Đề Xuất 3/2023 # Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Chỉ Đạo Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Chăm Sóc, Nuôi Dưỡng Trẻ Mầm Non # Top 12 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Chỉ Đạo Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Chăm Sóc, Nuôi Dưỡng Trẻ Mầm Non # Top 12 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Chỉ Đạo Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Chăm Sóc, Nuôi Dưỡng Trẻ Mầm Non mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

n và có trách nhiệm trước pháp luật về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo giá cả hợp lý, ổn định. Thực phẩm hợp đồng với nhà trường phải tươi sống như: Rau, thịt được nhận vào mỗi buổi sáng và được kiểm tra đảm bảo về chất lượng, đủ về số lượng hàng ngày thì BGH và nhân viên mới ký nhận và chế biến. Nếu thực phẩm không đảm bảo chất lượng như ẩm mốc, hôi thiu, kém chất lượngSẽ cắt hợp đồng. Đối với thực phẩm nấu chín thường xuyên lưu mẫu thức ăn trong tủ lạnh 24 tiếng đồng hồ, trong quá trình sử dụng thực phẩm nếu chất lượng thực phẩm không đảm bảo thì có biện pháp xử lý kịp thời không để tình trạng dùng thực phẩm kém chất lượng trước khi chế biến cho trẻ. * Nhà trường thành lập ban chỉ đạo y tế học đường gồm: Đ/C Hiệu trưởng là trưởng ban 1 Đ/C Hiệu phó phụ trách phần nuôi dưỡng cho trẻ là phó ban Đ/C CTCĐ, Đ/C nhân viên y tế, 3 Đ/C TTCM Đại diện cha mẹ học sinh Ban chỉ đạo có trách nhiệm đẩy mạnh công tác vệ sinh an toàn thực phẩm và phòng chống các dịch bệnh trong nhà trường. Theo sự chỉ đạo của nhà trường ban chỉ đạo xây dựng kế hoạch kiểm tra hàng ngày, định kỳ cụ thể và đột xuất được phân công cụ thể đến các thành viên trong ban chỉ đạo. * Để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trước hết cần phải chú ý đến: - Cách lựa chọn thực phẩm phải tươi, đảm bảo an toàn thực phẩm tức thức ăn không bị nhiễm các hóa chất độc hại. Để làm được điều đó nhà trường đã ký hợp đồng mua bán thực phẩm tươi sạch với từng nơi cung cấp. - Cách pha chế thực phẩm phải đảm bảo từ khâu chuẩn bị chế biến, ngâm rau sau đó mới rửa khi rửa rau phải rửa xong mới được thái. Chế biến theo quy trình một chiều từ sống đến chín, không được cho thức ăn sống lẫn với thức ăn đã được nấu chín. - Khi chia thức ăn phải được bỏ vào xoong có vung đậy để đảm bảo vệ sinh tránh bụi và ruồi, muỗi. ( Kiểm tra quá trình chia ăn cho trẻ) - Thức ăn hàng ngày phải được lưu mẫu vào tủ lạnh đúng quy trình24/24 giờ. Thực hiện biện pháp này tốt thì trẻ có khả năng chống đở bệnh tật cao, trẻ phát triển lành mạnh, hài hòa, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện về thể chất. * Nơi chế biến thực phẩm luôn thường xuyên giữ vệ sinh sạch sẽ có dụng cụ riêng cho thực phẩm sống và chín. - Vệ sinh khi chế biến thực phẩm: Thực phẩm được sơ chế trên bàn, sau khi sơ chế thì chế biến ngày, đun nấu kỹ đảm bảo chất lượng. Dụng cụ chế biến và phục vụ ăn uống cho trẻ đầy đủ, dùng cho chế biến sống và chín riêng, đảm bảo vệ sinh. - Bếp nấu ăn đảm bảo đủ ánh sáng và không khí. - Bếp thực hiện quy trình một chiều để đảm bảo vệ sinh. - Tổ chức bồi dưỡng kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm cho toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường tham gia ngay vào đầu năm học. - Nhà bếp luôn luôn hợp vệ sinh, đảm bảo bếp không bị bụi, có đủ dụng cụ cho nhà bếp và đồ dùng ăn uống cho trẻ, có đủ nguồn nước sạch cho trẻ phục vụ ăn uống. Ngoài ra trong nhà bếp có bảng tuyên truyền 10 nguyên tắc vàng về vệ sinh an toàn thực phẩm cho mọi người cùng đọc và thực hiện. Phân công cụ thể ở các khâu: chế biến theo thực đơn, theo số lượng đã quy định của nhà trường, đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng và hợp vệ sinh. * Vệ sinh nhân viên nhà bếp: + 100% nhân viên nhà bếp được trang bị đầy đủ quần áo, khẩu trang, tạp dề + 100% được khám sức khỏe theo định kỳ, có sức khỏe tốt, không mắc bệnh truyền nhiễm. + 100% giáo viên không được đeo nhẫn, vòng, đồng hồ trong khi chế biến thức ăn và rửa tay bằng xà phòng trước khi chế biến thức ăn đúng quy định thường xuyên. - Đối với nhân viên nấu ăn phải thường xuyên kiểm tra sức khoẻ trước khi làm việc vào đầu năm học mới, và sau sáu tháng làm việc tiếp theo. Trong quá trình chế biến thức ăn cho trẻ đầu tóc gọn gàng, móng tay luôn cắt ngắn và sạch sẽ, tuyệt đối không được bốc thức ăn khi chia cho trẻ. - Nhà trường phối hợp cùng với công đoàn tổ chức xây dựng vườn rau cho bé tại ngay sân trường để góp phần cung cấp dinh dưỡng và cải thiện bữa ăn cho trẻ luôn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. - Bếp được trang bị sử dụng bếp ga, nồi cơm điện không gây độc hại cho nhân viên và khói bụi cho trẻ. - Cọ rửa vệ sinh các dụng cụ chế biến thực phẩm hàng ngày sau khi sử dụng.Thùng rác thải, nước gạo luôn được thoát và để đúng nơi quy định, các loại rác thải được chuyển ra ngoài hàng ngày kịp thời. - Nhân viên phải mặc trang phục trong khi nấu ăn: đeo tạp dề, đội mũ khi chế biến, đeo khẩu trang trước khi chia thức ăn và rửa tay bằng xà phòng tiệt trùng Hàng ngày trước khi bếp hoạt động, nhà trường đã có kế hoạch phân công cụ thể các nhân viên cấp dưỡng thay phiên nhau đến sớm làm công tác thông thoáng phòng cho không khí lưu thông và lau dọn sàn nhà, kệ bếp, kiểm tra hệ thống điện, ga trước khi hoạt động. Nếu có điều gì biểu hiện không an toàn thì nhân viên cấp dưỡng báo ngay với lãnh đạo nhà trường để biết và kịp thời xử lý. - Ngoài công tác vệ sinh hàng ngày, định kỳ, hàng tháng phải tổng vệ sinh xung quanh nhà bếp, vệ sinh nhà bếp - dụng cụ nhà bếp - dụng cụ ăn uống nơi sơ chế thực phẩm sống-khu chế biến thực phẩm-chia cơm-nơi để thức ăn chín - Khu nhà bếp chế biến thực phẩm được đảm bảo vệ sinh và tránh xa nhà vệ sinh, bãi rác, khu chăn nuôikhông có mùi hôi thối xảy ra khi chế biến thức ăn. - Dao thớt sau khi chế biến luôn được rửa sạch để ráo hàng ngày và được sử dụng đúng giữa thực phẩm sống và chín.Người không phận sự không được vào bếp. Biện pháp 7: Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chế độ ăn và nuôi dưỡng- chăm sóc trẻ: Để đảm bảo tiêu chuẩn ăn uống cho trẻ, để cho các bậc phụ huynh học sinh yên tâm và chính quyền địa phương cũng như các đoàn thể tin cậy ban giám hiệu nhà trường cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đôn đốc, giám sát thường xuyên, chặt chẽ, giúp chị em làm tốt nhiệm vụ, tránh phạm sai lầm. Qua công tác kiểm tra giúp chúng tôi biết được biện pháp nâng cao chất lượng nuôi dưỡng đã được thực hiện đến đâu, qua việc nắm bắt tình hình phát hiện những sai lệnh kịp thời để khắc phục. Ví dụ: Khi kiểm tra nhóm dinh dưỡng chúng tôi phát hiện thấy có một số loại thực phẩm không được tươi hoặc không đủ số lượng cân theo quy định ở trong thực đơn, nhà trường họp tổ rút kinh nghiệm ngay để các cô chấn chỉnh lại việc làm chưa tốt của mình. Tôi đã chỉ đạo nhà trường tiến hành kiểm tra như sau: - Kiểm tra các thao tắc chế biến món ăn, thực hiện quy chế ở các nhóm, có thể tiến hành kiểm tra đột xuất, không báo trước để tránh tư tưởng đối phó, kiểm tra các giờ kiểm tra bữa ăn, giờ ngũ của trẻ, vệ sinh phòng, nhóm lớp để biết giáo viên có thực hiện đúng và thường xuyên không. - Kiểm tra theo dõi chất lượng bữa ăn: cháu ăn có đúng thực đơn không? đủ số lượng cho cháu không? kiểm tra kỹ thuật chế biến món ăn có ngon, có hợp khẩu vị với trẻ không? trẻ ăn có hết suất của mình không ? - Kiểm tra sổ y tế: Theo dõi sức khỏe của cháu trên biểu đồ tăng trưởng , đối chiếu so sánh rút kinh nghiệm cho việc nuôi dưỡng chăm sóc sức khỏe cho trẻ. - Kiểm tra vệ sinh phòng nhóm lớp và vệ sinh nhà bếp (đồ dùng chế biến nấu ăn) - Phối hợp với phụ huynh học sinh cùng giám sát kiểm tra chất lượng ăn của trẻ thường xuyên trong năm học. Qua biện pháp trên tôi không chỉ đơn thuần là kiểm tra việc thực hiện biện pháp chăm sóc - dinh dưỡng cho trẻ đã đề ra mà còn giúp giáo viên trong trường chấn chỉnh lại việc làm của mình kịp thời và từ đó có ý thức làm việc cẩn thận, có trách nhiệm, không qua loa chiếu lệ Biện pháp 8: Chỉ đạo và giám sát việc xây dựng thực đơn, tính khẩu phần ăn và quá trình thực hiện: Xây dựng thực đơn và tính khẩu phần ăn cho trẻ là một việc làm mang tính chất khoa học, nhằm mục đích sử dụng tiền ăn với chất lượng cao. Khi tiền ăn được phân phối hợp lý sẽ tránh được những chi tiêu không hợp lý, giảm tối đa sự thâm, thừa tiền ăn trong ngày. Chỉ đạo, giám sát việc xây dựng thực đơn, tính khẩu phần ăn là một biện biện pháp thể hiện tính hiệu quả và tiết kiệm trong quản lý. Vì vậy tôi đã chỉ đạo đ/c hiệu phó phụ trách bán trú, kế toán, các tổ chăm sóc và các nhóm lớp hỗ trợ cho việc xây dựng thực đơn và đảm bảo khẩu phần ăn của trẻ, sau khi xây dựng thực đơn xong bố trí cho giáo viên trực tiếp xuống nhà bếp, các lớp tham quan dự giờ ăn của trẻ.từ đó tìm ra những món ăn thích hợp và bổ dưỡng đối với trẻ để chỉnh sủa được thực đơn cho phù hợp, thực đơn đi chợ hàng ngày phải có đầy đủ 3 chữ ký của người lên thực đơn, người thực hiện đi chợ và người nhận hàng khi đi chợ về. Số giao nhân thực phẩm hàng ngày phải ghi rõ số lượng và chất lượng thực phẩm khi nhận. hiệu trưởng phải có mặt từ 2- 3 lần/ tuần để duy trì thực hiện quy chế, để nắm bắt giá cả thực phẩm, để biết cách ước lượng thực phẩm bằng mắt và nhất là để kiểm soát thực đơn của trẻ trong ngày tránh tình trạng thất thoát thực phẩm, thực phẩm mua không rõ nguồn gốc, không đảm bảo chất lượng Hàng ngày kế toán vào sổ tính định lượng để cân đối tiền thu, tiền chi trong ngày của trẻ và biết được định lượng các chất và calo trẻ đạt được là bao nhiêu để kịp thời bổ xung vào ngày hôm sau. * Đánh giá khẩu phần ăn: - Hiện nay với cách tổ chức ăn uống ở trường mầm non Trung Mầu; lứa tuổi mẫu giáo được ăn hai bữa: một Chính, một bữa phụ theo yêu cầu của viện dinh dưỡng cần đạt 50% năng lượng trong ngày, phần còn lại trẻ được ăn tại gia đình. Khi đã có số lượng thức ăn của trẻ trong cả ngày ở trường mầm non và dựa vào nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng của trẻ để đánh giá khẩu phần . . Đánh giá khẩu phần ăn về các mặt: - Có đủ năng lượng so với yêu cầu không ? - Số gam Protein, Lipit, Gluxit và các vitamin, khoáng chất đặc biệt là Ca, P, Fe có đủ so với nhu cầu không ? - Tính cân đối của khẩu phần đã đạt chưa? Cụ thể là tỷ lệ động vật và protein thực vật có chiếm tỷ lệ bằng nhau theo yêu cầu, loại nào ít, loại nào nhiều? - Tỷ lệ Lipit động vật và Lipit thực vật? - Lượng vitamin A, D, E B1, C, B12 có đạt so với yêu cầu không? - Các chất khoáng như: Ca, P, Fe có đạt so với yêu cầu không? Qua số liệu trên có thể đánh giá khẩu phần ăn đó tốt hay chưa ? *Bổ xung. Dựa vào cách đánh giá trên ta sẽ có bổ xung cho khẩu phần ăn được hợp lý hơn. Ta có thể tính ra số lượng thức ăn mỗi loại khẩu phần ăn cần bổ xung. Qua điều tra khẩu phần ăn của trẻ ở trường cho thấy: khẩu phần ăn của trẻ ở trường có hôm còn thiếu năng lượng và các chất dinh dưỡng cần thiết. - Các chất dinh dưỡng chưa được cân đối. Ví dụ: Tỷ lệ Protein động vật còn thấp hơn nhiều so với nhu cầu. Tỷ lệ các chất khoáng và vitamin chưa hợp lý. Đánh giá: Một điều cần chú ý là khẩu phần của trẻ còn bị bỏ thừa có khi tới 1/4 khẩu phần. Do trẻ ốm, mệt mỏi, do thời tiết, không ăn quen món ăn đó hoặc có hôm kỹ thuật nấu ăn chưa tốt, trẻ không thích ăn. Vì vậy cần phải theo dõi số lượng thức ăn để tính toán cho chính xác. C. KẾT LUẬN. I. Kết quả nghiên cứu: Qua quá trình nghiên cứu và đưa ra các biện pháp trong quản lý chỉ đạo thực hiên hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ sức khoẻ cho trẻ trong trường mầm non, nhà trường chúng tôi đã thu được rất nhiều kết quả hết sức khích lệ cụ thể như: Số trẻ đến trường ngày càng đông, tỉ lệ bán trú ngày càng được nâng cao. Các cháu được đảm bảo an toàn 100% tại trường. Trẻ suy dinh dưỡng tỷ lệ giảm xuống còn 2%, Trẻ mắc các loại bệnh còn 4,06% kết quả được thể hiện như sau: 1.Chất lượng chăm sóc , nuôi dưỡng trẻ: Đầu năm: Độ tuổi Tổng số trẻ Kênh bình thường Kênh SDD/ TC Bệnh TMH Trẻ mắc bệnh Sâu răng 18 - 36 tháng 3-4 tuổi 4-5 tuổi 5-6 tuổi Cộng Tỷ lệ Cuối năm: Độ tuổi Tổng số trẻ Kênh bình thường Kênh suy dinh dưỡng Trẻ mắc bệnh sâu răng Bệnh TMH 18 - 36 tháng 3-4 tuổi 4-5 tuổi 5-6 tuổi Tổng cộng Tỷ lệ 2. Về đội ngũ giáo viên, nhân viên: 100% cán bộ, giáo viên đã được học tập chuyên đề về vệ sinh an toàn thực phẩm do trung tâm vệ sinh an toàn thực phẩm tỉnh tổ chức. Qua kiểm tra, dự các buổi chế biến món ăn và chăm sóc trẻ 100% các cô đều đạt khá và giỏi, đặc biệt không có vụ ngộ độc nào xảy ra. Hội thi nhân viên nuôi dưỡng giỏi cấp trường có ... đồng chí tham gia đều đạt kết quả tốt 3. Về cơ sở vật chất: Nhà trường đã cải tạo 01 nhà bếp đảm bảo quy trình một chiều, có đủ đồ dùng phục vụ chăm sóc, nấu ăn cho trẻ như: Bàn chia ăn, xoong, nồi cơm ga, máy xay thịt, tủ lạnh, tủ đựng bát, đựng dụng cụ chế biến V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Chúng ta biết rằng việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ là một công việc khó khăn, vất vả, ảnh hưởng đến việc giáo dục phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ , đến lợi ích trước mắt và sau này cho thể hệ mầm non. Đó là đường lối của Đảng, là nguyện vọng chính đáng của các bậc phụ huynh. Vì vậy trong quá trình quản lý và chỉ đạo, Ban giám hiệu nhà trường phải xác định rõ được nhiệm vụ của mình trong việc chỉ đạo thực hiện hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ như: Xác định tầm quan trọng của công tác nuôi dạy và chăm sóc trẻ ở trường Mầm non,để xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của nhà trường. Thường xuyên tổ chức cho cán bộ , giáo viên, nhân viên học tập các chuyên đề, bổ sung kiến thức và nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công tác. Xây dựng kế hoạch chỉ đạo rõ ràng, cụ thể , luôn bám sát hoạt động bán trú, tăng cương công tác kiểm tra . Nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Hàng năm thực hiện tổ chức các hội thi về công tác chăm sóc dinh dưỡng để tuyên truyền với phụ huynh, nhằm làm cho họ hiểu nhiều , sâu hơn về tầm quan trọng của ngành học mầm non để từ đó họ nhiệt tình tham gia giúp đỡ nhà trường trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ. Ngoài ra Ban giám hiệu nhà trường luôn có kế hoạch tham mưu với các cấp lãnh đạo Đảng , chính quyền, các cơ quan đoàn thể phối hợp với các ngành đóng trên địa bàn hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác nuôi dưỡng và giáo dục trẻ, khắc phục khó khăn, tích cực xây dựng các điều kiện thiết yếu về cơ sở vật chất để thu hút được đông trẻ đến trường, làm tăng thu nhập cho giáo viên cả về vật chất cũng như tinh thần để giáo viên có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ngày một tốt hơn. Không ngừng học hỏi các bạn bè đồng nghiệp,tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực quản lý và trình độ chuyên môn. Thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, năng lực sáng tạo trong quản lý trường mầm non. Sau một thời gian nghiên cứu bản thân tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm như sau: Một là: Người quản lý phải ý thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình không ngừng nghiên cứu, tìm hiều, học hỏi đồng nghiệp về kiến thức chăm sóc nuôi dưỡng trẻ, học hỏi kinh nghiệm chăm sóc nuôi dưỡng qua các phương tiện truyền hình, tài liệu, tạp chí, sách báo... để đáp ứng đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng và giáo dục trẻ. Hai là: Giáo viên phải nắm vững kiến thức, kỹ năng chăm sóc nuôi dưỡng, nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, phải có tấm lòng người mẹ thứ hai để chăm sóc nuôi dưỡng trẻ, không ngừng nâng cao bồi dưỡng nghiệp vụ chăm sóc nuôi dưỡng. Đối với giái viên nuôi dưỡng luôn cập nhật hoá các phương pháp chế biến món ăn, vệ sinh an toàn thực phẩm, chế biến thực phẩm đảm bảo ngon mắt, ngon mũi, ngon miệng, hợp khẩu vị, trẻ ăn hết khẩu phần của mình, giúp trẻ tăng cân đều hàng tháng, luôn thay đổi cách chế biến các món ăn theo mùa phù hợp với địa phương. Ba là: Làm tốt công tác tuyên truyền đến nhân dân, các bậc phụ huynh học sinh kiến thức nuôi con theo khoa học, làm cho mọi người nhận thức được về vấn đề chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại trường mầm non là rất cần thiết. Mặt khác tạo niềm tin cho các cấp lãnh đạo địa phương, các bậc phụ huynh qua từng việc làm cụ thể trong nhà trường. Bốn là: Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục để phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành viên trong trường, tham mưu cho các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tổ chức xã hội, các ban ngành đoàn thể để hỗ trợ kinh phí và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục. Đặc biệt là các bậc phụ huynh học sinh thống nhất yêu cầu, nội dung, biện pháp và phương pháp chăm sóc nuôi dưỡng hình thành cho trẻ những thói quen văn minh trong ăn uống, giao tiếp ở trường cũng như ở gia đình và ngoài xã hội. Năm là: Ban giám hiệu có kế hoạch thường xuyên kiểm tra giám sát việc thực hiện công tác chăm sóc nuôi dưỡng như chế biến các món ăn, tổ chức bữa ăn, tổ chức giấc ngủ, hình thành nề nếp thói quen vệ sinh văn minh trong ăn uống, học tập, vui chơi đối với trẻ. Sáu là: Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên về mọi mặt phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ, hội thảo sáng kiến kinh nghiệm, học hỏi kinh nghiệm của các trường điểm, cung cấp tài liệu, tạp chí, tập san về giáo dục mầm non cho giáo viên học tập nghiên cứu, đặc biệt là khâu nuôi dưỡng cách chọn mua thực phẩm đúng hợp đồng tươi ngon, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Bảy là: Nhà trường tổ chức làm rau sạch phục vụ cho ăn bán trú, động viên giáo viên, phụ huynh cung cấp lương thực, thực phẩm sạch cho nhà trường. Tám là: Nhà trường phối hợp với hội phụ huynh học sinh thành lập ban kiểm tra để thường xuyên theo dõi giám sát công tác chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ tai trường, có những phản ánh kịp thời cho ban giám hiệu để từ đó có những uốn nắn kịp thời. Chín là: Cân đo khám sức khoẻ cho trẻ theo định kỳ để báo cáo tình hình sức khoẻ của trẻ cho nhà trường và gia đình để có biện pháp chăm sóc giáo dục kịp thời. Với những kinh nghiệm trên tôi đã thực hiện trong quá trình chỉ đạo chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ tại trường đạt được một số kết quả góp phấn nhỏ bé vào sự nghiệp giáo dục trẻ ở trường mầm non. VI: KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT: Mở các lớp tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý, giúp cán bộ quản lý làm giàu tri thức và kinh nghiệm chỉ đạo. Tăng cường mở các lớp bồi dưỡng những kiến thức về dinh dưỡng và vệ sinh an thực phẩm, cách lựa chọn thực phẩm đến cách chế biến, bảo quản thực phẩm, thêm không chỉ cho cán bộ, giáo viên trong trường mầm non mà cả các bậc phụ huynh đều được năm bắt. Để phối kết với nhà trường và gia đình chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ đạt hiệu quả cao. Những kết quả đạt được của nhà trường trong năm học 2015-2016,đó là bằng chứng thực tiễn đã chứng minh sự cần thiết mà tôi đã nghiên cứu đưa ra các biện pháp chỉ đạo thực hiện hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ là rất đúng đắn. Mặc dù đã cố gắng, với tâm huyết của mình nhưng do khả năng có hạn, nên sáng kiến kinh nghiệm của tôi không tránh khỏi thiếu sót, hạn chế; rất mong được sự góp ý, chỉ bảo của lãnh đạo ngành giáo dục, của bạn bè đồng nghiệp để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn. Phương Trung, ngày 25 tháng 4 năm 2016 Người viết Hoàng Thị Xuân PHẦN DUYỆT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO: Trước khi viết sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã tham khảo các tài liệu như: - Chương trình CS-ND trẻ các độ tuổi - Cuốn sách hướng dẫn vệ sinh an toàn thực phẩm trong các cơ sở giáo dục mầm non ( NXB Giáo Dục). - Bảng nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam của Bộ y tế - Viện dinh dưỡng. (NXB Y học Hà Nội Năm 2004). - 10 lời khuyên dinh dưỡng hợp lý của THS Cù Thị Thủy - Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý cơ sở Giáo dục giai đoan 2006 - 2010. - Sổ tính khẩu phần ăn dùng trong các trường mầm non do Sở GD & ĐT Thái Nguyên cấp phát. - Tài liệu bồi dưỡng hè. Kế hoạch nhiệm vụ năm học. - Nghi quyết Trung ương II (khóa VIII) NXB CTQG Hà Nội/ 1997 - Tài liệu bồi dưỡng cán bộ QL,I, III, NXB HVQLGD Hà Nội/2007 - Tài liệu bồi dưỡng CBQL. MN năm học 2013- 2014 - Chiến lược phát triển GD 1998- 2020 của bộ GD -ĐT

