Cập nhật nội dung chi tiết về Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế Là Gì? Vai Trò Của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế là gì?
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (tiếng Anh là International Monetary Fund, viết tắt IMF) là một tổ chức quốc tế giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng cách theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài chính khi có yêu cầu.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế được mô tả như “Một tổ chức của 189 quốc gia” thực hiện việc “nuôi dưỡng” tập đoàn tiền tệ toàn cầu, thiết lập tài chính an toàn. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế, đẩy mạnh việc làm và tăng trưởng kinh tế cao cũng như giảm bớt đói nghèo. IMF chịu sự điều hành và chịu trách nhiệm trước 189 quốc gia thành viên.
IMF có cơ cấu tổ chức gồm những bộ phận chính như sau:
Hội đồng thống đốc: Đây là cơ quan quyết định tối cao, bao gồm một thống đốc và một thống đốc thay thế đến từ các quốc gia thành viên. Thống đốc được chỉ định bởi quốc gia thành viên và thông thường là bộ trưởng tài chính hoặc thống đốc ngân hàng trung ương.
Các ủy ban Bộ trưởng: Hội đồng thống đốc được tham vấn bởi hai Ủy ban Bộ trưởng là: Ủy ban Tiền tệ và Tài chính quốc tế (IMFC- International Monetary and Financial Committee) và Ủy ban Phát triển (Development Committee).
Lịch sử hình thành và phát triển của Quỹ Tiền tệ Quốc tế
IMF được hình thành vào tháng 7/1944 tại Hội nghị Bretton Woods của Liên hợp quốc ở New Hampshire, Hoa Kỳ. Lúc này 44 quốc gia tham dự đã tìm cách xây dựng khuôn khổ hợp tác kinh tế quốc tế và tránh lặp lại tình trạng phá giá tiền tệ cạnh tranh đã góp phần vào cuộc Đại suy thoái những năm 1930. Ngày 1/3/1947 IMF bắt đầu hoạt động và được hưởng quy chế cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc. Ngày 8/5/1947, IMF tiến hành cho vay khoản đầu tiên.
IMF xây dựng quỹ tài chính của mình thông qua phí thành viên, được gọi là hạn ngạch. Mỗi quốc gia thành viên trả tiền cho một hạn ngạch dựa trên quy mô kinh tế của quốc gia đó, vì vậy các nền kinh tế lớn phải trả nhiều tiền hơn. Như vậy, nguồn vốn hoạt động chủ yếu của quỹ là do các nước thành viên đóng góp. IMF đã xây dựng một hạn mức cho vay và hạn mức đóng góp với các nước thành viên. Số phiếu biểu quyết của mỗi nước tùy thuộc vào mức độ đóng góp của nước đó cho IMF. Các nước thành viên có cổ phần lớn nhất trong IMF hiện nay là Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh và Pháp.
Trải qua các thời kỳ biến chuyển của nền kinh tế và hệ thống tiền tệ thế giới, IMF đã cố gắng phát triển hoạt động của mình theo hai hướng: ổn định các tỷ giá hối đoái và đấu tranh chống những biện pháp hạn chế và phân biệt đối xử.
Năm 1972, theo Hiệp định Jamaica, các tỷ giá hối đoái được thả nổi. Điều này đã đẩy các nước thành viên của Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) không duy trì tỷ giá đồng tiền của mình theo đồng đôla nữa mà mỗi nước tự do quy định, tuyên bố hay không tuyên bố tỷ giá đồng tiền của mình. Lúc này vàng bị gạt ra khỏi hệ thống tiền tệ và được thay thế bằng quyền rút vốn đặc biệt (special drawing rights – SDR) để tăng thêm mức cung về phương tiện thanh toán quốc tế.
Về quy mô thành viên, hiện IMF có 189 thành viên. Đây là con số lớn hơn gấp nhiều lần so với con số 44 thành viên khi IMF được thành lập.
Có thể thấy IMF hiện đang là một tổ chức lớn mạnh, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Bạn có thể truy cập vào trang web Quỹ tiền tệ quốc tế để tìm hiểu các thông tin chi tiết về quá trình thành lập cũng như hoạt động của IMF.
Chức năng và nhiệm vụ của IMF
Nhiệm vụ chính của IMF là đảm bảo sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế – hệ thống tỷ giá hối đoái và thanh toán quốc tế cho phép các quốc gia và công dân của họ giao dịch với nhau.
Quỹ tiền tệ Quốc tế hỗ trợ các nước thành viên thông qua 3 chức năng chính sau đây:
– Giám sát: Giám sát tình hình kinh tế tài chính toàn cầu và các nước thành viên, đồng thời tư vấn về chính sách kinh tế cho các nước thành viên. Điều này được thực hiện thông qua việc nghiên cứu, thống kê, phân tích và dự báo các nền kinh tế quốc gia, khu vực hoặc toàn cầu. Ngoài ra, IMF sẽ cung cấp lời khuyên cho các nước thành viên và thúc đẩy các chính sách được thiết kế để thúc đẩy sự ổn định kinh tế, giảm tính dễ bị tổn thương trước các cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính, và nâng cao mức sống.
– Hỗ trợ tài chính: Cung cấp hỗ trợ tài chính ngắn và trung hạn cho các nước thành viên khi họ gặp phải những khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán. Cụ thể như đưa ra các nguồn vốn cho vay không lãi suất với thời gian đáo hạn dài. Nhiệm vụ hỗ trợ tài chính này chính là trách nhiệm cốt lõi của IMF.
– Phát triển năng lực: Trợ giúp kỹ thuật cho các nước thành viên nhằm cải thiện khả năng điều hành kinh tế. Ví dụ như thiết kế và thực hiện các chính sách hiệu quả hơn đối với thuế và quản lý, quản lý chi tiêu, chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái, giám sát và điều tiết hệ thống ngân hàng và tài chính, khuôn khổ lập pháp và thống kê kinh tế.
Các loại tín dụng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế
IMF là một tổ chức được thành lập nhằm mục đích nuôi dưỡng tập đoàn tiền tệ toàn cầu. Từ đó thiết lập tài chính an toàn và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế cũng như đẩy mạnh việc làm, tăng trưởng kinh tế cao và giảm bớt đói nghèo. Xuất phát từ mục đích này IMF cũng đưa ra các loại tín dụng để hỗ trợ các nước thành viên trong việc phát triển kinh tế. Cụ thể như sau:
– Tín dụng thông thường: Loại này yêu cầu nước được vay phải có chương trình điều chỉnh kinh tế ngắn hạn.
