Đề Xuất 3/2023 # Quan Điểm Của Đảng Về Bảo Vệ Tổ Quốc Trong Tình Hình Mới # Top 7 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Quan Điểm Của Đảng Về Bảo Vệ Tổ Quốc Trong Tình Hình Mới # Top 7 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Quan Điểm Của Đảng Về Bảo Vệ Tổ Quốc Trong Tình Hình Mới mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Văn kiện Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam bao gồm hệ thống quan điểm, tư tưởng, phương châm chỉ đạo xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Nghị quyết Đại hội XII nhấn mạnh: “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Đây là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quán triệt và triển khai thực hiện trong thời gian tới.

Xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực và thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới có sự phát triển với nhiều nội dung mới, sâu sắc và toàn diện. Nội hàm cốt lõi của bảo vệ Tổ quốc là: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc gắn chặt với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình ổn định để phát triển đất nước. Điều này không chỉ thể hiện tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thay đổi nhanh chóng, đan xen cả thời cơ và thách thức, mà còn biểu thị rõ quyết tâm của Đảng ta xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Điểm mới nữa là, tại Đại hội XII, Đảng ta có tầm nhìn sâu, rộng hơn về không gian và thời gian bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh thế giới, khu vực, nhất là Biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp mới rất khó đoán định, không thể giải quyết thỏa đáng những tranh chấp trong một sớm, một chiều, nên Đảng ta xác định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng” 2. Theo đó, các cấp, các ngành, các lực lượng, nhất là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cần chủ động xác định giải pháp triển khai thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng. Trên cơ sở nhiệm vụ tổng quát, Đại hội XII xác định rõ trách nhiệm của cả hệ thống chính trị cũng như nhiệm vụ cụ thể của mỗi lực lượng đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt” 3. Nhiệm vụ này đã được các kỳ đại hội trước đề cập đến, nhưng chưa thật rõ như Đại hội XII của Đảng – “là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”.

Trước sự phát triển của khoa học công nghệ, các loại hình chiến tranh: truyền thống và phi truyền thống; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, Đảng ta chủ trương: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân” 4. Trong khi các thế lực tập trung đấu tranh đòi “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân và Công an nhân dân thì quan điểm của Đảng chú trọng xây dựng Quân đội và Công an “vững mạnh về chính trị”, “tuyệt tối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân” là yếu tố tiên quyết để Quân đội và Công an luôn là lực lượng tin cậy, công cụ sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Cùng với đó, “Tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc trong mọi tình huống” 5. Quan điểm xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân thể hiện rõ tính định hướng chiến lược của Đảng ta về nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, nhằm đảm bảo cho lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quốc phòng – an ninh luôn chủ động trước mọi tình huống, không để Tổ quốc bị bất ngờ.

Đại hội XII, Đảng ta khẳng định tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh là phải tập trung mọi nguồn lực của cả hệ thống chính trị xây dựng “thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc”. Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân” 6. Để làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, quan điểm mới của Đảng chỉ rõ: “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng”. Đặc biệt, tại Đại hội này, Đảng ta có quan điểm: “Giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế”. Đây là một chủ trương đúng, phù hợp với xu thế thời đại và cộng đồng quốc tế. Đồng thời, làm thất bại mọi chiêu bài của các thế lực thù địch hòng lợi dụng lòng yêu nước, kích động các tầng lớp nhân dân đi ngược lại đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Cùng với việc thể hiện nhất quán quan điểm “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội”, Đảng ta nhấn mạnh phải “Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược”; “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”. Đây vừa là quan điểm mới, vừa là định hướng chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, quan điểm của Đảng là “Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, lực lượng vũ trang làm nòng cốt”. Đồng thời định hướng rõ: “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia – dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc” 7. Quan điểm mới của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc là phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, tạo sự đồng thuận xã hội. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng về nguồn lực, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đại tá, PGS, TS. TRẦN NAM CHUÂN

1 – ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 147 – 148.

2 – Sđd, tr. 78 – 79.

