Đề Xuất 3/2023 # Phát Triển Lưới Điện Thông Minh Tại Việt Nam : Giới Thiệu Tổng Quan # Top 4 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Phát Triển Lưới Điện Thông Minh Tại Việt Nam : Giới Thiệu Tổng Quan # Top 4 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Phát Triển Lưới Điện Thông Minh Tại Việt Nam : Giới Thiệu Tổng Quan mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

‘Hệ thống điện thông minh’ trong Quy hoạch điện 8

KỲ 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ LƯỚI ĐIỆN THÔNG MINH

  Mở đầu

Trước đây, hệ thống điện được hình dung đơn giản, gồm: Nhà máy điện, đường dây điện, trạm phân phối, hộp biến áp và công tơ ở lối vào căn hộ. Đó là một lưới điện truyền thống.

Hiện nay, cấu trúc của hệ thống điện thực tế không thay đổi, nhưng tất cả các phần tử đều có một “chip” thông minh và các kênh thông tin liên lạc để có thể trao đổi thông tin với nhau và điều khiển lẫn nhau. Một hệ thống như vậy được coi là lưới điện thông minh (LĐTM).

Kinh nghiệm thực tế và kết quả nghiên cứu đã giúp hình thành các giả định sau được áp dụng trong quá trình xây dựng và phát triển LĐTM ở nước ngoài:

1/ LĐTM là sự chuyển đổi số có tính hệ thống, có tác động đến tất cả các thành phần chính của ngành điện (sản xuất, truyền tải, phân phối, kinh doanh và điều độ).

3/ Việc phát triển ngành điện cần hướng tới:

Thứ nhất: Hoàn thiện các đặc tính hiện có.

Thứ hai: Tạo ra các đặc tính chức năng mới của hệ thống điện và các phần tử của nó.

Thứ ba: Đảm bảo đạt được các giá trị chủ chốt của ngành điện ở mức độ cao nhất.

4/ Lưới điện (tất cả các phần tử của nó) phải được coi là đối tượng chính của việc hình thành cơ sở công nghệ mới, có khả năng cải thiện đáng kể những điều đã đạt được và tạo ra các đặc tính chức năng mới của hệ thống điện.

5/ Sự phát triển LĐTM bao hàm tất cả các hướng chính (nghiên cứu, hoàn thiện, nhân rộng, ứng dụng thực tế) và cần được thực hiện ở tất cả các lĩnh vực (khoa học, quản lý, pháp lý, công nghệ, kỹ thuật, tổ chức, quản lý và thông tin).

6/ Việc triển khai LĐTM phải sáng tạo và tạo động lực thúc đẩy quá trình chuyển đổi ngành điện và toàn bộ nền kinh tế sang một nền tảng công nghệ mới.

Đặc tính của LĐTM

LĐTM có các đặc tính tiên tiến như:

1/ Hoạt động hai chiều, tương tác thời gian thực, có trao đổi thông tin giữa tất cả các phần tử và những người tham gia mạng, từ máy phát điện đến thiết bị đầu cuối của người dùng điện.

2/ Bao phủ toàn bộ hệ thống điện từ các nhà máy điện và mạng lưới điện đến người tiêu dùng cuối cùng.

3/ Đảm bảo cân bằng cung – cầu được kiểm soát gần như liên tục. Các phần tử của LĐTM sẽ liên tục trao đổi thông tin với nhau về các thông số điện, phương thức tiêu thụ và phát điện, lượng điện tiêu thụ theo kế hoạch và tiêu thụ thực tế, cũng như các thông tin thương mại.

4/ LĐTM có khả năng tự bảo vệ trước các mối đe dọa lớn từ bên ngoài (thiên tai) và tự phục hồi sau những gián đoạn/sự cố.

5/ LĐTM sẽ thúc đẩy sự xuất hiện của các thị trường, người tham gia và dịch vụ mới.

Yêu cầu cơ bản của LĐTN

1/ Khả dụng (availability) – cung cấp điện không hạn chế cho người tiêu dùng, tùy thuộc vào thời điểm, địa điểm họ cần và tùy thuộc vào chất lượng được trả.

2/ Tin cậy (reliability) – khả năng chịu các ảnh hưởng tiêu cực về vật lý và thông tin mà không bị mất điện toàn bộ, hoặc không tốn chi phí cao để khôi phục, có khả năng phục hồi nhanh nhất có thể (tự phục hồi).

3/ Lợi nhuận (profitability) – tối ưu hóa giá điện cho người tiêu dùng và giảm chi phí trên toàn hệ thống.

4/ Hiệu quả (efficiency) – tối đa hóa hiệu quả sử dụng các nguồn lực (tài nguyên và công nghệ) trong sản xuất, truyền tải, phân phối và tiêu thụ điện năng.

5/ Tương tác hữu cơ với môi trường (organic interaction with the environment) – giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường.