Mức cho vay tối đa là 100% cổ phần của nước đó tại qũy
Thời hạn vay từ 3 – 5 năm
Thời gian ân hạn 3 năm
Lãi suất khoảng 5% – 7,5%/năm
– Vốn vay bổ sung: Loại tín dụng này có:
Mức vay có thể từ 100% – 350% cổ phần của nước đó tại quỹ (tuỳ theo mức độ thiếu hụt)
Thời hạn vay từ 3 – 5 năm
Thời gian ân hạn 3,5 năm
Lãi suất được tính theo lãi suất thị trường
– Vay dự phòng: Loại tín dụng này của IMF có các đặc điểm:
Mức vay tối đa được 62,5% cổ phần
Thời hạn vay 5 năm
Thời gian ân hạn 3,5 năm
Lãi suất áp dụng theo thị trường
– Vay dài hạn: Nước đi vay phải có chương trình điều chỉnh kinh tế trung hạn và mọi khoản vay phải theo sát với việc thực hiện chương trình theo từng quý, năm. Trong đó:
Mức vay bằng 140% cổ phần tại quỹ
Thời hạn vay 10 năm
Thời gian ân hạn 4 năm
Lãi suất từ 6 – 7,5%/năm
– Vay bù đắp thất thu xuất khẩu: Đây là khoản vay cho các nước đang phát triển có đột biến thiếu hụt cán cân thương mại trong năm. Theo đó:
Mức vay tối đa bằng 100% cổ phần của nước đó tại quỹ
Thời hạn vay từ 3 – 5 năm
Lãi suất khoảng 5% – 7,5%/năm
– Vay chuyển tiếp nền kinh tế: Đây là loại tín dụng mới xuất hiện của IMF để hỗ trợ cho các nước chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường, theo đó:
Thời hạn vay 5 năm
Thời gian ân hạn 3,25 năm
Lãi suất theo mức lãi suất thị trường.
Bên cạnh đó, IMF còn có một số loại tín dụng khác như: vay để duy trì dự trữ điều hòa, vay để điều chỉnh cơ cấu…
Nếu gặp khó khăn về cán cân thanh toán các nước thành viên có thể rút vốn. Tức là mua đồng tiền nước ngoài của IMF bằng đồng tiền của nước mình trong giới hạn bằng 125% hạn mức của mình, trong đó các nước có thể rút 25% đầu tiên bất kì khi nào có nhu cầu.
Khi muốn rút một hay cả bốn phần 25% còn lại, các nước phải nhất trí với IMF về một chương trình bao gồm các biện pháp xử lý thâm hụt cán cân thanh toán của mình.
Các nước thành viên phải hoàn trả lại phần rút vốn của mình trong khoảng thời gian từ 3 – 5 năm.
Trong hoạt động kinh tế nói chung và tiền tệ nói riêng, IMF đóng vai trò vô cùng quan trọng. Theo đó:
– IMF đóng vai trò trong việc phát triển các công cụ để các nước đo lường, đánh giá và cải thiện tình hình kinh tế vĩ mô, bao gồm chính sách tài khóa và tiền tệ, cũng như ổn định tài chính, tiền tệ và giá cả. Theo đó, IMF sẽ giúp các nước tìm ra giải pháp tốt hơn để thực hiện các biện pháp trong tất cả các lĩnh vực nói trên và xác định những bài học từ kinh nghiệm của nhiều nước, qua đó có thể làm sáng tỏ các lựa chọn mà một quốc gia cụ thể bất kỳ có thể có.
– Thông qua đối thoại, nghiên cứu, tư vấn, cũng hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo, IMF sẽ giúp tạo ra một cộng đồng toàn cầu các chuyên gia thực hành.
– IMF đóng vai trò thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua một thiết chế thường trực có trách nhiệm cung cấp một bộ máy tư vấn và cộng tác nhằm giải quyết các vấn đề tiền tệ quốc tế.
– Quỹ tiền tệ Quốc tế tạo điều kiện mở rộng, tăng trưởng cân đối hoạt động mậu dịch quốc tế, từ đó góp phần vào việc tăng cường và duy trì ở mức cao việc làm, thu nhập thực tế và việc phát triển nguồn lực sản xuất của tất cả các thành viên.
– Tăng cường ổn định ngoại hối để duy trì một cách có trật tự các hoạt động giao dịch ngoại hối giữa các thành viên. Từ đó tránh việc phá giá tiền tệ để cạnh tranh giữa các nước.
– Hỗ trợ việc thành lập một hệ thống thanh toán đa phương giữa các nước thành viên cũng như xoá bỏ các hạn chế về ngoại hối có thể ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của mậu dịch quốc tế.
– Bằng việc cung cấp các nguồn lực dự trữ của quỹ, đảm bảo an toàn, tạo ra cơ hội cho các nước sửa chữa mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế, IMF đã tạo niềm tin cho các nước thành viên.
– Có vai trò quan trọng trong việc rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ cân bằng trong cán cân thanh toán của các nước thành viên.
Giải đáp các câu hỏi về Quỹ Tiền tệ Quốc tế
Việt Nam tham gia Quỹ Tiền tệ Quốc tế năm nào?
Việt Nam Cộng hòa gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc tế năm 1956. Năm 1975 ghế hội viên chuyển cho Cộng hoà Miền Nam Việt Nam kế thừa. Năm 1976 thì CHXHCN Việt Nam chính thức tham gia chiếu theo hội viên của hai quốc gia trước, chính thức kế tục quy chế hội viên của Việt Nam tại IMF và được quyền hưởng các khoản vay từ IMF.
Trong giai đoạn 1976 – 1981, IMF đã cho Việt Nam vay khoảng 200 triệu USD nhằm giải quyết những khó khăn trong cán cân thanh toán. Khoảng thời gian từ 1985 đến tháng 10/1993, quan hệ giữa Việt Nam – IMF được duy trì thông qua đối thoại chính sách chủ yếu dưới hình thức tham khảo thường niên về kinh tế vĩ mô. Tháng 10/1993, Việt Nam nối lại quan hệ tài chính với IMF.
Giai đoạn 1993 – 2004, IMF đã cung cấp cho Việt Nam 4 khoản vay với tổng vốn cam kết 1.094 triệu USD, giải ngân được 670,8 triệu USD – trong đó 209,2 triệu USD của chương trình Tăng trưởng và Xoá đói Giảm nghèo PRGF. Từ tháng 4/2004 đến nay, quan hệ Việt Nam – IMF tiếp tục được duy trì tốt đẹp dù giữa hai bên không còn chương trình vay vốn.
Giám đốc điều hành Quỹ Tiền tệ Quốc tế hiện tại là ai?
Người hiện tại trên cương vị Tổng Giám đốc Quỹ tiền tệ Quốc tế là bà Kristalina Georgieva, người Bulgaria. Bà được bổ nhiệm vào cương vị Tổng Giám đốc mới của thể chế tài chính gồm 189 nước thành viên.
Nhiệm kỳ của bà Georgieva tại IMF có thời hạn 5 năm, bắt đầu từ ngày 1/10/2019. Bà Georgieva đã trở thành nữ tổng giám đốc thứ hai của IMF sau bà Christine Lagarde.
Chuyên gia IMF là gì?
Chuyên gia IMF là nhân viên cao cấp làm việc cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Chuyên viên IMF có nhiệm vụ giám sát, tư vấn về chính sách kinh tế cho các nước thành viên. Điều này được thực hiện thông qua việc nghiên cứu, thống kê, phân tích và dự báo các nền kinh tế quốc gia, khu vực hoặc toàn cầu.
Giống nhau
– Đều được thành lập tại Bretton Woods, New Hampshire vào tháng 07/1944 nhằm hỗ trợ nền kinh tế thế giới.
– Cả hai đều có trụ sở tại Washington, D.C (Mỹ)
Mục đích
Giám sát chính sách kinh tế của các thành viên và sự trao đổi tiền tệ tự do trong hệ thống tỷ giá cố định. IMF hoạt động như một nhà cung cấp các khoản vay khẩn cấp cho các thành viên gặp khó khăn.
– WB bao gồm hai tổ chức: Ngân hàng Quốc tế về Tái thiết và Phát triển (IBRD) và Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA). IBRD cho các quốc gia đang phát triển vay với lãi suất ưu đãi, còn IDA chỉ cho các nước nghèo nhất vay và không tính lãi suất.
