, các em thường chai lì mặc dù bị phê bình, đôi lúc có sự phản ứng thiếu lành mạnh. Những học sinh này hay biện hộ cho những hành vi sai lệch của mình, thường lừa dối cha mẹ, thầy cô giáo. Thường bắt chước những thói hư tật xấu của một số thanh thiếu niên trong xã hội. Dẫn đến thường đánh nhau trong và ngoài nhà trường. Từ đó gây tác hại đối với: – Nhà trường: Làm ảnh hưởng đến nội quy học tập của lớp, làm ảnh hưởng đến nhiều hoạt động của lớp. Chất lượng học tập của trường, trong thực hiện các phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện – học sinh tích cực”, phong trào “Hoa điểm 10”, phong trào nuôi heo đất… và đôi khi để lại những tai tiếng không tốt cho trường. Cho nên đòi hỏi người giáo viên phải tìm ra nhiều giải pháp giáo dục thích hợp. – Gia đình: Làm ảnh hưởng đến các thành viên trong gia đình, là mối lo ngại lớn, thường gây cho gia đình những điều phiền phức. – Xã hội: Làm mất trật tự, gây ảnh hưởng đến sự phát triển chung của cộng đồng. 4. Các giải pháp đã thực hiện: 4.1 Nhóm phương pháp Thuyết phục: Là những phương pháp tác động vào lý trí tình cảm của học sinh để xây dựng những niềm tin đạo đức, gồm các nội dung sau: -Giảng giải về đạo đức: được tiến hành trong giờ dạy môn Đạo đức cũng như trong các giờ học môn khác, giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt dưới cờ -Nêu gương người tốt, việc tốt bằng nhiều hình thức như: nói chuyện, kể chuyện, đọc sách báo, mời những người có gương phấn đấu tốt đến nói chuyện, nêu gương tốt của giáo viên và học sinh trong trường. -Trò chuyện với học sinh hoặc nhóm học sinh để khuyến khích động viên những hành vi cử chỉ đạo đức tốt của các em, khuyên bảo, uốn nắn những mặt chưa tốt. -Tổ chức tuyên truyền, nâng cao nhận thức đối với các lực lượng tham gia giáo dục đạo đức cho học sinh, là biện pháp quản lý có ý nghĩa trên hết. Vì có nhận thức đúng mới có hành động đúng, là cơ sở để hướng đến một kết quả hoàn thiện. -Truyền đạt đến từng học sinh tất cả những quy định của Nhà trường về tiêu chuẩn đánh gía, những điều cấm, những điều nên làm và những tác hại khi vi phạm kỷ luật. Thiết lập các kế hoạch phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị xã hội ngoài nhà trường. -Mỗi thầy, cô giáo tự hoàn thiện mình, xứng đáng là tấm gương sáng cho học sinh noi theo; để học sinh nhìn nhận, đánh gía người thầy với thái độ: “Trọng thầy vì đạo đức của thầy”, “Phục thầy vì kiến thức của thầy”, “Quý mến thầy vì lòng độ lượng của thầy”. -Cần tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cho học sinh, đặc biệt chú trọng thực hiện chỉ thị số 23/CT-TƯ của Ban Bí thư TW Đảng về việc đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho học sinh. Để các em nhận thức đúng, chủ động tích cực rèn luyện đạo đức học sinh. 4.2. Nhóm phương pháp Rèn luyện: Là những phương pháp tổ chức cho học sinh hoạt động để rèn luyện cho các em những thói quen đạo đức, thể hiện được nhận thức và tình cảm đạo đức của các em thành hành động thực tế: -Rèn luyện thói quen đạo đức thông qua các hoạt động cơ bản của nhà trường: dạy học trên lớp, lao động, hoạt động xã hội đoàn thể và sinh hoạt tập thể. -Rèn luyện đạo đức thông qua các phong trào thi đua trong nhà trường là biện pháp tác động tâm lý rất quan trọng nhằm thúc đẩy các động cơ kích thích bên trong của học sinh, làm cho các em phấn đấu vươn lên trở thành người có đạo đức tốt, vì vậy nhà trường cần tổ chức các phong trào thi đua và động viên học sinh tham gia tốt phong trào này. -Rèn luyện bằng cách chuyển hướng các hoạt động của học sinh từ hoạt động có hại sang hoạt động có ích, phương pháp này dựa trên đặc tính ham hoạt động của trẻ và được dùng để giáo dục học sinh bỏ một thói hư xấu nào đó bằng cách gây cho học sinh hứng thú với một hoạt mới bổ ích, lôi kéo trẻ ra ngoài những tác động có hại. – Đối với giáo viên chủ nhiệm: Là người trực tiếp thay mặt nhà trường giáo dục học sinh, là người thực hiện sự phối hợp, liên kết bền chặt với giáo viên bộ môn, các đoàn thể trong nhà trường, giữa “Gia đình – Nhà trường – Xã hội”. Giáo dục đạo đức học sinh là một công việc đòi hỏi sự kiên trì, cần phải có tâm huyết với nghề, có phương pháp chủ nhiệm tốt với một kế hoạch toàn diện, hợp lý. Từ việc tìm hiểu, nắm bắt hoàn cảnh gia đình, năng lực từng học sinh, học sinh có hoàn cảnh khó khăn đến việc xử lý tình huống. Đòi hỏi cần có sự nghiêm khắc của người thầy đồng thời phải có tấm lòng yêu thương, thể