Đề Xuất 3/2023 # Phương Pháp Kỉ Luật Tích Cực Trong Dạy Học Và Giáo Dục Học Sinh Tiểu Học # Top 11 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Phương Pháp Kỉ Luật Tích Cực Trong Dạy Học Và Giáo Dục Học Sinh Tiểu Học # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Phương Pháp Kỉ Luật Tích Cực Trong Dạy Học Và Giáo Dục Học Sinh Tiểu Học mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO QUẢNG TRỊPHƯƠNG PHÁP KỈ LUẬT TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC HỌC SINH TIỂU HỌCtrẻ em học từ cuộc sốngNếu sống với chỉ tríchEm học cách chê bai.Nếu sống với thù hậnEm học cách gây gổ.Nếu sống với bao dungEm học lòng kiên nhẫn.Nếu sống trong khích lệEm có lòng tự tin.Nếu sống trong ca ngợiEm biết cách tặng khen.Nếu sống trong công bằngEm có lòng độ lượng.Nếu sống trong bình anEm có lòng tin cậy.Nếu sống trong tình thươngEm biết yêu chính mình. Giáo dục kỉ luật tích cực là:– Những giải pháp mang tính dài hạn giúp phát huy tính kỉ luật tự giác của học sinh.– Sự thể hiện rõ ràng những mong đợi, quy tắc và giới hạn mà học sinh phải tuân thủ.– Gây dựng mối quan hệ tôn trọng giữa giáo viên và học sinh.– Dạy cho học sinh những kĩ năng sống mà các em sẽ cần trong suốt cả cuộc đời. Làm tăng sự tự tin và khả năng xử lý các tình huống khó khăn trong học tập và cuộc sống của các em. Dạy cho học sinh cách cư xử lịch sự, nhã nhặn, không bạo lực, có sự tôn trọng bản thân, biết cảm thông và tôn trọng quyền của người khác. Giáo dục kỉ luật tích cực không phải là…. Sự buông thả, để cho học sinh muốn làm gì thì làm. Không có các quy tắc, giới hạn hay sự mong đợi. Những phản ứng mang tính ngắn hạn hay những hình phạt thay thế cho việc tát, đánh hay sỉ nhục. BẢY NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA GIÁO DỤC KỈ LUẬT TÍCH CỰC1. Tôn trọng phẩm giá của trẻ.2. Phát triển thái độ, cách xử sự hướng ngoại, thân thiện, cởi mở, ý thức kỉ luật tự giác và nghị lực của trẻ.3. Phát huy hết mức sự tham gia tích cực của trẻ.4. Tôn trọng những nhu cầu về sự phát triển và chất lượng cuộc sống của trẻ.5. Tôn trọng động cơ và những quan điểm riêng về cuộc sống của trẻ.6. Đảm bảo sự công bằng, không thiên vị (vô tư, không phân biệt đối xử) và sự công minh.7. Khuyến khích tình đoàn kết, thống nhất.BÀI 4: THAY ĐỔI QUAN ĐIỂM, NHẬN THỨC CỦA GIÁO VIÊN VỀ GIÁO DỤC KỈ LUẬTHOẠT ĐỘNG 1: Những quan điểm, nhận thức không phù hợp về giáo dục kỉ luật. Hành vi, cách ứng xử của mỗi người thường xuất phát từ quan điểm, nhận thức của cá nhân và tập thể. Quan điểm nhận thức không tích cực sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cách giáo dục trẻ, tạo ra môi trường giáo dục không tích cực, không phù hợp với thời đại hiện nay. Chúng ta cần phải thay đổi quan điểm nhận thức không tich cực trong giáo dục kỉ luật.HOẠT ĐỘNG 2: Những khó khăn khi thay đổi quan điểm nhận thức của giáo viên về giáo dục kỉ luật.Những khó khăn chính trong việc thay đổi quan điểm nhận thức của giáo viên về giáo dục kỉ luật là:Quan niệm xã hội còn tồn tại về giáo dục kỉ luật chưa tích cực.Khó thay đổi thói quen của cá nhân.Việc thực thi pháp luật còn chưa nghiêm, các biện pháp chế tài còn chưa đầy đủ và cụ thể.Ảnh hưởng của phong tục tập quán lạc hậu ở địa phương.Tác động tiêu cực của xã hội.Áp lực công việc của giáo viên.BÀI 4: THAY ĐỔI QUAN ĐIỂM, NHẬN THỨC CỦA GIÁO VIÊN VỀ GIÁO DỤC KỈ LUẬTHOẠT ĐỘNG 3: Những công việc cần làm để thay đổi nhận thức của giáo viên về giáo dục kỉ luật.BÀI 4: THAY ĐỔI QUAN ĐIỂM, NHẬN THỨC CỦA GIÁO VIÊN VỀ GIÁO DỤC KỈ LUẬT Thay đổi một nếp nghĩ hay một thói quen đã tồn tại nhiều năm không phải là diều dễ dàng. Thay đổi cả một quan điểm đã ăn sâu vào tiềm thức lại cần phải có những biện pháp hiệu quả, có sự hợp tác của nhiều người và cần có thời gian nhất định. Vì vậy, mỗi ngườicần phải chuẩn bị cho mình một tâm thế tự tin để thay đổi. Một số gợi ý để bắt đầu cho sự thay đổiGiáo viênSuy nghĩ sâu sắc về nghề dạy học, khơi gợi lòng yêu thích công việc của mình và yêu thương học sinh.Dành thời gian để suy nghĩ về bản thân, về cách đối xử với học sinh, rút ra những bài học bổ ích trong việc giáo dục học sinh.Quan tâm chăm sóc đến bản thân (tinh thần và thể chất).Ghi chép nhật kí công tác lớp.Luôn tạo niềm vui cho bản thân, tự giải tỏa những căng thẳng.Trao đổi học tập kinh nghiệm từ đồng nghiệp.2. Cán bộ quản lí– Tổ chức tuyên truyền và vận động trong đội ngũ giáo viên về hậu quả của trừng phạt thân thể trẻ em.– Tổ chức hội thảo, tập huấn, cung cấp tài liệu sách báo tham khảo cho giáo viên.– Xây dựng cơ chế khuyến khích việc thực hiện các biện pháp giáo dục tích cực.BÀI 5: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỈ LUẬT TÍCH CỰC TRONG LỚP HỌCHĐ1: Một số biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực. Có nhiều nhóm biện pháp giáo dục kỉ luật có thể được áp dụng trong lớp học. Các nhóm biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực bao gồm: Thay đổi cách cư xử trong lớp học. Quan tâm đến những khó khăn của trẻ. Tăng cường sự tham gia của trẻ. Tổ chức các hoạt động xây dựng tập thể lớp.HOẠT ĐỘNG 2: Giới thiệu nhóm biện pháp “Thay đổi cách cư xử trong lớp học”.BÀI 5: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỈ LUẬT TÍCH CỰC TRONG LỚP HỌCViệc thay đổi cách cư xử trong lớpDựa trên cơ sở động viên, khuyến khích, nêu gương, tìm hiểu nhằm khuyến khích học sinh có thái độ cư xử, hành vi đúng.Hình thức: Phiếu khen, ghi lời nhận xét tốt về bạn, hộp thư vui, công nhận và khuyến khích các đặc điểm tốt…Ngoài việc giáo viên khen ngợi học sinh, phải lưu ý khuyến khích những đối tượng khác cùng hợp tác: Cha mẹ học sinh, học sinh.2. Muốn thay đổi cách cư xử trong lớp học, giáo viên cần:Quan tâm đến sức khỏe thể chất, tinh thần của bản thân,…để không làm ảnh hưởng đến cách cư xử đối với học sinh.Dành thời gian suy nghĩ về sự thay đổi cách cư xử trong lớp học mà mình đã trải qua.Thành lập hoặc đến với nhóm trợ giúp để mọi người giúp đỡ nhau trong quá trình thực hiện sự thay đổi.Ghi chép nhật kí để nhìn nhận, đánh giá các vấn đề đã được thực hiện trong quá trình thay đổi giáo dục kỉ luật.3. Để thay đổi cách cư xử cần: – Xây dựng các quy tắc rõ ràng và nhất quán. – Khuyến khích, động viên tích cực. – Đưa ra những hình thức phạt phù hợp và nhất quán. – Làm gương trong cách cư xử.Xây dựng những quy tắc rõ ràng rõ ràng và nhất quánViệc xây dựng các quy tắc phải đảm bảo hướng tới những điều tốt đẹp mà giáo viên mong đợi ở học sinh của mình; phải thể hiện niềm tin của giáo viên vào sự tiến bộ của trẻ.Không nên đề ra quá nhiều quy tắc. Cần tập trung vào một số quy tắc cơ bản, quan trọng.Các quy tắc cần đề cập đến những chuẩn mực đạo đức và giá trị cơ bản như: sự an toàn, sự tôn trọng lẫn nhau,lòng nhân hậu và sự trung thực.Các quy tắc cần cân đối hài hòa giữa lợi ích của cá nhân trẻ và lợi ích tập thể.2. Khuyến khích, động viên tích cực

– Việc khuyến khích, động viên tích cực có thể thực hiện dưới nhiều hình thức: 1 nụ cười, 1 lời khen, động viên trước lớp; tặng phiếu khen; thư khen gửi về gia đình,…

– Việc khen thưởng, động viên có hiệu quả nhất khi học sinh có hành vi tốt được hưởng một số quyền lợi, còn những học sinh mắc lỗi nhiều lần bị tước bỏ quyền được hưởng quyền lợi đó.

