Đề Xuất 4/2023 # Phát Triển Bền Vững Về Kinh Tế Các Khu Công Nghiệp Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Bắc Bộ: Thực Trang Và Các Khuyến Nghị Chính Sách # Top 8 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 4/2023 # Phát Triển Bền Vững Về Kinh Tế Các Khu Công Nghiệp Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Bắc Bộ: Thực Trang Và Các Khuyến Nghị Chính Sách # Top 8 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Phát Triển Bền Vững Về Kinh Tế Các Khu Công Nghiệp Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Bắc Bộ: Thực Trang Và Các Khuyến Nghị Chính Sách mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Các KCN đóng vai trò quan trọng trong việc đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, sản xuất kinh doanh, là địa chỉ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước từ đó thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được kể trên, việc phát triển các KCN thời gian qua còn tiềm ẩn không ít các yếu tố thiếu bền vững về kinh tế. I. Các nhân tố thiếu bền vững trong phát triển các KCN vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 1. Vị trí các KCN: 2. Tỷ lệ lấp đầy KCN Hiệu quả kinh doanh của các nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phụ thuộc rất lớn vào tỷ lệ lấp đầy KCN. Đến tháng 9/2008, tỷ lệ lấp đầy các KCN vùng KTTĐBB là khá thấp so với 2 vùng KTTĐ còn lại. Cụ thể, tỷ lệ lấp đầy các KCN vùng KTTĐBB hiện chỉ đạt 40,9%, trong khi tỷ lệ này của vùng KTTĐPN là 53,3% và vùng KTTĐMT đạt cao nhất, lên đến 67,8%. Nguyên nhân là do các KCN vùng KTTĐBB đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản khá cao. Số KCN được thành lập trong 3 năm, từ 2006 đến 2008 lên đến 30/51 KCN. 3. Quy mô diện tích các khu công nghiệp Tỷ lệ các KCN có diện tích dưới 200 ha chiếm gần 50%, tức 25/51 KCN của Vùng. Đáng chú ý là có đến 8 KCN có qui mô dưới 100 ha (4 KCN của Hà Nội, 3 KCN Hải Dương và 1 KCN Quảng Ninh). Các KCN có diện tích trên 300 ha chỉ có 15/51 khu, chiếm 29,4%, tập trung chủ yếu ở Bắc Ninh với 6 khu. Có thể thấy qui mô các KCN vùng KTTĐBB nhìn chung nhỏ hơn so với 2 vùng KTTĐ còn lại, cụ thể: số KCN có diện tích trên 300 ha của vùng Kinh tế trọng điểm Miền Nam (KTTĐPN) là 34/89 khu, chiếm 38,2% và vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung (KTTĐMT) là 4/12 khu, chiếm 33,3%. Nếu xét với qui mô hiệu quả của KCN là 200 – 300 ha đối với VKTTĐ và 300 – 400 ha với các tỉnh thì diện tích của các KCN trên địa bàn lại càng nhỏ. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả trong tổ chức bộ máy quản lý, đầu tư hạ tầng, nhất là hệ thống xử lý chất thải và khả năng liên kết của các doanh nghiệp. 4. Liên kết phát triển trong nội bộ KCN và với bên ngoài KCN ở nước ta, hoạt động liên kết kinh tế được thể hiện khá rõ ở một số KCN do các doanh nghiệp phát triển CSHT nước ngoài khai thác. Sự liên kết càng cao khi KCN có sự tham gia của các doanh nghiệp lớn có vốn ĐTNN và các doanh nghiệp đến cùng quốc gia. Tiêu biểu cho sự liên kết này ở phía Nam phải kể đến các doanh nghiệp Đài Loan ở KCN Hố Nai (Đồng Nai); còn ở vùng KTTĐBB là Canon và các doanh nghiệp vệ tinh Nhật Bản trong KCN Thăng Long; Công ty mô tô Yamaha và các doanh nghiệp vệ tinh tại KCN Nội Bài (Hà Nội) và gần đây nhất là sự xuất hiện của tập đoàn điện tử Foxconn của Đài Loan tại các KCN Bắc Ninh và Bắc Giang chắc chắn sẽ tạo ra một sức hút mạnh mẽ các doanh nghiệp nước này đến đầu tư làm doanh nghiệp hỗ trợ cho Foxconn. Các liên kết này giúp các doanh nghiệp trong KCN nâng cao hiệu quả sản xuất thông qua khả năng tiết giảm chi phí vận chuyển, kết hợp được sức mạnh hợp tác của các doanh nghiệp vì sự phát triển của mỗi công ty trong chuỗi này đều có liên hệ chặt chẽ với các công ty còn lại; các công ty vệ tinh cung cấp thiết bị tốt, sẽ góp phần nâng cao chất lượng của sản phẩm công ty mẹ, và ngược lại. 5. Trình độ công nghệ của doanh nghiệp Đóng góp nhiều nhất trong việc thay đổi công nghệ ở các KCN phải kể đến vai trò của các nhà ĐTNN. Tính đến nay, đã có trên 40 nước và khu vực lãnh thổ đầu tư vào các KCN, nhưng các nhà đầu tư đến từ các nước có trình độ công nghệ tiên tiến như: Hoa Kỳ, EU còn ít. Do vậy, tỷ lệ các dự án có hàm lượng công nghệ cao còn hạn chế. Hiện tượng này làm cho các KCN vùng KTTĐBB thời gian qua chỉ mới thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, chứ chưa thúc đẩy công cuộc hiện đại