hiện trách nhiệm, lòng vị tha như một người cha đối với con cái; thông cảm chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, giúp đỡ các em vượt qua khó khăn, dành thời gian để tâm sự và cho các em những lời khuyên bảo chân tình, tạo được niềm tin động lực cho học sinh phấn đấu hoàn thiện. Hình ảnh người thầy ảnh hưởng không nhỏ đến học sinh, chính vì vậy giáo viên chủ nhiệm không những cần năng lực chuyên môn, mà còn đòi hỏi phải thật sự là tấm gương sáng về tác phong, tư cách đạo đức, chuẩn mực trong trang phục, lời nói, cách ứng xử như vậy lời nói của giáo viên chủ nhiệm mới có trọng lượng với học sinh. – Đối với cha mẹ học sinh: Cần trở thành gương tốt cho con, cháu học tập, có trách nhiệm tham gia đầy đủ các buổi họp phụ huynh học sinh, thường xuyên phối hợp tốt với giáo viên chủ nhiệm. – Nhà trường để kịp thời nắm bắt các thông tin, trong công tác quản lý việc học tập, chăm lo giáo dục rèn luyện đạo đức của con em mình. Mỗi cha mẹ học sinh cần quan tâm xây dựng tổ chức hội cha mẹ học sinh vững mạnh, có mối quan hệ thường xuyên với nhà trường, phát huy vai trò, chức năng Hội cha mẹ học sinh động viên, răn dạy con, cháu chấp hành nội qui của nhà trường, các chủ trương của Đảng và nhà nước. – Đối với tổ chức chính trị xã hội (Chính quyền địa phương, tổ dân phố…). Cần chú trọng xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, nhân dân khối phố, công an khu vực và chính quyền địa phương nơi trường đóng. Hằng năm, thông qua các văn bản, công văn, báo cáo định kỳ, nhà trường trao đổi thông tin đồng thời triển khai kế hoạch với chính quyền địa phương; tham mưu đưa công tác giáo dục đạo đức học sinh vào tiêu chí xây dựng, bình chọn “Gia đình văn hóa – Khu phố văn hoá – Ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền”; có đánh giá nhận xét của Chính quyền địa phương về “sinh hoạt hè” của học sinh; tổ chức ký cam kết trách nhiệm giữa “Nhà trường – Chính quyền địa phương” tạo được sự hỗ trợ tích cực của các lực lượng ngoài nhà trường thành quá trình khép kín trong công tác giáo dục dạo đức cho học sinh. 4.3. Nhóm phương pháp Thúc đẩy: – Là phương pháp dùng những tác động có tính chất “ cưỡng bách đạo đức bên ngoài ” để điều chỉnh, khuyến khích những “ động cơ kích thích bên trong” của học sinh nhằm xây dựng đạo đức cho học sinh. -Những nội quy, quy chế trong nhà trường vừa là những yêu cầu với học sinh, vừa là những điều lệnh có tính chất mệnh lệnh đòi hỏi học sinh tuân theo để có những hành vi đúng đắn theo yêu cầu của nhà trường. -Khen thưởng: là tán thành, coi trọng, khích lệ những cố gắng của học sinh làm cho bản thân học sinh đó vươn lên hơn nữa và động viên khuyến khích các em khác noi theo. 4.4. Nhóm phương pháp Kỷ luật tích cực: Là kiểm tra, đánh giá, xử lí công tác giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học: là phê phán những khiếm khuyết của học sinh, là tác động có tính chất cưỡng bách đến danh dự lòng tự trọng của cá nhân học sinh để răn đe những hành vi thiếu đạo đức và ngăn ngừa sự tái phạm của học sinh đó và những học sinh khác. Do đó phải thận trọng và đúng mực, không được lạm dụng phương pháp này. Khi xử phạt cần phải làm cho học sinh thấy rõ sai lầm, khuyết điểm, thấy hối hận và đặc biệt sau đó phải theo dõi, giúp đỡ, động viên học sinh sửa chữa khuyết điểm, cần phải tỏ rõ thái độ nghiêm khắc nhưng không có lời nói, cử chỉ thô bạo đánh đập, xỉ nhục hoặc các nhục hình xúc phạm đến thân thể học sinh – Với quá trình Kiểm tra: Phải thực hiện thường xuyên, liên tục theo định kỳ hay đột xuất, qua nhiều kênh thông tin như Đoàn thanh niên, giáo viên chủ nhiệm,… nhằm mục đích: Đánh giá đúng, kịp thời biểu dương, khen thưởng khuyến khích học sinh phấn đấu vươn lên, đồng thời ngăn chặn, phê bình những sai trái, vi phạm, thúc đẩy sự tự giác thực hiện nhiệm vụ. – Với quá trình đánh giá: Là một quá trình ”nghiêm túc – khoa học”. Hãy đánh giá đúng khả năng học tập, rèn luyện của học sinh; đừng vì “Bệnh thành tích thi đua, tỷ lệ yếu kém” mà làm qua loa, bình quân trong đánh giá xếp loại học sinh. – Với những học sinh cá biệt cần quan tâm, thường xuyên theo dõi và liên lạc chặt chẽ với phụ huynh học sinh để có biện pháp giáo dục kịp thời. Cần có những biện pháp cứng rắn kiên quyết, đồng thời phải gần gũi, tìm hiểu hoàn cảnh để giúp các em tránh những suy nghĩ lệch lạc về bản thân, tạo niềm tin, chỗ dựa tinh thần cho các em phấn đấu sửa chữa, vươn lên thành người tốt. – Với