Có thể thấy Quỹ Tiền tệ Quốc tế – IMF đang ngày càng phát triển và có những chính sách hướng đến mục tiêu phát triển, hỗ trợ tiền tệ cũng như kinh tế cho các nước thành viên. Từ đó đảm bảo phát triển kinh tế toàn diện. Tạo ra các chương trình mới có lợi cho tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo chính là những nỗ lực phát triển của IMF trong tương lai.
Hệ Thống Tiền Tệ Quốc Tế
Published on
1. NHÓM PIKACHU THỰC HIỆN: 1. Dương Thị Quỳnh Chi 2. Trần Thị Dung 3. Lê Thị Hà 4. Đỗ Thị Thùy Trang 5. Nguyễn Trần Tố Uyên
2. HỆ THỐNG TIỀN TỆ QUỐC TẾ ???
3. Khái niệm, vai trò, bộ phận cấu thành và tiêu chí phân loại của Hệ thống tiền tệ quốc tế. Quá trình phát triển của Hệ thống tiền tệ quốc tế.
4. Hệ thống tiền tệ quốc tế (International Monetary System – IMS) Là một hệ thống các tập quán, quy tắc, thủ tục và các tổ chức quốc tế điều hành các quan hệ tài chính các quốc gia.
5. Các quốc gia thống nhất thiết lập những quy tắc, luật lệ và thể chế trên tinh thần tự nguyện nhằm điều chỉnh mối quan hệ tài chính – tiền tệ. Tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế quốc tế.
6. HTTTQT đóng vai trò quan trọng: Ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư quốc tế. Ảnh hưởng đến sự phân bổ các nguồn tài nguyên trên thế giới. HTTTQT chỉ rõ vai trò của chính phủ và các định chế tài chính quốc tế trong việc xác định tỷ giá khi chúng không được phép vận động theo các thế lực thị trường.
7. Hai bộ phận cấu thành của HTTTQT: Khu vực công: các thỏa thuận giữa các chính phủ và chức năng của các định chế tài chính quốc tế công. Khu vực tư: ngành công nghiệp ngân hàng và tài chính.
8. Hai tiêu chí phân loại của HTTTQT: Mức độ linh hoạt của tỷ giá: o Hệ thống tỷ giá cố định. o Hệ thống tỷ giá thả nổi hoàn toàn. o Hệ thống tỷ giá thả nổi có điều tiết. o Hệ thống cố định có điều chỉnh. o Chế độ tỷ giá bò trườn. Đặc điểm của dự trữ ngoại hối quốc tế Bản vị vàng hóa (pure commodity standards) Bản vị tiền giấy (pure fiat standards) Bản vị kết hợp (mixed standards)
9. Hệ thống song bản vị vàng trước 1875. Hệ thống bản vị vàng cổ điển 1875 – 1914. Giai đoạn giữa hai thế chiến. Hệ thống Bretton Woods 1945 – 1971. Hệ thống tiền tệ quốc tế hiện hành.
10. 1. Khái niệm Vàng và bạc được dùng như tiền trong lưu thông. Được nhiều quốc gia thừa nhận là phương tiện thanh toán quốc tế và dự trữ quốc tế.
11. 2. Cơ chế xác định tỷ giá: Chính phủ giữ quyền đúc tiền vàng và bạc Chính phủ quy định tỷ lệ chuyển đổi tiền vàng và bạc là cố định (có điều chỉnh) Giá trị vàng và bạc do năng lực khai thác và cung-cầu thị trường quyết định
12. 3. Ưu điểm – Thúc đẩy thương mại quốc tế diễn ra nhanh chóng. – Trong lưu thông hàng hoá, việc sử dụng chế độ song bản vị có nhiều tiến bộ hơn so với thời kỳ nền kinh tế đổi chác hiện vật. 4. Nhược điểm – Nhà nước khó kiểm soát lượng vàng, bạc của mỗi quốc gia. – Giá thị trường vàng và bạc có thể thay đổi. – Hai thước đo giá trị, hai hệ thống giá cả còn gây trở ngại trong việc tính toán và lưu thông hàng hoá.
13. Quy luật Gresham: “Tiền xấu trục xuất tiền tốt ra khỏi lưu thông”. Tức là tiền nào có giá trị danh nghĩa thấp hơn giá trị thực của nó trên thị trường dần dần bị quét khỏi lưu thông nhường chỗ cho tiền có giá trị danh nghĩa lớn hơn giá trị thực của nó. Nếu trong lưu thông chỉ còn một kim loại giữ vai trò là tiền tệ thì điều đó cũng có nghĩa là chế độ song bản vị kết thúc nhường chỗ cho một chế độ bản vị mới.
15. Khái niệm Vàng đóng vai trò là vật ngang giá chung và là cơ sở của toàn bộ chế độ lưu thông tiền tệ. Cơ chế xác định tỷ giá Giá trị mỗi đồng tiền quốc gia được xác định theo khả năng chuyển đổi ra vàng của đồng tiền ấy. NHTW mỗi nước ấn định giá vàng bằng nội tệ. Tỷ giá giữa hai đồng tiền được xác lập trên cơ sở hàm lượng vàng của hai đồng tiền – tỷ giá ngang giá vàng (“mint parity”).
16. Cơ chế xác định tỷ giá (tt) Bảng vị Vàng thực chất là chế độ tỷ giá cố định dựa trên tỷ lệ ngang giá vàng của mỗi đồng tiền quốc gia. Ví dụ: Quốc gia Tỷ lệ ngang giá vàng Anh GBP 4.2474/ounce Mỹ USD 20.67/ounce Tỷ giá USD/GBP = 20.67/4.2474 = USD 4.86656/GBP
17. Cơ chế vận hành: Rules of game: Mức cung tiền = dự trữ vàng Price-specie-flow: Cơ chế “dòng vàng điều chỉnh mức giá”
18. CƠ CHẾ DÒNG VÀNG – GIÁ CẢ Thặng dư Tích lũy dự trữ Cung tiền tăng Mức giá tăng XK giảm & NK tăng XK tăng & NK giảm Mức giá giảm Cung tiền giảm Dự trữ giảm Thâm hụt Cân bằng
21. Ưu điểm Thương mại và đầu tư thế giới phát triển, hưng thịnh. Khuyến khích phân công lao động quốc tế và giúp gia tăng phúc lợi thế giới. Cơ chế điều chỉnh cán cân thanh toán (Cơ chế lưu thông giá – vàng) có vẻ vận hành trơn tru. Mâu thuẫn quyền lợi giữa các quốc gia ít khi xảy ra.
25. Ngay sau khi kết thúc Thế Chiến I: tỷ giá hối đoái được thả nổi. 1922, Hội nghị Genoa mở đường hình thành hệ thống Bản vị Hối đoái Vàng. Hệ thống này chỉ tồn tại một thời gian ngắn ngủi (1926 – 1931) do lạm phát cao và khủng hoảng kinh tế thế giới. Giai đoạn 1931 – 1939: Thời kỳ hỗn mang, các quốc gia bất hợp tác chính sách và chính phủ các nước thực thi đường lối vị kỷ “beggar thy neighbour”.