6/ An toàn (safety) – không để xảy ra trong ngành điện các tình huống gây nguy hiểm cho con người và môi trường.

Tất cả các yêu cầu chính (giá trị) nêu trên phải được coi là bình đẳng với nhau, nhưng thứ tự ưu tiên, mức độ và tỷ lệ của chúng không giống nhau, không cố định như một quy chuẩn chung cho tất cả, mà có thể được xác định và áp dụng riêng cho từng đối tượng (công ty điện, khu vực, thành phố, hộ gia đình, v.v…).

Dấu hiệu nhận biết của LĐTM

Trên thế giới, các thuộc tính/dấu hiệu của LĐTM được tổng hợp trong bảng sau:

Bảng 1. Các dấu hiệu nhận biết của LĐTM:

Mỹ [1]

Châu Âu [2]

Nga [3]

Ability: Lưới điện có khả năng tự phục hồi sau các sự cố gián đoạn trong quá trình cung cấp điện.

Flexibility: Lưới điện có tính linh hoạt tự điều chỉnh theo nhu cầu của người tiêu dùng điện.

Topological: Lưới điện có đầy đủ các phần tử cho phép thay đổi các thông số cấu trúc topo của lưới.

Possibility: Lưới điện có thể tham gia tích cực vào hoạt động của người tiêu dùng điện.

Availability: Lưới điện có khả năng tiếp cận – cho phép các bên sử dụng mới tiếp cận được với lưới, kể cả việc đấu nối mới vào lưới của các nguồn tham gia phát điện lên lưới.

Large number of sensors: Có đủ số lượng lớn các cảm biến đo các thông số hoạt động hiện thời để đánh giá tình trạng lưới trong các chế độ hoạt động khác nhau của hệ thống điện.

Sustainability: Lưới điện phải có tính bền vững  trước các tác động xấu cố ý từ bên ngoài về vật lý và về điều khiển học.

Reliability: Lưới điện phải có độ tin cậy để bảo hành về khả năng được bảo vệ và về chất lượng của việc cung cấp điện phù hợp với các yêu cầu của kỷ nguyên số.

Hệ thống thu thập và xử lý dữ liệu: Có phần mềm, phần cứng cũng như phương tiện điều khiển các thông số hoạt động của lưới và của các thiết bị dùng điện.

Provision: Lưới điện phải đảm bảo yêu cầu về chất lượng của điện năng được truyền tải.

Profitability: Lưới điện cần có tính hiệu quả – các công nghệ mới áp dụng trong LĐTM phải cho phép điều khiển và điều tiết hoạt động của hệ thống một cách có hiệu quả.

Đảm bảo khả năng làm việc đồng thời của các nguồn phát điện và các điểm/nút lưu trữ điện năng.

Safety: Lưới điện cần đảm bảo độ an toàn – không cho phép xẩy ra các tình huống mất an toàn đối với con người và môi trường trong lĩnh vực điện lực.

Các phương tiện tự động đánh giá tình trạng hiện tại và dự báo hoạt động của lưới.

Sự xuất hiện mới của các thị trường và sản phẩm của công nghệ cao

 

Hệ thống điều khiển và trao đổi thông tin có hiệu suất cao (high performance)

Nâng cao hiệu quả hoạt động tổng thể của hệ thống

 

 

 

Chức năng của LĐTM

Với cách tiệm cận vấn đề như trên, nhiệm vụ phát triển ngành điện từ chủ yếu dựa trên cân bằng cung – cầu điện được chuyển thành nhiệm vụ tạo ra, phát triển và cung cấp một “thực đơn” gồm các “món ăn” điện năng cho người tiêu dùng và xã hội. Để đạt được các yêu cầu (giá trị) chính trong “thực đơn”, ngành điện cần phát triển (‘pha chế’) LĐTM với các đặc tính chức năng (‘mùi, vị’) chính sau đây:

1/ Tự phục hồi trong các trường hợp có sự cố khẩn cấp: Hệ thống điện và các phần tử của nó phải liên tục duy trì được tình trạng kỹ thuật cần có của mình bằng cách nhận diện, phân tích và chuyển từ kiểm soát sang phòng ngừa tất cả các hư hỏng khẩn cấp.

2/ Có khả năng thúc đẩy hành vi tích cực của người tiêu dùng cuối cùng: Cung cấp cho người tiêu dùng khả năng độc lập thay đổi về khối lượng và chất lượng điện năng nhận được, dựa trên sự cân bằng giữa nhu cầu của họ và khả năng của hệ thống điện, có sử dụng thông tin về giá cả, khối lượng, độ tin cậy, chất lượng, v.v…

3/ Khả năng chống lại các ảnh hưởng tiêu cực: Có các giải pháp đặc biệt để đảm bảo tính ổn định và khả năng tồn tại, giảm tổn thương về vật lý, về thông tin của tất cả các thành phần của hệ thống điện, góp phần phòng ngừa, cũng như tự phục hồi nhanh chóng sau sự cố phù hợp với yêu cầu của an ninh năng lượng.