quá trình xử lý: Cần thực hiện đúng nội dung Thông tư số 08/ TT-BGDĐT ngày 21/03/1988 của Bộ GD & ĐT Hướng dẫn về việc khen thưởng và thi hành kỷ luật học sinh, đảm bảo nguyên tắc cơ bản : - Phải tiến hành “Kịp thời, chính xác, công bằng, đúng trình tự quy định“; lấy giáo dục làm chính, tránh xu hướng chỉ xử lý phát hiện những sai trái và kỷ luật mà không dành thời gian để định hướng, uốn nắn, giúp học sinh tự giác thực hiện, đồng thời giữ nghiêm kỷ luật, phát huy ưu điểm, bồi dưỡng những nhân tố tích cực để khắc phục những thiếu sót của những nhân tố tiêu cực. - Có lúc cần phải kiên quyết xử lý kỷ luật, bằng những hình thức thích hợp: đình chỉ học tập hoặc cao hơnđiều mà nhà Giáo dục không muốn, nhưng là cần thiết để đảm bảo tính nghiêm khắc, kỷ cương của nhà trường, cuả pháp luật xã hội đối với những học sinh vi phạm. -Với quá trình sau xử lý: Sau khi xử lý học sinh vi phạm, cần có kế hoạch theo dõi, phối hợp với phụ huynh học sinh, chính quyền địa phương tạo cho học sinh phấn đấu sửa chữa khuyết điểm để tiến bộ. - Việc khen thưởng và kỷ luật đối với học sinh được thực hiện đúng đắn sẽ góp phần tích cực vào việc cũng cố và phát triển phong trào thi đua 2 tốt: “Dạy tốt – Học tốt” và thực hiện hiệu quả cuộc vận động 2 không: “Nói không với tiêu cực trong thi cữ và bệnh thành tích trong giáo dục” trong mỗi nhà trường. 5. Kết quả thực hiện: Qua nghiên cứu tìm hiểu thực trạng, nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, tìm ra nhiều giải pháp khắc phục và áp dụng thực hiện trong phạm vi học sinh Tiểu học. Các em gần gũi hơn với bạn bè trong lớp, cởi mở hơn đối với thầy cô, hạn chế rất nhiều tình trạng nói tục, chửi thề, các em ngày càng lễ phép hơn với người lớn, với thầy cô. Từ đó có những giải pháp giáo dục đạo đức học sinh ngày càng chăm ngoan hơn. Ngoài ra sáng kiến này còn giúp tôi có nhiều phương pháp giải quyết hữu hiệu trong việc uốn nắn, giúp đỡ học sinh trở thành những người tốt để xứng đáng là con ngoan trò giỏi. III. KẾT LUẬN 1. Kết luận: – Trong quá trình thực hiện và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã rút ra được những bài học quí giá để bổ sung cho cho công tác chủ nhiệm lớp của mình như sau: – Thực hiện đúng theo tinh thần chỉ đạo của lãnh đạo ngành, nhà trường đã đề ra. – Luôn tạo sự đổi mới, sáng tạo trong công việc để tăng sự thu hút từ phía học sinh. – Phối hợp nhịp nhàng với ban đại diện cha mẹ học sinh. – Luôn lắng nghe ý kiến về những khó khăn của học sinh khi thực hiện chuyên đề để cùng tháo gỡ những vướng mắc của học sinh. 2. Đề xuất: Để phong trào thi đua: “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” theo những nội dung mà Bộ Giáo dục Đào tạo phát động đi vào chiều sâu, nhất thiết phải tạo cho các em có một sân chơi mang tính tập thể, qua đó các em sẽ được rèn luyện kỹ năng sống, cùng các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.Trên thực tế nhà trường đang thực hiện phong trào này nhưng chưa thường xuyên chỉ mang tính hình thức vì chỉ chú trọng vào việc giảng dạy văn hóa trên lớp mà không chú trọng đến các sân chơi. Do cơ sở vật chất của đơn vị chưa đáp ứng được nhu cầu học tập, vui chơi của các em. Do cơ sở vật chất còn thiếu. Nên việc tổ các phong trào vui chơi học tập bị hạn chế. Số lượng học sinh tham gia ít nên việc lồng gép giáo dục đạo đức học sinh thông qua các phong trào chưa thường xuyên. Các cấp lãnh đạo, các ngành hữu quan cần quan tâm đầu tư nhiều hơn cho giáo dục – đào tạo. 3. Kiến nghị: – Nhà trường và các bộ phận trong nhà trường, tiếp tục duy trì và tổ chức các phong trào hội thi để học sinh tham gia thi đua học tập rèn luyện, giao lưu giữa các khối lớp với nhau. Từ đó các em sẽ tuyên truyền lại cho bè bạn trong và ngoài lớp. Qua những nội dung được thi đua, giao lưu học tập các em sẽ cố gắng nhiều hơn trong học tập, rèn luyện để xứng đáng là cháu ngoan Bác Hồ. 4. Ý nghĩa của đề tài: Sáng kiến kinh nghiệm về nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường mang một ý nghĩa rất quan trọng và là việc làm hết sức cần thiết, bởi lẽ các em sẽ học được những đức tính tốt qua những mẫu chuyện trong môn đạo đức, những bài văn, truyện kể ở môn Tiếng Việt và các môn học khác. Các em học được lòng yêu thương, sự đồng cảm, chia sẻ nỗi đau của đồng bào bị thiên tai, lũ lụt. Hay học được những đức tính như: tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của từ những việc làm nhỏ nhất, các em sẽ học được tình yêu quê hương, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào. Là những bài học quí báu mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc để các em tự hoàn thiện mình. Hiện nay ngành giáo dục đang phát động phong trào thi đua: “Xây dựng trường học thân thiện – Học sinh tích cực” thì việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ kính yêu là việc làm mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Qua đó, giúp các em nhìn lại những việc làm của mình từ trong hành động, trong suy nghĩ để các em hoàn thiện hơn về nhân cách, về lối sống của mình, các em sẽ tích cực tham gia