26. Bản vị hối đoái vàng Chế độ hối đoái vàng dựa trên Bảng Anh: Bảng Anh chuyển đổi ra vàng. Các đồng tiền khác chuyển đổi sang Bảng Anh. Năm 1931, các nước yêu cầu chuyển đổi Bảng Anh ra vàng. Anh Quốc phải thả nổi đồng tiền của mình
27. Lý do thất bại của chế độ hối đoái vàng dựa trên đồng Bảng: Thời kỳ vàng son của chế độ bản vị vàng chỉ là một truyền thuyết. Kinh tế thế giới đã trải qua những biến động lớn bởi chiến tranh và đại suy thoái, vì vậy: Mức tỷ giá trước chiến tranh không còn thích hợp. Giá cả và tiền lương trở nên cứng nhắc. Các quốc gia theo đuổi chính sách vô hiệu hóa mãi lực của vàng. London không còn là trung tâm tài chính có ưu thế nhất.
28. Sự ra đời Sự cần thiết phải có một hệ thống tiền tệ quốc tế mới để thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế sau chiến tranh. Hệ thống tiền tệ quốc tế sau Chiến tranh Thế giới II ra đời ở Bretton Woods, New Hampshire.
29. Tư tưởng chủ đạo: Ổn định tỷ giá. Bảo đảm khả năng thanh khoản của đồng tiền dự trữ. Thúc đẩy tự do kinh tế toàn cầu.
31. Hội nghị BW thiết lập 2 định chế hỗ trợ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Ngân hàng Thế giới (World Bank)
32. Cơ chế vận hành Các nước Chính phủ các nước có nghĩa vụ duy trì tỷ giá cố định theo vàng (+/- 1%) thông qua chính sách tiền tệ quốc gia. Tỷ giá này chỉ được phép điều chỉnh tối đa 10% khi kinh tế quốc gia bị mất cân đối nghiêm trọng.
33. Cơ chế vận hành Mỹ Bảo đảm khả năng chuyển đổi USD ra vàng ở tỷ lệ cố định. Bảo đảm nguồn cung USD theo nhu cầu thanh khoản và dự trữ của các nước khác trên thế giới.
34. Cơ chế vận hành IMF Giúp các quốc gia khắc phục trạng thái mất cân bằng đối ngoại tạm thời. Tham vấn chính sách điều chỉnh cấu trúc kinh tế quốc gia, tái lập cân bằng đối nội, đối ngoại của nền kinh tế thành viên.
36. Vận hành thực tế Mỹ Nguồn cung ứng USD duy nhất cho cả thế giới. Thâm hụt BOP liên tục và cạn kiệt nguồn dự trữ. IMF Thụ động trong vai trò cứu trợ tài chính và mất cân bằng BOP của các nước do lệ thuộc Mỹ.
37. Vận hành thực tế Hệ thống BW vận hành tốt cho đến khi phát sinh trạng thái mất cân đối nghiêm trọng giữa các nền kinh tế các cường quốc từ cuối thập niên 50. Từ 1970, các giới kinh doanh tiền tệ hoài nghi khả năng tiếp tục duy trì hệ thống BW, cho rằng Mỹ tất yếu sẽ phải phá giá USD và/hoặc đình chỉ khả năng chuyển đổi USD ra vàng. Các cuộc tấn công đầu cơ tiền tệ liên tục nhắm vào U.S.Dollar buộc Mỹ phải đình chỉ khả năng chuyển đổi Dollar ra Vàng (1971) và phá giá USD.
38. Các vấn đề của hệ thống Cơ chế điều chỉnh cán cân thanh toán thiếu sự ổn định, chắc chắn và tự động của hệ thống bản vị vàng và tính linh hoạt của hệ thống tỷ giá thả nổi. Các hoạt động đầu cơ bắt nguồn từ khả năng phá giá và nâng giá của các đồng tiền và điều này dễ dàng gây bất ổn cho hệ thống. Cơ chế tạo thanh khoản có vấn đề: “Triffin Dilemma – Nghịch lý Triffin”
39. Các vấn đề của hệ thống (tt) Cơ chế tạo thanh khoản có vấn đề: “Triffin Dilemma – Nghịch lý Triffin” Để tránh tình trạng thiếu hụt thanh khoản, Mỹ phải chịu sự thâm hụt của cán cân thanh toán và điều này làm suy giảm lòng tin vào USD. Để phòng ngừa đầu cơ đối với USD, mức thâm hụt cán cân thanh toán Mỹ phải thu hẹp và điều này lại gây nên sự thiếu hụt thanh khoản cho hệ thống.
40. TỶ LỆ VÀNG/USD CỦA MỸ ( Nguồn: Milner & Greenaway,1979, p271) Năm Vàng/USD Năm Vàng/USD 1950 2.72 1964 0.58 1952 2.38 1966 0.50 1954 1.84 1968 0.41 1956 1.59 1970 0.31 1958 1.34 1972 0.16 1960 0.92 1974 0.14 1962 0.71 1976 0.22
42. Hiệp ước Smithsonion Hiệp ước Jamaica 1976 Hiệp ước Plaza 09/1985 Hệ thống tiền tệ quốc tế hiện nay Hiệp ước Louvre 1897
43. Hiệp ước Smithsonion Nhằm cứu vãn hệ thống BWS, nhóm G10 họp và ấn định tương quan giá trị của các đồng tiền chủ chốt. USD được định giá lại mức ngang giá vàng là 38 USD/ounce. Mỹ không tái lập việc chuyển đổi USD ra vàng Các nước định giá lại các đồng tiền với USD.
44. Hiệp ước Smithsonion Tỷ giá được phép dao động trong biên độ +/- 2.5%. Không giải quyết các thiếu sót của hệ thống Bretton Woods. Giới đầu tư tiếp tục tấn công USD vì tin rằng mức tỷ giá mới không phản ánh đúng tương quan thực lực kinh tế các nước.
45. Hiệp ước Jamaica 1976 1973 – 1978: Giai đoạn chuyển tiếp * Chế độ tỷ giá thả nổi mặc dù được các nước áp dụng nhưng chưa được thừa nhận quốc tế chính thức. 1976, tại Jamaica, Hội nghị ủy ban lâm thời của IMF quyết định sửa đổi điều lệ của IMF. * Bãi bỏ cơ chế cố định tỷ giá theo vàng. * Thừa nhận chế độ tỷ giá thả nổi. * Các quốc gia được quyền lựa chọn chế độ giá phù hợp miễn là không gây ảnh hưởng tiêu cực đến các quốc gia đối tác thương mại và nền kinh tế thế giới.
46. Hiệp ước Jamaica 1976 1978, tại Jamaica, nghị quyết sửa đổi điều lệ IMF được các quốc gia thành viên thông qua.
47. Hiệp ước Jamaica 1976 Vàng được giao dịch như một hàng hóa bình thường trên thị trường. Dự trữ của IMF tính theo SDR, không tính theo US Dollar Trong đó: SDR – Special Drawing Right – là tài khoản rút vốn đặc biệt được IMF thiết lập bổ sung vào hệ thống hạn mức tín dụng của IMF:
48. Hiệp ước Jamaica 1976 SDR – Special Drawing Right – là tài khoản rút vốn đặc biệt: − Mỗi thành viên của IMF được phân bổ một lượng SDR nhất định và tỷ lệ thuận với hạn mức tín dụng tại IMF. Giá trị ban đầu của SDR được xác định bằng 1/35 ounce vàng, tương đương $1. − Các quốc gia có thể rút SDRs vào bất cứ thời điểm nào khi cán cân thanh toán gặp khó khăn hoặc có nhu cầu bổ sung vào nguồn dự trữ của mình.
