Cập nhật nội dung chi tiết về Phát Triển Đô Thị Thông Minh Để Giải Quyết Các Thách Thức Kinh Tế Xã Hội mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Diễn đàn do Ban Kinh tế Trung ương và Bộ Xây dựng đồng tổ chức. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tới dự Diễn đàn và trực tiếp chủ trì phiên toàn thể.
Tại Diễn đàn, các chuyên gia, các nhà khoa học và các nhà quản lý đã cùng khẳng định vai trò và sự phát triển nhanh chóng của các đô thị tại Việt Nam và vai trò của đô thị thông minh trong tương lai.
Hệ thống đô thị đã tạo các cực tăng trưởng trong khu vực, ngày càng khẳng định vai trò trung tâm thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục, đào tạo và y tế.
Nhưng, hệ thống đô thị của Việt Nam phát triển còn thiếu đồng bộ, chưa đảm bảo khả năng liên kết trong từng đô thị, giữa các đô thị và giữa khu vực đô thị với khu vực nông thôn; chênh lệch phát triển và thu nhập giữa các vùng chậm được thu hẹp; nhiều vấn đề xã hội, ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông chưa được giải quyết…
Để giải quyết những tồn tại, hạn chế nêu trên, một trong những giải pháp quan trọng là cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý, phát triển đô thị trong thời gian tới trên cơ sở tận dụng tốt nhất những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Diễn đàn đã khẳng định: Phát triển đô thị thông minh bền vững sẽ là hướng đi tất yếu, là nhu cầu cấp thiết trong quá trình đô thị hoá và phát triển đô thị Việt Nam.
Theo đó, Đề án phát triển đô thị thông minh giai đoạn 2018 – 2025 và tầm nhìn đến năm 2030 của Việt Nam xác định mục tiêu đến năm 2025 có ít nhất 3 đô thị thông minh tại 3 vùng trọng điểm; đến năm 2030 sẽ hình thành một số chuỗi đô thị thông minh.
Quang cảnh Diễn đàn
Vậy, xây dựng đô thị thông minh bắt đầu từ đâu và làm những việc gì?
Các ý kiến trao đổi tại Diễn đàn cùng cho rằng để thành công trong việc này cầnbắt đầu từ tư duy, từ cách nghĩ và đi đến cách làm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy thời gian qua có nhiều việc đã và đang làm nhưng cũng gặp vô vàn khó khăn.
Các sáng kiến, kinh nghiệm và hợp tác giữa các đô thị của Việt Nam với mạng lưới đô thị trong khu vực ASEAN đã được chia sẻ tại 5 Hội thảo chuyên đề trong khuôn khổ của Diễn đàn.
Hội thảo chuyên đề 1: “Quy hoạch và quản lý đô thị thông minh trong chiến lược đô thị hóa và phát triển đô thị”.
Hội thảo chuyên đề 2: “Phát triển hạ tầng số và công nghệ số nền tảng cho đô thị thông minh”.
Hội thảo chuyên đề 3: “Phát triển các dịch vụ thông minh tại các đô thị trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia”.
Hội thảo chuyên đề 4: “Năng lượng thông minh trong quá trình đô thị hóa và phát triển đô thị”.
Hội thảo chuyên đề 5: “Giao thông thông minh trong chiến lược đô thị hóa và phát triển đô thị”.
Với chuyên đề 3, ông Nguyễn Kim Anh, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; ông Nguyễn Đức Hiển, Phó trưởng ban Ban Kinh tế Trung ương; và ông Dương Hải Hưng, Đại diện Ban Thư ký Quốc gia ASEAN đã đồng chủ trì hội thảo này.
Các hội thảo cũng rút ra kết luận, để xây dựng đô thị thông minh cần có quyết tâm chính trị, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành các lĩnh vực và các cơ quan đi kèm với các chính sách và giải pháp đồng bộ. Đồng thời, quy hoạch nền tảng số và sự kết nối là vấn đề cần đặc biệt quan tâm.
Diễn đàn kiến nghị phải đồng bộ phát triển kinh tế số gắn với đô thị thông minh và chính phủ điện tử; hoàn thiện đồng bộ cơ sở dữ liệu và chia sẻ dữ liệu giữa các ngành; có giải pháp bảo đảm an toàn dữ liệu.