Skkn Một Số Biện Pháp Chỉ Đạo Nâng Cao Chất Lượng Chăm Sóc

25/5/1964

Nữ

4. Địa chỉ: Phường Trung Dũng 5. Điện thoại: Cơ quan 3846465; NR: 3822072 6. Chức vụ: Chuyên viên 7. Đơn vị công tác: Sở Giáo dục và Đào tạo Đồng Nai

II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO. – Trình độ chuyên môn: Cử nhân khoa học – Năm nhận bằng:

1999

– Chuyên ngành đào tạo: Tâm lý Giáo dục Mầm non

III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC – Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Quản lý giáo dục – Số năm có kinh nghiệm: 19 năm – Các sáng kiến đã có trong 5 năm gần đây: + Một số biện pháp chỉ đạo tổ chức hoạt động vui chơi trong trường mầm non. + Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật mầm non. + Một số biện pháp nâng cao chất lượng Giáo dục Âm nhạc trong trường mầm non. + Một số biện pháp nâng cao chất lượng Làm quen văn học trong trường mầm non theo chương trình GDMN. 1

1

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHĂM SÓC – NUÔI DƯỠNG TRẺ TRONG TRƯỜNG MẦM NON **************** I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Giáo dục mầm non (GDMN) là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ của trẻ em Việt Nam. Những công trình nghiên cứu khoa học về sinh lý, tâm lý học xã hội đều khẳng định sự phát triển của trẻ từ 0- 6 tuổi là giai đoạn có tính chất quyết định để tạo nên thể lực, nhân cách, năng lực phát triển trí tuệ trong tương lai. Để đạt được điều đó đòi hỏi trẻ em từ 0-6 tuổi phải được chuẩn bị một cách đầy đủ về tâm thế để thích nghi với một giai đoạn mới.Vì vậy, đầu tư dinh dưỡng cho trẻ là đầu tư cho nguồn nhân lực có đủ sức khỏe, trí tuệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần đảm bảo sự công bằng xã hội, nâng cao chất lượng dân số, thực hiện quyền trẻ em…. Trong những năm qua Vụ Giáo dục Mầm non đã triển khai thực hiện chương trình Giáo dục mầm non ( GDMN) mới với quan điểm và mục tiêu chung là giúp trẻ phát triển toàn diện, năng lực, phẩm chất, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và việc học tập suốt đời. Vì vậy bên cạnh việc xây dựng kế hoạch giáo dục phù hợp với trẻ thì việc quan tâm chăm sóc – nuôi dưỡng cũng là vấn đề cấp thiết cần chú trọng, nhât là đối với trẻ em trong độ tuổi từ 0 – 6 tuổi. Một chế độ dinh dưỡng hợp lý sẽ là yếu tố quan trọng cho việc phát triển toàn diện của trẻ, dinh dưỡng không những giúp trẻ phát triển chiều cao, cân nặng, sức đề kháng chống lại bệnh tật mà còn cần thiết cho sự phát triển của não bộ. Sự phát triển hoàn hảo của não bộ trong những năm đầu đời là nền tảng cho trí thông minh sau này của trẻ. Do đó việc chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ trong trường mầm non cũng là nhiệm vụ trọng tâm của ngành học, tuy nhiên trong thực tế hiện nay vẫn còn một số cơ sở GDMN có tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng khá cao, nguyên nhân một phần do đời sống kinh tế của nhiều hộ dân ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, mức thu nhập không ổn định còn lệ thuộc vào thời vụ nên sự đóng góp tiền ăn cho trẻ ở nhiều trường quá thấp (10.000 – 12.000 đồng/ngày) chính vì vậy bữa ăn các cháu chưa đảm bảo dinh dưỡng theo yêu cầu. Đồng thời đội ngũ quản lý – giáo viên còn hạn chế về kiến thức, kỹ năng thực hành chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ, chưa linh họa, sáng tạo trong việc xây dựng khẩu phần thực 1

2

đơn phù hợp với địa phương, phù hợp với trẻ, bên cạnh đó công tác truyền thông dinh dưỡng chưa thực sự đến tận hộ gia đình nhằm đảm bảo sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ. Vì vậy để nâng cao chất lượng chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ tôi chọn đề tài ” Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ trong trường mầm non”. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận. – Ngày 22/12/2012 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 226/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 20112020 và tầm nhìn đến năm 2030 với quan điểm cải thiện tình trạng dinh dưỡng là trách nhiệm của các cấp, các ngành và mọi người dân. Bảo đảm dinh dưỡng cân đối, hợp lý là yếu tố quan trọng nhằm hướng tới phát triển toàn diện về tầm vóc, thể chất trí tuệ của người Việt Nam và nâng cao chất lượng cuộc sống, đảm bảo mục tiêu ” Đến năm 2020 suy dinh dưỡng trẻ em, đặc biệt thể thấp còi được giảm mạnh, góp phần nâng cao tầm vóc và thể lực của người Việt Nam..” – Thông tư số 07/2011/TT-BGDĐT ngày 17/2/2011 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định về Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường mầm non ở điều 8, tiêu chuẩn 5 đã nêu: Chiều cao, cân nặng trẻ phát triển bình thường theo độ tuổi đảm bảo sự phát triển thể chất theo mục tiêu của Chương trình Giáo dục mầm non. – Công văn số 5396/BGDĐT-GDMN ngày 20/8/2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn nhiệm vụ Giáo dục mầm non năm học 20122013 có nêu: “Tăng cường biện pháp phòng chống suy dinh dưỡng, giảm tỷ lệ trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân dưới 8% và tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi dưới 10%. Tiếp tục chỉ đạo mở rộng mô hình phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ trong các cơ sở Giáo dục mầm non. Đặc biệt là phòng chống suy dinh dưỡng thể thấp còi và thiếu vi chất dinh dưỡng. Quản lý chặt chẽ chất lượng bữa ăn ở những nơi tổ chức ăn bán trú, đảm bảo công tác vệ sinh an toàn thực phẩm trong các cơ sở giáo dục mầm non”. – Quyết định số 4299/QĐ-UBND ngày 06/12/2007 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Nai ban hành kế hoạch thực hiện Quyết định 149/2006 /QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về phê duyệt đề án ” Phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2006-2015″ có nêu ” Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng ban đầu cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ của trẻ em Việt Nam. Việc chăm lo phát triển giáo dục mầm non là trách nhiệm chung của các cấp chính quyền, của mỗi ngành, mỗi gia đình và toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. 1