49. Hiệp ước Jamaica 1976 Các quốc gia được quyền chọn chế độ tỷ giá phù hợp. Mỗi quốc gia tự chịu trách nhiệm điều chỉnh BOP, miễn là không gây phương hại đến các quốc gia khác. Vai trò của IMF được tăng cường. Khuyến khích các quốc gia phối hợp chính sách để ổn định tỷ giá, cho phép thiết lập các khu vực tiền tệ (khối tiền tệ).
50. Hiệp ước Plaza 09/1985 Tháng 5/1985, các bộ trưởng tài chính và các thống đốc NHTW của các nước G5 (Pháp, Đức, Mỹ, Anh và Nhật) đã họp tại khách sạn Plaza và đưa đến Hiệp định Plaza. Nội dung: − Tỷ giá của USD không phản ánh đúng thay đổi trong các thông số kinh tế cơ bản. − Việc USD tiếp tục giảm giá được xem là mong muốn và góp phẩn quan trọng vào việc kích thích phát triển thương mại và hợp tác quốc tế Tháng 1/1986 đạt được hiệu quả.
51. Hiệp ước Louvre 1897 Tháng 2/1987, các bộ trưởng tài chính của các nước G7 công bố một hiệp định có tên là Hiệp định Louvre. Nội dung: – Các chính phủ đã can thiệp để USD giảm giá đáng kể. – Các chính phủ cũng thỏa thuận sẽ hợp tác nhau chặt chẽ để duy trì sự biến động của tỷ giá xung quanh mức tỷ giá hiện hành Sau hiệp định Louvre, tỷ giá được duy trì tương đối ổn định.
52. Hệ thống tiền tệ quốc tế hiện nay Là một hệ thống “không hệ thống”. Có nhiều chế độ tỷ giá song song tồn tại: * Đô-la hóa (Official Dolarization) * Chế độ hội đồng tiền tệ (Currency Board) * Thả nổi có điều tiết * Thả nổi hoàn toàn
53. Hệ thống tiền tệ quốc tế hiện nay * Tỷ giá giữa các đồng tiền không phản ánh các điều kiện kinh tế cơ bản. * Thất bại trong việc đảm bảo tự chủ về chính sách cho các quốc gia. * Tỷ giá ở mức sai lệch đã bóp méo vị thế cạnh tranh của các nền kinh tế và gây áp lực buộc các chính phủ áp dụng các chính sách bảo hộ
Tổng Quan Về Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế Imf
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) là một tổ chức quốc tế về tài chính và tiền tệ mà thành viên là chính phủ các nước. Buổi đầu thành lập, IMF chỉ là một tổ chức hợp tác để giám sát hoạt động của hệ thống tiền tệ quốc tế, tuy nhiên nó cũng đồng thời hỗ trợ hệ thống này bằng những khoản tiền đôi khi với số lượng lớn dưới hình thức cho các nước thành viên vay.
Trên thực tế IMF có lẽ được dân chúng biết đến nhiều hơn nhờ sự kiện nó đã đưa hàng tỷ USD vào hệ thống này trong thời kỳ khủng hoảng nợ thập kỷ 80 và rót một lượng tiền khổng lồ vào Nga và Mêhicô hồi thập niên 90. Tuy nhiên IMF được thành lập với các tôn chỉ mục đích riêng của nó.
* Thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua một thiết chế thường trực có trách nhiệm cung cấp một bộ máy tư vấn và cộng tác nhằm giải quyết các vấn đề tiền tệ quốc tế.
* Tạo điều kiện mở rộng và tăng trưởng cân đối hoạt động mậu dịch quốc tế và nhờ đó góp phần vào việc tăng cường và duy trì ở mức cao việc làm, thu nhập thực tế và việc phát triển nguồn lực sản xuất của tất cả các thành viên, coi đó là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách kinh tế.
* Tăng cường ổn định ngoại hối nhằm duy trì một cách có trật tự hoạt động giao dịch ngoại hối giữa các thành viên và tránh việc phá giá tiền tệ để cạnh tranh.
* Hỗ trợ việc thành lập một hệ thống thanh toán đa phương giữa các nước thành viên và xoá bỏ các hạn chế về ngoại hối gây phương hại tới sự tăng trưởng của mậu dịch quốc tế.
* Tạo niềm tin cho các nước thành viên bằng cách cung cấp cho họ nguồn lực dự trữ của quỹ được đảm bảo an toàn và tạo cơ hội cho họ sửa chữa mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế.
* Rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ cân bằng trong cán cân thanh toán của các nước thành viên.
Trong hơn 50 năm qua IF đã khẳng định được vai trò cũng như thực hiện mục tiêu của mình trong việc duy trì sự ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế thế giới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra trên quy mô ngày càng rộng với tốc độ ngày càng nhanh.
CƠ CẤU TỔ CHỨC 1. Quá trình hình thành và phát triển của IMF
Vào thập kỷ 30, đã có nhiều hội nghị quốc tế được tổ chức để giải quyết những vấn đề tiền tệ thế giới. Tuy nhiên điều đó không có kết quả. Những giải pháp bộ phận và mang tính chất thăm dò đã hoàn toàn tỏ ra không đáp ứng được yêu cầu. Ðiều cần có là một sự hợp tác với quy mô lớn chưa từng có giữa tất cả các quốc gia để xây dựng nên một hệ thống tổ chức tiền tệ cách tân và một tổ chức để điều hành hệ thống này.
Mùa hè năm 1940, một sự trùng hợp kỳ lạ đã xảy ra. Hai tư tưởng độc đáo và táo bạo của Harry Dester White – Người Mỹ và John Maynard Keynes – Người Anh đã gần như đồng thời đưa ra dự thảo xây dựng một tổ chức tiền tệ quốc tế mà hành động của nó được giám sát thường xuyên bởi một tổ chức hợp tác chứ không phải bằng những cuộc gặp gỡ quốc tế thoảng hoặc. Tuy nhiên, phải sau nhiều lần thương thuyết trong điều kiện khó khăn của thời chiến, cộng đồng quốc tế mới chấp nhận một hệ thống tiền tệ mới và một tổ chức để giám sát nó. Những thương thuyết cuối cùng về thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (viết tắt là IMF) đã diễn ra ở Bretton Woods, NewHamsphire, Hoa kỳ vào tháng 7/1944 giữa 44 quốc gia. Bắt đầu từ 1-3-1947 tổ chức IMF chính thức đi vào hoạt động như một cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc (xem phụ lục 1). Khi đó IMF có 49 thành viên.
Trụ sở chính của IMF ở Washington D.C và có hai chi nhánh tại Paris và Geneve. Một nước có thể trở thành thành viên của IMF nếu nó sẵn sàng gắn bó, trung thành với các chức năng và nguyên tắc chủ đạo của IMF (xem biểu đồ 1). Từ l945 đến nay con số thành viên của IMF lên tới 182 Quốc gia. Số lượng thành viên tăng đều đặn, không có biến động chứng tỏ uy tín của IMF theo năm tháng là không thay đổi và ngày càng được zcủng cố.