7 – Sđd, tr. 158-159.

Nghị Quyết Đại Hội Xii Của Đảng Về Bảo Vệ Tổ Quốc Trong Tình Hình Mới

Những quan điểm, chủ trương, định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam được nêu trong NQ ĐH Đảng XII thể hiện tính cách mạng, khoa học, phù hợp tình hình quốc tế và điều kiện thực tiễn của nước ta; Phù hợp ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.

Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; Bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; Giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; Chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Như vậy, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.

Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta, tạo cơ sở quan trọng cho Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị, toàn dân và toàn quân ta xác định và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh theo chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng khẳng định phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Các nhiệm vụ này phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng, tác động hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Đảng đưa nhiệm vụ phát triển kinh tế lên hàng đầu, nhưng không coi nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là thứ yếu; Đảng xem việc củng cố quốc phòng, an ninh là cơ sở tạo điều kiện, tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; Ngược lại, mỗi thành quả của nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội sẽ tiền đề vững chắc cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh của quốc gia. Đây là quan điểm lý luận cơ bản, chi phối, quy định toàn bộ các nội dung, quan điểm của Đảng về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược. Đây là tư duy mới của Đảng, bảo vệ Tổ quốc là sự kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh không chỉ trên lĩnh vực phát triển kinh tế mà còn cả trên lĩnh vực văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh tại các địa bàn chiến lược; Nội dung của sự kết hợp trên phải được triển khai tổ chức thực hiện cụ thể ở tất cả các cấp, các lĩnh vực. Sự kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh được thể hiện trong quy hoạch tổng thể của quốc gia, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, kế hoạch tăng cường lực lượng, tiềm lực, thế trận quốc phòng, an ninh trong nhiệm vụ, trong phương án, kế hoạch tác chiến và đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay được thể hiện ngay từ khâu thẩm định các khu công nghiệp, kinh tế tập trung, các dự án ven biển, trên đảo; quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng gắn với xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh, bao gồm các tuyến đường giao thông, hệ thống các sân bay, bến cảng, kho, hệ thống thông tin…

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng an ninh, phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Điều này cho thấy, trong nhận thức lý luận cũng như trong tổ chức thực tiễn, Đảng ta luôn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát tình hình, yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng để tổ chức, lãnh đạo và chỉ đạo sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước là cơ sở chắc chắn nhất bảo đảm cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh đất nước có nhiều biến động phức tạp.

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, có số lượng hợp lý, có sức chiến đấu cao; Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, chủ động chuẩn bị lực lượng và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, đủ khả năng bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia trong mọi tình huống…

Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và từng người dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; Làm cho tư duy về bảo vệ Tổ quốc được thể hiện đậm nét, trước hết là trong các chủ trương, chính sách phát triển của các ngành và các địa phương. Cần xây dựng, hoàn thiện cơ chế phối kết hợp hoạt động bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tập trung, thống nhất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.

Nguồn Infonet

Nhiệm Vụ Quốc Phòng, An Ninh, Bảo Vệ Tổ Quốc Trong Tình Hình Mới

Thứ ba, 28 Tháng 7 2015 10:15

(LLCT) – Trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp, Trung Quốc ngang nhiên xâm phạm chủ quyền biển, đảo của nước ta, việc dự báo, đánh giá những nhân tố tác động, ảnh hưởng đến nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, đề xuất các giải pháp về nhận thức và tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là yêu cầu khách quan, cấp thiết.

1. Những nhân tố tác động, ảnh hưởng đến nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc

Kinh tế thế giới vẫn gặp khó khăn, khủng hoảng kinh tế chưa được khắc phục nhưng sẽ từng bước phục hồi, cách mạng khoa học – công nghệ phát triển mạnh tạo ra cơ hội và thách thức mới trong phát triển kinh tế.