Đồng thời kiến nghị Quốc hội và Chính phủ sớm xây dựng luật giao dịch điện tử thay thế cho luật ban hành năm 2015 và sớm sửa đổi Nghị định 101/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển tài chính toàn diện và phát triển các dịch vụ thông minh…
Trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam chọn lọc những kinh nghiệm phù hợp với thực tế phát triển và có bản sắc riêng. Trong đó, quy hoạch, xây dựng đô thị thông minh và nền tảng số là những trụ cột chính của phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam.
Quy hoạch là nền tảng để tiến hành các giải pháp thông minh, xây dựng tầm nhìn quy hoạch theo hướng “thông minh hơn” là sự phát triển, là điểm mới trong tiến trình xây dựng đô thị thông minh.
Diễn đàn là sự kiện gắn sơ kết 1 năm thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển đô thị thông minh tại Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” với các hoạt động trên cương vị Chủ tịch ASEAN 2020 của Việt Nam.
Giải Pháp Nào Để Phát Triển Đô Thị Thông Minh? – Rotechcons
webmaster
Xây dựng) – Phát triển đô thị thông minh và bền vững đang là mục tiêu của rất nhiều TP trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, để phát triển thành công như những TP lớn trên thế giới thì điều quan trọng không phải là sao chép lại các mô hình sẵn có mà cần tìm ra giải pháp để giải quyết những vướng mắc còn tồn tại.
Dự báo đến năm 2050, 70% dân số thế giới sẽ sống ở các đô thị. Tại Việt Nam, hiện có 813 đô thị, tỷ lệ đô thị hóa đang tăng rất nhanh, khoảng 37,5%. Chỉ riêng hai đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đã có dân số đô thị chiếm khoảng 30% dân số đô thị trên toàn quốc. Điều này sẽ tạo nên áp lực vô cùng lớn lên hệ thống công trình cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất và không gian sống, đòi hỏi các kiến trúc sư, các nhà xây dựng phải nắm bắt, đáp ứng được xu hướng thực tế và nhu cầu sống của cộng đồng. Đây chính là tiền đề cho sự ra đời và phát triển các đô thị thông minh, giúp cộng đồng cư dân phát triển bền vững.
Phát triển đô thị thông minh và bền vững đang là mục tiêu của rất nhiều TP trên thế giới. Tại Việt Nam, đã có gần 20 tỉnh, TP trên toàn quốc đang triển khai hoặc khởi động các đề án về đô thị thông minh. Việc lên kế hoạch, nghiên cứu lộ trình các giải pháp phục vụ cho mục tiêu xây dựng, phát triển các đô thị thông minh và bền vững không chỉ là vấn đề quốc gia mà còn cần có sự đóng góp của cả các DN và người dân.
Ông Trần Quốc Thái – Phó Cục Trưởng Cục Phát triển Đô thị chỉ ra rằng: Trong phát triển đô thị, việc quy hoạch các lĩnh vực hoạt động sản xuất và cung cấp dịch vụ cho người dân là một trong các nhiệm vụ định hướng hoạch định cụ thể để xác định không gian chức năng, các mục tiêu phát triển không gian đất, sản xuất công nghiệp, không gian mặt nước được rõ ràng. Tuy nhiên, một trong những thách thức khó khăn nhất chính là quản lý quy hoạch.
Hiện nay, Bộ Xây dựng cũng đang phối hợp với một số nhà đầu tư để nghiên cứu triển khai các khu đô thị thông minh. Vấn đề không chỉ đơn thuần là đưa ra các công nghệ sau đó áp dụng mà các quy định, trách nhiệm các hệ thống quản lý giám sát đi theo thế nào.
Trong thời gian tới, cùng với sự phối hợp với các nhà đầu tư nghiên cứu thị trường và tiềm năng đưa vào các khu đô thị cụ thể, Bộ Xây dựng sẽ tiến hành xây dựng các quy chế trong quản lý và đầu tư khu đô thị thông minh.