Theo nhận định chung thì IMF được coi là một tổ chức uy tín lớn có tính độc lập cao và cho rằng Quỹ đề ra những chính sách kinh tế tối ưu cho các nước thành viên theo đuổi và áp đặt các quyết định cho các nước thành viên và sau đó giám sát việc thực hiện. Nhưng trái lại, chính các nước thành viên đã định ra các chính sách mà IMF phải thực hiện. Các mệnh lệnh đi từ Chính phủ các nước thành viên đến IMF mà không có lệnh ngược lại. Khi đưa ra các quy định về nghĩa vụ của từng thành viên đối với Quỹ hoặc đưa ra những điều mục của hợp đổng cho vay với một thành viên nào đó, IMF không tự hành động mà chỉ đóng vai trò trung gian giữa ý kiến đại đa số thành viên của quỹ đối với các nước thành viên đó.
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của IMF là Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị gồm đại diện của các nước thành viên và do mỗi nước bổ nhiệm, 5 năm 1 lần. Hiện nay IMF có 182 ủy viên ban quản trị, mỗi ủy viên đại diện cho 1 nước khác nhau. Hội đồng quản trị họp mỗi năm 1 lần. Trong kỳ họp, Hội đồng quản trị phê chuẩn báo cáo hàng năm về hoạt động của IMF, xem xét việc kết nạp thành viên mới và khai trừ thành viên ra khỏi tổ chức, xem xét việc thay đổi vốn pháp định…(xem phụ lục 2).
Cơ quan chấp hành của IMF là Hội đồng giám đốc (còn gọi là Hội đồng điều hành). Hội đồng giám đốc gồm 22 giám đốc chấp hành trong đó 6 giám đốc do 5 nước có mức đóng góp lớn nhất và Arập xêút bổ nhiệm; 16 giám đốc do Hội nghị toàn thể bầu ra có tính đến khu vực địa lý.
Ủy ban lâm thời (Imterm Committee) Hội đồng quản trị của IMF là cơ quan tư vấn về các vấn đề quan hệ tiền tệ được thành lập tháng 10 năm 1974. Thành viên của Ủy ban lâm thời là các Bộ trưởng Tài chính của 22 thành viên. Nhiệm vụ chính của Ủy ban lâm thời là kiểm tra việc quản lý hệ thống tiền tệ thế giới và kiến nghị với Hội đồng quản trị. Nếu Hội đồng quản trị thấy cần thiết, có thể cải tổ Ủy ban lâm thời thành cơ quan thường trực có quyền thông qua nghị quyết.
Một Ủy ban khác là Ủy ban phát triển (Development Committee), phối hợp giữa IMF và ngân hàng phát triển thế giới cố vấn cho Hội đồng quản trị về những nhu cầu đặc biệt của nước nghèo.
Bởi vì các ủy viên của Hội đồng quản trị và các ủy viên của Hội đồng giám đốc đều bận bịu với công việc ở nước mình nên họ chỉ gặp mặt trong các cuộc họp định kỳ hàng năm để cùng giải quyết các vấn đề của IMF.
IMF có khoảng 2600 nhân viên, đứng đầu là Giám đốc điều hành, đồng thời cũng là Chủ tịch Hội đồng điều hành (hội đồng tự bầu chủ tịch của mình). Theo truyền thống, Giám đốc điều hành là người Châu Âu, nếu không thì cũng phải là người Mỹ. Hiện nay, Tổng giám đốc IMF là ông Michel Camdessus quốc tịch Pháp, nhận chức tháng 1/1992, phó tổng giám đốc là Richard Erb người Mỹ. Nhân viên của IMF là người của khoảng 120 nước và đa phần là nhà kinh tế học, song cũng có cả các nhà thống kê, bác học, các chuyên gia về tài chính công cộng và thuế khoá, các nhà ngôn ngữ học, nhà văn và các nhân viên phục vụ. Ða số các nhân viên đều hoạt động tại trụ sở nhỏ ở Paris, Geneve, Tokyo, tại trụ sở của Liên hợp quốc ở NewYork hoặc tại các văn phòng của IMF được thành lập tạm thời ở các nước thành viên. Khác với các giám đốc chấp hành là những đại diện của từng nước thành viên, các nhân viên của Quỹ chỉ là nhân viên quốc tế, họ có trách nhiệm thực thi chính sách của IMF chứ không đại diện cho lợi ích của bất cứ quốc gia nào.
CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA IMF 1. Xác định hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái của các thành viên
Theo quy định của văn bản hiệp định đầu, các nước thành viên đều áp dụng hệ thống ngang giá tiền tệ và TGHÐ cố định. Trong hiệp định có ghi : “Tất cả các thành viên công nhận là chỉ cho phép diễn ra trên lãnh thổ nước mình những hoạt động hối đoái giữa các đồng tiền của mình với đồng tiền của những nước thành viên nào tôn trọng một sự cách biệt không quá 1% chế độ đồng giá”.
Do sức ép của Mỹ, Hội nghị Bretton Woods phải chấp nhận 1 tỷ lệ vàng USD là 35 USD – 1 ounce vàng. Cuối 1947 Bộ Trưởng Tài chính Mỹ, ông Johw Suyder đã tuyên bố với Tổng giám đốc của IMF là Mỹ bán và mua vàng bằng USD với giá 35 USD/ ounce cho tất cả các NHTW nào có yêu cầu. Ðiều này biến hệ thống Bretton Woods thành một hệ thống bản vị USD.
Để giải quyết vấn đề dự trữ của quỹ tháng 6-1967 Hội đồng Thống đốc IMF đã nhóm họp ở Rio de Janeiro, thủ đô Brazil và đã chấp nhận nguyên tắc tạo ra một loại dự trữ quốc tế mới là SDR (Special drawing right). Dự trữ SDR được thể hiện dưới hình thức bút tệ, được ghi trong tài khoản đặc biệt của mỗi nước thành viên và có thể sử đụng qua chuyển khoản. Giá trị của mỗi đơn vị SDR lúc ban đầu được ấn định là 0,888671 gram vàng, tương đương với hàm lượng vàng của 1 USD. Ðến năm 1973 vì có sự thả nổi hối suất của USD, giá trị của SDR được quy định căn cứ vào giá trị tổng hợp của 16 loại tiền tệ có cân nhắc tỷ trọng theo tầm quan trọng của mỗi đơn vị tiền tệ thể hiện qua phần giá trị xuất khẩu của mỗi quốc gia trong tổng giá trị xuất khẩu của thế giới. Năm 1981, giá trị tổng hợp đó chỉ còn căn cứ vào 5 đồng tiền của 5 nước có khối lượng xuất khẩu lớn nhất thế giới từ 1975-1979 là USD 40; FRF 11%; GDB 11%; JPY 17%; DEM 21%; Cứ 5 năm duyệt lại một lần: một lần vào đầu năm 1986, một lần vào đầu năm 1991.
Tuy nhiên sau hơn hai thập kỷ, hệ thống này đã bộc lộ nhiều yếu kém. Ðến đầu thập kỷ 70 khủng hoảng kinh tế đã các thành viên của quỹ làm cho nó không thể duy trì hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái cố định giữa các quốc gia. Hệ thống Bretton Woods sụp đổ hoàn toàn vào năm 1973 khi Tổng thống Mỹ Nixon tuyên bố ngừng chuyển đổi USD ra vàng. Lý do chính là Mỹ không còn đủ khả năng về dự trữ vàng để tiếp tục quy đổi với USD theo tỷ giá 35 USD/ounce vàng. Ðể đáp ứng được yêu cầu dự trữ ổn định quỹ tiền tệ quốc tế trong hoàn cảnh mới của nền kinh tế quốc dân, IMF yêu cầu các nước thành viên thực hiện bảy nghĩa vụ cũ là:
– Thi hành chính sách tự do mua bán vàng trên thị trường.