Mỹ chuyển trọng tâm chiến lược sang châu Á – Thái Bình Dương nhằm củng cố vị thế siêu cường số 1 và lợi ích chiến lược, thực thi phương thức lật đổ các chính quyền cản trở lợi ích của Mỹ bằng “cách mạng màu, cách mạng đường phố”, bạo loạn kết hợp với bao vây cấm vận kinh tế, gây sức ép chính trị, ngoại giao; tạo ra lực lượng đối lập bên trong, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ, kích động gây bạo loạn tạo cớ can thiệp.

Trung Quốc thực hiện chủ trương “chấn hưng dân tộc Trung Hoa”, trỗi dậy mạnh mẽ, chủ động can dự vào các vấn đề chính trị, kinh tế, ngoại giao, an ninh thế giới; tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ lợi ích cốt lõi, giành chủ quyền biển, đảo ở biển Hoa Đông và Biển Đông v.v.. nhằm trở thành cường quốc hàng đầu ở châu Á và thế giới, cạnh tranh vai trò lãnh đạo của Mỹ; chủ động sử dụng con bài đầu tư, viện trợ kinh tế, lôi kéo, chi phối một số nước, chia rẽ ASEAN, Việt Nam, Lào, Campuchia.

Bất ổn chính trị, xung đột cục bộ trên thế giới và khu vực có những diễn biến khôn lường, có chiều hướng gia tăng; cạnh tranh giữa Mỹ và các cường quốc làm cho tình hình thế giới diễn biến phức tạp; các thế lực thù địch đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, kích động thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “bạo loạn” lật đổ chế độ; tranh chấp Biển Đông diễn biến phức tạp đe dọa chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia…

Sự nghiệp đổi mới của nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, giữ vững sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội; thu nhập và đời sống của nhân dân được cải thiện v.v.. Tuy nhiên còn nhiều tồn tại yếu kém và phát sinh những nhân tố mới ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:

Một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, tham nhũng, quan liêu làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực còn yếu kém, nhiều vụ việc xảy ra do yếu kém trong quản lý nhà nước gây ra băn khoăn, lo lắng trong nhân dân.

Kinh tế tuy ổn định và tăng trưởng nhưng chưa bền vững; năng suất, chất lượng hiệu quả, khả năng cạnh tranh thấp; đầu tư dàn trải, lãng phí còn lớn; tỷ lệ thất nghiệp, nghèo đói còn cao. Tình hình tranh chấp, khiếu kiện của nhân dân, nhất là khiếu kiện về đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng còn diễn biến phức tạp và chưa được giải quyết thoả đáng, gây bức xúc trong xã hội, các thế lực thù địch lợi dụng, kích động, chia rẽ sự đoàn kết nhân dân với Đảng, Nhà nước…

2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc

Một là, khắc phục những hạn chế yếu kém, đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước đối với việc thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của các cấp, các ngành, địa phương đối với công tác quốc phòng, an ninh. Trên cơ sở đó tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức, cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác quốc phòng, an ninh ở các cấp, các ngành, địa phương.

Thường xuyên quan tâm xây dựng các tổ chức Đảng trong Quân đội và Công an thực sự trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Xây dựng Quân đội, Công an chính quy, hiện đại, tinh nhuệ, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu và giành thắng lợi trong mọi tình huống. Trong tình hình hiện nay, cần ưu tiên đầu tư đi thẳng, tiến nhanh lên hiện đại đối với các lực lượng hải quân, phòng không, không quân, lực lượng an ninh, tình báo, cảnh sát cơ động, cảnh sát biển.

Tiếp tục củng cố và hoàn thiện nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân trên từng địa bàn tỉnh, thành; đặc biệt chú trọng xây dựng thế trận lòng dân và thế trận phòng thủ trên các địa bàn chiến lược; xây dựng các khu phòng thủ tỉnh (thành) vững chắc đi đôi với xây dựng lực lượng cơ động tinh nhuệ.

Xây dựng thế trận khu vực phòng thủ, thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh kết hợp với thế trận an ninh nhân dân; kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế trong các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội ở từng địa phương và trên phạm vi cả nước.