4/ Đảm bảo độ tin cậy và chất lượng điện: Chuyển từ phương pháp tiếp cận dựa trên hệ thống (System-based approach) sang phương pháp tiếp cận dựa trên khách hàng (Customer-based) để đảm bảo và duy trì các mức độ tin cậy và chất lượng điện khác nhau trong các phân khúc giá khác nhau.

5/ Đa dạng hóa nguồn phát điện và lưu trữ điện: Tích hợp tối ưu các nhà máy điện, hệ thống lưu trữ điện năng với nhiều loại và công suất khác nhau bằng cách kết nối chúng với hệ thống điện theo quy trình đấu nối kỹ thuật tiêu chuẩn và chuyển đổi sang kiến tạo các “lưới điện siêu nhỏ” (Microgrid) ở phía người dùng cuối cùng.

6/ Mở rộng thị trường điện: Mở rộng khả năng để người tiêu dùng cuối cùng có thể tiếp cận được với thị trường phát điện, thị trường bán điện và thị trường phát điện phân tán, góp phần tăng hiệu suất, hiệu quả của thị trường bán lẻ.

7/ Tối ưu hóa quản lý các tài sản: Chuyển đổi sang giám sát từ xa các tài sản sản xuất theo thời gian thực đã được tích hợp vào hệ thống quản lý doanh nghiệp nhằm tối ưu hóa các phương thức sản xuất, cải thiện việc vận hành, sửa chữa và thay thế thiết bị theo tình trạng thực và đảm bảo giảm chi phí chung của toàn hệ thống.

Các công nghệ nền tảng của LĐTM

Cơ sở công nghệ mới của LĐTM là các nhóm lĩnh vực công nghệ trọng điểm mang tính đột phá, gồm:

1/ Các dụng cụ và thiết bị đo lường thông minh (trước hết là đồng hồ thông minh và cảm biến thông minh).

2/ Các phương pháp điều khiển tiên tiến: Hệ thống điều khiển thông minh phân tán và các công cụ phân tích hỗ trợ ở các cấp độ của hệ thống điện hoạt động trong thời gian thực, cho phép thực hiện các thuật toán, phương pháp mới để điều khiển hệ thống điện, kể cả điều khiển các phần tử công tác của hệ thống.

3/ Các công nghệ và thành phần của mạng điện đã được hoàn thiện: FACTS truyền dẫn điện xoay chiều linh hoạt, dòng điện một chiều, cáp siêu dẫn, điện tử công suất bán dẫn, thiết bị lưu trữ, v.v…

4/ Các giao diện tích hợp và các phương pháp hỗ trợ việc ra quyết định, quản lý nhu cầu, hệ thống giám sát và điều khiển phân tán (DMCS), hệ thống quản lý phát điện hiện tại phân tán (DGMS), hệ thống tự động đo lường các quá trình (AMOS), v.v… cũng như các phương pháp mới để lập kế hoạch, thiết kế phát triển và hoạt động của hệ thống điện, cũng như các phần tử của nó.

5/ Truyền thông tích hợp: Cho phép các phần tử của 4 nhóm công nghệ trên (về cơ bản đại diện cho LĐTM như một hệ thống công nghệ) có thể kết nối và tương tác với nhau.

Riêng trong mạng đường trục, các nhóm công nghệ phổ biến và phát triển nhất được tổng hợp trong bảng sau:

Bảng 2. Các công nghệ nền tảng được sử dụng trong LĐTM:

Chức năng

Các thành phần và công nghệ tiên tiến

Vận hành

Công nghệ lưu trữ năng lượng (Energy storage technologies)

Công nghệ siêu dẫn (Superconductivity technology)

Các thiết bị giới hạn dòng điện (Current limiting devices)

Công nghệ trạm kỹ thuật số (Digital Substation Technologies)

Công nghệ truyền dẫn dòng điện một chiều (Direct current transmission technologies)

Công nghệ nguồn AC có kiểm soát (Controlled AC Power Technologies)

Giám sát và bảo vệ

Công nghệ kiểm soát và bảo vệ khỏi các tác động bên ngoài (Control and protection technologies from external influences)

Công nghệ giám sát và chẩn đoán mạng điện (Technologies for monitoring and diagnostics of electrical networks)

Điều khiển

Công nghệ điều khiển tự động và tự động thích ứng (Adaptive automated and automatic control technologies)

Công nghệ điều khiển thông minh (Intelligent control technologies)

 

So sánh LĐTM và lưới điện truyền thống

Bảng 3. So sánh LĐTM và lưới điện truyền thống:

Khả năng/công dụng

Truyền thống

Thông minh

Đối với lưới của các hộ tiêu dùng

 

 