3

Việc chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non phải được thực hiện với sự phối hợp, gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội”. Trong những năm qua thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước; Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngành học mầm non tỉnh Đồng Nai đã triển khai thực hiện chương trình giáo dục Mầm non mới với quan điểm giúp trẻ phát triển đầy đủ các mặt thể lực, ngôn ngữ, nhận thức, thẩm mỹ, tình cảm xã hội nhằm hình thành ở trẻ những cơ sở đầu tiên của nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở thế kỷ 21. Qua quá trình thực hiện tùy theo điều kiện thực tế của địa phương, các đơn vị đã có sự chuẩn bị về cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng đồ chơi, đội ngũ giáo viên và vận dụng các nội dung, hình thức để tổ chức tốt các hoạt động chăm sóc – giáo dục trẻ tương đối có hiệu qủa. Ngành GDMN đã có nhiều biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ngày một tốt hơn, đã tạo được sự chuyển biến quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tế về chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ. Tuy nhiên tính đến nay công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ ở các đơn vị tổ chức bán trú còn gặp nhiều khó khăn do tiền ăn quá thấp so với giá cả thực phẩm luôn biến động như hiện nay (11.000 đồng – 12.000 đồng/ ngày), chưa thực sự đảm bảo chất lượng dinh dưỡng, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng vẫn còn ở mức cao, nhất là tỷ lệ trẻ thấp còi (hiện nay 11-12%) đặc biệt tập trung ở những nơi đời sống kinh tế thấp, các xã nghèo, vùng nông thôn, vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa… Công tác truyền thông về dinh dưỡng chưa phổ biến đến tận hộ gia đình, sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc chăm lo bữa ăn của trẻ đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, nhu cầu dinh dưỡng chưa được chặt chẽ, chưa thường xuyên, phụ huynh thiếu kiến thức và chưa quan tâm đến chất lượng dinh dưỡng cho trẻ. Bên cạnh đó đội ngũ các bộ quản lý đa phần mới được bổ nhiệm làm công tác bán trú còn hạn chế về kiến thức chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ. Từ những nguyên nhân trên cho chúng ta thấy việc tìm tòi các biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ trong trường mầm non là quan trọng và cần thiết, đó chính là hoạt động thiết thực giúp cho các cơ sở GDMN từng bước thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc – giáo dục trẻ ngày càng tốt hơn. 2. Nội dung biện pháp thực hiện. Trong thực tế hiện nay nhu cầu gửi con em vào các trường mầm non là rất lớn, vì vậy mà mạng lưới trường, lớp mầm non phát triển ngày càng nhiều, qui mô phát triển tăng thì đòi hỏi việc nâng cao chất lượng chăm sóc – giáo dục trẻ càng cao. Chất lượng chăm sóc – giáo dục trẻ là tiền đề quan trọng để nhà trường phát huy tầm ảnh hưởng của mình đến với cộng đồng. Chất lượng chăm sóc – giáo dục của nhà trường có đảm bảo, trẻ em có khoẻ mạnh và phát triển tốt thì vai trò của nhà trường mới được phụ huynh và cộng đồng thừa nhận. Vì 1

4

vậy, nâng cao chất lượng chăm sóc – giáo dục trẻ phải là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong trường mầm non. Song song với việc tạo môi trường cho trẻ học tập tốt thì phải có 1 chế độ dinh dưỡng hợp lý và để đảm bảo điều đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý – giáo viên mầm non phải được trang bị kiến thức chăm sóc, nuôi dạy trẻ theo khoa học, biết kết hợp hài hòa giữa chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với từng độ tuổi. Do đó để nâng cao chất lượng chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ trong trường mầm non trẻ tôi đã đề ra những biện pháp thực hiện như sau: a. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên mầm non Ngày nay cùng với sự phát triển chung của xã hội thì mỗi gia đình đều có cuộc sống sung túc đầy đủ hơn, vì vậy trẻ em được hưởng sự chăm sóc đặc biệt hơn, do đó rất nhiều phụ huynh cho rằng khi có điều kiện kinh tế tốt thì nên cho con cái thỏa sức ăn uống theo nhu cầu mà ít quan tâm đến chế độ dinh dưỡng hợp lý, cũng có một bộ phận phụ huynh do đời sống kinh tế khó khăn, kiến thức chăm sóc trẻ còn hạn chế thì quan niệm có ăn là tốt rồi. Từ đó dẫn đến việc trẻ đến trường mầm non với tình trạng dinh dưỡng khác nhau, có trẻ thừa cân béo phì, có trẻ thấp còi, ốm yếu. Điều đó cho chúng ta thấy rằng việc chăm sóc, nuôi dưỡng không chu đáo sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của trẻ cả về thể chất lẫn trí tuệ. Một chế độ dinh dưỡng không đầy đủ, không hợp lý sẽ kềm hãm sự phát triển của trẻ, trẻ dễ bị ốm đau, bệnh tật, cơ thể chậm phát triển về chiều cao, về cân nặng, suy giảm hệ miễn dịch…..Nhất là đối với trẻ em trong độ tuổi từ 0 – 6 tuổi, dinh dưỡng là yếu tố quan trọng cho việc phát triển toàn diện của trẻ. Do nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ ở mỗi giai đoạn khác nhau, vì vậy thức ăn dành cho trẻ cũng phải phù hợp theo từng giai đoạn để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và phát triển một cách toàn diện. Trẻ mầm non ngoài chế độ ăn đa dạng các chất như: chất đạm, chất béo, bột đường, vitamin…thì việc cân đối khẩu phần hợp lý là điều quan trọng và để đảm bảo cho trẻ có sự phát triển hài hòa giữa thể chất và trí tuệ đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý – giáo viên – nhân viên phải có những kiến thức chăm sóc – nuôi dạy trẻ theo khoa học, tuy nhiên thực tế hiện nay đa số đội ngũ cán bộ quản lý mới được bổ nhiệm phụ trách bán trú còn rất mới mẻ trong việc chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ, chưa hiểu biết hết những nội dung cần thiết của người cán bộ quản lý bán trú, từ đó việc chỉ đạo, bồi dưỡng giáo viên, nhân viên về công tác này trong trường mầm non còn hạn chế, vì vậy căn cứ vào kế hoạch nhiệm vụ năm học, kế hoạch hoạt động của mạng lưới chuyên môn cấp tỉnh hàng năm tôi xây dựng nội dung bồi dưỡng cho từng đối tượng cụ thể như sau:

1

5

6

Công tác y tế học đường trong việc chăm sóc sức khỏe, phòng chống dịch bệnh cho trẻ mầm non. */ Đối với đội ngũ giáo viên – Hướng dẫn cho đội ngũ giáo viên biết cách theo dõi sự phát triển của trẻ qua biểu đồ tăng trọng, phòng chống các bệnh theo mùa, sử trí kịp thời khi trẻ bị té, hóc sặc, sốt cao…. – Học tập và thực hiện tốt nội qui, qui chế đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm trong việc chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ. – Giáo dục trẻ những hành vi văn minh trong ăn, uống, sinh hoạt hàng ngày, kỹ năng sống trong môi trường xã hội, sinh hoạt, học tập. – Nội dung, yêu cầu giáo dục dinh dưỡng từng độ tuổi. – Lồng ghép nội dung giáo dục dinh dưỡng vào các hoạt động giáo dục, hoạt động sinh hoạt hàng ngày. Từ những nội dung trên từng bước giúp giáo viên thực hành những kỹ năng chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ ngày một tốt hơn. */ Đội ngũ nhân viên cấp dưỡng – Hướng dẫn cho đội ngũ nhân viên cấp dưỡng cách chế biến đúng qui trình, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, cách bảo quản thức ăn, nước uống của trẻ. – Nôi qui, qui chế của nhân viên khi vào bếp, khi chế biến, phân chia thức phẩm. – Tham mưu tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho cấp dưỡng. – Tổ chức dự giờ ăn hàng ngày của trẻ nhằm rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng bữa ăn….. Tóm lại với những nội dung trên, tôi chọn thời gian bồi dưỡng phù hợp với từng đối tượng, lúc đầu là đội ngũ cốt cán của 11 đơn vị huyện, rồi từ đội ngũ này nhân rộng ra toàn huyện, toàn tỉnh. b. Tổ chức chuyên đề Song song với việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ quản lý- giáo viên thì tôi cũng chỉ đạo các đơn vị thực hiện chuyên đề ” nâng cao chất lượng chăm sóc – nuôi dạy trẻ ” chuyên đề chia theo từng giai đoạn, mỗi giai đoạn đi sâu vào 1 nội dung cụ thể, về biện pháp thực hiện, hướng dẫn lồng ghép các hoạt động giáo dục… cuối mỗi giai đoạn các đơn vị sẽ đánh giá kết quả đạt được và đề ra phương hướng thực hiện cho giai đoạn sau. 1