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Giáo Dục Đạo Đức Học Sinh Tiểu Học
sản xuất, , về trường gặp gỡ, trò chuyện, giao lưu với học sinh. - Đẩy mạnh các hoạt động thiết thực phù hợp với lứa tuổi mang tính giáo dục như: + Hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao (yêu quê hương đất nước, mừng Đảng mừng xuân, nhớ ơn Bác Hồ, hướng về ngày 20/11,). Đây là loại hình hoạt động khá hấp dẫn đối với học sinh Tiểu học, thu hút được nhiều em tham gia. + Hoạt động đền ơn đáp nghĩa như: Áo lụa tặng bà, chăm sóc giúp đỡ gia đình thương binh liệt sĩ, viếng và chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ, đóng góp vào quỹ xây dựng nhà tình thương, trồng cây nhớ ơn Bác, + Hoạt động "Hội thi thiếu nhi": Hội thi thiếu nhi là đỉnh cao của phong trào thiếu nhi, là kết quả của quá trình phấn đấu, học tập, rèn luyện theo mục tiêu giáo dục toàn diện. Qua hội thi thiếu nhi, các em sẽ đánh giá được kết quả rèn luyện của mình và đó chính là cơ hội, là môi trường để các em trao đổi thêm kinh nghiệm học tập, hoạt động với các bạn của mình. Hội thi thiếu nhi còn là ngày hội của các em, vừa mang tính chất của cuộc thi tài, nên đã tạo được bầu không khí thi đua hào hứng, sôi nổi, hấp dẫn trong các hoạt động. - Tổ chức các hoạt động tập thể trong phạm vi toàn trường tạo điều kiện để các em hình thành các mối quan hệ, gắn bó với nhau vì quyền lợi, danh dự chung, gây niềm vinh dự, tự hào về lớp mình, rất có ý nghĩa và tác dụng sâu sắc đến nhận thức, tình cảm của học sinh. Thực tế hoạt động tập thể của các nhà trường có thể là các hoạt động như: Lao động tập thể, các cuộc thi tài năng, sang kiến của cá nhân, tổ chức giao lưu trong tập thể giữu các khối lớp, ... Mỗi giáo viên cần nhận thức về tác dụng giáo dục của tập thể, biết dựa vào các giai đoạn hình thành và phát triển của tập thể và các nhiệm vụ giáo dục để tìm ra các biện pháp, hình thức tổ chức giáo dục trong tập thể đạt tới hiệu quả giáo dục theo mục tiêu của cấp học. Từ đó nếp sống đạo đức của các em sẽ có chuyển biến tốt, trước hết là tinh thần đoàn kết, ý thức tập thể, biết giúp đỡ nhau trong mọi hoạt động. Qua hoạt động tập thể, lòng nhân ái, tính vị tha, tinh thần dũng cảm, trách nhiệm vì tập thể được thể hiện rõ và chính những hoạt động đó đã đẩy mạnh phong trào học tập của các em hơn. Để các hoạt động nêu trên được thực hiện có hiệu quả góp phần tích cực trong công việc giáo dục đạo đức cho học sinh người giáo viên cần lưu ý: Phát huy vai trò, chức năng của các tổ chức và cá nhân trong nhà trường trong đó giáo viên chủ nhiệm giữ vai trò rất quan trọng. Phối hợp tốt các tổ chức đoàn thể ngoài nhà trường như: Hội cha mẹ học sinh, các cấp chính quyền địa phương trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh. 3) Vận động mọi lực lượng tham gia giáo dục đạo đức cho học sinh: Việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học là một công việc khó khăn, phức tạp. Bởi lẽ, trong quá trình giáo dục đạo đức học sinh tiếp nhận những tác động từ nhiều phía: Nhà trường - Gia đình - Xã hội. Công tác giáo dục chỉ đạt hiệu quả cao khi phối hợp thống nhất được tác động theo hướng tích cực. Đối với học sinh Tiểu học thì tác động giáo dục của nhà trường, gia đình, xã hội có vai trò quan trọng. Vì vậy, sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, xã hội trong lĩnh vực này có tác dụng to lớn về nhiều mặt đó là: Làm cho các tác động giáo dục đến với học sinh được thực hiện theo những yêu cầu thống nhất; Giúp cho cha mẹ học sinh và giáo viên hiểu đầy đủ hơn về đối tượng giáo dục của mình, nhờ đó đề ra được những biện pháp giáo dục phù hợp; Tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau trong công tác giáo dục. Với ý nghĩa đó, sự kết hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình, xã hội từ lâu đã được