Điều khiển tự động “cầu” về điện từ phía “cung” (trong đó có sự tham gia của người dùng điện vào việc việc điều tiết)

Không có

Hệ thống đo đếm điện tự động

Không đủ

Đầy đủ

Hệ thống điều tiết về điện áp và công suất phản kháng

Không đủ

Đủ ở mức cần thiết

Khả năng áp dụng nguồn phát tại chỗ (dự phòng)

Hầu như không có

Các nguồn nhỏ và tích điện được áp dụng

Giao diện tương tác với trung tâm điều khiển thống nhất

Không

Khả năng áp dụng các công nghệ tiết kiệm điện thông minh (“ngôi nhà thông minh”, “thành phố thông minh”)

Hầu như không có

Hoàn toàn có thể

Đối với lưới phân phối chung

 

 

Hệ thống kiểm soát tự động về cân bằng công suất hữu dụng và công suất phản kháng theo các nút lưới

Không đáng kể

Hoàn toàn có thể

Hệ thống kiểm soát chất lượng điện theo từng nút lưới

Không đáng kể

Có thể

Điều khiển tự động tập trung về phụ tải dùng điện

Không

Các yếu tố điều khiển lưới có khả năng thay đổi thông số lưới

không đáng kể

Có thể

Hệ thống điều khiển có khả năng duy trì cân bằng khi các nút lưới bị sa thải

Không

Hệ thống giám sát và điều khiển độ tin cậy trong cung cấp điện

Không

Đối với các lưới thành phần của hệ thống điện hợp nhất

 

 

Các hệ thống kiểm soát cân bằng công suất và tổn thất điện năng tại các nút lưới

Không

Các hệ thống kiểm soát điện áp tại các điểm kiểm tra của lưới

Không hoàn toàn

Hoàn toàn

Các hệ thống đánh giá tình trạng hiện tại của lưới

Có, thụ động

Có, chủ động

Các yếu tố lưới có khả năng thay đổi cấu trúc lưới theo điều khiển

Hầu như không có

Hệ thống kiểm soát tự động phụ tải tại các điểm có tiết diện dây tới hạn và khả năng đưa ra các tác động để sa thải phụ tải

Có và bổ sung điều khiển tự động các thông số và cấu trúc lưới

Hệ thống điều tiết tần số và duy trì cân bằng công suất cho các khu vực có phụ tải bị tách ra trong các sự cố

Không hoàn thiện

Tự động điều khiển

Công nghệ tự động tái cấu trúc lưới điện

Chỉ áp dụng tại chỗ trong lưới phân phối

Hệ thống giám sát các qui trình chuyển đổi dựa trên cơ sở đo véc tơ đồng bộ

Áp dụng tại chỗ

Hoàn toàn có thể

Đối với lưới nối giữa các lưới

 

 

Hệ thống đánh giá tình trạng (chế độ) truyền tải hiện thời

Có, thụ động

Có, chủ động

Hệ thống kiểm soát tự động công suất truyền tải và đưa ra các tác động điều khiển sa thải phụ tải (khi quá tải)

Có và bổ sung điều khiển tự động các thông số và cấu trúc lưới

 

Kỳ tới: Để phát triển lưới điện thông minh – Việt Nam cần làm gì?

NGUYỄN THÀNH SƠN – ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC

PHAN NGÔ TỐNG HƯNG – PHÓ CHỦ TỊCH HIỆP HỘI NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

 

[1] U.S. Department of Energy. Smart Grid / Department of Energy.

[3] Các qui định chính về hệ thống điện thông minh với lưới điện thích ứng tích cực/Основные положения концепции интеллектуальной энергосистемы с активно-адаптивной сетью. 2012

[4] Torriti, Demand Side Management for the European Supergrid Energy Policy, vol. 44, pp. 199-206, 2012.

[5] [http://edisontechcenter.org/HistElectPowTrans.html The History of Electrification: The Birth of our Power Grid]. Edison Tech Center.

[6] Mohsen Fadaee Nejad, AminMohammad Saberian and Hashim Hizam. Application of smart power grid in developing countries (англ.) // 7th International Power Engineering and Optimization Conference (PEOCO) : journal. – IEEE, 2013. – 3 June.

[7] Smart Grid Working Group. Challenge and Opportunity: Charting a New Energy Future, Appendix A: Working Group Reports (PDF). Energy Future Coalition (июнь 2003).

[8] Michael T. Burr, “Reliability demands drive automation investments, “ Public Utilities Fortnightly, Technology Corridor department, Nov. 1, 2003.

[9]  Federal Energy Regulatory Commission staff report. Assessment of Demand Response and Advanced Metering (Docket AD06-2-000) (англ.) : journal. - United States Department of Energy, 2006. - August. - P. 20.

[10]  National Energy Technology Laboratory. NETL Modern Grid Initiative- Powering Our 21st-Century Economy (англ.): journal. - United States Department of Energy Office of Electricity Delivery and Energy Reliability, 2007. - August. - P. 17.