7

c. Xây dựng điểm chỉ đạo Để kịp thời đánh giá, rút kinh nghiệm chuyên đề tôi chọn trường mầm non Hoa Mai là điểm chỉ đạo, nơi đây là điểm thực hành học tập trao đổi kinh nghiệm các hoạt động chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ. Theo chu kỳ 3 tháng/lần Ban hướng dẫn nghiệp vụ tỉnh họp sẽ tổ chức dự giờ, kiến tập hoạt động mẫu đánh giá rút kinh nghiệm trước khi triển khai đại trà. d. Tổ chức hội thi ” Cấp dưỡng khéo”, ” Tuyên truyền viên giỏi”… Ngoài mục đích tìm ra những cấp dưỡng khéo thì việc tổ chức hội thi cũng là dịp bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho đội ngũ cấp dưỡng, tạo sự đoàn kết phối hợp giữa phụ huynh – học sinh – giáo viên – nhân viên trong việc chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ và cũng là tạo điều kiện cho các đơn vị được giao lưu, học tập lẫn nhau, đồng thời đây cũng là phương pháp truyền thông giáo dục dinh dưỡng đạt kết quả nhất trong cộng đồng và các bậc cha mẹ. đ. Tổ chức tham quan học tập ngoài tỉnh Ngoài việc thường xuyên cho đơn vị yếu học tập đơn vị mạnh trong tỉnh, thì tôi tham mưu lãnh đạo ngành tổ chức cho Ban hướng dẫn nghiệp vụ tỉnh, một số cán bộ quản lý tốt tham quan các đơn vị bạn ngoài tỉnh như: Măng non quận 10, trường 19/5 thành phố Hồ Chí Minh. Ở những đơn vị này chúng tôi đã học tập rất nhiều những kinh nghiệm quí báu trong việc quản lý dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe, đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho trẻ bán trú, bồi dưỡng nâng cao tay nghề đội ngũ cấp dưỡng……..Từ những kinh nghiệm đó đội ngũ cán bộ quản lý các đơn vị huyện đã tích lũy thêm những điều bổ ích, những kinh nghiệm hay bổ sung kiến thức trong việc chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ mầm non. g. Phát động phong trào sưu tầm, sáng tác thơ, chuyện kể có nội dung giáo dục dinh dưỡng Giáo dục dinh dưỡng là nội dung mới của chương trình GDMN, thông qua các nội dung này nhằm hình thành cho trẻ những kỹ năng sống trong xã hội, thói quen, hành vi văn minh trong ăn uống, sinh hoạt hàng ngày, nhận biết các nhóm thực phẩm, các món ăn có lợi cho cơ thể, ích lợi dinh dưỡng, vì thế phát động phong trào sưu tầm, sáng tác thơ, chuyện là một hình thức giúp trẻ dễ nhớ, hình thành thói quen tốt trong giáo dục dinh dưỡng và giúp cho đội ngũ giáo viên trau dồi, bổ sung kiến thức về giáo dục dinh dưỡng. h. Kiểm tra, giám sát – Đối với các trường mầm non thì hàng ngày phải kiểm tra số lượng, chất lượng thực phẩm và để công tác kiểm tra, giám sát mang tính khách quan tôi đã chỉ đạo các đơn vị thường xuyên thay đổi thành viên kiểm tra, mỗi ngày phải 1

8

đảm bảo có 3 thành viên, sau mỗi tuần sẽ thay đổi 1 trong 3 thành viên đó bằng 1 thành viên mới và khi kiểm tra phải nhận xét về số lượng và chất lượng thực phẩm trong ngày. – Tổ chức kiểm tra tay nghề cho đội ngũ cấp dưỡng về vệ sinh an toàn thực phẩm, nấu ăn đúng qui trình và chú trọng thường xuyên giáo dục hình thành thói quen tốt về vệ sinh cá nhân, giữ gìn vệ sinh chung trong sinh hoạt hàng ngày của bếp ăn. – Hằng năm nhà trường đều mời đội vệ sinh phòng dịch của trung tâm y tế huyện đến kiểm tra bếp ăn của nhà trường, từ đó có hướng khắc phục, đầu tư cơ sở vật chất đảm bảo yêu cầu đúng qui cách. Đồng thời phòng GDMN Sở giáo dục và đào tạo cũng thường xuyên theo lịch định kỳ hoặc phối kết hợp với thanh tra hành chính chuyên ngành kiểm tra, giám sát các chỉ tiêu dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm, nhằm từng bước nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ trong trường mầm non ngày càng tốt hơn. III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Từ những biện pháp thực hiện như trên với sự kết hợp chặt chẽ giữa cán bộ chỉ đạo và đội ngũ giáo viên, nhân viên bước đầu đã cho thấy việc thực hiện chương trình Giáo dục mầm non mới nói chung và việc nâng cao chất lượng chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ nói riêng đạt được kết quả tương đối tốt. Sự chuyển biến trong đội ngũ cán bộ quản lý – giáo viên – nhân viên và phụ huynh học sinh trong việc thực hiện giáo dục dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe, xây dựng thực đơn, khẩu phần, chế độ dinh dưỡng hợp lý, đã giúp cho các trường mầm non đạt kết quả tốt trong việc giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng nhẹ cân, thấp còi và hạn chế tình trạng trẻ thừa cân, béo phì. Qua đó còn hình thành cho trẻ những hành vi văn minh trong ăn uống, kỹ năng sống trong môi trường xã hội, sinh hoạt hàng ngày tạo tiền đề cho trẻ phát triển một các toàn diện, đặt nền tảng đầu tiên cho sự hình thành phẩm chất con người mới xã hội chủ nghĩa. So với thực trang ban đầu tính đến nay đội ngũ cán bộ quản lý – giáo viên đã – nhân viên có sự chuyển biến rõ rệt kết quả cụ thể như sau: 1. Đối với đội ngũ cán bộ quản lý. – Hằng năm Ban Giám hiệu nhà trường đều có kế hoạch tham mưu kinh phí cải tạo, bổ sung cơ sở vật chất, tạo môi trường sư phạm khang trang sạch đẹp, thân thiện, gần gũi với trẻ. Bếp ăn đúng qui cách, sạch đẹp và an toàn, trang thiết bị đồ dùng phục vụ công tác bán trú sạch sẽ, inox hóa, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Các lớp học khang trang đủ các điều kiện tối thiểu phục vụ vệ sinh ăn, ngủ cho trẻ. – Đã đưa công tác truyền thông dinh dưỡng đến từng hộ phụ huynh thông qua các hoạt động như ” bé tập làm nội trợ” hội thi “cấp dưỡng khéo”, 1

9

” Tuyên truyền viên giỏi”, ” bảng tin tuyên truyền” từ đó sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ ngày càng chặt chẽ tạo điều kiện cho việc triển khai chuyên đề dinh dưỡng đạt kết quả tốt hơn. – Thường xuyên cập nhật những kiến thức chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ trong sách báo, mạng Internet, tài liệu bồi dưỡng của Vụ GDMN, từ đó có nhiều biện pháp linh hoạt, sáng tạo trong việc xây dựng thực đơn phù hợp với nguồn thực phẩm của địa phương, rẻ tiền, ngon và đảm bảo chất lượng bữa ăn cho trẻ. 2. Đối với giáo viên. – Từ việc nhận thức chưa đầy đủ về dinh dưỡng, các qui định về vệ sinh ăn, ngủ, chăm sóc sức khỏe cho trẻ, kỹ năng thực hành chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ, đến nay đa số giáo viên nắm vững kiến về dinh dưỡng mầm non, thực hiện tốt các qui định vệ sinh an toàn thực phẩm, theo dõi sự phát triển của trẻ qua biểu đồ tăng trọng, chăm sóc sức khỏe, vệ sinh phòng bệnh, đảm bảo an toàn cho trẻ. – Biết lồng ghép các nội dung giáo dục dinh dưỡng vào các hoạt động giáo dục một cách nhẹ nhàng không nặng nề, gò ép và thông qua hoạt động ” Bé tập làm nội trợ” đã giúp trẻ có những kiến thức cơ bản về dinh dưỡng, các kỹ năng đơn giản trong việc chế biến thực phẩm, các loại nước uống hàng ngày. Đây cũng là một phương pháp truyền thông giữa gia đình và nhà trường trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ. 3. Đối với nhân viên – 100% đội ngũ nhân viên cấp dưỡng đã nhận thức đầy đủ về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong việc nuôi dưỡng trẻ, biết cách bảo quản, chế biến thực phẩm theo đúng qui trình, thực hiện tốt các qui định về vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân trong bếp ăn. – Đa số đều tham gia lớp bồi dưỡng nấu ăn do địa phương tổ chức nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ, chúng tôi đã tập trung chỉ đạo thực hiện tốt hoạt động này trong các đơn vị thực hiện, với những biện pháp đã nêu trên, bước đầu đã đạt được kết qủa nhất định và qua quá trình chỉ đạo cũng đã rút ra một số kinh nghiệm sau: – Phải làm cho đội ngũ cán bộ quản lý – giáo viên – nhân viên ý thức tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, học tập tích lũy kiến thức khoa học về chăm 1

10

sóc – nuôi dưỡng trẻ mầm non, để giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất lẫn trí tuệ, tạo tiền đề cho việc hình thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam. – Phải xây dựng kế hoạch bồi dưỡng lâu dài cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo viên – nhân viên xuyên suốt quá trình thực hiện chuyên đề dinh dưỡng và chương trình Giáo dục mầm non mới. – Tăng cường kiểm tra rút kinh nghiệm để phát huy những ưu điểm và khắc phục những tồn tại khi thực hiện chương trình Giáo dục mầm non mới nói chung và chuyên đề dinh dưỡng nói riêng. Từ thực tiễn khi tổ chức hoạt động nâng cao chất lượng chăm sóc – nuôi dưỡng trẻ trong trường mầm non tôi có những đề xuất sau: – Tham mưu kinh phí đầu tư cơ sở vật chất cho trường mầm non đạt chuẩn nói chung và bếp ăn đúng qui định nói riêng để đảm bảo chất lượng chăm sóc – nuôi dưỡng – giáo dục trẻ. – Dành ngân sách, nguồn kinh phí trang bị đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị đúng yêu cầu để thực hiện chương trình Giáo dục mầm non mới nói chung và chuyên đề dinh dưỡng nói riêng, tạo môi trường an toàn, thân thiện tích cực cho trẻ hoạt động sinh hoạt, vui chơi, học tập. V. TÀI LIỆU THAM KHẢO – Tạp chí Giáo dục mầm non số 4/2010 do Bộ Giáo dục – Đào tạo ban hành. – Chương trình Giáo dục mầm non do Bộ Giáo dục – Đào tạo ban hành năm 2009. – Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình Giáo dục mầm non 3 độ tuổi do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2009. Ý kiến Lãnh đạo