– Những quyền lợi phải là những điều học sinh thích và trân trọng.

– Cần khen thưởng, động viên từng tiến bộ nhỏ nhất của học sinh.

– Việc khen ngợi, động viên đặc biệt quan trọng đối với học sinh cá biệt hay học sinh có những hành vi vô kỉ luật trong lớp. Không bỏ qua bất kì một cử chỉ đáng khen nào.3. Đưa ra những hình thức phạt phù hợp và nhất quán Các biện pháp xử phạt phải giúp học sinh biết rằng thái độ/hành vi của các em là sai. Không bao giờ được sử dụng những hình phạt khiến trẻ cảm thấy mình là kẻ vô dụng, bỏ đi. Tuyệt đối không sử dụng hình phạt mang tính bạo lực. Các hình phạt phải phù hợp với mức độ vi phạm. Tránh gây căng thẳng, đối đầu với học sinh. Khi phạt, cần nói rõ sai phạm của học sinh. Áp dụng hình thức xử phạt một cách công bằng và bình tĩnh. Không phạt học sinh vì những lỗi do những nguyên nhân khách quan. Không phạt học sinh vì những quy định chưa được thỏa thuận trước.4. Làm gương trong cách cư xử

Trẻ em luôn học và làm theo những gì các em thấy từ cuộc sống và những người xung quanh. Giáo viên cần phải là tấm gương mẫu mực cho học sinh về tư cách đạo đức. Nếu giáo viên tỏ ra giận dữ, không khoan dung, học sinh chắc cũng sẽ biểu lộ sự tức giận và ương bướng. Nếu giáo viên cư xử với mọi người xung quanh một cách nhẹ nhàng, có lòng khoan dung, sự nhẫn nại, thì học sinh sẽ học theo cách cư xử đó.HOẠT ĐỘNG 3: Giới thiệu nhóm biện pháp quan tâm đến những khó khăn của học sinhBÀI 5: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỈ LUẬT TÍCH CỰC TRONG LỚP HỌC Những hành vi tiêu cực/mắc lỗi của trẻ thường do những khó khăn mà trẻ gặp phải trong cuộc sống gây ra, tác động đến hành vi của trẻ. Khó khăn của trẻ có thể bao gồm những khó khăn trong học tập, những vấn đề trong gia đình, những bức xúc mà trẻ gặp phải khi bị đối xử tàn tệ, bị tổn thương tâm lí, bị hiểu lầm, do sức khỏe yếu, do hoàn cảnh sống khó khăn… Việc tìm hiểu những trở ngại trong học tập và những khó khăn về mặt tâm lí của trẻ sẽ giúp giáo viên không cần phải dùng đến trừng phạt thân thể mà vẫn giáo dục trẻ có hiệu quả. Để tìm hiểu nguyên nhân và giúp đỡ trẻ giải quyết những khó khăn, giáo viên cần lưu ý một số điểm sau: +Tránh đối đầu với học sinh, nhất là trước mặt những người khác. +Lắng nghe trẻ nói và đặt mình vào vị trí của trẻ. +Cần tránh “lên lớp” hoặc đưa ra những từ chỉ trích trước khi tìm hiểu nguyên nhân. Cố gắng giúp học sinh tìm ra giải pháp phù hợp với các em. Việc lưu hồ sơ của từng học sinh trong suốt quá trình học tập là điều quan trọng. Đây là một biện pháp hiệu quả để theo dõi quá trình học tập và phát triển nhân cách của các em. Hãy trân trọng tất cả những gì học sinh có và hãy đến với mỗi học sinh bằng tình cảm chân thành nhất của mìnhHOẠT ĐỘNG 4BÀI 5: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỈ LUẬT TÍCH CỰC TRONG LỚP HỌCHOẠT ĐỘNG 5: Tăng cường sự tham gia của trẻ trong việc xây dựng nội quy lớp học.BÀI 5: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỈ LUẬT TÍCH CỰC TRONG LỚP HỌCHọc sinh được tham gia là học sinh được cung cấp thông tin, được bày tỏ ý kiến, ý kiến của các em được lắng nghe và tôn trọng.Sự tham gia của học sinh trong việc xây dựng nội quy lớp học là cần thiết vì: – Giúp học sinh hiểu, tôn trọng và thực hiện tốt nội quy do chính các em đề ra. – Giúp học sinh rèn kĩ năng giao tiếp, bày tỏ ý kiến và tham gia quá trình ra quyết định. – Giúp học sinh phát huy tinh thần tập thể, nâng cao tinh thần trách nhiệm.3.Các bước xây dựng nội quy lớp học:

5 Biện Pháp Giúp Giáo Viên, Nhà Trường Giáo Dục Kỉ Luật Tích Cực Học Sinh

Theo dự thảo Thông tư, giáo viên thu thập các thông tin khách quan để xác định đúng nguyên nhân, tính chất, mức độ, hậu quả và đặc điểm tâm lý của học sinh mắc khuyết điểm; để lập kế hoạch giáo dục cho học sinh sửa chữa khuyết điểm.

Giáo viên và nhà trường có thể lựa chọn áp dụng 5 biện pháp để giáo dục kỉ luật tích cực phù hợp với từng học sinh. Cụ thể:

– Khuyên bảo, động viên; nhắc nhở, phê bình riêng đối với học sinh mắc khuyết điểm;

– Phối hợp với cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp của học sinh để cùng thực hiện kế hoạch giáo dục, hỗ trợ học sinh sửa chữa khuyết điểm.

– Tổ chức tư vấn tâm lý cho học sinh mắc khuyết điểm đang gặp khó khăn tâm lý.

Tự khắc phục hậu quả do vi phạm của học sinh gây ra hoặc khắc phục hậu quả với sự giúp đỡ của bạn bè, giáo viên, cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp của học sinh.

– Các biện pháp giáo dục khác phù hợp với mục đích, nguyên tắc kỉ luật học sinh.

Học sinh gây gổ đánh nhau sẽ nhận hình thức khiển trách

Đối với các hình thức kỉ luật, học sinh mắc khuyết điểm trong quá trình học tập và rèn luyện, vi phạm nội quy nhà trường, các quy chế, quy định của ngành Giáo dục; tùy theo tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi, nhà trường xem xét thực hiện các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực quy định trên hoặc áp dụng các hình thức kỷ luật sau: Khiển trách, Cảnh cáo, Tạm dừng học tập trên lớp để thực hiện kế hoạch giáo dục riêng với học sinh vi phạm.

Quy định này, không áp dụng các hình thức kỉ luật quy định trên đối với học sinh cấp tiểu học.

Học sinh vi phạm như thế nào thì bị khiển trách, cảnh cáo

Về kỷ luật Khiển trách, áp dụng đối với học sinh tái phạm nội quy, quy định của nhà trường, đã được thực hiện biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực nhưng chậm khắc phục, sửa chữa.

Vi phạm lần đầu nhưng mức độ nghiêm trọng như: Có lời nói và hành động vô lễ với giáo viên, cán bộ, nhân viên của nhà trường; gây gổ đánh nhau hoặc có hành vi gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn trường học và cộng đồng; tổ chức, lôi kéo người khác cùng vi phạm nội quy của nhà trường hoặc vi phạm các khuyết điểm khác có tính chất và mức độ tác hại tương đương.

Hình thức cảnh cáo, áp dụng đối với học sinh đã bị kỉ luật khiển trách nhưng không khắc phục, sửa chữa, mắc thêm khuyết điểm có tính chất tăng nặng, tái phạm khuyết điểm trong khoảng thời gian một học kỳ.

Vi phạm lần đầu nhưng mức độ rất nghiêm trọng như đánh nhau có tổ chức, có hung khí; tổ chức các hành vi gian lận trong học tập, thi, kiểm tra; lấy trộm tiền, đồ dùng, tư trang, cưỡng đoạt tài sản; cố ý phá hoại tài sản của nhà trường và người khác hoặc có những khuyết điểm khác có tính chất và mức độ tác hại tương đương nhưng chưa bị các cơ quan có thẩm quyền xử lí theo quy định của pháp luật.

Tạm dừng học tập trên lớp

Kỉ luật này áp dụng đối với học sinh đã bị kỉ luật cảnh cáo nhưng không sửa chữa, tái phạm hoặc vi phạm thêm những khuyết điểm khác trong khoảng thời gian một học kỳ.

Vi phạm lần đầu nhưng ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng như đánh nhau có tổ chức, sử dụng hung khí, vũ khí gây thương tích nặng cho người khác; xâm phạm nhân phẩm, thân thể của giáo viên, cán bộ, nhân viên, học sinh khác của nhà trường hoặc có những hành vi vi phạm khác có tính chất và mức độ tác hại tương đương nhưng chưa đến mức bị các cơ quan có thẩm quyền xử lí theo quy định của pháp luật.

Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm của học sinh, căn cứ đề xuất của Hội đồng kỉ luật học sinh của nhà trường, Hiệu trưởng nhà trường xem xét, quyết định thời hạn tạm dừng học tập trên lớp đối với học sinh tối đa là 02 (hai) tuần lễ để thực hiện kế hoạch giáo dục riêng đối với học sinh vi phạm.

Hồng Hạnh

Phương Pháp Dạy Học Tích Cực

phương pháp dạy học tích cực ( PPDH tích cực ) là một thuật ngữ rút gọn , được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục , dạy học theo hướng phát huy tính tích cực , chủ động , sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa , tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học , tức là tập kết và o phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy , tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.

Một số phương pháp dạy học tích cực

Mục tiêu: – Hiểu được bản chất của biện pháp dạy học tích cực. -Nắm được vai trò và nội dung căn bản của một số biện pháp dạy học tích cực. – thực hành được biện pháp dạy học hăng hái trong một số bài giảng. – tự tin tuyên bố sự cần thiết và Hữu ý thức tự giác , sáng tạo áp dụng PPDH tích cực

.II. Nội dung: 1. Biện pháp dạy học hăng hái là gì? a. Định hướng cách tân biện pháp dạy học: Định hướng cách tân biện pháp dạy và học đã được chính xác trong quyết nghị Trung ương 4 khóa VII ( 1 – 1993 ) , quyết nghị Trung ương 2 khóa VIII ( 12 – 1996 ) , được thể chế hóa trong Luật Giáo dục ( 12 – 1998 ) , được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo , đặc biệt là chỉ thị số 15 ( 4 – 1999 ). Luật Giáo dục , điều 24.2 , đã ghi: ” biện pháp giáo dục phổ quát phải phát huy tính hăng hái , tự giác , chủ động , sáng tạo của học sinh; ăn nhập với đặc điểm của tầng lớp học , môn học; bồi bổ biện pháp tự học , đoàn luyện Năng lực áp dụng tri thức vào thực tiễn; tác động đến tính cách , đem lại niềm vui , hứng thú Học hỏi cho học sinh”. có khả năng nói cốt lõi của cách tân dạy và học là hướng tới hoạt động Học hỏi chủ động , chống lại thói quen Học hỏi thụ động.

b. Thế nào là tính hăng hái học tập?

Tính hăng hái ( TTC ) là một phẩm chất vốn có của con người , do để tồn tại và phát triển con người luôn phải chủ động , hăng hái cải biến môi trường tự nhiên , cải tạo từng lớp. Bởi vậy , hình thành và phát triển TTC từng lớp là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục. Tính hăng hái Học hỏi – về bản chất là TTC nhận thức , đặc điểm ở khát vọng thông hiểu , gắng gổ trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình chiếm lĩnh tri thức. TTC nhận thức trong hoạt động Học hỏi liên tưởng trước tiên với động cơ Học hỏi. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. hứng thú là tiền đề của tự giác. hứng thú và tự giác là hai nhân tố tạo nên tính hăng hái. Tính hăng hái sản sinh nếp tư duy độc lập. Nghĩ suy độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại , phong cách Học hỏi hăng hái độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác , hứng thú , bồi dưỡng động cơ Học hỏi. TTC Học hỏi thể hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của thầy giáo , tu bổ các câu trả lời của bạn , thích phát biểu ý kiến của mình trước Sự tình nêu ra; hay nêu thắc mắc , đòi hỏi giải thích cặn kẽ những Sự tình chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức , kĩ năng đã học để nhận thức Sự tình mới; tập kết để ý vào Sự tình đang học; bền chí hoàn tất các bài tập , không nản trước những tình huống khó khăn… TTC học tập biểu hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như: – Bắt chước: gắng sức a dua mẫu Bắt đầu làm của thầy , của bạn… – Tìm tòi: Đứng riêng ra giải quyết Sự tình nêu ra , tìm cách giải quyết khác nhau về một số vấn đề…

– Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới , độc đáo , hữu hiệu.

c. phương pháp dạy học tích cực:

phương pháp dạy học tích cực ( PPDH tích cực ) là một thuật ngữ rút gọn , được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục , dạy học theo hướng phát huy tính tích cực , chủ động , sáng tạo của người học. “Tích cực” trong PPDH – tích cực được dùng với tức là hoạt động , chủ động , trái nghĩa với không hoạt động , thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa , tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học , tức là tập kết vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy , tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.

Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học , nhưng trái lại thói thường học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy. Chẳng hạn , có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng thầy giáo chưa đáp ứng được , hoặc có trường hợp thầy giáo tích cực vận dụng PPDH tích cực nhưng không Thành tựu vì học sinh chưa thích nghi , vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì thế , thầy giáo phải bền chí dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức , từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò , sự phối hợp ăn nhịp hoạt động dạy với hoạt động học thì mới Thành tựu. Như vậy , việc dùng thuật ngữ “Dạy và học tích cực” để phân biệt với “Dạy và học thụ động”.

d. Mối giao tiếp giữa dạy và học , tích cực với dạy học lấy học sinh làm trung tâm.

Từ thập kỉ lần cuối của thế kỷ XX , các tài liệu giáo dục ở ngoại bang và trong nước , một số văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo thường nói tới việc nhu yếu phải chuyển dạy học lấy giáo viên làm trọng tâm sang dạy học lấy học trò làm trung tâm.

Dạy học lấy học trò làm trọng tâm còn có một số thuật ngữ tương đương như: dạy Học hỏi trung vào người học , dạy học căn cứ vào người học , dạy học hướng vào người học… Các thuật ngữ này có chung một nội hàm là nhấn mạnh hoạt động học và vai trò của học trò trong qúa trình dạy học , khác với cách tiếp cận truyền thống lâu nay là nhấn mạnh hoạt động dạy và vai trò của giáo viên.

2. Đặc điểm của các biện pháp dạy học tích cực.

a. Dạy và học không qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.

Trong phương pháp dạy học tích cực , người học – đối tượng của hoạt động “dạy” , song song là chủ thể của hoạt động “học” – được cuốn hút vào các hoạt động học tập do thầy giáo tổ chức và chỉ đạo , thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp nhận những kiến thức đã được thầy giáo sắp xếp. Được đặt vào những tình huống của Chỗ ở thực tế , người học trực tiếp quan sát , bàn bạc , làm thí nghiệm , giải quyết Sự tình đặt ra theo cách suy nghĩ của mình , từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới , vừa nắm được phương pháp “làm ra” kiến thức , kĩ năng đó , không rập theo những khuôn mâu sẵn có , được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này thì thầy giáo không chỉ đơn giản truyền đạt kiến thức mà còn hướng dẫn Bắt đầu làm. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh biết Bắt đầu làm và tích cực dự khán các Các quy định Bắt đầu làm của cộng đồng.

b. Dạy và học coi trọng rèn luyện phương pháp tự học.

c. Tăng cường học tập cá thể , phối hợp với học tập hợp tác. Trong một lớp học mà Thấp kiến thức , tư duy của học sinh không thể đồng đều tuyệt đối thì khi vận dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp thuận sự phân hóa về cường độ , tiến độ hoàn tất nhiệm vụ học tập , nhất là khi bài học được thiết kế thành Một xâu Công việc độc lập. áp dụng biện pháp tích cực ở Thấp càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông cáo trong nhà trường sẽ đáp ứng đề nghị cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh. Tuy nhiên , trong học tập , không phải mọi kiến thức , tài năng , thái độ hoài nghi đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân chủ nghĩa. Lớp học là môi trường tiếp xúc với nhau thầy – trò , trò – trò , tạo nên mối quan hệ hiệp tác giữa các cá nhân chủ nghĩa trên con đường chiếm lĩnh nội dung Học hỏi. Phê duyệt đàm luận , tranh luận trong tập thể , quan điểm mỗi cá nhân chủ nghĩa được thổ lộ , tự tin tuyên bố hay bác bỏ , qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học ứng dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của người thầy giáo.

Trong nhà trường , phương pháp Học hỏi hiệp tác được tổ chức ở cấp nhóm , tổ , lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ thông trong dạy học là hoạt động hiệp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học hỏi hiệp tác làm tăng hiệu quả Học hỏi , nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay go , lúc xuát hiện thực sự nhu cầu kết hợp giữa các cá nhân chủ nghĩa để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ chẳng thể có hiện tượng ỷ lại; tình cảm năng lực của mỗi thành viên được thổ lộ , uốn nắn , phát triển tình bạn , ý thức tổ chức , tinh thần bạc nhược trợ giúp. Mô hình hiệp tác trong xã hội đưa vào đời sống trường học sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân việc hiệp tác trong cần lao xã hội. Trong nền kinh tế thị trường đã hiện ra nhu cầu hiệp tác xuyên quốc gia , liên quốc gia; năng lực hiệp tác phải trở nên một mục đích giáo dục mà nhà trường phải để sẵn cho học sinh.

d. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. Trong dạy học , việc đánh giá học trò không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và sắp xếp hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo hoàn cảnh nhận định thực trạng và sắp xếp hoạt động dạy của thầy.

dĩ vãng giáo viên giữ độc quyền đánh giá học trò. Trong phương pháp hăng hái , giáo viên phải chỉ dẫn học trò phát triển tài năng tự đánh giá để tự sắp xếp cách học. Liên tưởng với điều này , giáo viên cần tạo hoàn cảnh thuận tiện để học trò được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và sắp xếp hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh.