[11] Gridwise History: How did GridWise start?. Pacific Northwest National Laboratory (30 октября 2007). Дата обращения: 3 декабря 2008. Архивировано 27 октября 2008 года.

[12] Qixun Yang, Board Chairman, Beijing Sifang Automation Co. Ltd., China and .Bi Tianshu, Professor, North China Electric Power University, China. WAMS Implementation in China and the Challenges for Bulk Power System Protection (англ.) // Panel Session: Developments in Power Generation and Transmission - Infrastructures in China, IEEE 2007 General Meeting, Tampa, FL, USA, 24–28 June 2007 Electric Power, ABB Power T&D Company, and Tennessee Valley Authority: journal. - Institute of Electrical and Electronics Engineers, 2001. - 24 June.

[13] https://eneca.by/novosti/energetika-i-energoeffektivnost/smart-grid-ili-umnye-seti-elektrosnabzheniya.

Hoa Kỳ Tài Trợ Giải Pháp Lưới Điện Thông Minh Tại Việt Nam

Thỏa thuận này nhằm giúp các tập đoàn năng lượng Việt Nam có thể quản lý tốt hơn nhu cầu sử dụng năng lượng trong giờ cao điểm và tối ưu hóa hiệu quả phân phối điện.

Đây là một trong những chương trình thuộc Đề án phát triển lưới điện thông minh tại Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định 1670/QĐ-TTg ngày 8/11/2012. Mục tiêu của đề án là nâng cao chất lượng điện năng, độ tin cậy cung cấp điện, góp phần quản lý nhu cầu điện và khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả.

Ngoài ra, đề án cũng tạo điều kiện để nâng cao năng suất lao động, giảm nhu cầu đầu tư vào phát triển nguồn và lưới điện, cũng như tăng cường khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên năng lượng, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế-xã hội bền vững.

Chủ trì lễ ký kết, ông Cao Quốc Hưng, Thứ trưởng Bộ Công Thương đánh giá cao sự hỗ trợ của USTDA không chỉ đối với dự án thí điểm giải pháp lưới điện thông minh mà còn ở nhiều chương trình, dự án phát triển khác trước đó.

“Sự hợp tác giữa Bộ Công Thương và USTDA đã có từ lâu và đạt được hiệu quả nhất định. Với nguồn vốn hỗ trợ không hoàn lại của USTDA cho dự án này (hơn 700.000 USD), Bộ Công Thương đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tiếp nhận theo quy định hiện hành,” Thứ trưởng Cao Quốc Hưng nói.

Qua đó, giúp Việt Nam quản lý nhu cầu sử dụng điện tốt hơn khi công suất phát điện dự kiến tăng gấp đôi vào năm 2025. Nếu triển khai và áp dụng rộng rãi các giải pháp tự động điều chỉnh phụ tải điện tại các tập đoàn năng lượng trên khắp cả nước, công nghệ này có thể sẽ giúp tiết kiệm khoảng 300MW vào giờ cao điểm đối với những phụ tải lớn của lưới điện Việt Nam ./.

Phát Triển Thương Mại Điện Tử Tại Việt Nam

Thực trạng phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam

Tình hình sử dụng internet ở Việt Nam

Tính đến tháng 1/2017, Việt Nam có 50,05 triệu người dùng internet chiếm 53% dân số, tăng 6% so với năm 2016. Số người dùng internet được xem là ở mức cao trên thế giới, tuy nhiên tỉ lệ người dùng vẫn ở mức trung bình. Việt Nam có đến 46 triệu người dùng mạng xã hội, chiếm 48% dân số.

Theo khảo sát của Cục Thương mại điện tử và Công nghệ (TMĐT và CNTT) có 10% số người tham gia khảo sát cho biết, thời lượng sử dụng internet mỗi ngày là dưới 3 giờ. 36% số người tham gia khảo sát sử dụng internet từ 3 – 5 giờ mỗi ngày.

Máy tính xách tay và điện thoại di động tiếp tục là phương tiện phổ biến nhất được người truy cập internet sử dụng, với tỷ lệ tương ứng là 75% và 65%. Số lượng người dân truy cập internet qua các thiết bị khác như máy tính bảng cũng tăng mạnh với 19% từ năm 2014 đến năm 2016.

Máy tính để bàn từng là phương tiện phổ biến nhất năm 2010, chiếm 84% lượng người sử dụng; năm 2016 chỉ còn 33% người tham gia khảo sát tiếp cận qua phương tiện này. 90% số người khảo sát cho biết địa điểm truy cập internet thường xuyên là tại nhà. Địa điểm phổ biến thứ hai là nơi làm việc chiếm 48%. Các địa điểm công cộng, trường học, cửa hàng internet chiếm tỷ lệ tương ứng là 22%, 16% và 5%.