Đồng Nai, ngày 31 tháng 5 năm 2013 Người viết

Nguyễn Thi Lan 1

11

1

12

1

13

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Chỉ Đạo Nâng Cao Chất Lượng Xây Dựng Môi Trường Giáo Dục Lấy Trẻ Làm Trung Tâm Trong Trường Mầm Non

do các cô giáo tự tay trồng. Khu thể chất với những đồ dùng, đồ chơi như cầu trượt, đu quay, xích đu, ống chui...Ngoài những dụng cụ thể chất được cấp trên quan tâm đầu tư, các cô giáo còn tự thiết kế những đồ dùng thể chất từ những nguyên liệu cũ như đu quay bằng lớp xe, bò chui dưới lốp xe, và thang leo dây thừng, con đường trải nghiệm trên sỏi, trên cát, đảm bảo các cháu vui chơi được an toàn. Ảnh: Hoạt động chơi thể chất - Khu vui chơi với cát và nước: Các bé được thỏa sức sáng tạo: vẽ trên cát, đong cát, xúc cát ...Những vật nào chìm, vật nào nổi trong nước. Ảnh: Hoạt động chơi với cát và nước - Không gian sáng tạo: Không gian sáng tạo của bé, các bé được thỏa sức sáng tạo với những hộp bìa cát tông, những viên đá cuội, rồi làm thí nghiệm với nước và màu, rồi chơi với kính hiển vi... Ảnh: Cô và trò hoạt động trong không gian sáng tạo. - Trẻ mầm non "Học bằng chơi, chơi mà học", việc học và việc dạy không tự nó diễn ra mà giáo viên cần tạo ra các điều kiện để thực hiện. Môi trường giáo dục được thiết kế tốt là điều kiện hỗ trợ hiệu quả nhất cho giáo viên và trẻ thực hiện hoạt động dạy và hoạt động học ở trường mầm non, cho phép trẻ tham gia một cách tích cực. Với diện tích đất của trường rộng tôi đã tham mưu với ban giám hiệu và cùng với các chị em giáo viên, nhân viên tạo cho các bé có vườn hoa; vườn rau; Vườn cây ăn quả; Khu chăn nuôi các con vật. - Với khu vườn hoa của bé: Nhà trường quy hoạch vườn hoa với các loại hoa gần gũi. Với vườn hoa cô giáo có thể cùng trẻ trò chuyện, quan sát, trao đổi về đặc điểm của các loại hoa. Ảnh giờ hoạt động ngoài trời của các bé lớp nhà trẻ, các bé cùng cô giáo xay xưa quan sát và trò chuyện về những bông hoa đồng tiên nhiều màu sắc. Ảnh cô và các bé lớp 3 tuổi khám phá hoa ngũ sắc lung linh sắc màu. - Ở mỗi lớp học giáo viên cùng trẻ còn thiết kế góc thiên nhiên sinh động, ở đây trẻ được chăm sóc, tưới nước cho hoa, nhổ cỏ cho cây và đặc biệt không bao giờ bé bẻ cành hái hoa. Ảnh cô và trò góc thiên nhiên - Khu vườn rau của bé: Rau xanh không thể thiếu trong bữa ăn hàng của mỗi chúng ta, rau xanh cung cấp nhiều Vitamin và muối khoáng cho cơ thể bé nhanh lớn. Để đảm bảo cho bé có rau sạch trong bữa ăn hàng ngày tại trường, các cô, các bác trong nhà trường đã giành ra một quỹ đất để trồng một vườn rau. Ở vườn rau các bé còn được học tập, tìm hiểu và trải nghiệm cách trồng rau, chăm sóc rau và thu hoạch rau. Ảnh cô và trò quan sát vườn rau, trải nghiệm cách trồng rau và thu hoạch rau. - Vườn cây của bé: Đến với vườn cây của bé tại trường Mầm Non bé được quan sát, theo dõi sự phát triển của cây, theo dõi cây ra hoa, đậu quả, đến khi quả chín. Ảnh cô và trò quan sát vườn cây của bé - Khu chăn nuôi của bé: Tôi tận dụng một góc nhỏ của trường cùng các chị em giáo viên thiết kế khu chăn nuôi của bé với những con vật gần gũi rễ thương: như thỏ, mèo, gà tre, chim câu ... Các bé được cùng cô giáo quan sát, trao đổi về đặc điểm của từng con vật, và được trải nghiệm cho các con vật ăn . Ảnh cô và trò quan sát các con vật ở khu chăn nuôi. - Góc địa phương: Trường tôi các bé học tại trường chủ yếu là dân tộc kinh và dân tộc mường. Ba mẹ các bé chủ yếu làm nghề nông. Song do khoa học kỹ thuật phát triển nghề nông cày bừa thủ công được thay bằng cày máy, các dụng cụ lao động lao động cũng được thay thế. Những trang phục và nhạc cụ của người dân tộc cần được giữ gìn để duy trì bản sắc của dân tộc. Hiểu được điều đó tôi cùng các cô giáo đã tận dụng một không gian nhỏ để làm góc địa phương. Nơi đây các cô giáo sưu tầm những dụng cụ lao động, những sản phẩm của địa phương, trang phục và nhạc cụ của dân tộc. Các bé được tha hồ thăm quan, trải nghiệm. Các bạn dân tộc kinh được mặc trang phục của dân tộc mường, được cùng cô giáo đánh cồng, đánh chiêng, đó là nhạc cụ đặc trưng của dân tộc mường. Ảnh cô và trò hoạt động góc địa phương. 4.5: Biện pháp 5: Xây dựng môi trường xã hội: Đây là môi trường trường trong nhà trường, gia đình và xã hội - Cần quan tâm đến sự giao tiếp của cô với cô, cô với trẻ, trẻ với trẻ, cô với phụ huynh - Cần xây dựng môi trường giao tiếp chân tình, cở mở - Lắng nghe ý kiến của trẻ, tôn trọng trẻ. - Giáo viên, người lớn cần là tấm gương cho trẻ học tập và làm theo. - Môi trường giao tiếp cởi mở, thân thiện giữa cô với trẻ, giữa trẻ với trẻ và giữa trẻ với môi trường xung quanh sẽ tạo cơ hội cho trẻ được chia sẻ, giãi bày tâm sự, nguyện vọng, mong ước của trẻ với cô, với bạn bè, nhờ vậy mà cô hiểu trẻ hơn, trẻ hiểu nhau hơn, hoạt động phối hợp nhịp nhàng hơn nên hiệu quả hoạt động cũng cao hơn, trẻ yêu trường, yêu lớp, yêu cô giáo và bạn bè hơn. 4.6: Biện pháp 6: Chỉ đạo lớp điểm về xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm: Bản thân tôi tham mưu với ban giám hiệu xây dựng 4 nhóm, lớp điểm: Điểm toàn diện về xây môi trường trong lớp và môi trường ngoài lớp học, điểm về môi trường xã hội. Các lớp điểm: Lớp Nhà trẻ 24 -36 tháng tuổi D1. Lớp mẫu giáo 3 tuổi C1. Lớp mẫu giáo 4 tuổi B3 và lớp mẫu giáo 5 tuổi A5. Mỗi độ tuổi chúng tôi chỉ đạo một lớp điểm. - Mỗi lớp xây dựng kế hoạch " Xây dựng môi trường lớp học Mần Non lấy trẻ làm trung tâm" phù hợp với điều kiện, tình hình trẻ của lớp mình theo các lĩnh vực hoạt động. Với sự chỉ đạo lớp điểm về xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, nhà trường đã tổ chức hop, rút kinh nghiệm khi xây dựng môi trường, thiết kế các hoạt động cho trẻ học tập, trải nghiệm. Nhà trường đã tổ chức thành công chuyên đề về xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm tới 100% cán bộ quản lý và giáo viên cốt cán các trường mầm non trong huyện dưới sự chỉ đạo của Phòng giáo dục đào tạo. Đó cũng là một thành công lớn về công tác chuyên môn, từ bốn nhóm lớp điểm nhà trường đã triển khai nhân rộng tới 100% các nhóm lớp trong toàn trường. Chỉ đạo lớp điểm là đòn bẩy của phong trào, là cơ sở để nâng cao năng lực chuyện môn và chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ. Qua chỉ đạo điểm, giáo viên đã học tập thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn. Chất lượng về xây dựng môi trường giáo dục trẻ được nâng lên. - Để phát huy tốt vai trò của lớp điểm mỗi tháng nhà trường tổ chức ít nhất một lần kiến tập, sinh hoạt chuyên môn tại lớp điểm về chuyên đề xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, sau đó lại được nhân rộng tới 100% các nhóm, lớp. Ảnh: Tổ chức các hoạt động tại các lớp điểm cuả trường 4.7. Biện pháp 7: Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá và tuyên dương khen thưởng kịp thời : Kiểm tra là một việc làm thường xuyên, kiểm tra bằng nhiều hình thức, kiểm tra toàn diện, chuyên đề, kiểm tra theo định kỳ, kiểm tra đột xuất. Kiểm tra toàn diện được100% giáo viên; Kiểm tra chuyên đề mỗi giáo viên kiểm tra 2 lần/năm. Việc kiểm tra đột xuất một số nội dung: Kiểm tra việc thực hiện chương trình, việc xây dựng môi trường học tập, kiểm tra hồ sơ, giáo án, kiểm tra thực hiện chế độ sinh hoạt, kiểm tra việc đánh giá chất lượng. Kiểm tra kỹ năng của trẻ qua các hoạt động giao tiếp trực tiếp với trẻ. Qua kiểm tra để đánh giá chất lượng chuyên môn, đánh giá mức độ nhận thức của trẻ, thông qua đó cũng là để đánh giá việc xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, để kịp thời giúp đỡ giáo viên trong công tác chuyên môn. Từ đó có biện pháp chỉ đạo cụ thể giúp cho giáo viên ôn luyện kiến thức, xây dựng kế hoạch bối dưỡng giúp chất lượng giáo dục trẻ tốt hơn. Song song với kiểm tra đánh giá là phát động các cuộc thi đua khuyến khích 100% giáo viên tham gia như: Phát động thi giảng chào mừng ngày nhà giáo Việt nam 20/11 là 100% giáo viên tham gia hưởng ứng, thi giáo viên dạy giỏi cấp trường và cấp huyện, kết quả có 14 đồng chí giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp trường, có 3 đồng chí giáo viên tham gia hội thi giáo viên dạy giỏi cấp huyện đạt 1 giải nhì và đạt 1 giải ba và 1 giải khuyến khích chuyên đề toán và khám phá khoa học thuộc lĩnh vực nhận thức. Đặc biệt phong trào tự làm đồ dùng dạy học, đồ chơi sáng tạo; Thi xây dựng môi trường học tập lấy trẻ làm trung tâm 100% các nhóm lớp tham gia, kết quả 16/16 lớp xếp loại A cấp trường; Nhà trường tham dự thi xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm đạt giải xuất sắc cấp huyện và đạt giải ba cấp Thành phố. Đối với trẻ, đồ chơi là công cụ quan trọng không thể thiếu được. Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ đối với việc "Học mà chơi, chơi mà học" giúp cho trẻ nắm được những kiến thức cơ bản, ôn luyện củng cố kiến thúc cho trẻ qua hoạt động vui chơi. Vì vậy, việc và phát động phong trào tự làm đồ dùng, đồ chơi, xây dựng môi trường lớp học là một việc làm thường xuyên và tổ chức thành hội thi để khích lệ cho giáo viên làm nhiều thêm những đồ dùng, đồ chơi sáng tạo. Do đó, số lượng đồ chơi, đồ dùng đã được tăng lên, môi trường lớp học phù hợp kích thích tính tò mò, khám phá của trẻ.. Ảnh: Chấm thi trang tri lớp và đồ dùng, đồ chơi tự tạo và môi trường lớp học 4.8.Biện pháp 8: Tăng cường xây dựng điều kiện cơ sở vật chất, đồ dùng, đồ chơi xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Để việc xây dựng môi trường giáo dục trẻ được tốt thì điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đóng vai trò vô cùng quan trọng, nó là môi trường vật chất và là điều kiện trong việc xây dựng môi trường giáo dục trẻ. Đối với trường tôi là một trường mầm non được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang bị đồ dùng đồ chơi theo tiêu trí trường chuẩn quốc gia là khá đầy đủ. Song để đảm bảo cho việc xây dựng môi trường học tập tốt và tận dụng tối đa nguồn cơ sở vật chất hiện có. Ngay đầu năm học nhà trường đã xây dựng quy chế sử dụng cơ sở vật chất, tài sản, đồ dùng, đồ chơi, thiết bị dạy học trong toàn trường. 100% cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên đều phải ký cam kết thực hiện quy chế. Chỉ đạo giáo viên sử dụng và xắp xếp đồ dùng, đồ chơi trang thiết bị hiện có làm sao cho đảm bảo thẩm mỹ, khoa học, đảm bảo cho cô và trẻ sử dụng an toàn, phát huy được tính tích cực của trẻ. Song song với đồ dùng, đồ chơi có sẵn, yêu cầu giáo viên tận dụng các nguyên vật liệu có sẵn tại địa phương hay những phế liệu bỏ để cô cùng trẻ làm đồ dùng, đồ chơi dạy học và trang trí môi trường lớp học. Quy hoạch các khu vực trong nhà trường theo hướng tận dụng các không gian để cho trẻ hoạt động phù hợp, linh hoạt, đa dạng, phong phú, các góc hoạt động trong lớp mang tính mở, tạo cơ hội cho trẻ được bộc lộ hết khả năng của riêng mình. Ảnh cơ sở vật chất, đồ dùng, đồ chơi của trường. 4.9. Biện pháp 9: Phối kết hợp với gia đình, cộng đồng trong việc xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm: Đối với cấp học nào cũng vậy phải có sự chung tay của gia đình, nhà trường và xã hội thì chất lượng giáo dục mới kết qủa toàn diện được. Đặc biệt với lứa tuổi trẻ mầm non là độ tuổi từ 0 - 6 tuổi cần được chăm sóc và giáo dục một cách toàn diện nhất, và cũng là quãng thời gian để phát triển và hoàn thiện nhân cách tốt nhất cho trẻ. Do đó việc xây dựng môi trường giáo dục cho trẻ đòi hỏi có sự chung tay của cả xã hội. Nhận thức được vấn đề đó tôi chủ động tham mưu với ban giám hiệu nhà trường xây dựng các nội dung để tuyên truyền với gia đình trẻ, tuyên truyền với cộng đồng xã hôi. - Những nội dung tuyên truyền: + Tuyên truyền về xây dựng và bảo vệ cơ sở vật chất, môi trường trong lớp và ngoài lớp học. + Tuyên truyền phổ biến về mục đích, ý nghĩa và sự cần thiết của việc thực hiện "Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm" + Sự phát triển toàn diện của trẻ ở lứa tuổi mầm non. + Sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần, sự an toàn cho trẻ mọi lúc, mọi nơi. - Sự hỗ trợ của các bậc cha mẹ về xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm - Hình thức tuyên truyền: . + Tuyên truyền qua những buổi họp phụ huynh của trường, của lớp , qua các phương tiện thông tin đại chúng; bảng tuyên truyền của trường, nhóm lớp; tuyên truyền qua các giờ đón và trả trẻ, qua các ngày lễ hội, hội thi trong năm học 100% các bậc phụ huynh đóng góp các khoản thu nộp theo thỏa thuận về mua xắm thêm đồ dùng bán trú, mua xắm đồ dùng, đồ chơi theo thông tư 02 Phụ huynh đã có nhận thức sâu sắc hơn về giáo dục mầm non và đặc biệt là việc xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Ảnh: Đơn vị bộ đội và chi đoàn thanh niên hỗ trợ trồng cây tại trường 5. Kết quả so sánh có đối chứng sau khi thực hiện đề tài. Sau một năm thực hiện đề tài và sơ kết 02 năm thực hiện chuyên đề xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, nhà trường đã đạt được thành tích: Thi xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm đạt giải ba cấp Thành phố. * Về môi trường giáo dục trong và ngoài lớp. Môi trường bên trong và bên ngoài nhóm lớp được đầu tư, bố trí, khai thác sử dụng có hiệu quả. Đặc biệt sự sáng tạo của cán bộ quản lý, GV mầm non trong việc thiết kế môi trường giáo dục từ các nguyên vật liệu sẵn có của địa phương. Trẻ có nhiều cơ hội học tập Số lớp học là 16 nhóm, lớp. STT Nội dung khảo sát Đầu năm Cuối năm Số lớp % Số lớp % 1 Môi trường trong lớp học trang trí tạo được góc mở cho trẻ hoạt động. 12/16 75% 16/16 100 2 Môi trường lớp học trang trí chưa tạo được góc mở cho trẻ hoạt động. 4/16 25% 0/16 0 3 Khai thác và tận dụng môi trường ngoài lớp học. 11/16 70% 16/16 100 * Víi trÎ: Trẻ hồn nhiên mạnh dạn trong mọi hoạt động, hứng thú, tham gia tích cực vào các hoạt động, phát huy được tính tích cực, mở rộng được sự hiểu biết trong các hoạt động chung, giờ hoạt động góc, trẻ biết thể hiện ý kiến, ý định của mình với cô giáo và các bạn trong từng hành động, lời nói, kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ, trí tưởng tượng trong từng sản phẩm Trẻ sẽ tích cực, chủ động tham gia các hoạt động, làm việc theo nhóm để được trải nghiệm, trao đổi, chia sẻ và trình bày ý kiến của mình; biết suy nghĩ và vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống, giải quyết các tình huống mà trẻ gặp phải Từ đó, trẻ mạnh dạn, tự tin, tích cực, chủ động, tư duy, sáng tạo, thích thú tìm tòi, khám phá trong quá trình tham gia các hoạt động giáo dục ở trường, ở lớp - KÕt qu¶ kh¶o s¸t cho thÊy: STT Trẻ có kiến thức, kỹ năng, thái độ và khả năng hứng thú khi hoạt động trong môi trường giáo dục. Đầu năm Cuối năm Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % 1 Loại tốt 140/555 25,2 311/555 56 2 Loại khá 203/555 36,5 210/555 37,8 3 Loại TB 150/555 27 34/555 6,2 4 Loại yếu 66/555 11,8 0/555 0 * Đội ngũ giáo viên: Tổng số nhà trường có 37 giáo viên: Giáo viên có khả năng tự thiết kế môi trường giáo dục trẻ thao quan điểm xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Lập kế hoạch giảng dạy để dạy trẻ đạt kết quả tốt nhất. Căn cứ vào khả năng, nhu cầu học tập, kinh nghiệm sống của trẻ để xác định mục tiêu, nội dung cụ thể trong từng hoạt động và đảm bảo tốt mục tiêu giáo dục đề ra. - Nắm vững phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm, tự tin khi thực hiện các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ, linh hoạt, sáng tạo trong xây dựng và thực hiện kế hoạch. STT Nội dung khảo sát Đầu năm Cuối năm Số giáo viên % Số giáo viên % 1 Giáo viên có kiến thức và kỹ năng xây dựng môi trường giáo dục tốt 12/37 32,4% 32/37 86,4% 2 Giáo viên có kiến thức và kỹ năng xây dựng môi trường giáo dục khá 15/37 40,5% 5/37 13,5% 3 Giáo viên có kiến thức và kỹ năng xây dựng môi trường giáo dục trung bình 10/37 27% 0/37 0% 4 Tổ chức và hướng dẫn trẻ khai thác và sử dụng môi trường giáo dục có hiệu quả. 15/37 40.5% 37/37 100% 5 Giáo viên biết tận dụng và xây dựng môi trường ngoài lớp học để trẻ tìm tòi, khám phá và trẻ nghiệm. 15/37 40.5% 37/37 100% * Đèi víi phô huynh. - Các bậc phụ huynh có nhận thức sâu sắc về chương trình giáo dục mầm non, nhân thức được việc xây dựng môi giáo dục lấy trẻ làm trung tâm là vô cùng quan trọng, luôn có sự phối hợp với giáo viên trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận: Việc xây dựng môi giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường Mầm Non là vô cùng quan trọng, tạo cơ hội cho trẻ được tự lựa chọn hoạt động phù hợp. - Khuyến khích trẻ tham gia tích cực tạo cơ hội cho trẻ bộc lộ khả năng, qua đó cung cấp kiến thức, kỹ năng cho trẻ. - Thúc đẩy sự phát triển nhận thức. - Thúc đẩy sự phát triển vận động. - Thúc đẩy sự phát triển tình cảm, xúc cảm. - Thúc đẩy sự phát triển giao tiếp xã hội. - Thúc đẩy sự phát triển tính tự lực. - Thúc đẩy sự hình thành thói quen, hành vi tốt, thông qua đó, nhân cách trẻ được hình thành và phát triển toàn diện. 2. Hiệu quả thiết thực của sáng kiến kinh nghiệm. Sau một năm nghiên cứu và ứng dụng bản sáng kiến: "Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm" đã mang lại hiệu quả rất lớn trong việc dạy và học: Trẻ tích cực hoạt động, tự khám phá bằng các giác quan, chú trọng đến giáo dục cá nhân, kết hợp giáo dục trong nhóm giữa hoạt động chung và hoạt động góc, tăng cường giao tiếp giữa cô và trẻ. Giáo viên linh hoạt, sáng tạo không bị gò bó khi xây dựng môi trường học tập cho trẻ, trường lớp khang trang, môi trường xanh- sạch- đẹp, giáo viên có thể sử dụng tối đa nguồn nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương, để làm phong phú các hoạt động của trẻ, trẻ ham học nghiên cứu tìm tòi khám phá giao tiếp ngôn ngữ tình cảm. Đối với giáo viên biết cách sắp xếp môi trường học tập phù hợp, chất lượng chuyên môn của giáo viên được nâng lên rõ rệt, môi trường lớp học phong phú phù hợp với trẻ, trẻ tích cực chủ động sáng tạo giúp trẻ phát triển một cách toàn diện. 3. Khuyến nghị. * Với Phòng giáo dục: Tổ chức các tập huấn chuyên môn, buổi bồi dưỡng chuyên môn, hội thảo vÒ " Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm", Phương pháp giảng dạy: "Lấy trẻ làm trung tâm". Hay "Xây dựng trường mầm lấy trẻ làm trung tâm". * Đối với nhà trường: - Tăng cường công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ để tạo điều kiện giúp giáo viên theo học các lớp đào tạo trình độ trên chuẩn. Cung cấp đầy đủ đồ dùng dụng cụ trong lớp học. * Với tổ chuyên môn: Giáo viên trong tổ thường xuyên trao đổi những kinh nghiệm về xây dựng môi trường lớp học, công tác chăm sóc, giáo dục trẻ để rút ra kinh nghiệm. Tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng sư phạm. Tích cực tham gia các phong trào thi đua của ngành của trường phát động Tôi xin chân thành cảm ơn! Tôi xin cam đoan sáng kiến trên do tôi tự làm không sao chép của ai. Người viết Đặng Thị Phượng