Ông Vũ Hồng Phong – Giám đốc dự án, Hội đồng Công trình Xanh Việt Nam cho biết: Để phát triển đô thị thông minh cần xét đến yếu tố quan trọng như hạ tầng giao thông, diện tích cây xanh và giáo dục. Hệ thống giao thông của Singapore tích hợp từ xe bus, tàu điện ngầm chỉ bằng một tấm thẻ. Tuy nhiên, để làm được những điều đó thì chúng ta cũng cần phát triển ra một hệ thống phương tiện thông minh, đồng đều. Điều Việt Nam cần làm là tìm giải pháp xử lý các vấn đề để làm sao giải quyết triệt để các vướng mắc còn tồn tại.
Bảy Giải Pháp Phát Triển Đô Thị Thông Minh Tại Việt Nam
CafeLand – Tại phiên giới thiệu về đô thị thông minh trong khuôn khổ IREC 2018, TS. Nguyễn Tường Văn, Cục trưởng Cục Phát triển Đô thị (Bộ Xây dựng), đã chỉ ra những vấn đề trong câu chuyện phát triển đô thị tại Việt Nam. Ông đã đưa ra 7 giải pháp ứng dụng phát triển đô thị thông minh, thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bền vững.
Nhiều tồn tại trong hệ thống đô thị
Sau hơn 30 năm đổi mới kinh tế, hệ thống đô thị Việt Nam đã và đang phát triển cả về lượng và chất. Cả nước đã có 813 đô thị với tỷ lệ đô thị hóa toàn quốc đạt 37,5% (năm 2017). Đô thị hóa tăng nhanh ở khu vực các đô thị lớn, lan tỏa và phân bố đồng đều hơn trên phạm vi cả nước. Nhiều đô thị cũ được cải tạo, nâng cấp, được phát triển mở rộng về qui mô đất đai, dân số, đầu tư xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Khu vực đô thị tiếp tục khẳng định vai trò tạo động lực phát triển kinh tế.
Theo ông Văn, sự phát triển nhanh của hệ thống đô thị Việt Nam trong những năm qua có sự đóng góp lớn từ tăng trưởng của thị trường bất động sản. Nhiều dự án nhà ở, khu đô thị mới với hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ đã được hình thành, làm thay đổi diện mạo các đô thị. Các dự án bất động sản hiện nay đã được quy hoạch, xây dựng theo mô hình tổ chức không gian đa chức năng gồm nhà ở, thương mại, dịch vụ, giải trí… với kiến trúc hiện đại đã trở thành các trung tâm mới thu hút cộng đồng, góp phần làm phong phú không gian và hệ thống công trình nhà ở và dịch vụ đô thị.
Bên cạnh đó, việc xây dựng các dự án khu nhà ở, khu đô thị đã góp phần nâng cấp, mở rộng hệ thống hạ tầng, phát triển các dịch vụ, tiện ích đô thị cả về số lượng và chất lượng. Sự tăng trưởng của thị trường bất động sản từng bước đáp ứng nhu cầu về nhà ở của các tầng lớp nhân dân, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
TS. Nguyễn Tường Văn.
Tuy nhiên, ông Văn cũng cho rằng, hệ thống đô thị nói chung và thị trường bất động sản nói riêng hiện đang phải đối mặt với nhiều vấn đề. Mô hình tăng trưởng đô thị chưa đa dạng, tăng trưởng thiếu bền vững, năng lực dự trữ và tầm nhìn dài hạn còn hạn chế. Sử dụng tài nguyên đất đai đô thị chưa hiệu quả, phát triển các dự án nhà ở, dự án khu đô thị còn dàn trải, thiếu thông tin về nhu cầu của thị trường. Mạng lưới hạ tầng kỹ thuật khung đô thị chưa đáp ứng yêu cầu, kết nối giữa khu vực phát triển mới và khu vực hiện hữu, dẫn đến những vấn đề như ngập lụt, ách tắc giao thông trong đô thị.
Thị trường bất động sản đã từng bước được hoàn thiện và phát triển mạnh, song vẫn tiềm ẩn nguy cơ, thiếu tính ổn định và bền vững, đã có thời kỳ tăng trưởng quá nóng có lúc tạo “bong bóng”, có lúc “đóng băng”. Hệ thống thông tin về thị trường còn thiếu độ tin cậy và chưa thực sự minh bạch; chưa có nhiều hình thức, giải pháp huy động các nguồn lực xã hội cho thị trường bất động sản.