Cập nhật thông tin tiếp tục là mục đích sử dụng internet hàng ngày phổ biến nhất, tăng từ 87% năm 2015 và lên 93,5% năm 2016. Đa số người tham gia khảo sát sử dụng internet hàng ngày để tham gia các diễn đàn, mạng xã hội (81,2%), truy cập e-mail (73,8%), xem phim ảnh, nghe nhạc (64,8%) và nghiên cứu học tập (63,9%). Đối với các hoạt động như mua bán cá nhân, phần lớn người khảo sát có tần suất hoạt động hàng tháng (36,2%).

Tình hình tham gia thương mại điện tử

Kết quả khảo sát của Cục TMĐT và CNTT với người dân có mua sắm trực tuyến năm 2016 cho thấy, 58% số người truy cập internet đã từng mua hàng trực tuyến. Loại hàng hóa được mua trực tuyến phổ biến là đồ công nghệ và điện tử chiếm 60%, tăng 25% so với năm 2015. Các mặt hàng được người tiêu dùng trực tuyến ưa chuộng khác là quần áo, giày dép, mỹ phẩm (60%), sau đó đến đồ gia dụng (34%), sách và văn phòng phẩm (31%)…

Hiệu quả ứng dụng thương mại điện tử

Theo kết quả điều tra khảo sát năm 2016, có 6% người mua hàng trực tuyến trả lời rất hài lòng với phương thức mua hàng này; 41% người mua trả lời hài lòng, tăng đáng kể so với tỷ lệ 29% của năm 2015; 48% người mua cho biết cảm thấy bình thường và chỉ 5% số người được hỏi trả lời không hài lòng.

Giá trị sản phẩm dịch vụ người mua hàng chọn mua nhiều nhất là mức từ 1 đến 3 triệu đồng, chiếm 29%. Theo sau là mức trên 5 triệu đồng với 26% người chọn mua và mức được ít người chọn mua nhất là từ 3 đến 5 triệu đồng với 11%.

Theo kết quả khảo sát, 31% website TMĐT gặp khó khăn do nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển TMĐT, 25% website đánh giá việc khách hàng thiếu tin tưởng vào chất lượng hàng hóa hoặc lo ngại về vấn đề an toàn khi thanh toán trực tuyến gây cản trở cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, 22% website cho rằng chi phí cho dịch vụ vận chuyển giao nhận còn cao.

Bên cạnh đó, cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp cũng gây khó khăn cho 20% website. Các trở ngại khác, như: khách hàng lo ngại về vấn đề thông tin cá nhân bị tiết lộ, mua bán; an ninh mạng chưa đảm bảo; khó khăn trong việc tích hợp thanh toán điện tử gây trở ngại ít hơn, ảnh hưởng tới khoảng 10 – 17% website TMĐT. (Biểu đồ 1).

Trong số 38% người tham gia khảo sát chưa tham gia mua sắm trực tuyến và khi được hỏi về nguyên nhân chưa mua sắm trực tuyến, 50% cho biết không tin tưởng đơn vị bán hàng, 37% quan niệm mua tại cửa hàng tiện lợi và rẻ hơn, 26% không có thẻ tín dụng hoặc thẻ thanh toán qua mạng, 25% lo sợ lộ thông tin cá nhân. (Biểu đồ 2).

Lý do khiến người dân chưa tham gia mua sắm trực tuyến, bao gồm: khó kiểm định chất lượng hàng hóa (78%), không tin tưởng người bán hàng (57%), không có đủ thông tin để ra quyết định (46%), không có thẻ tín dụng hoặc các loại thẻ thanh toán qua mạng (42%), cảm thấy mua ở cửa hàng dễ dàng và nhanh hơn (38%), cách thức mua hàng trực tuyến quá rắc rối (26%).

Tình hình vận hành website thương mại điện tử

Theo cuộc khảo sát được tiến hành hàng năm của Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam năm cuối năm 2016, thì tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng webside không thay đổi nhiều so với các năm trước, vẫn ở mức 45%. (Biểu đồ 3).

Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp đã chú trọng tới việc cập nhật thông tin thường xuyên lên website, đã có 54% doanh nghiệp cập nhật thông tin lên website hàng ngày so với tỷ lệ 50% năm 2015. (Biểu đồ 4).

Tình hình hoạt động của các website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử

Các website cung cấp dịch vụ TMĐT tham gia khảo sát bao gồm ba loại hình website: nhóm sàn giao dịch TMĐT với tỷ lệ 88%; nhóm website khuyến mại trực tuyến chiếm 16%; và nhóm website đấu giá trực tuyến là 2%.

85% website cung cấp dịch vụ TMĐT tham gia khảo sát có nguồn vốn do doanh nghiệp tự đầu tư. Website có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 10%, số website còn lại được đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước hoặc từ nguồn khác chiếm số lượng ít, tương ứng 5% và 2%.