Theo hướng phát triển các phương pháp hăng hái để đào tạo những con người năng động , sớm thích ứng với đời sống xã hội , thì việc kiểm tra , đánh giá chẳng thể dừng lại ở request tái hiện các tri thức , lặp lại các tài năng đã học mà phải xứng đáng được đề nghị hoặc đề xuất trí sáng ý , óc sáng tạo trong việc giải quyết những cảnh huống thực tế. Với sự trợ giúp của các thiết bị nghệ thuật , kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một nghề nghiệp nặng nhọc đối với giáo viên , song cho nhiều thông tin kịp thời hơn để mẫn tiệp sửa đổi hoạt động dạy , chỉ đạo hoạt động học.

Từ dạy và học bị động sang dạy và học hăng hái , giáo viên không còn đóng vai trò thuần tuý là người truyền đạt tri thức , giáo viên trở nên người thiết kế , tổ chức , chỉ dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học trò tự lực chiếm lĩnh nội dung Học hỏi , chủ động đạt các mục đích tri thức , Năng lực , thái độ hoài nghi theo đề nghị của thời hạn. Trên lớp , học trò hoạt động là chính , giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó , khi soạn giáo án , giáo viên đã phải đầu tư công sức , thời kì rất nhiều so với kiểu dạy và học bị động mới có khả năng thực hành bài lên lớp với vai trò là người gợi mở , xúc tác , cổ vũ , cố vấn , trọng tài trong các hoạt động tìm tòi háo hức , tranh cãi rầm rộ của học trò. Giáo viên phải có trình độ chuyên trị sâu rộng , có trình độ sư phạm lành nghề mới có khả năng tổ chức , chỉ dẫn các hoạt động của học trò mà nhiều khi biến diễn ngoài tầm dự kiến của giáo viên.

có khả năng so sánh đặc điểm của dạy học cựu truyền và dạy học mới như sau:

Dạy học cựu truyền

Các mô hình dạy học mới

quan niệm

Học là qúa bẩm hấp thụ và lĩnh hội , qua đó hình thành kiến thức , Năng lực , tư tưởng , tình cảm.

Học là qúa bẩm kiến tạo; học trò tìm tòi , khám phá , phát hiện , tập luyện , khai khẩn và xử lí thông tin , … tự hình thành thông hiểu , năng lực và phẩm chất.

bản chất

Truyền thụ tri thức , truyền thụ và chứng minh chân lí của giáo viên.

Tổ chức hoạt động nhận thức biếu học trò . Dạy học trò cách tìm ra chân lí.

mục đích

chú trọng cung cấp tri thức , Năng lực , xảo thuật. Học để đối phó với thi cử . Sau khi thi xong những điều đã học thường bị bỏ quên hoặc ít dùng đến.

chú trọng hình thành các năng lực ( sáng tạo , hiệp tác , … ) dạy biện pháp và văn chương cần lao khoa học , dạy cách học. Học để đáp ứng những đề nghị của cuộc sống hiện nay và tương lai. Những điều đã học cần thiết , hữu ích cho bản thân học trò và cho sự phát triển xã hội.

Nội dung

Từ sách giáo khoa + giáo viên

Từ nhiều nguồn khác nhau: SGK , GV , các tài liệu khoa học ăn nhập , thử nghiệm , bảng tàng , thực tế…: gắn với:

– Vốn thông hiểu , kinh nghiệm và nhu cầu của HS.

– cảnh huống thực tiễn , bối cảnh và môi trường địa phương

– Những vấn đề học trò quan tâm.

biện pháp

Các biện pháp diễn giảng , truyền thụ tri thức một chiều.

Các biện pháp tìm tòi , điều tra , giải quyết vấn đề ; dạy học tương tác.

Hình thức tổ chức

Cố định: giới hạn trong 4 bức tường của lớp học , giáo viên đối diện với cả lớp.

Cơ động , linh hoạt: Học ở lớp , ở phòng thử nghiệm , ở hiện trường , trong thực tế… , học cá nhân chủ nghĩa , học đôi bạn , học theo cả nhóm , cả lớp đối diện với giáo viên.

Một số biện pháp dạy học hăng hái cần phát triển ở trường Trung học phổ quát

a. Biện pháp vấn đáp Vấn đáp ( đàm thoại ) là biện pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời , hoặc học sinh có thể bàn cãi với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh lãnh hội được nội dung bài học. Chứng cứ vào thuộc tính hoạt động nhận thức , người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp: – Vấn đáp tái hiện: thầy giáo đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ , không thèm suy luận. Vấn đáp tái tạo không được xem là phương pháp quý báu sư phạm. Đó là phương pháp được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa các kiến thức vừa mới học. – Vấn đáp giải thích – minh hoạ : Nhằm mục tiêu làm sáng tỏ một đề tài nào đó , thầy giáo lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những giá dụ minh hoạ để học sinh sáng sủa , dễ nhớ. phương pháp này đặc biệt có công hiệu khi có sự tương trợ của các phương tiện nghe – nhìn. – Vấn đáp tìm tòi ( Nói chuyện Ơxrixtic ): thầy giáo dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để hướng học sinh từng bước phát xuất hiện thực chất của sự vật , tính quy luật của cảnh tượng đang tìm hiểu , kích thích sự thèm muốn am hiểu. Thầy giáo tổ chức sự trao đổi ý kiến – kể cả bàn cãi – giữa thầy với cả lớp , có khi giữa trò với trò , nhằm giải quyết một Sự tình xác định. Trong vấn đáp tìm tòi , thầy giáo giống như người tổ chức sự tìm tòi , còn học sinh giống như người tự lực phát hiện kiến thức mới. Vì thế , khi chấm dứt cuộc Nói chuyện , học sinh có được niềm vui của sự khám phá trưởng thành thêm một bước về Thấp tư duy.

b. phương pháp đặt và giải quyết vấn đề. Trong một tầng lớp đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường , cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những Sự tình nảy sinh trong thực tế là một năng lực đảm bảo sự Thành tựu trong cuộc sống , đặc biệt trong kinh doanh. Vì thế , tập dượt cho học sinh biết phát hiện , đặt ra và giải quyết những Sự tình gặp phải trong học tập , trong cuộc sống của cá nhân , Nhà ở và cộng đồng không chỉ cố ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo. cấu trúc một bài học ( hoặc một phần bài học ) theo phương pháp đặt và giải quyết Sự tình thường như sau

– Đặt Sự tình , xây dựng bài toán nhận thức o Tạo tình huống có vấn đề; o Phát hiện , nhận dạng Sự tình nảy sinh; o Phát hiện Sự tình cần giải quyết

– Giải quyết Sự tình đặt ra o Đề xuất cách giải quyết; o lập mưu hoạch giải quyết; o thực hiện kế hoạch giải quyết.

có thể phân biệt bốn mức Thấp đặt và giải quyết vấn đề: Mức 1: thầy giáo đặt Sự tình , nêu cách giải quyết Sự tình. Học sinh thực hiện cách giải quyết Sự tình theo hướng dẫn của thầy giáo. Thầy giáo đánh giá Cuối cùng làm việc của học sinh. Mức 2: thầy giáo nêu Sự tình , gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết Sự tình. Học sinh thực hiện cách giải quyết Sự tình với sự giúp rập của thầy giáo khi cần. Thầy giáo và học sinh cùng đánh giá. Mức 3: thầy giáo cung cấp thông báo tạo tình huống có Sự tình. Học sinh phát hiện và xác định Sự tình nảy sinh , tự đề xuất các giả thuyết và tuyển trạch giải pháp. Học sinh thực hành cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học trò cùng đánh giá. Mức 4 : học trò tự lực phát hiện vấn đề phát sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc cộng đồng , lựa chọn vấn đề giải quyết. Học trò giải quyết vấn đề , tự đánh giá chất lượng , hiệu quả , có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.

Trong dạy học theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề , học trò vừa nắm được tri thức mới , vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó , phát triển tư duy hăng hái , sáng tạo , được để sẵn một năng lực thích ứng với đời sống xã hội , phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề phát sinh.

c. Phương pháp hoạt động nhóm

Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích , request của vấn đề Học hỏi , các nhóm được phân chia không hẹn mà có hay có chủ tâm , được duy trì yên ổn hay thay đổi trong từng phần của tiết học , được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.

Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có xác xuất phân việc mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ , mỗi thành viên đều phải làm việc hăng hái , chẳng thể ỷ lại vào một đôi người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiêu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả Học hỏi chung của cả lớp. Để trình diễn.# kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp , nhóm có xác xuất cử ra một đại diện hoặc phân việc mỗi thành viên trình diễn.# một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.

thành công của bài học nước phụ thuộc vào sự nồng nhiệt tham gia của mọi thành viên , vì vậy phương pháp này còn làm gọi là phương pháp cùng tham gia. Tuy nhiên , phương pháp này bị ngăn lại trong một giới hạn nhất định bởi không gian có phạm vi nhỏ của lớp học , bởi thời kì hạn định của tiết học , thành thử giáo viên phải biết tổ chức hợp lý và học trò đã khá quen với phương pháp này thì mới có kết quả. Cần nhớ rằng , trong hoạt động nhóm , tư duy hăng hái của học trò phải được phát huy và tác phong quan yếu của phương pháp này là đoàn luyện năng lực hiệp tác giữa các thành viên trong tổ chức lao động.Cần tránh xu hướng hình thưc và xơ cua lạm dụng , ý là tổ chức hoạt động nhóm là dấu hiệu điển hình nhất của canh tân PPDH và hoạt động nhóm càng nhiều thì chứng tỏ phương pháp dạy học càng đổi mới.

d. Phương pháp đóng vai Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học trò thực hành một số cách xử sự nào đó trong một cảnh huống giả định. phương pháp đóng vai có những phần ưu tú sau : – học trò được đoàn luyện thực hành những kỹ năng xử sự và giãi bày thái độ hoài nghi trong môi trường không có các mối nguy hiểm hoặc rủi ro trước khi thực hành trong thực tiễn. – Gây hứng thú và chú ý cho học trò – Tạo hoàn cảnh làm phát sinh óc sáng tạo của học trò – khích lệ sự thay đổi thái độ hoài nghi , hành vi của học trò theo chuẩn mực hành vi tư tưởng và chính trị – xã hội – có xác xuất thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.

v Cách tiến hành có xác xuất như sau : o giáo viên chia nhóm , Tình bạn huống đóng vai cho từng nhóm và quy định rõ thời gian chuẩn mực , thời gian đóng vai o Các nhóm bàn bạc chuẩn bị đóng vai o Các nhóm lên đóng vai o thầy giáo phỏng vấn học sinh đóng vai – vì sao em lại ứng xử như vậy ? – cảm xúc , thái độ của em khi thực hiện cách ứng xử ? Khi nhận được cách ứng xử ( đúng hoặc Không đúng ) o Lớp bàn bạc , nhận xét : Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp ? Chưa phù hợp ở điểm nào ? vì sao ? o thầy giáo kết luận về cách ứng xử nhu yếu trong tình huống. v Những điều cần lưu ý khi sử dụng : o tình huống nên để mở , không cho trước ” kịch bản” , lời thoại o Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai o Người đóng vai phải Hiểu ra vai của mình trong bài tập đóng vai để không lạc đề o Nên động viên cả những học sinh rút rát dự khán o Nên cải dạng và đạo cụ đơn giản để tăng tính quyến rũ của trò chơi đóng vai

V. Cách tiến hành o thầy giáo nêu câu hỏi , Sự tình cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm o động viên học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt o thống kê tất thảy các ý kiến phát biểu đưa lên bảng hoặc giấy khổ to , không loại trừ một ý kiến nào , trừ trường hợp trùng lặp o Phân loại ý kiến o Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và bàn bạc sâu từng ý.

4. Điều kiện vận dụng phương pháp dạy học tích cực

a. Thầy giáo : thầy giáo phải được đào tạo nghiêm mật để thích nghi với những đổi thay về chức năng , nhiệm vụ rất Đa chủng và phức tạp của mình , nhiệt tình với công cuộc đổi mới giáo dục. Thầy giáo vừa phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng , có Thấp sư phạm lành nghề , biết ứng sử tinh tế , biết sử dụng các công nghệ tin vào dạy học , biết định hướng phát triển của học sinh theo mục tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo được sự tự do của học sinh trong hoạt động nhận thức.

b. Học sinh : Dưới sự chỉ đạo của thầy giáo , học sinh phải dần dần có được những phẩm chất và năng lực thích nghi với phương pháp dạy học tích cực như: giác ngộ mục tiêu học tập , tự giác trong học tập , cố ý thức trách nhiệm về Cuối cùng học tập của mình và Cuối cùng chung của lớp , biết tự học và tranh thủ học ở mọi nơi , mọi lúc , bằng mọi cách , phát triển các loại hình tư duy biện chứng , lôgíc , hình tượng , tư duy kĩ thuật , tư duy kinh tế…

d. Thiết bị dạy học Thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu được cho việc triển khai Các quy định , sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho việc triển khai đổi mới phương pháp dạy học hướng vào hoạt động tích cực , chủ động của học sinh. Đáp ứng yêu cầu này phương tiện thiết bị dạy học phải tạo điều kiện thuận lợi cho học trò thực hành các hoạt động độc lập hoặc các hoạt động nhóm.

e. Cách tân đánh giá kết quả Học hỏi của học sinh. Đánh giá là một khâu quan yếu chẳng thể thiếu được trong qúa trình giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn sau cuối của một giai đoạn giáo dục và sẽ trở nên khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với đề nghị cao hơn , chất lượng mới hơn trong cả một qúa trình giáo dục.

Đánh giá kết quả Học hỏi là qúa trình thu nhặt và xử lí thông tin về trình độ , khả năng thực hành mục đích Học hỏi của học trò về tác động và căn nguyên của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường cho bản thân học trò để học trò Học hỏi càng ngày càng phát triển theo hướng đi lên hơn.

cách tân biện pháp dạy học được chú trọng để đáp ứng những đề nghị mới của mục đích nên việc kiểm tra , đánh giá phải biến chuyển mạnh theo hướng phát triển trí sáng dạ sáng tạo của học trò , xứng đáng được đề nghị hoặc đề xuất áp dụng mẫn tiệp các tri thức Năng lực đã học vào những cảnh huống thực tiễn , làm biểu lộ những xúc cảm , thái độ hoài nghi của học trò trước những vấn đề nóng hổi của hoàn cảnh sống cá nhân chủ nghĩa , gia đình và cộng đồng. Chừng nào việc kiểm tra , đánh giá chưa thoát khỏi quỹ đạo Học hỏi bị động thì chưa thể phát triển dạy và học tích cực. hợp nhất với quan điểm cách tân đánh giá như trên việc kiểm tra , đánh giá sẽ hướng vào việc bám sát mục đích của từng bài , từng chương và mục đích giáo dục của môn học ở tầng lớp cấp. Các câu hỏi bài tập sẽ đo được mức độ thực hành các mục đích được xác định.

– Hướng tới đề nghị kiểm tra đánh giá công bình , khách quan kết quả Học hỏi của học trò , bộ công cụ đánh giá sẽ được Sửa sang các hình thức đánh giá khác như đưa thêm dạng câu hỏi , bài tập trắc nghiệm; chú ý hơn tới đánh giá cả qúa trình lĩnh hội tri thức của học trò , quan hoài tới mức độ hoạt động hăng hái , chủ động của học trò trong từng tiết học , kể cả ở tiết hấp thu tri thức mới lẫn tiết thực hành , thử nghiệm. Điều này đòi hỏi giáo viên bộ môn đầu tư nhiều công sức hơn cũng như công tâm hơn. Lãnh đạo nhà trường cần quan hoài và giám sát hoạt động này.

– hệ thống giao thông câu hỏi kiểm tra đánh giá cũng cần biểu lộ sự phân hóa , đảm bảo 70% câu hỏi bài tập đo được mức độ đạt trình độ chuẩn – mặt bằng về nội dung học thức dành cho mọi học trò THPT và 30% còn lại phản ánh mức độ nâng cao , dành cho học trò có năng lực trí óc và thực hành cao hơn. g. Bổn phận quản lý : Hiệu trưởng chịu bổn phận trực tiếp về việc cách tân biện pháp dạy học ở trường mình , đặt vấn đề này ở tầm quan yếu đúng mức trong sự kết hợp các hoạt động tất cả của nhà trường. Hiệu trưởng cần trân trọng , tỏ thái độ đồng tình , xứng đáng được đề nghị hoặc đề xuất mỗi sáng kiến , sửa đổi cho tiến bộ hơn dù nhỏ của giáo viên , đồng thời cũng cần biết chỉ dẫn , giúp đỡ giáo viên áp dụng các biện pháp dạy học hăng hái phù hợp với môn học , đặc điểm học trò , hoàn cảnh dạy và học ở địa phương , làm cho phong trào cách tân biện pháp dạy học càng ngày càng rộng rãi , luôn luôn và có công hiệu hơn.

Hãy cố gắng để trong mỗi tiết học ở trường phổ quát , học sinh thắng hoạt động nhiều hơn , thực hiện nhiều hơn , bàn luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập.

5. Khai thác yếu tố tích cực trong các biện pháp dạy học truyền thống Đối mới biện pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh không có nghĩa là gạt bỏ , loại trừ , thay thế hoàn toàn các biện pháp dạy học truyền thống , hay phải “nhập nội” một số biện pháp xa lạ vào qúa trình dạy học. Sự tình là ở chỗ cần kế thừa , phát triển những mặt tích cực của biện pháp dạy học hiện có , song song phải học hỏi , áp dụng một số biện pháp dạy học mới một cách mẫn tiệp nhằm phát huy tính tích cực , chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập , phù hợp với tình cảnh điều kiện dạy và học cụ thể.

biện pháp thuyết trình là một trong những biện pháp dạy học truyền thống được thực hiện trong các hệ thống nhà trường đã từ lâu. Đặc điểm cơ bản nổi của biện pháp thuyết trình là thông cáo – tái tạo. Bởi thế , biện pháp thuyết trình còn có tên gọi là biện pháp thuyết trình thông cáo – tái tạo. Biện pháp này chỉ rõ thuộc tính thông cáo bằng lời của thầy và thuộc tính tái tạo khi lãnh hội của trò. Thầy giáo Học hỏi tài liệu , sách giáo khoa , Dự bị bài giảng và trực tiếp điều khiển thông cáo luồng thông cáo kiến thức đến học sinh. Học sinh tiếp nhận những thông cáo đó bằng việc nghe , nhìn , cùng tư duy theo lời giảng của thầy , hiểu , ghi chép và ghi nhớ.