Những năm qua, thị trường bất động sản chỉ sôi động chủ yếu tại các khu vực đô thị lớn như Hà Nội, chúng tôi Đà Nẵng… Tại các đô thị vừa và nhỏ sức hút về di dân nhập cư không cao, hoạt động kinh doanh bất động sản còn thiếu hấp dẫn với các nhà đầu tư.
Nguyên nhân chủ yếu là do các đô thị vừa và nhỏ tiềm năng phát triển chưa nhiều do thiếu kết nối liên vùng, ít cơ hội việc làm và điều kiện cơ sở hạ tầng trong đô thị còn khó khăn.
Xu hướng đô thị thông minh
Trong xu thế toàn cầu của Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững (SDG) của Liên hợp quốc, phát triển đô thị thông minh đã và đang trở thành mối quan tâm chung của các quốc gia trên thế giới bởi những lợi ích cụ thể trong việc cải thiện hiệu lực, hiệu quả quản trị đô thị cũng như nâng cao chất lượng của các đô thị.
Với mục tiêu phát triển đô thị thông minh Việt Nam một cách thống nhất, ngày 1-8-2018, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 – 2025 tầm nhìn 2030 tại Quyết định số 950/QĐ-TTg.
Theo ông Văn, với thực trạng tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế, thúc đẩy phát triển đô thị thông minh sẽ mở ra nhiều cơ hội hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước và quốc tế bao gồm cả về tài chính và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật từ các quốc gia phát triển, có kinh nghiệm phát triển đô thị thông minh.
Ông Văn đưa ra 7 giải pháp ứng dụng đô thị thông minh, thúc đẩy phát triển thị trường bất động sản bền vững.
Thứ nhất, xây dựng hệ thống cơ chế chính sách đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn của xã hội, thị trường bất động sản;
Thứ hai, bổ sung hệ thống các tiêu chí, tiêu chuẩn về quy hoạch đô thị thông minh, đô thị tăng trưởng xanh; hệ thống theo dõi, đánh giá quá trình hình thành và phát triển; ban hành các hướng dẫn xây dựng quy chế quản lý, vận hành, kiểm soát quá trình phát triển đô thị để cộng đồng có thể tham gia cùng xây dựng và phát triển;
Thứ ba, áp dụng khoa học công nghệ trong công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị để từng bước chuẩn hóa các quy trình thực hiện, rút ngắn thời gian thực hiện các quy trình, thủ tục trong công tác lập và phê duyệt quy hoạch đô thị, dự án đầu tư phát triển đô thị và nhà ở, xây dựng công trình và tối ưu hóa hiệu quả công tác quản lý vận hành;
Thứ 4, nghiên cứu cơ chế thúc đẩy, hỗ trợ các giải pháp mang tính đột phá cả về công nghệ và phi công nghệ như: mô hình tổ chức không gian đô thị; phát triển các loại hình công trình xanh, thông minh, các công trình có chức năng hỗn hợp (mô hình căn hộ khách sạn cho thuê; chung cư kết hợp với văn phòng hoặc với trung tâm thương mại, công trình đầu mối giao thông);
Thứ 5, phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật đáp ứng được các yêu cầu bảo vệ môi trường; đảm bảo kết nối dễ dàng với các khu vực khác bằng nhiều hình thức đa dạng (đường sắt đô thị, xe bus, taxi); hệ thống các công trình hạ tầng xã hội cấp đô thị để nâng cao chất lượng tiện ích từ đó có thể gia tăng cơ hội giao dịch cho thị trường bất động sản;
Thứ 6, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và nhận thức của cộng đồng xã hội bao gồm các mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý vận hành, hướng đến xây dựng cộng đồng dân cư có khả năng hội nhập, có khả năng tiếp cận, sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin đồng thời cũng tạo cơ hội cho thị trường bất động sản phát triển năng động, gia tăng phân khúc sản phẩm đồng nghĩa với việc tạo ra nhiều cơ hội mới cho thị trường;
Thứ 7, nghiên cứu các chính sách thúc đẩy hợp tác giữa doanh nghiệp trong nước và quốc tế tạo cơ hội cho các doanh nghiệp bất động sản trong nước tăng quy mô về cả tài chính và phạm vi hoạt động.