– Tạo điều kiện cho đồng tiền của các nước được chuyển đổi tự do.
– Loại bỏ dần các hành chế về hối đoái.
– Tôn trọng quy định của các thành viên khác về hối đoái phù hợp với quy định của IMF.
– Cung cấp thông tin tài chính cho IMF
– Hợp tác với các nước khác việc ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế về tiền tệ .
– Duy trì 1 tỷ giá hối đoái cố định .
Hệ thống tiền tệ mà IMF quản lý từ 1978 đến nay được gọi là hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý (hệ thống Jamaica). Nhiều cường quốc ấn định tỷ giá của mình theo cơ chế thả nổi có quản lý. Theo cơ chế này IMF có vai trò lớn và thường kiến nghị, tác động đến chính sách quản lý tỷ giá của các nước thông qua các điều kiện tín dụng. Tuy tác động, quản lý hệ thống tiền tệ quốc tế theo nhiều cách gián tiếp nhưng IMF đã thực hiện chức năng duy trì ổn định hệ thống tỷ giá hối đoái cố định tương đối l cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, việc thực hiện chức năng này còn được hỗ trợ bởi các hoạt động thực hiện các chức năng khác.
Ðể đáp ứng nhu cầu về vốn, IMF đã thực hiện nhiều biện pháp để tăng vốn. Năm 1962, IMF ký kết tổng nghị định thư về vay mượn (General Agreement to Borrow) GAB với thời hạn 4 năm. Sau đó tổng nghị định GAB được gia hạn nhiều lần và đến nay đã hoạt động ổn định. Tham gia vào GAB có 10 nước tư bản chủ chốt (Mỹ, Anh, Hà Lan, Canada, Pháp, Tây Ðức, Thụy Ðiển, Thụy Sỹ và Nhật Bản). Số vốn GAB tăng từ 6,4 tỷ SDR lên 17 tỷ SDR vào 2/83. Ðối tượng vay vốn theo GAB này ban đầu chỉ là các nước thành viên, nhưng từ năm 1984 các nước không phải thành viên cũng được tham gia. Thời hạn cho vay không quá 5 năm. Gần đây Hội đồng quản trị đã chấp nhận Hiệp định vay mượn mới (New Agreement to Borrow – NAB) cùng với 10 nước trên cũng được thực hiện với Arập Xêút và đã tạo ra một nguồn vốn 1,5 tỷ SDR. Các khoản vay NAB này sẽ có hiệu lực cho đến 26/12/1998.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính Mêhicô hồi cuối 1994 đầu năm 1995, Hội đồng quản trị IMF đã tăng cường khả năng vay vốn để đối phó với tình trạng khẩn cấp trong tương lai bằng cách thông qua NAB vào tháng l/1997. Theo NAB thì 25 nước và tổ chức có thể sẵn sàng cho IMF vay 34 tỷ SDR (47 tỷ USD) để bổ sung cho nguồn vốn đóng góp của quý khi cần thiết, ngăn chặn hoặc đối phó với tình huống bất thường có thể đe doạ sự ổn định của hệ thống.
3. Theo dõi tình hình của hệ thống tiền tệ quốc tế và chính sách kinh tế của các nước thành viên
Theo Hiệp định thành lập thì mục tiêu và hoạt động trọng tâm của IMF là “thực hiện sự giám sát chặt chẽ tỷ giá hối đoái của các nước thành viên”. Ðồng thời IMF có quyền áp đụng các nguyên tắc cụ thể để hướng dẫn các thành viên trên cơ sở tôn trọng chính sách của họ. Ðể thực hiện nhiệm vụ này IMF kiểm tra các vấn đề tiền tệ quốc tế và phân tích các khía cạnh của chính sách đó có thể tạo ra tác động đến hệ thống TGHÐ.
Trong những năm gần đây, tầm quan trọng của việc giám sát kịp thời và hiệu quả đã tăng lên do nhiều biến chuyển cơ bản trong nền kinh tế toàn cầu : tăng trưởng nhanh chóng của thị trường vốn tư nhân, hội nhập khu vực và thế giới, gia tăng, chỉnh đốn tài khoản vãng lai và cải cách kinh tế theo hướng thị trường của nhiều nước. Cuộc khủng hoảng Mêhicô năm 1995 và khủng hoảng tài chính Ðông Á 7/1997 cho thấy sự cần thiết và vai trò giám sát quan trọng của IMF. Năng l995, IMF đẩy mạnh chức năng giám sát, nhấn mạnh vào việc các thành viên cung cấp đầy đủ, chính xác các số liệu.
Theo Ðiều 4 về quan hệ hợp tác giữa IMF và thành viên, IMF được phép xem xét một cách có hệ thống sự phát triển kinh tế và chính sách kinh tế của thành viên, đánh giá tác động của các chính sách đối với tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán.
HOẠT ĐỘNG
Bất kỳ một nước thành viên nào, khi gia nhập IMF đều phải cho các thành viên khác trong quỹ biết dự định về chuẩn giá trị đồng tiền của nước mình so với đồng tiền của các nước khác để tự kiềm chế và hạn chế việc đổi đồng tiền của họ lấy ngoại tệ, và để theo đuổi những cơ sở kinh tế sẽ làm tăng của cải của nước thành viên đó và của cả cộng đồng các nước thành viên bằng con đường hòa hợp và có lợi. Các nước thành viên có trách nhiệm phải tuân theo điều luật này.
l. Vốn hoạt động của quỹ và quyền rút vốn đặc biệt (SDR)
*Vốn hoạt động:
Khi gia nhập IMF, mỗi nước thành viên đều phải đóng một khoản tiền nhất định được coi là một khoản lệ phí hội viên. Tuy nhiên khoản đóng này chỉ thực hiện khi quỹ có nhu cầu: khi có ai cần vay tiền của quốc gia đó thì quốc gia đó mới phải đóng. Chẳng hạn, nếu một nước muốn vay Bảng Anh thì khi đó IMF mới yêu cầu Anh phải đóng. Số tiền này được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau:
+ Thứ nhất, nó tạo thành một khoản vốn IMF có thể trích ra cho các thành viên vay mỗi khi họ gặp khó khăn về tài chính.
+ Thứ hai, nó là căn cứ để quyết định số lượng tiền mà nước thành viên được vay và là cơ sở để phân bổ rút vốn lớn đặc biệt (SDR) theo từng thời kỳ cho các nước thành viên. Dĩ nhiên, nước thành viên nào càng đóng góp nhiều thì khi cần nó càng được vay nhiều.
+ Thứ ba, số tiền ký quỹ này còn có vai trò quyết định quyền bỏ phiếu của nước thành viên.