Như vậy , những kiến thức đến với học sinh theo biện pháp này Hầu như đã được thầy “chuẩn bị sẵn” để trờ thu nạp , sự hoạt động của trò tương đối thụ động. Biện pháp thuyết trình chỉ cho phép người học đạt đến Thấp tái tạo của sự lãnh hội kiến thức mà thôi. Từ thời gian này , theo hướng hoạt động hóa người học , cần phải giữ lại bớt biện pháp thuyết trình thông cáo – tái tạo , tăng cường biện pháp thuyết trình giải quyết Sự tình. Đây là kiểu dạy học bằng cách đặt học sinh trước những bài toán nhận thức , kích thích học sinh hứng giải bài toán nhận thức , tạo ra sự chuyển hóa từ qúa trình nhận thức có tính Học hỏi khoa học vào tổ chức qúa trình nhận thức trong học tập. Thầy giáo đưa học sinh vào tình huống có Sự tình rồi học sinh tự mình giải quyết Sự tình đặt ra. Theo hình mẫu đặt và giải quyết Sự tình mà thầy giáo thể hiện , học sinh được học thói thường suy nghĩ lôgic , biết cách phát hiện Sự tình , đề xuất giả thuyết , bàn luận , làm thí nghiệm để thẩm tra các giả thuyết nêu ra.

Thuyết trình kiểu đặt và giải quyết Sự tình thuần túy do thầy giáo thể hiện cũng đã có công hiệu phát triển tư duy của học sinh. Nếu được xen kẽ vấn đáp , bàn luận một cách hợp lý thì công hiệu sẽ Thêm lên. Muốn vậy , lớp không nên quá đông , có điều kiện thuận lợi cho hội thoại , song song học sinh phải có thói thường bạo dạn biểu lộ tư kiến trước Sự tình nêu ra.

Để lôi cuốn sự để ý của người học và tích cực hóa biện pháp thuyết trình ngay khi khai mạc bài học thầy giáo có khả năng thông cáo Sự tình dưới hình thức những câu hỏi có thuộc tính định hướng , hoặc có thuộc tính “xuyên tâm”. Trong qúa trình thuyết trình bài giảng , thầy giáo có khả năng thực hiện một số hình thức thuyết trình lôi cuốn sự để ý của học sinh như sau:

– thể hiện kiểu nêu vấn đề: Trong qúa trình thể hiện bài giảng thầy giáo có khả năng biểu đạt Sự tình dưới dạng nghi vấn , gợi mở để gây tình huống lôi cuốn sự để ý của học sinh.

– Thuyết trình kiểu thuật chuyện: thầy giáo có khả năng phê chuẩn những sự kiện kinh tế – từng lớp , những câu chuyện hoặc tác phẩm văn học , phim ảnh… làm tư liệu để phân tách , minh họa , đại quát và rút ra nhận xét , kết luận nhằm xây dựng biểu trưng , khắc sâu nội dung kiến thức của bài học.

– Thuyết trình kiểu diễn tả , phân tích: thầy giáo có khả năng dùng công thức , sơ đồ , biểu mẫu… để diễn tả phân tách nhằm chỉ ra những đặc điểm , khía cạnh của từng nội dung. Trên cơ sở đó đưa ra những bằng chứng lôgíc , nói hay để làm rõ thực chất của vấn đề.

– Thuyết trình kiểu nêu Sự tình có tính giả thuyết: thầy giáo đưa vào bài học một số giả thuyết hoặc ý kiến có thuộc tính mâu thuẫn với Sự tình đang Học hỏi nhằm xây dựng tình huống có Sự tình thuộc loại giả thuyết ( hay luận chiến ). Kiểu nêu Sự tình này đòi hỏi học sinh phải tuyển trạch ý kiến đúng , sai và có lập luận kiên cố về sự tuyển trạch của mình. Song song học sinh phải biết cách phê phán , chưng một cách chuẩn xác , khách quan những ý kiến không đúng đắn , chỉ ra tính không khoa học và căn nguyên của nó.

– Thuyết trình kiểu so sánh , tổng hợp: Nếu nội dung của Sự tình thể hiện chứa đựng những mặt tương phản thì thầy giáo cần chính xác những Dấu hiệu để ghi nhận để so sánh từng mặt , thuộc tính hoặc giao tế giữa hai đối tượng đối đầu nhau nhằm rút ra kết luận cho từng Dấu hiệu để ghi nhận so sánh. Mặt khác , thầy giáo có khả năng sử dụng số liệu báo cáo để phân tách , so sánh rút ra kết luận nhằm góp phần làm tăng tính chuẩn xác và tính thuyết phục của vấn đề.

– hiện tại , bài giảng hiện đại đang có khuynh hướng sử dụng càng ngày càng nhiều các phương tiện công nghệ thông cáo , làm tăng sức quyến rũ và hiệu quả. Ngày trước , để minh họa nội dung bài giảng , thầy giáo chỉ có khả năng sử dụng lời nói giàu hình tượng và gợi cảm kèm theo những cử chỉ , điệu bộ biểu đạt nội tâm hoặc có thêm bộ tranh giáo khoa hỗ trợ. Hiện tại có cả một loạt phương tiện để thầy giáo tuyển trạch sử dụng như: máy chiếu , băng thu thanh , băng ghi hình , đĩa CD , phần mềm máy vi tính… Tiến tới mọi thầy giáo phải có khả năng soạn bài giảng trên máy vi tính được nối mạng , biết sử dụng đầu máy đa năng để thực hiện bài giảng của mình một cách sống động , hiệu qủa , phát huy cao nhất tính tích cực học tập của học sinh.

Tác giả bài viết: PGS.TS Vũ Hồng Tiến Nguồn tin: trung tam gia su day kem TTV sưu tầm và chia sẽ

Phương Pháp Giáo Dục Học Sinh Cá Biệt Ở Tiểu Học

Những phương pháp giáo dục học sinh cá biệt ở Tiểu học

8 phương pháp giáo dục học sinh cá biệt ở Tiểu học

Học sinh cá biệt là gì?

Học sinh cá biệt (HSCB) chỉ những học sinh hoang nghịch thường gây gỗ đánh nhau, bỏ giờ, trốn học, không chấp hành nội qui nhà trường … thêm vào đó là sự lôi kéo của bạn bè về phía mình nhằm thỏa mãn cá tính hoặc thỏa mản nhu cầu giải tỏa tâm lý bị ức chế về hoàn cảnh của bản thân mình. Đó là hiện tượng tâm lý ở lứa tuổi thanh thiếu niên, nó dễ bị lôi cuốn làm cho học sinh dễ bị tiêm nhiễm những thói hư tật xấu dẫn đến tình trạng bỏ học giữa chừng và có nguy cơ phạm tội là nỗi day dứt của nhà trường, gia đình và xã hội.

Rất nhiều yếu tố làm cho HS trở thành HSCB, nhưng chúng ta chỉ đề cập đến một số nguyên nhân tác động trực tiếp đến HS, làm nảy sinh những tư tưởng, tình cảm không lành mạnh làm ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách và làm hạn chế đến năng lực học tập của các em.

Xã hội phát triển theo cơ chế thị trường nó kéo theo một bộ phận không lành mạnh khác như dịch vụ giải trí không lành mạnh, phim ảnh bạo lực, tình cảm lứa đôi quá mức. Hiện nay, do sự quản lí không chặt chẽ của nhà nước, các dịch vụ bi a, internet, karaoke … được tổ chức gần trường học, lôi cuốn, hấp dẫn các em vào các trò chơi vô bổ. Các em lao vào các trò chơi đó dẫn đến bỏ giờ trốn học và những vi phạm khác. Đồng thời các kênh truyền hình chiếu một số bộ phim có mang những hình ảnh bạo lực làm cho các em dễ dàng bắt chước. Ngoài ra những tụ điểm ăn chơi hàng ngày nhan nhản, làm cho các em không tự chủ, tham gia không có ý thức dần dần tiêm nhiễm và trở thành HS hư.

Thời gian HS học tập, sinh hoạt ở trường đều có sự quản lí hướng dẫn của GVCN, GVBM, cán bộ lớp, nhà trường, đó là điều kiện để các em học tập tốt và rèn luyện nhân cách. Nhưng phần lớn thời gian các em sinh hoạt là ở gia đình: tự học, lao động, vui chơi. Với thời gian đó đối với hầu hết HS đều có thời khóa biểu học tập ở nhà, ý thức được việc học tập ở nhà là thời gian giúp các em ghi nhớ lại bài cũ, luyện tập và nghiên cứu bài mới, chuẩn bị cho ngày học hôm sau, đồng thời tham gia giúp đỡ công việc gia đình. Đó là những HS thực sự tự giác trong học tập và được sự quản lí giáo dục của gia đình. Nếu các em chưa ý thức được việc học tập, đồng thời gia đình không quan tâm và không tạo điều kiện thì việc học tập của các em không đến nơi đến chốn, chất lượng bị ảnh hưởng, các em học tập yếu, thua bạn bè dẫn đến chán học, bỏ học.