Đề Xuất Các Giải Pháp Phát Triển Kinh Tế, Bảo Đảm An Sinh Xã Hội
Trong phiên họp buổi sáng, các đại biểu đều thể hiện sự đồng tình với báo cáo và đánh giá cao sự nỗ lực của Chính phủ đã chỉ đạo, điều hành với những bước đi đúng đắn, tạo bước phát triển khả quan.
Những tín hiệu tích cực của nền kinh tế cùng với sự ổn định trật tự an toàn xã hội càng củng cố niềm tin vào mục tiêu tăng trưởng của Việt Nam năm 2017 và những năm tiếp theo.
Đại biểu Quốc hội tỉnh Lào Cai Lê Thu Hà phát biểu ý kiến. (Ảnh: Văn Điệp/TTXVN)
Phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 6,7%
Thượng tọa Thích Thanh Quyết (Quảng Ninh) đánh giá nhìn chung tình hình kinh tế-xã hội đã có sự ổn định. Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt, tập trung cải cách hành chính, khuyến khích khởi nghiệp, thị trường tài chính ổn định, đặc biệt an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chủ quyền quốc gia được vững chắc, giáo dục, y tế được chấn chỉnh, nhân dân an cư, lạc nghiệp.
Tuy nhiên, chỉ tiêu quan trọng nhất là tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt thấp hơn kế hoạch đã đề ra và cùng kỳ năm ngoái. Đáng chú ý, tốc độ tăng trưởng tín dụng 5,76% cuối tháng 4/2017 so với đầu năm là cao nhất kể từ tháng 4/2010. Trong khi GDP 4 tháng qua tăng trưởng thấp cho thấy tăng trưởng tín dụng cao đã không thúc đẩy được tăng trưởng kinh tế…
Băn khoăn về mục tiêu tăng trưởng GDP 6,7% cả năm mà Chính phủ đưa ra trong Báo cáo kinh tế-xã hội, đại biểu Nguyễn Thị Phúc (Bình Thuận) đề nghị Chính phủ giải thích rõ, có sức thuyết phục hơn cơ sở của chỉ tiêu này để đảm bảo tính khả thi cao.
Đại biểu Nguyễn Thị Phúc khẳng định ổn định nền kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy nhanh, bảo đảm hiệu quả vốn đầu tư là những giải pháp quan trọng nhằm tháo gỡ kịp thời khó khăn về vốn, sớm đưa dòng vốn vào nền kinh tế, qua đó tạo hiệu ứng lan tỏa, kích thích tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong thực tế, việc phân khai nguồn vốn còn rất chậm, nên nhiều công trình đầu tư từ ngân sách Nhà nước đang khó khăn; đặc biệt là các công trình đầu tư từ ngân sách Trung ương. Để giải bài toán này, đại biểu đề xuất Chính phủ cần đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư theo kế hoạch, nhất là tiếp tục bố trí vốn để triển khai dứt điểm các công trình đang thi công dở dang ở các địa phương.
Đại biểu phân tích GDP là một trong 4 mục tiêu quan trọng nhất của kinh tế vĩ mô (tăng GDP; ổn định giá cả; tăng việc làm, giảm thất nghiệp; tăng xuất khẩu). Nếu năm 2017 không đạt được mục tiêu 6,7%, hai năm liền Việt Nam không đạt được mục tiêu kế hoạch tăng trưởng, trong ba năm còn lại sẽ khó khăn hơn. Nhìn xa hơn, nếu trong 20 năm từ 2016 đến 2035, nền kinh tế Việt Nam không đạt được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7%/năm, để GDP đầu người tăng khoảng 6%/năm, Việt Nam không còn cơ hội để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Do vậy, mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2016-2020 là rất quan trọng đối với lộ trình 20 năm tới.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay, bên cạnh 6 nhóm giải pháp Chính phủ đã đưa ra, theo đại biểu, giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng nhanh đó là tăng tổng cầu của nền kinh tế. Cụ thể, tăng khối lượng tiền tệ so với kế hoạch đề ra tương ứng với việc tăng thêm khoảng 2% tổng dư nợ tín dụng, bao gồm cả tín dụng đầu tư và tiêu dùng, vào những đối tượng và lĩnh vực có tốc độ giải ngân nhanh nhất trong năm 2017.