xem là nguyên lý cơ bản của giáo dục. Song làm thế nào để sự kết hợp này đáp ứng được những yêu cầu của công tác giáo dục vẫn đang là vấn đề chưa có lời giải đáp. Ở trường chúng tôi việc kết hợp giáo dục đạo đức cho học sinh giữa nhà trường, gia đình, xã hội đã được thực hiện theo cơ chế phân công - Hợp tác bằng việc làm cụ thể, thiết thực của cha mẹ học sinh, giáo viên và địa phương. Cụ thể là: - Xây dựng quy định nếp sống hằng ngày ở nhà, ở trường, ở địa phương của học sinh làm cơ sở cho việc thống nhất yêu cầu, nội dung giáo dục cũng như việc đánh giá kết quả giáo dục. Nội dung của bản quy định bao gồm các việc làm và các quan hệ hằng ngày của học sinh ở nhà, ở trường, ở địa phương; Nội dung của từng việc làm, yêu cầu cần đạt được khi thực hiện. Các việc làm đó được sắp xếp theo một trật tự nhất định tùy điều kiện cụ thể của gia đình, nhà trường, địa phương và trình độ phát triển của học sinh từng lớp. Quy định này là do giáo viên cùng cha mẹ học sinh xây dựng từ đầu năm học trong phiên họp cha mẹ học sinh đầu năm. Những điều chỉnh cần thiết sẽ được hai bên thông báo kịp thời cho nhau trong suốt năm học. - Xác định những hình thức phối hợp nhằm đảm bảo mối quan hệ thường xuyên giữa gia đình, nhà trường, xã hội. Hình thức trao đổi trực tiếp được thực hiện qua việc giáo viên đến thăm gia đình học sinh, qua các cuộc họp cha mẹ học sinh, qua điện thoại. Những cuộc gặp gỡ, trao đổi trực tiếp nêu trên cho phép được đề cập nhiều vấn đề và đi sâu vào từng trường hợp cụ thể, tạo được mối quan hệ thân mật hiểu biết lẫn nhau giữa giáo viên và cha mẹ học sinh, giúp giáo viên hiểu rõ hoàn cảnh của từng học sinh, nhờ đó đưa ra những lời khuyên phù hợp cho gia đình. Hình thức trao đổi gián tiếp như thông qua sổ liên lạc, qua đại diện hội cha mẹ học sinh hoặc đại diện cộng đồng dân cư nơi gia đình học sinh cư trú. Trong các hình thức này, việc trao đổi qua sổ liên lạc có tính khả thi hơn cả. Song, sổ liên lạc phải được sử dụng một cách thường xuyên khi cần chứ không phải theo định kỳ hàng tháng. Đồng thời, cần cải tiến hoạt động của cha mẹ học sinh. Hội cha mẹ học sinh phải thực sự trở thành lực lượng hỗ trợ đắc lực cho việc phối hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình, xã hội. Vì vậy, về mặt tổ chức, bên cạnh ban chấp hành Hội cần có tổ phụ huynh (của lớp) theo địa bàn học sinh cư trú. Tổ trưởng phụ huynh sẽ hoạt động theo tư cách là cầu nối trao đổi thông tin giữa nhà trường và gia đình. Nếu nhà trường, gia đình, xã hội tác động đến học sinh theo cùng hướng trên những quan điểm, nguyên tắc đúng đắn và thống nhất thì việc hình thành chuẩn mực đạo đức cho học sinh sẽ có hiệu quả. Nếu các yếu tố đó tác động lệch hướng đến từng học sinh thì sẽ vô hiệu hóa lẫn nhau, gây ảnh hưởng xấu đến đạo đức của trẻ. Để có được sự thống nhất, tạo ra sự cộng hưởng giữa nhà trường, gia đình, xã hội nhà trường cần trở thành trung tâm văn hóa giáo dục, trở thành nơi chỉ đạo thống nhất tác động của các lực lượng giáo dục. III. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: Qua quá trình thực hiện các biện pháp nêu trên vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường tôi thấy các em học sinh có chuyển biến rõ rệt, có ý thức cao trong học tập và rèn luyện, biểu hiện cụ thể như sau: - Xác định được mục đích học tập, chuyên cần, ham học, trung thực trong học tập và đạt kết quả tốt. luôn khiêm tốn và giúp đỡ nhau cùng học tập tiến bộ; mạnh dạn đấu tranh thói lười biếng, ỷ lại, thiếu trung thực trong học tập. - Tham gia đầy đủ và thực hiện tốt các buổi lao động, hoạt động tập thể. Có ý thức thực hành tiết kiệm, quý trọng và bảo vệ tài sản của nhà trường, của lớp học, sẵn sàng tham gia lao động góp phần xây dựng địa phương do nhà trường tổ chức. - Tích cực rèn luyện thân thể và tham gia các buổi thể dục chính khóa và ngoại khóa; luôn giữ vệ sinh cá nhân, giữ sạch đẹp trường lớp. - Thực hiện nếp sống lành mạnh, có văn hóa, có kỷ luật. Sống trung thực, đúng mực trong các mối quan hệ giao tiếp với thầy cô, bạn bè, gia đình và những người xung quanh. *Lớp thực nghiệm 3 Năm học 2013 - 2014 SSHS Chất lượng học lực Chất lượng giáo dục Ghi chú HT % CHT % Đ % CĐ % Khảo sát đầu năm 26 19 73 7 27 20 77 6 33 Kiểm tra cuối HKI 26 25 96 1 4 26 100 * Lớp đối chứng 3B: Năm học 2014 - 2015 SSHS Chất lượng học lực Chất lượng giáo dục Ghi chú HT % CHT % Đ % CĐ % Khảo sát đầu năm 26 18 69 8 31 19 73 7 27 Kiểm tra cuối HKI 26 