Phương pháp giáo dục học sinh cá biệt ở tiểu học hiệu quả

1. Không nên có cái nhìn kì thị với các em

Đây là điều đầu tiên mà các thầy cô cần nắm rõ khi giáo dục các học sinh cá biệt. Là người giáo viên, chúng ta không nên có cái nhìn kì thị, thái độ khó chịu, ghét bỏ, coi thường hay mắng nhiếc học sinh cá biệt trước lớp. Không nên cố gắng dò xét chỉ để tìm thấy lỗi, hay thấy những mặt xấu của các em. Không nên gọi các em là học sinh cá biệt nhiều lần, đặc biệt là trước lớp, trước mặt người khác, đồng thời cũng đừng tách các em ra khỏi lớp hay cô lập các em trước lớp. Vì những điều này chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề mà thôi. Các thầy cô cũng nên biết rằng, ở độ tuổi tiểu học, các em vẫn chưa hình thành được nhân cách của mình, các em chỉ là những học sinh chưa ngoan và cần được giáo dục. Vậy nên, đừng kì thị các em vì các em luôn cần ta giúp đỡ.

2. Quan tâm và gần gũi hơn với các em

Cái gì cũng có lý do của nó, không phải tự dưng khi sinh ra con người ta cũng đều trở nên xấu xa cả. Và đối với trường hợp của các em học sinh cá biệt cũng vậy, chắc chắn là vì nhiều yếu tố tác động nên mới khiến các em như thế. Các thầy cô cần tìm hiểu nguyên nhân, để từ đó đưa ra cách tiếp cận phù hợp cũng như có sự quan tâm và gần gũi hơn vì thấu hiểu về những chuyện mà các em gặp phải. Để thực hiện tốt điều này, chúng ta có thể chia học sinh cá biệt thành các nhóm sau:

Cá biệt – học lực yếu, vì các em bị mất kiến thức căn bản ở lớp dưới

Cá biệt – học yếu do các em được bố mẹ nuông chiều, ham chơi, lười học, không học bài, bị bạn xấu rủ rê sa đà

Cá biệt – học yếu do hoàn cảnh gia đình khó khăn

Cá biệt – học yếu do cha mẹ li hôn, thiếu thốn tình cảm gia đình

Tóm lại, các thầy cô cần có sự quan tâm gần gũi, tìm hiểu rõ về các học sinh cá biệt. Vì đa số các em đều rất cần một điểm tựa tinh thần tin cậy để có thể bộc bạch, sẻ chia, cũng như tâm sự những khó khăn, những nỗi niềm riêng tư thầm kín. Thầy cô sẽ trở thành người bạn lớn của các em, luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu. Người GVCN nên biết lắng nghe những tâm sự của các em và cũng nên giữ kín những tâm sự đó để các em tin tưởng mà bộc bạch. Hãy nhìn các em bằng ánh mắt của người cha, sự nhân từ của người mẹ, sự gần gũi, cảm thông của những người anh người chị, sự thân thiết của những người bạn.

3. Nhẹ nhàng phân tích những ưu khuyết điểm của các em

Thầy cô hãy nhẹ nhàng phân tích những ưu khuyết điểm, những đúng, sai trong nhận thức cũng như hành động của các em, để từ đó giúp các em nhận ra lỗi lầm của bản thân và tạo cho các em cơ hội, thiện chí sửa chữa, không tái phạm. Tuyệt đối không la mắng chửi bới các em, đừng biến lớp học trở thành “địa ngục” đối với các em học sinh cá biệt, đừng biến những giờ sinh hoạt hay giờ ra chơi thành một giờ “tổng sỉ vả” đối với các em, đừng để các học sinh nghĩ rằng cứ gặp thầy cô là lại sẽ bị la mắng, trách phạt, truy tội. Điều này rất dễ gây ra những tâm lý tiêu cực và khiến các em tệ hơn lúc trước. Khi cần, chúng ta có thể gặp riêng các em để nhắc nhở, trao đổi.

4. Tìm ra điểm mạnh để giúp các em phát huy nó

Là một giáo viên chủ nhiệm, chúng ta đừng bao giờ để bụng những lỗi lầm của học sinh, đừng vội nhìn thấy hiện tượng mà đánh giá học sinh của mình chưa tốt. Dù là học sinh cá biệt và có khó giáo dục đến đâu đi chăng nữa thì bên trong các em vẫn luôn tiềm ẩn những nhân tố, những phẩm chất tích cực. Chúng ta hãy cố phát hiện ra những ưu điểm ẩn sâu trong mỗi em. Có thể là chính các em cũng không biết mình có những ưu điểm đó, vậy nên nếu có phương pháp đúng chúng ta hãy khơi gợi để làm thức tỉnh, khôi phục niềm tin cho các em để các em thấy rằng mình không hề kém cỏi, không phải là “thứ bỏ đi”, để từ đó vứt bỏ được sự tự ti, mặc cảm trong các em và chủ động hội nhập với các bạn trong lớp. Ngoài ra, điều này cũng sẽ giúp các em phát huy được điểm mạnh của mình, góp phần vào xây dựng tập thể vững mạnh, dần hình thành phẩm chất tự tin, kiên định trước tập thể cũng như khẳng định được khả năng của bản thân.

5. Tin tưởng vào sự nỗ lực của các em

Các thầy cô hãy nhìn nhận vấn đề theo hướng tích cực, đừng nghiêm trọng hoá vấn đề mà hãy tạo cho các em một lối thoát, một cơ hội để bản thân có thể tự sửa chữa, xin đừng “mổ một con gà bằng một cái búa”. Hãy tin tưởng chờ đợi sự chuyển biến từ các em. Chúng ta không nên nóng vội, vì thầy cô càng nóng vội thì sẽ càng tạo áp lực lên các em, khiến các em càng bối rối, càng sa vào đối phó. Đồng thời, hãy trân trọng những tiến bộ của các em dù chỉ là chuyện nhỏ nhất, bởi đó là cả một sự nỗ lực, cố gắng rất lớn của các em. Đừng tiết kiệm lời khen, các thầy cô hãy biểu dương các em trước tập thể lớp, vì đối với các em một lời động viên, khen ngợi còn có giá trị hơn rất nhiều lần so với những bản kiểm điểm.

6. Thầy cô hãy cố gắng điềm tĩnh, biết tự kiềm chế

Bản thân người thầy, người cô nào trong công tác chủ nhiệm cũng cần phải biết kiềm chế những cơn nóng giận của mình khi có học sinh vi phạm. Hãy luôn bình tĩnh trong mọi tình huống cho dù xấu nhất. Chắc chắn rằng sẽ có nhiều giáo viên bị stress khi chủ nhiệm phải một lớp học mà có quá nhiều học sinh cá biệt, ngày nào cũng bị thầy cô giám thi “kể tội” học trò của mình…Trong những tình huống như thế này, các thầy cô hãy cố gắng điềm tĩnh, biết tự kiềm chế vì học sinh cá biệt thực sự là một “thử thách” lớn đối với đức tính điềm tĩnh, tự kìm chế của bất cứ giáo viên nào. Chúng ta không nên nóng vội, không nên quá khắt khe hay xử lí mạnh tay bằng những hình thức kỉ luật nặng nề, không nên thành kiến với các em học sinh cá biệt, cũng như đừng nhắc đi nhắc lại nhiều lần lỗi vi phạm của các em, vì điều này sẽ dễ dẫn đến sự chai lì.

7. Giáo dục theo cách mềm dẻo linh hoạt – nhưng lời nói phải đi đôi với việc làm

Trong công tác chủ nhiệm, các thầy cô phải kiên quyết cứng rắn, lời nói phải đi đôi với việc làm. Tuyệt đối đừng hứa suông, một khi đã nói thì phải kiên quyết thực hiện cho bằng được, biết không làm được thì kiên quyết không nói. Chúng ta hãy vận dụng một cách linh hoạt theo phương châm “lạt mềm buộc chặt”, “mềm nắn rắn buông”.

8. Phối hợp chặt chẽ với gia đình

Điều quan trọng trong công tác chủ nhiệm là giáo viên cần phối hợp một cách chặt chẽ với phụ huynh học sinh trong quá trình giáo dục các em. Lưu ý rằng: khi tiếp xúc với phụ huynh học sinh cá biệt cần tránh cho họ sự tổn thương cần thiết. Thường thì những học sinh cá biệt sẽ hoàn cảnh sống đặc biệt, do gia đình mâu thuẫn, cha mẹ hay cãi vã, hoặc là do các em thiếu thốn tình cảm, thiếu sự quan tâm cũng như chăm sóc từ cha mẹ và cũng có thể là do cha mẹ quá nuông chiều… với muôn ngàn lí do khác.