Tăng tín dụng thêm 2% sẽ không gây lạm phát tiền tệ bởi lạm phát cơ bản cho đến nay vẫn diễn biến thuận lợi. Quý 1/2017, lạm phát cơ bản chỉ tăng 1,66% so với bình quân năm 2016. Ngay cả tình huống năm 2017, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân tăng cao hơn 4% so với năm 2016 nhưng dưới 5% cũng chỉ có tác dụng kích thích tăng trưởng không đáng lo ngại. Kèm theo giải pháp này không điều chỉnh tăng giá điện, các loại dịch vụ công khác như y tế, giáo dục từ nay đến cuối năm. Đồng thời, Chính phủ kích thích tăng tiêu dùng dân cư, đầu tư tư nhân thông qua các biện pháp mở rộng tín dụng tiêu dùng, tháo gỡ các thủ tục hành chính để thúc đẩy các công trình xây dựng đầu tư tư nhân, nhất là các thủ tục đầu tư xây dựng của doanh nghiệp. Đặc biệt, phải có các biện pháp giải ngân nhanh đầu tư trong năm 2017, bao gồm các dự án BOT, BT, các dự án hạ tầng giao thông. Nếu hết quý III/2017 giải ngân được 70% vốn đầu tư trong năm thì tác động lan tỏa rất lớn trong năm 2017-đại biểu kiến nghị.
Bảo đảm an sinh xã hội vùng đồng bào dân tộc
Vấn đề bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa… là nội dung được nhiều đại biểu quan tâm, cho ý kiến.
Đại biểu Đoàn Văn Việt (Lâm Đồng) chỉ rõ theo báo cáo của Chính phủ, an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm, các chính sách về đầu tư phát triển đã phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, tại một số địa phương, tỷ lệ hộ cận nghèo, nguy cơ tái nghèo là rất đáng quan tâm. Trung bình cứ 3 hộ thoát nghèo, có một hộ nghèo mới, tái nghèo. Điều đó cho thấy kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững; trên nhiều địa bàn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Cuộc sống người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số di cư tự do còn nhiều khó khăn.
Đại biểu đề nghị Chính phủ quan tâm, chỉ đạo thực hiện tốt hơn nữa nội dung để phát triển toàn diện kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số; quan tâm, bố trí đủ nguồn lực nhất là vùng đặc biệt khó khăn; đổi mới các định mức đầu tư, phân bổ ngân sách các cơ chế đặc thù về đầu tư phát triển kinh tế-xã hội cho phù hợp với địa bàn vùng dân tộc thiểu số, vùng núi. Ngoài ra, cần tháo gỡ những vướng mắc cụ thể trong việc giải quyết đất định canh định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có hàng ngàn đồng bào dân tộc thiểu số di cư tự do đang có cuộc sống khó khăn, chưa ổn định.
Để đồng bào các dân tộc thuộc diện di cư, di dân tái định cư các công trình thủy điện sớm có cuộc sống ổn định và phát triển, đại biểu cho biết: Thời gian qua, nhiều địa phương đã xây dựng các đề án, kế hoạch ổn định đời sống, sản xuất vùng đồng bào tái định cư các công trình thủy điện. Các bộ, ngành cần sớm xem xét, trình Chính phủ phê duyệt để các địa phương sớm thực hiện, đáp ứng lòng mong mỏi của Đảng bộ, chính quyền và đồng bào các dân tộc các địa phương thực hiện di dân tái định cư các công trình thủy điện.
Quan tâm đến các chính sách phát triển kinh tế-xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đại biểu Tô Văn Tám (Kon Tum) đề nghị Chính phủ đẩy nhanh việc ban hành chính sách mới cho giai đoạn 2016-2021. Việc bố trí đủ nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách vẫn là yêu cầu đòi hỏi bức thiết. Đồng thời, Chính phủ và các bộ, ngành cần hoàn thiện chính sách phân vùng để phát triển sản xuất phù hợp với đặc thù từng vùng; hình thành, phát triển các vùng sản xuất hàng hóa tập trung cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số; xây dựng các chính sách bền vững hơn trong tiêu thụ sản phẩm, bên cạnh các chính sách hỗ trợ hiện tại theo hướng kết nối sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số với thị trường. Chính phủ cũng cần tổng kết một cách toàn diện việc ban hành và thực hiện các chính sách, pháp luật, làm cơ sở để Quốc hội ban hành đạo luật về dân tộc và miền núi.
Khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao
Các đại biểu đánh giá, nền nông nghiệp đang gặp phải những thách thức, khó khăn rất lớn đòi hỏi nhiều giải pháp quyết liệt, đồng bộ để khắc phục.
Đại biểu Ma Thị Thúy (Tuyên Quang) cho rằng thực tế tái cơ cấu ngành nông nghiệp thời gian qua chưa đạt được mục tiêu đề ra. Theo đó, thu nhập của người nông dân còn thấp, đất dành cho sản xuất nông nghiệp còn manh mún. Ngoài ra, nguồn vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp chưa cao, đầu tư từ doanh nghiệp ngoài nhà nước vào lĩnh vực này còn hạn chế, sản xuất chưa gắn kết được các khâu chế biến và tiêu thụ sản phẩm; chất lượng hàng hóa nông sản chưa đáp ứng được yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.
Từ thực trạng này, theo đại biểu Ma Thị Thúy, để phát triển nông nghiệp hiện đại, quy mô lớn, phải đổi mới, hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai, nhất là về vấn đề tích tụ, tập trung ruộng đất. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh việc chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất và quản lý, từ đó tạo ra những sản phẩm có giá trị thương phẩm cao, có thương hiệu, đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm trên thị trường quốc tế. Nhà nước cũng đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư, khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp nông thôn.
“Hơn lúc nào hết phải có chính sách đặc thù, cụ thể để xây dựng mối liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp trong chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ, đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng, người dân, doanh nghiệp và nhà nước,” đại biểu Ma Thị Thúy nhấn mạnh.
Đồng tình với quan điểm này, đại biểu Nguyễn Thị Phúc cho rằng để ngành nông nghiệp phát triển bền vững, Chính phủ cần có giải pháp căn cơ, đồng bộ hơn, trong đó triển khai quyết liệt việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Việc thực hiện cần tập trung vào công tác quy hoạch ngành, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, có chính sách hỗ trợ nông dân và nông nghiệp ứng dụng kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Đặc biệt, cần đẩy mạnh phát triển hợp tác xã kiểu mới để thực hiện liên kết giữa nhà nước-nhà nông-nhà doanh nghiệp-nhà khoa học và ngân hàng, nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh sản phẩm, giảm dần sản xuất manh mún, tự phát của hộ gia đình.
Nêu lên tình trạng giá cả vật tư nông nghiệp kém chất lượng; hiện tượng được mùa mất giá, sản phẩm ế thừa không tiêu thụ được gây thiệt hại nặng nề cho nông dân, đại biểu Trần Thị Hoa Ry (Bạc Liêu) nêu rõ đây là những vấn đề đã được đề cập nhiều lần nhưng chưa được khắc phục khiến cử tri rất bức xúc.
Cử tri cho rằng sự can thiệp, xử lý của Nhà nước trong việc tiết giảm chi phí trung gian và sự chênh lệch giữa giá thu mua và giá bán còn rất chậm. Vì thế, các ngành chức năng cần quản lý chặt chẽ, giảm thiểu tình trạng tự phát trong sản xuất của người dân, có sự gắn kết từ khâu sản xuất đến tiêu thụ.
Ngoài ra, Chính phủ cần tăng cường đầu tư cho nông nghiệp nông thôn, phân bổ hợp lý nguồn lực từ ngân sách tương xứng với đối tượng thụ hưởng trong tổng đầu tư vốn hiện nay; tạo điều kiện thuận lợi để nông dân có điều kiện ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ trong sản xuất.
Cho ý kiến về nội dung này, đại biểu Nguyễn Tuấn Anh (Bình Phước) nhấn mạnh nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế, nhưng thực tế thời gian qua, trụ đỡ này đang yếu dần do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, chi phí sản xuất lớn, nguồn nước bị xâm nhập mặn…
Đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Long Nguyễn Thị Quyên Thanh phát biểu ý kiến. (Ảnh: Văn Điệp/TTXVN)
Để khắc phục tình trạng này, theo đại biểu Nguyễn Tuấn Anh, nông nghiệp công nghệ cao là yêu cầu tất yếu. Hướng đi này cần có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và phải có vốn. Chính phủ đã dành gói tín dụng 100.000 tỷ đồng để ưu đãi vốn vay cho doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao và nông nghiệp sạch là chủ trương đúng đắn. Tuy nhiên, để tiếp cận được nguồn vốn này là rất khó khăn vì các doanh nghiệp bị ràng buộc rất nhiều điều kiện. Do vậy, đại biểu Nguyễn Tuấn Anh cho rằng cần sớm có quy định xác lập sở hữu tài sản đầu tư trên đất đối với các trang trại nông nghiệp công nghệ cao để làm căn cứ thế chấp vốn vay.