21 80.7 5 19.3 22 84.6 4 15.4 C. KẾT LUẬN I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM - Phải lựa chọn, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm là linh hồn, là cố vấn tối cao của một lớp, là lực lượng giáo dục nòng cốt của nhà trường. Họ là người trực tiếp tổ chức, quản lý toàn diện các hoạt động giáo dục của một lớp. Cho nên giáo viên chủ nhiệm có tâm huyết với học sinh, theo tôi đó là yếu tố trước hết để có thể cảm hóa, giáo dục học sinh trở thành người tốt. - Nắm vững nguyên nhân dẫn đến dẫn đến hành vi không tốt để xuất hiện biện pháp giáo dục thích hợp với từng loại đối tượng học sinh. Công việc này chẳng khác nào một người thầy thuốc chữa bênh, chuẩn đoán đúng sẽ điều trị có hiệu quả; mà muốn chuẩn đoán đúng, giáo viên chủ nhiệm phải là người hết sức sâu sát, nắm vững đặc diểm, tâm lí học sinh cũng như hoàn cảnh gia đình của các em. - Kết hợp chặt chẽ với gia đình để giáo dục các em. Hầu như những học sinh hư, dù ở mức độ nào cũng đều có nguyên nhân từ phía gia đình. Gia đình là một môi trường, lực lượng giáo dục đầu tiên, trực tiếp, gần gũi, thường xuyên và lâu dài nhất đối với mọi trẻ em. Vì vậy, nhà trường, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với gia đình để tạo môi trường giáo dục thống nhất, đồng bộ đối với học sinh hư. - Xây dựng đôi bạn, nhóm bạn tốt để thường xuyên kèm cặp, uốn nắn kịp thời những hành vi tái phạm của những học sinh hư. Trong biện pháp này, giáo viên chủ nhiệm phải xử lí khéo léo các thông tin mà học sinh trong nhóm phản ánh cho mình, đồng thời giáo dục các em đó có lòng thương yêu, đặt niềm tin vào sự tiến bộ của bạn. Khéo léo sử dụng dư luận tích cực của tập thể để điều chỉnh hành vi sai trái của những học sinh hư. Dư luận tập thể có tác dụng điều chỉnh hành vi của từng thành viên theo yêu cầu của tập thể. Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm cần kịp thời phát hiện dư luận và có biện pháp xử lí thích hợp, giúp học sinh có biểu hiện sai trái tiếp nhận ý kiến của tập thể, tránh sự áp đặt gây nên mặc cảm, tự ti hoặc chống đối ở các em. - Thuyết phục là phương pháp giáo dục nhằm tác động vào ý thức, tình cảm, niềm tin, ý chí của học sinh. Đây là phương pháp có vai trò mở đường cho mọi quá trình giáo dục bất kỳ một phẩm chất, năng lực nào. Đối với việc giáo dục học sinh hư, khi thực hiện phương pháp này cần hết sức tránh nóng vội và cần nắm bắt cụ thể đặc điểm tâm lí, tính cách cũng như hoàn cảnh gia đình, quan hệ bạn bè của đối tượng này để có biện pháp giáo dục. - Phát hiện, động viên kịp thời những tiến bộ dù nhỏ để xây dựng niềm tin ở học sinh. Theo số liệu điều tra, số học sinh có biểu hiện sai trái về đạo đức đã mất hết niềm tin vào bản thân. Vì vậy, việc khích lệ những cố gắng, tiến bộ của các em sẽ có tác dụng như một động lực, một sinh khí mới cho các em phấn đấu. Giáo dục lại đạo đức cần gắn liền với giáo dục lòng say mê học tập. Phần đông học sinh hư đều lười biếng học tập, việc thu hút các em vào hoạt động học tập sẽ dần dần tách các em khỏi những quan hệ xấu và bản thân nội dung các môn học cũng góp phần nâng cao nhận thức giúp các em tự điều chỉnh mình. Tóm lại, kinh nghiệm thành công của thầy cô giáo trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh trước hết là phải nghiên cứu, nắm chắc nguyên nhân và đặc điểm tâm sinh lí, khả năng của từng học sinh. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch phù hợp và tổ chức được các lực lượng giáo dục thống nhất tác động. Trong các lực lượng giáo dục đó phải chú ý đúng mức đến sức mạnh đồng bộ của tập thể thầy cô giáo, tập thể học sinh và gia đình học sinh. Phương pháp giáo dục đúng và thích hợp từng học sinh cũng là một yếu tố quan trọng đảm bảo thành công đối với học sinh yếu đạo đức còn đòi hỏi cao ở nhiều người thầy, cô giáo về mặt uy tín,về thái độ nhiệt tình, về tính kiên trì, lòng độ lượng, bao dung. Đó cũng là những phẩm chất làm nên sức mạnh giáo dục đạo đức đối với học sinh hư. Nguyện vọng thiết tha của đông đảo thầy cô giáo là được hướng dẫn, cung cấp những kinh nghiệm hiện đại để giáo dục tốt phẩm chất đạo đức cho học sinh. Đó cũng chính là yêu cầu cấp bách phải nghiên cứu, tìm ra những giải pháp giáo dục mới, cụ thể, có hiệu quả cao đối với học sinh yếu kém về đạo đức II. KẾT LUẬN Từ chiều sâu lịch sử, dân tộc Việt Nam sớm hình thành một nền đạo đức và luôn có ý thức tu dưỡng, giữ gìn truyền thống đạo đức của dân tộc; luôn xem đạo đức