Mỗi khu vực phòng thủ tỉnh (thành) rà soát lại tình hình chính trị ở từng cơ sở, có kế hoạch giải quyết các điểm nóng, tháo gỡ các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giữa nhân dân với lãnh đạo, quản lý địa phương, không để xảy ra các vấn đề nổi cộm về an ninh chính trị.

Xây dựng “thế trận lòng dân” phải nhanh chóng giải quyết những vấn đề bức xúc, xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng khó khăn, đặc biệt trên các địa bàn xung yếu.

Đẩy mạnh công tác giáo dục quốc phòng, an ninh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, trước hết là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở. Xây dựng nội dung giáo dục quốc phòng, an ninh thích hợp cho từng cấp học, từng hệ đào tạo trong chương trình giáo dục.

Đầu tư thích đáng cho công nghiệp quốc phòng, xây dựng các kế hoạch cụ thể và thực hiện có hiệu quả sản xuất, trang bị vũ khí, phương tiện kỹ thuật phù hợp với điều kiện đất nước và chiến tranh hiện đại; tận dụng khả năng công nghiệp dân dụng phục vụ quốc phòng, khai thác khả năng của công nghiệp quốc phòng phục vụ nhu cầu kinh tế. Huy động các ngành khoa học – kỹ thuật tham gia phát triển khoa học và công nghệ quân sự, an ninh, cải tiến vũ khí, trang bị, bảo đảm hậu cần kỹ thuật cho các lực lượng vũ trang.

Đổi mới cơ chế chính sách về quốc phòng, an ninh, nhất là chính sách đối với Quân đội, Công an trong tình hình mới.

Trong thời gian tới, công tác tuyên truyền về biển, đảo cần có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và các phương tiện thông tin đại chúng, dưới sự chỉ đạo tập trung, thống nhất từ cơ quan chức năng Trung ương. Đặc biệt, cần cung cấp thông tin kịp thời, minh bạch, chính xác để mọi người dân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và nhân dân thế giới hiểu cơ sở pháp lý, cơ sở lịch sử và sự chiếm hữu thực tế của Việt Nam trên các vùng biển, đảo; hiểu rõ quan điểm, lập trường của Đảng, Nhà nước ta về giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông; xây dựng niềm tin, ý chí quyết tâm của cả dân tộc Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo và các hoạt động kinh tế biển.

Cần kết hợp công tác tuyên truyền về biển, đảo với công tác giáo dục pháp luật, làm cho cán bộ, nhân dân, nhất là ngư dân hiểu rõ các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về biển, nhất là Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật của tàu, thuyền nước ngoài ở vùng biển Việt Nam.

Cần sớm đưa các nội dung về chủ quyền biên giới và lãnh thổ, biển, đảo vào sách giáo khoa ở các cấp phổ thông và đại học; in và phổ biến rộng rãi trong cộng đồng người Việt Nam và quốc tế các bản đồ mới về đường biên giới trên bộ và các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học về Biển Đông, khẳng định vững chắc chủ quyền của Việt Nam, cả về mặt pháp lý, cơ sở lịch sử qua các thời kỳ.

Trước tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc, chúng ta cần có những biện pháp thích đáng ở các cấp độ khác nhau: song phương, khu vực và toàn cầu. Một mặt, kiên trì theo đuổi các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS; mặt khác, coi trọng sử dụng hiệu quả cơ chế toàn cầu và khu vực, thông qua các diễn đàn của Liên Hợp quốc và ASEAN để các tổ chức này có tiếng nói, thể hiện rõ quan điểm đối với hành vi vi phạm chủ quyền của một quốc gia thành viên, đồng thời chuẩn bị các tài liệu, căn cứ để khi cần thiết sử dụng các biện pháp pháp lý khởi kiện ra Tòa án quốc tế.