Bên cạnh đó, tăng thời gian hỗ trợ vốn vay đối với doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao; khuyến khích và tăng cường đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao; đồng thời tạo kênh thông tin để doanh nghiệp cập nhật về tình hình thị trường; thường xuyên đánh giá, dự báo đúng nhu cầu trong nước và thế giới để hạn chế việc đầu tư tràn lan, cung vượt cầu dẫn đến tình trạng được mùa-mất giá, được giá-mất mùa trong thời gian qua.
Đại biểu Tống Thanh Bình quan tâm việc thực hiện chính sách theo Nghị định 116 ngày 18/7/2016 của Thủ tướng Chính phủ, quy định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở những xã, thôn đặc biệt khó khăn.
Đại biểu cho biết hiện đã có nhiều thôn, bản, xã thuộc huyện nghèo theo Nghị quyết 30a hoàn thành Chương trình 135, chuyển từ khu vực 3 sang khu vực 2. Do vậy, đối tượng học sinh là con hộ nghèo có hộ khẩu tại khu vực này sẽ không được tiếp tục hưởng chế độ, chính sách theo Nghị định 116. Tuy nhiên, Nghị quyết 30a có quy định tất cả các xã thuộc các huyện nghèo đều được hưởng các cơ chế, chính sách quy định như đối với xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135 giai đoạn 2. Thực tế hiện nay các trường vẫn tổ chức nuôi dưỡng học sinh vì đại đa số học sinh này là người dân tộc thiểu số, kinh tế khó khăn, không có điều kiện đi về trong ngày. Những học sinh này nếu không tiếp tục được hỗ trợ thì nguy cơ bỏ học rất cao. Do đó, đại biểu đề nghị Chính phủ chỉ đạo, cho phép các địa phương tiếp tục áp dụng và thực hiện chế độ quy định tại Nghị định 116.
Trăn trở đối với tình trạng bạo lực học đường xảy ra trên khắp cả nước, ở tất cả các cấp học với mức độ ngày càng gia tăng, hậu quả nghiêm trọng, đại biểu Trần Thị Phương Hoa đề nghị Chính phủ cần có biện pháp để hạn chế tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống gây bức xúc xã hội, nhất là tình trạng bạo lực học đường, xâm hại trẻ em trong thời gian qua. Đại biểu dẫn chứng: Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong toàn quốc xảy ra 1.600 vụ học sinh đánh nhau trong và ngoài trường học, bình quân khoảng 5 vụ/ngày. Cứ khoảng trên 5.200 học sinh có một vụ đánh nhau, cứ trên 11.000 học sinh thì có một em bị buộc thôi học vì đánh nhau…
Trong phiên họp vừa qua, Chính phủ cũng thể hiện quan tâm đối với nội dung này, trong đó đối với mầm non 5 tuổi, không phân biệt người dân tộc, tất cả học sinh ở vùng đặc biệt khó khăn đều được miễn học phí bắt đầu từ năm 2018. Đối với các học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tiếp tục tham mưu Chính phủ có biện pháp hỗ trợ.
Về giải pháp để giảm thiểu bạo lực học đường, Bộ trưởng khẳng định Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định về môi trường an toàn cho học sinh ở các trường phổ thông.
Cần làm rõ trách nhiệm trong việc đảm bảo an toàn thực phẩm
Nên thành lập đơn vị thuộc Chính phủ chuyên trách quản lý về an toàn thực phẩm hay giữ nguyên mô hình 3 Bộ: Y …
Bạn đang đọc nội dung bài viết Phát Triển Đô Thị Thông Minh Để Giải Quyết Các Thách Thức Kinh Tế Xã Hội trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!