cách mạng là phẩm chất đầu tiên, là cái gốc của mỗi con người. Bác Hồ đã dạy: "Ngươi cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" và Bác hồ cũng chỉ rằng: "Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên". Từ thực tiễn, xây dựng, bảo vệ đất nước, từ những ý kiến chỉ dạy của Bác Hồ cho thấy việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung, cho học sinh bậc Tiểu học nói riêng là hết sức cần thiết và quan trọng. Đó là trách nhiệm của mỗi tổ chức xã hội, mọi người, mọi gia đình, đồng thời trách nhiệm nặng nề của ngành giáo dục và đào tạo trong đó vai trò của các trường học rất quan trọng. Giáo dục đạo đức cho học sinh bậc Tiểu học thông qua các hoạt động tập thể, thông qua sự phối hợp với gia đình, nhà trường và xã hội góp phần không nhỏ vào việc hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức cho học sinh. Để hoạt động này có hiệu quả người giáo viên Tiểu học có thể kết hợp nhiều phương pháp, nhiều biện pháp giáo dục. Vì có điều kiện thường xuyên tiếp xúc với các em, người giáo viên tiểu học có cơ hội hiểu biết đầy đủ đặc điểm tâm lí, sinh lí của học sinh, theo dõi được sự phát triển của từng em để có biện pháp giáo dục phù hợp. Để thực hiện được nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học, người giáo viên cần: - Góp phần vào việc xây dựng một bầu không khí lành mạnh (đầy lòng thương yêu, tin cậy, an toàn) trong trường và lớp. - Hiểu về đặc điểm phát triển của trẻ, lựa chọn biện pháp giáo dục với cả lớp và từng học sinh. - Tiến hành giáo dục đạo đức thông qua những tình huống cụ thể. Hết sức tránh lý thuyết và hô hào, trừ những trường hợp đặc biệt. - Tổ chức việc giáo dục đạo đức thông qua các hoạt động ngoài lớp và ngoài giờ, kết hợp chặt chẽ với giáo dục ở lớp. - Sử dụng một cách thận trọng các biện pháp giáo dục đạo đức trực tiếp, vì mỗi phương pháp giáo dục đều có hạn chế riêng của nó. - Chớ quên rằng khi dạy bất kỳ môn học nào, người giáo viên đều làm nhiệm vụ giáo dục giá trị đạo đức. Cần làm cho học sinh hiểu môn học trong tổng thể; nội dung thông tin, phương pháp, những giá trị có trong đó. Trong bối cảnh kinh tế, xã hội hiện nay, khi giáo dục đào tạo trở thành quốc sách hàng đầu, bậc tiểu học trở thành bậc nền tảng, cần nhanh chóng được phổ cập và nâng cao chất lượng, góp phần tích cực đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một trong những mục tiêu cơ bản trong chiến lược giáo dục đào tạo là phát triển nhân cách nguồn nhân lực. Nhân cách đó phải định hướng đúng đắn ngay từ bậc giáo dục tiểu học. Các nhà quản lý giáo dục nắm chắc mục tiêu này để có kế hoạch, biện pháp trong quá trình tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục để hình thành nhân cách và giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học. Trong công cuộc đổi mới vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học được đặt ra với yêu cầu bức thiết: - Cần đảm bảo cư xử với học sinh như một chỉnh thể, một nhân cách đang hình thành. Nhà trường cần giáo dục toàn diện, thực hiện tốt các tiêu chuẩn quốc gia đối với một trường Tiểu học. Cần đảm bảo sự bình đẳng cho học sinh để hình thành và phát triển hành vi đạo đức, quan tâm đặc biệt đến những học sinh đang gặp những khó khăn bất lợi. Cần có những định hướng đúng đắn cho sự hình thành và phát triển hành vi đạo đức tiếp theo của học sinh sau bậc tiểu học. - Tổ chức ngày hội truyền thống với nhiều hoạt động phong phú thu hút 100% học sinh tham gia. Tổ chức tốt việc thực hiện các chủ điểm giáo dục học sinh theo từng khối lớp nhằm rèn luyện nếp sống đạo đức cho các em. - Tạo điều kiện cho Đội Thiếu niên tiền phong tổ chức các hoạt động tập thể (chào cờ đầu tuần, múa hát tập thể, các hoạt động ngoài giờ lên lớp). Làm tốt công tác giáo dục ý thức tiết kiệm, lòng từ thiện, đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn. - Giáo viên tự rèn luyện phong cách đạo đức, gương mẫu trước học sinh, phải là tấm gương sáng về mọi mặt để học sinh noi theo. Giảng dạy tốt các tiết Đạo đức theo hướng tích cực. Tăng cường giáo dục tình cảm, kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, xã hội để có thể trực tiếp hoặc gián tiếp làm nền tảng cho việc giáo dục đạo đức cho học sinh. Với yêu cầu trên, nhà trường, gia đình và các tổ chức xã hội cần nhận thức đầy đủ và có trách nhiệm cùng với các nhà quản lý giáo dục tiến hành các hoạt động giáo dục thiết thực nhằm phát triển năng lực toàn diện cho học sinh. Đức Liễu, ngày 27 háng 3 năm 2015 Duyệt BGH Người thực hiện Nguyễn thị Liên