Bản thân IMF là người quyết định số tiền mỗi nước thành viên phải nộp vào quỹ sau khi phân tích đánh giá mức độ giàu có và tình hình kinh tế của nước đó. Nước càng giàu, lệ phí càng cao (xem phụ lục 3). Mức đóng góp của mỗi nước thành viên vào IMF rất khác nhau. Năm 1985, Mỹ đóng 20,l%, khối EEC đóng 27,9%, còn các nước đang phát triển đóng 32,4%. Mức lệ phí này cứ 5 năm lại được xem xét lại, có thể tăng lên hoặc giảm đi tùy theo nhu cầu của IMF và mức độ phát đạt của nước thành viên. Tuy nhiên từ l/4/1978, với sự sửa đổi điều lệ lần thứ hai, việc xem xét và điều chỉnh phần đóng góp của mỗi nước thành viên được quy định 3 năm một lần. Năm 1945, 35 thành viên khi đó đóng góp vào IMF 7,6 tỷ USD, năm 1977 con số đó khoảng 200 tỷ USD. Ngày 6/2/1998 Hội đồng quản trị của IMF đã phê chuẩn kế hoạch tăng 45% ngân quỹ của tổ chức này, từ 199 tỷ USD lên 288 tỷ USD. Cho đến nay, Mỹ là nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới, đóng góp nhiều nhất cho IMF, chiếm khoảng 19% tổng số (40 tỷ USD); Marshall Island, một nước cộng hoà đảo ở Thái Bình Dương đóng ít nhất khoảng 3,6 triệu USD.
Khoản tiền đóng góp của các nước thành viên tạo nên nguồn tài chính cho IMF sử dụng. Tổng số tiền đóng góp các nước thành viên cho đến nay khoảng 210 tỷ USD, mặc dù trên thực tế số tiền sử dụng được không thể coi là lớn bởi vì các nước thành viên nộp 75% số lệ phí của họ bằng tiền nội địa và bởi vì hầu hết đồng tiền quốc gia của nhiều nước không phổ biến trong thanh toán quốc tế.
Maxi-Forex.com
Vai Trò Của Chính Sách Tiền Tệ Đối Với Nền Kinh Tế
Chính sách tiền tệ là quá trình quản lý, hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay ngân hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiệp hay gián tiếp thông qua thị trường mở, quy định mức dự trữ bắt buộc hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.
Chính sách tiền tệ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều tiết khối lượng tiền lưu thông trong toàn bộ nền kinh tế. Thông qua chính sách tiền tệ ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát được hệ thống tiền tệ để từ đó kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt khác chính sách tiền tệ còn là công cụ để kiểm soát toàn bộ hệ thống các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
Tạo ra công ăn việc làm
Chính sách tiền tệ mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên. Tình hình đó đặt ra cho ngân hàng Trung ương trách nhiệm là phải vận dụng các công cụ của mình góp phần tăng cường mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh đồng thời phải tham gia tích cực vào sự tăng trưởng liên tục và ổn định khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá mức tăng thất nghiệp tự nhiên.
Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu và quan trọng nhất của chính sách tiền tệ. Sự tăng trưởng kinh tế thông qua hai yếu tố: Lãi suất và số cầu tổng quát. Khối tiền tệ tăng hay giảm đều có tác động mạnh đến lãi suất và số cầu tổng quát, từ đó tác động đến sự gia tăng đầu tư sản xuất và cuối cùng là tác động lên tổng sản lượng quốc gia, tức là tác động lên sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bởi vậy chính sách tiền tệ phải nhằm vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế thông qua việc tăng hay giảm khối tiền tệ thích hợp.
Ổn định giá cả có ý nghĩa quan trọng trong kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô. Ổn định giá cả giúp cho Nhà nước hoạch định được phương hướng phát triển kinh tế một cách có hiệu quả hơn vì loại trừ được sự biến động của giá cả. Ổn định giá cả giúp cho môi trường đầu tư ổn định góp phần thu hút vốn đầu tư, khai thác mọi nguồn lực xã hội, thúc đẩy các doanh nghiệp cũng như các cá nhân sản xuất đem lại nguồn lợi cho mình cũng như xã hội.
Ổn định lãi suất
Mong muốn có một sự ổn định lãi suất vì những biến động của lãi suất làm cho nền kinh tế bấp bênh và khó lập kế hoạch cho tương lai. Vì vậy, ổn định lãi suất chính là thực hiện lãi suất tín dụng cung ứng phương tiện thanh toán, cho nền kinh tế quốc dân thông qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay được tạo lập từ các nguồn tiền gửi của xã hội và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo phải linh hoạt, phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường.
Ổn định thị trường tài chính
Việc ổn định thị trường tài chính là mục tiêu rất quan trọng trong công tác điều hành nền kinh tế của mỗi chính phủ, ổn định thị trường tài chính cũng được thúc đẩy bởi sự ổn định lãi suất bởi vì biến động trong lãi suất có thể gây nên sự mất ổn định cho các tổ chức tài chính. Trong những năm gần đây những biến động mạnh của lãi suất là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đối với các hiệp hội tiết kiệm và cho vay đã gặp khó khăn về tài chính như chúng ta đã biết.
Ổn định thị trường ngoại hối
Thị trường ngoại hối là thị trường mà ở đó tiền tệ của các nước khác nhau được đem ra trao đổi với nhau, chính tại thị trường này tỷ giá hối đoái được xác định. Việc tỷ giá ổn định không chỉ có tác động tích cực do một phần vốn đầu tư USD trước đây có thể chuyển vào thị trường chứng khoán để “đánh sóng” mà nó còn có ý nghĩa rất lớn đối với việc củng cố niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài. Chính sách tỷ giá luôn là một yếu tố vĩ mô quan trọng để nhà đầu tư nước ngoài xem xét khi họ có ý định đầu tư vào Việt Nam. Sự biến động của tỷ giá sẽ ảnh hưởng đến sức mua của đồng tiền, từ đó tác động ít hay nhiều đến hoạt động của nền kinh tế tùy theo mức độ hướng ngoại của nền kinh tế đó.
Những nội dung cơ bản và công cụ thực hiện chính sách tiền tệ
Nội dung quan trọng nhất của chính sách tiền tệ là việc cung ứng tiền cho nền kinh tế. Việc cung ứng tiền có thể thông qua con đường tín dụng, cũng có thể thông qua hoạt động của thị trường mở ( mua bán giấy tờ có giá), thị trường hối đoái ( mua bán ngoại tệ) và để điều tiết mức tiền cung ứng, ngân hàng Trung ương các nước sử dụng các công cụ khác nhau như lãi suất, tỷ suất, dự trữ bắt buộc…. Chính vì thế mà chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế là một điều hiển nhiên, bởi nó được sinh ra là để điều tiết tiền tệ, mà sức vận động của tiền tệ trong nền kinh tế lại như máu lưu thông trong cơ thể con người.
Là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng Trung ương đối với các ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho ngân hàng thương mại, ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Là một quy định của ngân hàng trung ương về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Các ngân hàng TM có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Là hoạt động ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá trị ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hoà cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tin dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
Công cụ lãi suất tín dụng
Là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bời vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể kích thích hay kìm hãm sản xuất. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
Công cụ hạn mức tín dụng
Là một công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính cùa Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hoá, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặt biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
Từ những nội dung trên có thể thấy rằng chính sách tiền tệ nói riêng là một trong những công cụ quan trọng nhất của nhà nước để quản lý và điều hành nền kinh tế. Chính sách tiền tệ góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô, kiểm soát được lạm phát, ổn định giá cả hàng tiêu dung, ổn định được thị trường ngoại hối, thị trường vàng… giúp từng bước phục hồi nền kinh tế cũng như tạo ra lợi thế trong liên kết và phân công lao động quốc tế, thích ứng với xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế Là Gì? Vai Trò Của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!