Một Số Biện Pháp Chăm Sóc Dinh Dưỡng Mầm Non

Đầu tư cơ sở vật chất cho chăm sóc nuôi dưỡng.

Không có phương tiện, trang thiết bị nhà bếp mầm non, đồ dùng thì dù cô giáo có giỏi đến đâu, cố gắng đến mấy cũng khó lòng thực hiện được. Có đầy đủ các phương tiện trong tay không có kế hoạch sử dụng, không biết khai thác thì cũng không đem lại hiệu quả.

Trường Mầm non B Tứ Hiệp chúng tôi đã đầu tư dần từng năm nên chúng tôi rất coi trọng việc sử dụng các phương tiện đã có như thế nào cho có hiệu quả nhất. Chúng tôi phân rõ những đồ dùng phục vụ chăm sóc nuôi dưỡng, được thay thế sử dụng hoàn toàn bằng inox, đảm bảo vệ sinh, sạch sẽ hàng ngày. Sắp đặt lại vị trí nơi để các đồ dùng dụng cụ khoa học, hợp lý và theo đúng quy trình bếp một chiều, sửa lại một số chỗ, mở rộng thêm khu sơ chế cho phù hợp… Bổ sung hệ thống biểu bảng trong nhà bếp, vừa có tác dụng quy định chuẩn mực cho cô nuôi thực hiện: định lượng thực phẩm từ sống sang chín, bảng thực đơn trong tuần, giao nhận thực phẩm, phân công nhiệm vụ, nội quy nhà bếp, tranh một số hoa quả, món ăn… vừa có tác dụng hướng dẫn cô nuôi thực hiện tốt, vừa có tác dụng trang trí, tuyên truyền.

Những đồ dùng trang thiết bị phục vụ cho các lớp, từ đầu năm học tôi cho các lớp điều tra, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch tham mưu với đồng chí Hiệu trưởng cho mua bổ sung các đồ dùng còn thiếu.

Ngoài các đồ dùng của cá nhân trẻ trường còn luôn chú ý đến việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ khi thời tiết chuyển mùa.

Mùa đông chúng tôi bổ sung làm lại các hệ thống cửa kính bị vỡ, bị hỏng ở các lớp, để tránh mưa hắt, tránh gió lùa đồng thời cùng đảm bảo an toàn cho trẻ, đảm bảo không bị mất mát tài sản.

Mùa hè trường thuê thợ sửa chữa, lau dầu 100 % số quạt mát, mua thay quạt bị hỏng, hệ thống đèn chiếu sáng được lắp mới bổ sung hoàn toàn đảm bảo đủ ánh sáng cho trẻ học tập vui chơi, điều này đã góp phần không nhỏ vào công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ đó là có đủ ánh sáng thì trẻ học tập không bị mắc bệnh về mắt, lớp học mát mẻ, trẻ học tập vui chơi không đổ mồ hôi, không bị tiêu hao năng lượng, làm cơ thể phát triển khỏe mạnh, chống đỡ được các dịch bệnh.

Bên cạnh những nề nếp kỹ năng về sức khỏe của trẻ thì công tác phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ cũng vô cùng quan trọng và cần thiết, nó phải được thực hiện song song hỗ trợ lẫn nhau, vì nếu trẻ khỏe mạnh nhưng vô tình để trẻ bị xảy ra tai nạn thì thật đáng tiếc. Nhận thức được điều này ngay từ đầu năm học, nhà trường xây dựng kế hoạch chỉ đạo cả năm, từng tháng để triển khai đến toàn bộ cán bộ giáo viên, nhân viên nhà trường, để thực hiện tốt công tác này.

Kế hoạch phòng tránh tai nạn thương tích được triển khai tương tự như kế hoạch chăm sóc sức khỏe vệ sinh cho trẻ.

Các đồ dùng, đồ chơi trang thiết bị, bên cạnh việc đầu tư mới, sử dụng hiệu quả cái đã có, thì việc bảo quản, giữ gìn vệ sinh, kiểm tra phát hiện các yếu tố gây mất an toàn, khắc phục kịp thời là không thể thiếu được.

Ngoài ra nhà trường còn phát động giáo viên tự làm các biển báo đối với những nơi có nguy hiểm ở trong lớp. Qua đợt phát động triển khai, cuối đợt tổng kết đã có 100 % số nhóm lớp, bếp đều có biển báo an toàn, ở những nơi có nguy cơ gây tai nạn.

Biển báo đưa ra mới là để trẻ nhìn thấy, xong muốn để ăn sâu vào tiềm thức của trẻ, thì đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên giáo dục kiến thức về an toàn cho trẻ. Nhận thức được điều đó, tôi đã chỉ đạo giáo viên, nhân viên xây dựng kế hoạch giáo dục kiến thức an toàn cho trẻ, lồng ghép vào các hoạt động giáo dục hàng ngày, để trẻ ăn sâu kiến thức vào tâm trí, từ đó trẻ tự có ý thức không nghịch vào nơi có nguy hiểm cho bản thân, không những ở lớp học, ở nhà mà cả nơi công cộng nữa. Thực tế từ đầu năm học đến nay trường tôi đã không xảy ra trường hợp tai nạn thương tích nào có nguy hiểm đến tính mạng trẻ.

Qua việc áp dụng một số kinh nghiệm của bản thân vào việc chỉ đạo giáo viên – nhân viên nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng – sức khỏe trong trường, tôi đã thu được nhiều kết quả tốt:

+ 100% số lớp tổ chức tốt giờ ăn giờ ngủ, daỵ kỹ năng vệ sinh thường xuyên.

+ 100% số trẻ trong trường được đảm bảo an toàn, các lớp đồ dùng có nguy cơ gây tai nạn đều có biển báo an toàn.

– Đội ngũ Giáo viên, nhân viên nắm vững kiến thức sâu hơn, có ý thức cao, tinh thần tập thể về giáo dục dinh dưỡng – sức khỏe cho trẻ.

– Hệ thống sổ sách của nhà trường, các bếp đều có đầy đủ, trình bày sạch sẽ khoa học.

– Công tác tuyên truyền phối hợp đã đi vào chiều sâu hơn, công tác xã hội hoá giáo dục đạt tốt.

– Kiểm tra bếp: Nhà bếp đã được trung tâm y tế dự phòng kiểm tra và công nhận đạt bếp vệ sinh an toàn thực phẩm. Dụng cụ: chén, thìa, ly được kiểm định đạt yêu cầu theo đúng quy định.

– Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong trường so với cùng kỳ năm trước đã giảm nhiều:

Nguồn: thiết bị mầm non

Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/dinhduongmamnonee

Bạn đang đọc nội dung bài viết Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Chỉ Đạo Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Chăm Sóc, Nuôi Dưỡng Trẻ Mầm Non trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!