Bốn là, đẩy mạnh xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển đảo. Trong bối cảnh bất ổn trên các vùng biển của Việt Nam hiện nay, việc tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo và các hoạt động kinh tế biển, nhất là lực lượng Hải quân, Không quân, Cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng, Lực lượng kiểm ngư là yêu cầu cấp bách. Hải quân nhân dânViệt Nam là lực lượng chuyên trách hoạt động trên biển – giữ vai trò nòng cốt và trách nhiệm nặng nề trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các vùng biển, đảo của Tổ quốc, cần được ưu tiên đầu tư xây dựng theo hướng đi nhanh và tiến thẳng lên hiện đại và có chính sách đãi ngộ thỏa đáng, đặc biệt là các lực lượng thường xuyên tuần tra trên biển và chốt giữ các đảo ở khơi xa. Cảnh sát biển Việt Namlà lực lượng chuyên trách quản lý, duy trì thực thi pháp luật trên các vùng biển của Tổ quốc cần được tiếp tục củng cố, hoàn thiện về tổ chức biên chế, tăng cường trang bị hiện đại, bảo đảm đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trước mắt và đáp ứng cho sự phát triển trong tương lai. Bộ đội biên phòngcần được đầu tư bảo đảm đủ trang bị kỹ thuật, phương tiện khí tài, phương tiện cơ động… đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, cứu hộ – cứu nạn, chống buôn lậu và các tệ nạn xã hội trên vùng biển, đảo của Tổ quốc. Xây dựng lực lượng dân quântự vệ biểntheo phương châm “rộng khắp”, ở đâu có tàu, thuyền hoạt động trên biển, có dân định cư ở ven biển và trên đảo, ở đó có dân quân tự vệ; lấy các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã làm nòng cốt; tổ chức biên chế phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của từng địa phương, bảo đảm tạo thành 3 tuyến: ven bờ, trong lộng, ngoài khơi; coi trọng xây dựng lực lượng hoạt động trên biển, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống. Kiểm ngưlà lực lượng mới được xây dựng, cần được gấp rút kiện toàn về tổ chức, nhân lực, với các đội tàu được trang bị hiện đại từ cấp Trung ương đến các vùng, các chi cục thuộc 28 tỉnh, thành phố ven biển. Đây là lực lượng kiểm soát dân sự của Việt Nam, có đầy đủ thẩm quyền để phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm của tàu, thuyền, giàn khoan của nước ngoài; hỗ trợ ngư dân, bảo đảm an ninh trật tự, bảo vệ chủ quyền quốc gia ở các vùng biển, đảo của Tổ quốc.

Năm là, ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, các công trình phòng thủ ở các vùng biển, đảo. Cần tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, các công trình dân sinh trên các đảo, bảo đảm cuộc sống của cư dân, khẳng định chủ quyền của đất nước. Gắn với xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, các công trình dân sinh phải chủ động xây dựng các công trình phòng thủ biển, đảo, đủ khả năng ngăn chặn các hoạt động xâm nhập, đánh chiếm đảo của các lực lượng nước ngoài.

Xây dựng lực lượng khai thác biển, có chính sách, kế hoạch hỗ trợ ngư dân bám biển, bảo vệ chủ quyền biển, đảo.Để khẳng định chủ quyền biển, đảo cần đẩy mạnh các hoạt động khai thác trên các vùng biển thuộc chủ quyền của đất nước. Cần tăng cường các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí, bảo vệ các hoạt động của công ty dầu khí và các nhà đầu tư nước ngoài. Xúc tiến việc thành lập các doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã, công ty tư nhân trong hoạt động đánh bắt, chế biến hải sản. Có chính sách, kế hoạch hỗ trợ ngư dân đánh bắt hải sản, bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc. Các lực lượng đánh bắt, khai thác trên biển phải được đầu tư, hỗ trợ đồng bộ cả về phương tiện, cung cấp hậu cần nghề cá và thu mua, chế biến hải sản. Sự có mặt của các lực lượng này trên các ngư trường không chỉ có ý nghĩa phát triển kinh tế biển mà còn góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Sáu là, nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc diễn ra trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh – quốc phòng, đối ngoại, thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình của từng lĩnh vực, của các cấp, các ngành, được cụ thể hóa trong hoạt động của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị. Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước cũng như trong từng quy hoạch, kế hoạch cụ thể ở địa phương và các ngành vừa phải quan tâm đến mục tiêu kinh tế – xã hội, vừa phải chú ý đến yêu cầu của quốc phòng – an ninh, tính đến việc sử dụng cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh khi cần thiết. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội phải phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân.

Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phải có giải pháp đột phá ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, quan liêu, tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, gắn bó tình cảm yêu nước với yêu chế độ, bảo vệ Tổ quốc với bảo vệ chế độ XHCN.

Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt, vì vậy phải chăm lo xây dựng các lực lượng vũ trang có quân số hợp lý, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, được bố trí phù hợp trên các địa bàn chiến lược và có lực lượng cơ động mạnh, đồng thời tham gia thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng các công trình trọng điểm, công trình phát triển kinh tế và phòng thủ biên giới, biển đảo, xây dựng các đơn vị kinh tế – quốc phòng giúp đỡ nhân dân khu vực biên giới, hải đảo, xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn an ninh trật tự.

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 8-2014

PGS, TS Nguyễn Văn Mạnh

Viện Nhà nước và pháp luật

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Bảo Vệ Chủ Quyền Các Vùng Biển, Đảo Của Tổ Quốc Trong Tình Hình Mới

Nắm chắc tay súng bảo vệ chủ quyền biển đảo. (Nguồn: Báo Giáo dục Việt Nam)

Bảo vệ chủ quyền các vùng biển, đảo của Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Trong bối cảnh phức tạp hiện nay, để thực hiện nhiệm vụ này, chúng ta phải quán triệt, thấu suốt quan điểm của Đảng về mục tiêu, nhiệm vụ, phương thức bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đồng thời, triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, bảo đảm duy trì hòa bình, ổn định và giữ vững chủ quyền vùng biển, đảo của Tổ quốc.

Trong thời đại ngày nay, sự phát triển khoa học và công nghệ cho phép con người mở rộng khả năng khai thác tài nguyên biển vượt qua các giới hạn về độ sâu và tiến tới khả năng sống ở môi trường biển. Trước sức ép ngày càng tăng về dân số và cạn kiệt dần tài nguyên trên đất liền, tiến ra biển và bảo vệ chủ quyền, tài nguyên biển trở thành một chiến lược lâu dài của nhiều nước trên thế giới. Việt Nam là một quốc gia ven biển, có những lợi thế về vị trí địa lý tự nhiên và tiềm năng kinh tế, nên tiến ra biển, khai thác và bảo vệ vững chắc toàn vẹn lãnh thổ, trong đó có chủ quyền các vùng biển, đảo là một nhiệm vụ chiến lược.

Lịch sử dân tộc ta còn ghi lại bao lời tuyên bố vang vọng mãi với non sông đất nước, thấm sâu trong tâm trí con người Việt Nam như lời thề non nước; trong đó, có lời căn dặn của Bác Hồ khi về thăm Bộ đội Hải quân năm 1961: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Lịch sử dân tộc cũng chứng tỏ rằng, Việt Nam tuy là nước nhỏ (xét cả về lãnh thổ, dân số, tiềm lực kinh tế và quân sự so với nhiều nước đã từng xâm lược nước ta), nhưng vẫn có thể tạo nên sức mạnh để bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Đó là chiến lược: “Dĩ đoạn chế trường” (lấy ngắn chế dài) của Trần Quốc Tuấn; “Dĩ nhược chế cường, dĩ quá địch chúng” (lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều), “Dĩ đại nghĩa nhi hung tàn, dĩ chi nhân nhi địch cường bạo” (lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo) theo lời Nguyễn Trãi. Đặc biệt, để tạo nên sức mạnh to lớn trong cuộc kháng chiến 30 năm (1945 – 1975) của nhân dân ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chúng ta đã biết khai thác và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại để đánh thắng kẻ thù.

Ngày nay, bối cảnh thế giới, khu vực và tình hình trong nước đã đổi thay so với những thời kỳ trước, song truyền thống giữ nước cùng bài học chống ngoại xâm của ông cha vẫn giữ nguyên giá trị. Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định: chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, trong đó có các vùng biển, đảo là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Nhân dân Việt Nam, đất nước Việt Nam có đủ ý chí quyết tâm và sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc để giữ gìn, bảo vệ các vùng biển và hải đảo của mình.

1. Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền về biển, đảo.

2. Kiên trì giải quyết tranh chấp biển, đảo bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Trước tham vọng kiểm soát phần lớn Biển Đông của nước ngoài, chúng ta cần có những biện pháp thích đáng ở các cấp độ khác nhau: song phương, khu vực và toàn cầu. Một mặt, kiên trì theo đuổi các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS; mặt khác, coi trọng sử dụng hiệu quả cơ chế toàn cầu và khu vực, thông qua các diễn đàn của Liên hợp quốc và ASEAN để các tổ chức này có tiếng nói, thể hiện rõ quan điểm đối với hành vi vi phạm chủ quyền của một quốc gia thành viên.

3. Tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo vững mạnh.

Trong bối cảnh bất ổn trên các vùng biển của Tổ quốc hiện nay, việc tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo và các hoạt động kinh tế biển, nhất là Hải quân nhân dân Việt Nam, Cảnh sát biển Việt Nam,

Bộ đội Biên phòng, dân quân tự vệ biển và lực lượng Kiểm ngư vững mạnh, đủ sức hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao là một yêu cầu bức thiết. Hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng chuyên trách hoạt động trên biển – giữ vai trò nòng cốt và gánh vác trách nhiệm nặng nề trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các vùng biển, đảo của Tổ quốc, cần được ưu tiên đầu tư xây dựng theo hướng hiện đại và có chính sách đãi ngộ thỏa đáng, đặc biệt là các lực lượng thường xuyên tuần tra trên biển và chốt giữ các đảo ở khơi xa. Cần phấn đấu để trong tương lai gần, Hải quân ta có đủ các lực lượng: tàu mặt nước, tàu ngầm, Không quân Hải quân, Hải quân đánh bộ và pháo – tên lửa bờ biển…, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền, bảo vệ tài nguyên, bảo vệ nhân dân ta lao động sản xuất trên biển, sẵn sàng ngăn ngừa và đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược từ hướng biển. Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng chuyên trách quản lý, duy trì thực thi pháp luật trên các vùng biển của Tổ quốc cần được tiếp tục củng cố, hoàn thiện về tổ chức biên chế, tăng cường trang bị hiện đại, bảo đảm đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trước mắt và đáp ứng cho sự phát triển trong tương lai. Lực lượng Bộ đội Biên phòng cần được đầu tư bảo đảm đủ trang bị kỹ thuật, phương tiện khí tài, phương tiện cơ động…, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, cứu hộ – cứu nạn, chống buôn lậu và các tệ nạn xã hội trên vùng biển được phân công. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ biển theo phương châm “rộng khắp”, ở đâu có tàu, thuyền hoạt động trên biển, có dân định cư ở ven biển và trên đảo, ở đó có dân quân tự vệ; lấy các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã làm nòng cốt; tổ chức biên chế phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của từng địa phương, bảo đảm tạo thành 3 tuyến: ven bờ, lộng, khơi; coi trọng xây dựng lực lượng hoạt động trên biển, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống. Kiểm ngư là lực lượng cần sớm được xây dựng, đi vào hoạt động trong thời gian tới, với các đội tàu được trang bị hiện đại từ cấp Trung ương đến các vùng, các chi cục thuộc 28 tỉnh (thành phố) ven biển. Đây là lực lượng kiểm soát dân sự của Việt Nam, có đầy đủ thẩm quyền để phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm của tàu cá nước ngoài; hỗ trợ ngư dân, đảm bảo an ninh trật tự, bảo vệ chủ quyền quốc gia ở các vùng biển, đảo của Tổ quốc.

PHẠM TRANG – QUANG CHUYÊN

Bạn đang đọc nội dung bài viết Quan Điểm Của Đảng Về Bảo Vệ Tổ Quốc Trong Tình Hình Mới trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!