Mặt khác, cha mẹ luôn coi con cái của mình là thứ quý giá nhất, cho dù chúng hư hỏng, khó dạy bảo đến đâu… Cho nên khi nghe tin có giáo viên đến nhà thăm, hay điện thoại báo tin là bản thân họ lại không muốn tiếp, không muốn nghe. Và nếu có tiếp hay nghe điện thoại của thầy cô thì cũng với thái độ bực dọc, thậm chí là bất cần, vì mấy ai thích nghe người khác kể tội con mình. Vì vậy, khi tiếp xúc với phụ huynh, giáo viên nên đặt vị trí của mình vào trong suy nghĩ, tình cảm của cha mẹ các em để phân tích, lí giải thiệt hơn. Hãy cố gắng tìm hiểu những khó khăn của các bậc phụ huynh trong việc quản lí, cũng như dạy dỗ con em mình để cùng nhau tìm biện pháp giáo dục tốt nhất.

Một số biện pháp nhằm giáo dục HSCB

Giáo dục HS thông qua giờ sinh hoạt trường

Để cho HS nắm bắt được việc đánh giá xếp loại hạnh kiểm (HK) tức là những chuẩn mực các em đạt được trong quá trình rèn luyện hạnh kiểm của mình, nhà trường cần phải thông báo cho các em biết được các mức độ xếp loại HK (tốt, khá, trung bình, yếu). Hiểu được thì các em sẽ tránh được vi phạm mà các em mắc phải, để rồi các em khỏi phải bị xếp loại HK yếu, khỏi phải liệt vào danh sách HSCB.

Giáo dục HS thông qua giờ sinh hoạt lớp

Ngoài việc giáo dục HS thông qua giờ sinh hoạt trường, giờ sinh hoạt lớp (SHL) cũng rất quan trọng trong vấn đề này. Bởi vì thông qua giờ SHL, GVCN, CB lớp kịp thời uốn nắn những sai trái khuyết điểm của HS khi bị vi phạm, lấy tình cảm bạn bè, lấy nghĩa thầy trò làm cho các em thấy được khuyết điểm của mình. Đồng thời với sự chân thành của GVCN, HS trong lớp, HS khi vi phạm sẽ sớm nhận ra lỗi lầm của mình mà sửa chữa.

Trong khi giáo dục các em, GVCN không nên nặng về kiểm điểm, phê bình, mà phải tìm ra và xác định đúng nguyên nhân đã tác động đến các em làm cho các em mắc sai lầm, vi phạm, vận dụng những điều khoản trong nội qui, trong qui định xếp loại làm cho các em thấy được việc vi phạm ở mức độ nào và nêu ra hướng cho các em khắc phục.

Kết hợp với Hội Phụ huynh (PH) HS

Hội PHHS là cầu nối giữa nhà trường, GVCN với gia đình HS. Tổ chức Hội ngoài việc giúp nhà trường xây dựng cơ sở vật chất còn góp phần cùng nhà trường giáo dục HSCB. Thường trực Hội PHHS giúp cho nhà trường, GVCN bằng cách tác động với PH để giáo dục HS từ chỗ bỏ học, trốn học đến đi học chuyên cần và học tập nghiêm túc. Mặt khác, TT Hội PHHS đã tác động đến gia đình các em để cha mẹ các em quan tâm và có trách nhiệm đối với con cái của họ hơn, từ đó sẽ hạn chế được HS hoang nghịch.

Phối hợp với các Đoàn thể và các lực lượng khác trong xã hội

Hiện nay ở nhiều địa phương đã hình thành các khu dân cư, thôn văn hóa. Đó là điều kiện tốt để các Đoàn thể cùng với nhà trường, qua đó giáo dục HS. Các Đoàn thể, chính quyền địa phương giúp cho các thành viên xây dựng gia đình văn hóa, hạn chế tình trạng cha mẹ bỏ mặc con cái đi làm ăn, những mối bất hòa trong gia đình dần dần chấm dứt, từ đó cha mẹ sẽ có điều kiện chăm sóc giáo dục con cái tốt hơn.

Phương pháp kết bạn

Thường lứa tuổi HS dễ bị ảnh hưởng những thói hư tật xấu nhưng cũng dễ tiếp thu những điều hay lẽ phải, dễ hòa mình vào những trò chơi có tính tập thể, tính giáo dục cao. Do đó GVCN nên phân công một nhóm bạn tốt, cùng hoàn cảnh, cùng sở thích, uớc mơ để sinh hoạt, học tập với đối tượng này dần dần lôi kéo các em hòa nhập vào các cuộc chơi bổ ích, từ đó xóa bỏ các mặc cảm là HS hư để rồi cùng với các thành viên trong lớp xây dựng tập thể vững mạnh.

Mặt khác, thông qua nhóm bạn tốt, GVCN giao cho HSCB thực hiện một số công việc, tạo những điều kiện để những HS này hoàn thành và động viên khích lệ các em để các em xóa những tự ti, mặc cảm là HSCB để hòa mình với bạn bè. Ngoài ra có thể vận động gia đình của nhóm bạn tốt tham gia vào việc giúp đỡ những HS này bằng cách tạo cho các em tâm lý xem gia đình của bạn như gia đình mình, tạo điều kiện cho các em cùng tham gia học tập với con em mình để tách dần ra khỏi nhóm bạn chưa ngoan. Việc làm này cả là một cố gắng trong đó vai trò của GVCN rất quan trọng và sự tham gia của Hội PHHS là rất cần thiết.

Phương pháp “lạt mềm buộc chặt”

Tuổi mới lớn thì nghịch phá là chuyện khó tránh khỏi. Những biện pháp mạnh như kỷ luật hay lớn tiếng trách mắng, la rầy HS đôi khi sẽ không có tác dụng bằng sự mềm mỏng, kiên nhẫn. Ai cũng muốn mình là học sinh ngoan, giỏi nhưng vì lý do về gia đình, về tâm sinh lý và rất nhiều nguyên nhân khác dẫn đển những hành động tiêu cực của một vài bạn học sinh. Trước hết, thầy cô nên tìm hiểu rõ nguyên nhân và dùng sự mềm mỏng để cảm hóa học sinh của mình.

Kết hợp kỷ luật và tình thương

Đừng vì một vài biểu hiện nhất thời của học sinh mà gán ghép cho các em cái tên “học sinh cá biệt”. Bên cạnh đó, thầy cô giáo cũng cần chú ý đến tâm lý lứa tuổi của các em bởi “giai đoạn cấp 2, cấp 3 là giai đoạn khá nhạy cảm và có những rối loạn của tuổi dậy thì. Đôi khi những phản ứng nổi loạn là do các em không kiềm chế, kiểm soát được”.

Cố PGS-TS Văn Như Cương, hiệu trưởng Trường THPT Lương Thế Vinh – Hà Nội đã từng nói rằng, thầy cô phải uốn nắn, định hướng ngay khi các em mắc những lỗi nhỏ để tránh dẫn đến việc xảy ra chuyện lớn rồi buộc lòng phải dùng biện pháp kỷ luật học sinh.

PGS Văn Như Cương chia sẻ: “Kỷ luật là một hình thức giáo dục, không chỉ giáo dục học sinh vi phạm mà còn răn đe các em khác nữa. Tuy nhiên, kỷ luật là hình thức giáo dục cuối cùng bắt buộc phải dùng đến”.

Giáo dục là một hoạt động đặc biệt bởi sản phẩm tạo ra là con người. Vì vậy vẫn nên dùng đến kỷ luật nhưng là kỷ luật kết hợp với tình yêu thương. Có như vậy thì người thầy mới không khắc những vết thương lên tinh thần của người học trò về sau này. Đừng làm các em học sinh rơi vào trạng thái thấy mình là kẻ cá biệt và cô độc trong lớp rồi nảy sinh những phản ứng tiêu cực như sợ hãi, tự ti. Mục đích của việc làm này là”giơ cao đánh khẽ” và với mong muốn giúp học sinh có kỷ luật tốt hơn. Đây có phải là cách tốt nhất để răn đe, giáo dục học sinh khi vi phạm, nhất là học sinh đang trong độ tuổi hình thành phát triển tâm lý.

Phần lớn ngày nay, thời gian của các em học sinh ở trường nhiều hơn ở nhà. Trong trường, có thầy cô giáo dạy dỗ còn về nhà thì cha mẹ lo đi làm nên sẽ không thể dành thời gian nhiều để bảo ban các em.

Vậy liệu khi đuổi học, có phải là gián tiếp đưa học sinh ra ngoài xã hội nhiều cạm bẫy, đẩy học sinh đến gần với những tệ nạn xã hội này không? Trong khi có nhiều cách có thể xử lý được như cảnh cáo trước toàn trường, đưa học sinh đó vào một nhóm giáo dục đặc biệt tại trường.

Chắc hẳn chúng ta ai cũng nhớ hai câu thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn / Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Chính vì vậy, mỗi khi dùng biện pháp mạnh với học sinh phạm khuyết điểm, những người có trách nhiệm nên cân nhắc hết sức kỹ lưỡng.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Phương Pháp Kỉ Luật Tích Cực Trong Dạy Học Và Giáo Dục Học Sinh Tiểu Học trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!