76% có tích hợp chat yahoo hoặc skype, hỗ trợ trực tuyến đối với người tiêu dùng. Tích hợp mạng xã hội và tin nhắn SMS trên website cũng là tiện ích mới được doanh nghiệp quan tâm trong thời gian gần đây, với tỷ lệ tương ứng 53% và 50%.

Nhóm 5 mặt hàng được giao dịch nhiều nhất trên các website cung cấp dịch vụ TMĐT bao gồm: thời trang (44%); máy tính và mạng (43%); quần áo, giày dép, mỹ phẩm (43%); điện thoại (41%); hàng điện lạnh, thiết bị gia dụng (25%).

Tỷ lệ doanh nghiệp có quy mô dưới 10 nhân sự chiếm 53% trong số doanh nghiệp tham gia khảo sát. Số doanh nghiệp có từ 10 – 20 nhân sự và từ 20 – 100 nhân sự có tỷ lệ tương ứng 27% và 16%. Số doanh nghiệp có trên 100 nhân sự đạt khoảng 4%.

Trong số doanh nghiệp sở hữu website cung cấp dịch vụ TMĐT được khảo sát, khoảng 30% website đã hỗ trợ và tích hợp chức năng thanh toán trực tuyến. 27% chấp nhận thanh toán qua thẻ Visa, Master Card, 25% qua đơn vị thanh toán trung gian và 10% tin nhắn SMS.

45% website hỗ trợ dịch vụ giao hàng và thu tiền sau (Cash on delivery – COD). Hình thức chấp nhận thanh toán khi mua hàng trực tiếp tại công ty là phổ biến, chiếm 75%. Trong khi đó, hình thức thanh toán bằng chuyển khoản vẫn được nhiều doanh nghiệp triển khai với tỷ lệ là 77%.

Hệ thống giải pháp phát triển thương mại điện tử nhằm năng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam đến năm 2020 Đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT

Các giao dịch TMĐT, đòi hỏi phải có một đội ngũ chuyên gia tin học mạnh, thường xuyên bắt kịp các thành tựu công nghệ thông tin mới phát sinh để phục vụ cho TMĐT và có khả năng thiết kế các phần mềm đáp ứng các nhu cầu của kinh tế số hóa.

Mặt khác, đòi hỏi mỗi người tham gia TMĐT phải có khả năng sử dụng máy tính, có thể trao đổi thông tin một cách thành thạo trên mạng, có những hiểu biết cần thiết về thương mại, luật pháp…, nếu là ngoại thương thì còn phải hiểu luật pháp quốc tế và ngoại ngữ nữa.

Bởi vậy, phải đào tạo các chuyên gia tin học và phải phổ cập kiến thức về TMĐT không những cho các doanh nghiệp, các cán bộ quản lý của nhà nước mà cho cả mọi người; đồng thời tuyên truyền về lợi ích của TMĐT để từng bước thay đổi tập quán, tâm lý của người tiêu dùng từ chỗ chỉ quen mua sắm trực tiếp tại các siêu thị, các chợ chuyển sang mua sắm qua mạng.

Kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, công nghệ viễn thông và mạng internet là ba điều kiện tiên quyết bảo đảm các dịch vụ thích hợp để phát triển TMĐT. Đồng thời, cần kết cấu hạ tầng công nghệ điện tử để tạo ra các thiết bị điện tử – tin học – viễn thông và điện lực cung cấp điện năng đầy đủ, ổn định, rộng khắp cho các phương tiện trên hoạt động.

Hoàn thiện môi trường pháp lý

Để TMĐT phát triển lành mạnh cần phải hoàn thiện môi trường pháp lý, thông qua việc ban hành và thực thi các đạo luật và các văn kiện dưới luật điều chỉnh các hoạt động thương mại, thích ứng với pháp lý và tập quán quốc tế về giao dịch TMĐT.

Phát triển các dịch vụ công phục vụ cho TMĐT

Kiến thức về TMĐT; tạo môi trường pháp lý; xây dựng kết cấu hạ tầng cho TMĐT và quản lý các giao dịch TMĐT để bảo vệ lợi ích của người tham gia mà còn phải phát triển các dịch vụ công nhằm thúc đẩy sự phát triển của TMĐT.

Theo thống kê của Vụ Thương mại điện tử (Bộ Công Thương), hiện các website của các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu dùng để giới thiệu sản phẩm và dịch vụ, khoảng trên 20% số website nhận đặt hàng qua mạng internet, song chỉ có 3,2% cho phép thanh toán trực tuyến. Đây là một rào cản lớn nhất đối với phát triển TMĐT. Ti làchỉ có, tăng cường hơn nữa sự hợp tác khu vực và quốc tế trong phát triển TMĐT.

Trong thời gian tới, Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa sự hợp tác khu vực và quốc tế này để thực hiện tốt các cam kết quốc tế về TMĐT; xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn về trao đổi dữ liệu điện tử trong nước hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế.