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Gd Đạo Đức Học Sinh Thcs
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:1. Thực trạng của công tác giáo dục đào tạo cho học sinh của trường thcs An Tân1.1 Thuận lợi:Được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Đảng ủy, UBND, sự hỗ trợ nhiệt tình các ban ngành đoàn thể địa phương, BTT hội cha mẹ HS, được sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của Phòng giáo dục và đào tạo huyện An Lão.Đội ngũ cán bộ và giáo viên trẻ nhiệt tình đều qua trường lớp sư phạm chính quy từ chuẩn đến trên chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ.100% HS cư trú trên đồng bằng không có dân tộc thiểu số.1.2 Khó khăn – tồn tại:Đời sống của gia đình học sinh còn khó khăn chỉ lo làm ăn mưu sinh chưa thật sự quan tâm sâu sát về việc học cũng như hoạt động của con em mình.Một số em học sinh có nếp sống gia đình chậm tiến bộ, thường có hành vi đạo đức không tốt, nhà trường không thể kết hợp với gia đình để giáo dục.Một số HS đua đòi chạy theo lối sống của một số phần tử xấu của xã hội.1.3 Thực trạng công tác giáo dục đạo đức học sinh của trường trong năm học 2011- 2012.3.1. Những việc trường đã làm trong năm học: – Các hoạt động ngoại khóaTrường đã tổ chức cho học sinh tham gia tích cực các hoạt động giáo dục theo quy định như:Giáo dục an toàn giao thông từ tháng 9 đến hết năm học bằng hình thức dưới cờ, tuyên truyền qua bano oppic, triển khai cho các em tìm hiểu và kiểm tra chuyên hiệu ATGT.Giáo dục phòng chống Ma túy, tệ nạn xã hội thông qua các buổi nói chuyện dưới cờ, lễ mít tin, ký cam kết. Tổ chức các buổi chào cờ, nói chuyện dưới cờ, giáo dục các em biết kính trọng, vâng lời thầy cô, ông bà, cha mẹ, người lớn. Tổ chức buổi nói chuyện truyền thống, các hội thi hội khỏe phù đổng, “báo tường”; “Vở sạch chữ đẹp”; “Hoa điểm 10”; Tuần học tốt……chào mừng kỉ niệm các ngày lễ lớn trong năm.Nêu gương người tốt việc tốt, vượt khó học giỏi, tổ chức cho các em tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, đôi bạn cùng tiến đặc biệt HS trường luôn có tinh thần tương thân tương ái giúp những bạn HS nghèo vươn lên trong học tập ….– Các hoạt động giáo dục lao động, hướng nghiệpGiáo dục hướng nghiệp: trường chỉ dạy hướng nghiệp cho học sinh khối 9 theo chương trình quy định của Bộ giáo dục và đào tạo, các khối khác thì chủ yếu lồng ghép vào bộ môn nhằm thông qua đó giáo dục cho học yêu nghề nghiệp, biết tự chọn được nghề nghiệp của mình.Giáo dục thẩm mỹ: Thông qua bộ môn Mỹ thuật giáo dục cho các em biết cảm nhận được cái đẹp chân chính. – Việc giảng dạy chương trình môn GDCD của trườngTrường đã tổ chức thực hiện giảng dạy môn giáo dục công dân đầy đủ theo đúng quy định của chương trình, có lồng ghép giáo dục pháp luật vào bộ môn. Tuy nhiên thực tế việc dạy và học môn giáo dục công dân ở trường còn nhiều khó khăn, giữa lý luận và thực tiễn chưa được vận dụng tốt, một số luật chưa kịp thời sửa để theo đúng với thực tế, môn giáo dục công dân từ trước đến nay chưa được coi trọng, nhiều giáo viên, học sinh, Cha mẹ học sinh vẫn xem đây là môn học phụ.– Hoạt động của giáo viên chủ nhiệm* Tầm quan trọng của công tác giáo viên chủ nhiệm đối với công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường:Giáo viên chủ nhiệm là lực lượng chính trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh là người quản lý mọi hoạt động của lớp học, là người gần gủi và sâu xác HS nhất, là người triển khai mọi hoạt động của trường của nhà trường đến từng lớp, từng học sinh. Do đó trong đầu năm học 2011-2012 Ban giám hiệu trường đã định hướng phân công những giáo viên làm công tác chủ nhiệm theo những tiêu chí sau: Có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng và trình độ giác ngộ cách mạng cao. Có uy tín – đạo đức tốt. Có tầm hiểu biết rộng. Có tinh thần trách nhiệm cao, yêu nghề, mến trẻ. Thương yêu và tôn trọng học sinh. Có năng lực tổ chức.
* Những hoạt động của giáo viên chủ nhiệm trong năm học: Thực hiện các loại sổ theo quy định của ngành: sổ liên lạc, sổ chủ nhiệm sổ theo dõi đạo đức học sinh …Tổ chức sinh hoạt lớp cuối tuần, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
Bạn đang đọc nội dung bài viết Sáng Kiến Kinh Nghiệm Vấn Đề Giáo Dục Đạo Đức Cho Học Sinh Lớp 3 Qua Môn Đạo Đức Ở Tiểu Học trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!