1. Báo cáo EBI 2017 2. https://www.webico.vn/tong-quan-thuc-trang-tinh-hinh-thuong-mai-dien-tu-o-viet-nam-hien-nay-nam/ 3. http://startup.vitv.vn/tin-chu/23-05-2017/thuong-mai-dien-tu-2017-xu-huong-thuc-trang-va-giai-phap/8393 4. https://mona-media.com/tin-tuc/thuc-trang-tinh-hinh-phat-trien-thuong-mai-dien-tu-viet-nam-2017/ 5. http://enternews.vn/thuong-mai-dien-tu-viet-nam-tiem-nang-va-thach-thuc-107099.html

Kỳ Vọng Về Lưới Điện Thông Minh

Lưới điện thông minh đang dần được đưa vào sử dụng rộng rãi trên cả nước.

Nhận thấy tiềm năng to lớn của lưới điện thông minh, Việt Nam đang dần đưa lưới điện thông minh vào sử dụng rộng rãi trên cả nước, cùng với sự giúp đỡ của các nước phát triển trên thế giới như Đức, Nhật Bản…. Từ năm 2016, Bộ Công Thương đã phê duyệt Đề án tổng thể phát triển lưới điện thông minh tại Việt Nam do Tập đoàn điện lực Việt Nam EVN hoàn thiện với mục tiêu nâng cao chất lượng điện năng, độ tin cậy cung cấp điện; góp phần trong công tác quản lý nhu cầu điện, khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Ngày 11/05/2018, Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Bình Minh ký Quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án “Ứng dụng lưới điện thông minh để phát triển các nguồn năng lượng tái tạo và sử dụng năng lượng hiệu quả” (SGRE-EE), sử dụng vốn ODA không hoàn lại của Chính phủ Đức.

Kết quả Dự án Lưới điện thông minh cho năng lượng tái tạo và hiệu quả năng lượng do Cục Điều tiết điện lực – Bộ Công Thương phối hợp với Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (GIZ) phối hợp thực hiện đến nay đã đạt được nhiều kết quả. Các hệ thống điều khiển giám sát và thu thập dữ liệu (SCADA)/hệ thống quản lý năng lượng (EMS) đang được triển khai áp dụng rộng rãi nhằm quản lý và điều khiển tự động đến hầu hết các lưới truyền tải cũng như mở rộng khả năng kết nối của hệ thống tự động điều chỉnh tăng giảm công suất phát điện (AGC) đối với tất cả các nhà máy điện có công suất trên 30MW. Tất cả các máy biến áp và kháng điện 500kV đều được trang bị thiết bị giám sát đầu máy biến áp trực tuyến (DGA), trong khi các máy biến áp 220kV quan trọng cũng đang được lên kế hoạch trang bị thiết bị DGA.

Trên quy mô lớn, nhiều tổng công điện lực đang triển khai thành công hệ thống tự động thu thập và quản lý dữ liệu đo đếm từ xa (AMR) đến hầu hết các khách hàng. Một phần các TBA 110kV đã được trang bị Hệ thống tự động hóa trạm (SAS)…

Ở quy mô nhỏ, xe điện và hệ thống trạm sạc xe điện chưa được phát triển rộng rãi, nhiều hệ thống mà lưới điện Việt Nam vẫn chưa có như: hệ thống đánh giá an ninh động (DSA), Máy biến áp phân phối (MV,LV) điều chỉnh điện áp, Hệ thống quản lý kế hoạch sửa chữa (OMS), Hệ thống lưu trữ điện năng hay truyền tải điện cao áp một chiều (HVDC)…

Ban chỉ đạo phát triển Lưới điện Thông minh Việt Nam được thành lập năm 2013, có nhiệm vụ chỉ đạo các đơn vị trong ngành điện xây dựng các dự án cụ thể, xác định các mục tiêu cụ thể trong từng dự án, giao cho các đơn vị thực hiện, giám sát việc thực hiện tuân thủ theo Quyết định số 1670/QĐ-TTg ngày 08/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển Lưới điện Thông minh tại Việt Nam.

Trưởng Ban Chỉ đạo Lưới điện Thông minh, Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng khẳng định, việc vận hành hệ thống điện một cách ổn định đóng vai trò quan trọng trong xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội của mỗi một quốc gia. Phát triển Lưới điện thông minh là một định hướng đúng đắn của Việt Nam.

Với xu thế chung về phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, ứng dụng công nghệ lưới điện thông minh là một trong những giải pháp hữu hiệu để tích hợp, vận hành ổn định, tối ưu các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo; góp phần khuyến khích phát triển, tăng tỷ trọng và khai thác có hiệu quả nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo, qua đó góp phần bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và phát triển bền vững.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Phát Triển Lưới Điện Thông Minh Tại Việt Nam : Giới Thiệu Tổng Quan trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!