hoá nền kinh tế. Các dự án đầu tư FDI vào các KCN chủ yếu có qui mô vốn nhỏ, bình quân vốn đăng ký FDI vào một dự án hoạt động trong các KCN năm 2000 là 2,87 triệu USD; năm 2003: 3,62 triệu; năm 2005 là 5,97 triệu và năm 2008 là 15 triệu USD. Mặc dù vậy, qui mô dự án FDI bình quân của vùng KTTĐBB hiện lớn nhất cả nước, gấp 1,5 lần của vùng KTTĐPN; 2 lần của vùng KTTĐMT và gần 1,5 lần của cả nước. Trong đó, mức vốn bình quân một dự án FDI ở KCN Hà Nội là 15,8 triệu USD; của Vĩnh Phúc là 22,8 triệu USD. Điều này phần nào phản ánh trình độ công nghệ của các dự án vùng KTTĐBB đã nhỉnh hơn các vùng còn lại. Một số doanh nghiệp đầu tư công nghệ tiên tiến như các doanh nghiệp Nhật bản: Honda, Yamaha,… một số doanh nghiệp Đài Loan, Hàn Quốc cũng đầu tư công nghệ mới cho sản xuất, nhưng các công nghệ này chỉ có thể đánh giá là công nghệ tiên tiến và trung bình chứ chưa phải là công nghệ cao vì với nhiều doanh nghiệp chỉ là sự dịch chuyển công nghệ từ các nước khác, phục vụ cho 1 số qui trình đơn giản: lắp ráp, sơn tĩnh điện… Một số doanh nghiệp cũng đầu tư sử dụng công nghệ cao như Canon, To Ho, Brother… nhưng số lượng còn rất khiêm tốn. Việt Nam đã chủ trương xây dựng 2 khu công nghệ cao ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh với nhiều ưu đãi nổi trội, nhưng do nhiều yếu tố cả chủ quan và khách quan nên kết quả thu hút các ngành thuộc lĩnh vực này còn rất hạn chế. Khu công nghệ cao Hòa Lạc với tổng diện tích lên đến 549,5 ha nhưng đến thời điểm này mới hoàn thành cơ sở hạ tầng và cho 10 doanh nghiệp thuê đất với diện tích 48,3 ha, nhưng đa số vẫn chưa thể đi vào hoạt động do hạ tầng còn dở dang, một số doanh nghiệp trong số này sử dụng công nghệ cũng chưa phải là công nghệ cao. – Với các doanh nghiệp trong nước, các KCN vùng KTTĐBB đã có 619 doanh nghiệp đầu tư vào các KCN với số vốn đăng ký 47.326 tỷ đồng, trong đó 412 dự án đi vào sản xuất kinh doanh, với tổng số vốn thực hiện đạt 13.819 tỷ đồng, bằng 29,2% tổng số vốn đầu tư trong nước đăng ký đầu tư vào KCN. Nếu xét về qui mô vốn đầu tư có thể thấy các doanh nghiệp trong nước có qui mô vốn không kém nhiều doanh nghiệp FDI. Tuy nhiên, do kiến thức về công nghệ của đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật nhìn chung còn hạn chế nên công nghệ sản xuất đa phần cũng chỉ ở mức trung bình thấp. Một số doanh nghiệp đầu tư công nghệ mới nhập khẩu từ Mỹ, EU,… nhưng số lượng còn khá khiêm tốn, chủ yếu là công nghệ chắp vá và công nghệ của Trung Quốc. II. Các khuyến nghị chính sách nhằm phát triển bền vững các KCN vùng KTTĐBB 1. Nâng cao chất lượng qui hoạch KCN của Vùng Thứ nhất, việc xây dựng qui hoạch phải đi trước một bước so với yêu cầu thực tiễn. Để thực hiện điều này, công tác xây dựng qui hoạch một mặt cần được hoạch định cho những thời kỳ đủ dài để có những dự tính mang tính chất chiến lược. Phát triển các KCN của Vùng cần theo hướng chuyển bớt các KCN mới lên phía các trục Quốc lộ 21 và 18 để giảm bớt sự tập trung quá mức vào vùng Đồng bằng sông Hồng. Bên cạnh đó, có chính sách theo dõi, đánh giá chặt chẽ việc thực hiện các quan điểm qui hoạch phát triển KCN như: kiểm soát tỷ lệ sử dụng đất công nghiệp trong các KCN, xử lý nghiêm minh các KCN cố tình làm trái các qui định qui hoạch KCN của nhà nước, đặc biệt là qui định về tỷ lệ lấp đầy KCN hiện có khi mở rộng và bổ sung qui hoạch KCN mới của các địa phương theo Nghị định số 29/2008/NĐ-CP của Chính phủ. Từ đó có căn cứ và lộ trình điều chỉnh qui hoạch KCN cho phù hợp với yêu cầu phát triển của từng thời kỳ. Thứ hai, qui hoạch cần dự tính vị trí đặt KCN đảm bảo tính bền vững. Việc bố trí các KCN gần các đô thị lớn và các khu dân cư tập trung thời gian qua đã thể hiện nhiều điểm bất cập (ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông,…). Do vậy, trong công tác qui hoạch phát triển KCN cần xác định rõ những vị trí có thể xây dựng các KCN cũng như những ngành nghề cụ thể được phép đầu tư vào những vị trí này. Cụ thể là vị trí đặt KCN không được ảnh hưởng tới hành lang phát triển các đô thị trong tương lai. Các KCN không nên bố trí quá gần các tuyến giao thông huyết mạch và phải đảm bảo không ảnh hưởng tiêu cực tới sự tồn tại bền vững của các nguồn tài nguyên thiên nhiên (nguồn nước, nguồn tài nguyên rừng, cảnh quan thiên nhiên, v.v..). Thứ ba, cần qui định về qui mô tối thiểu cho từng loại KCN. Việc phát triển các KCN có qui mô quá lớn hoặc nhỏ sẽ khó đảm bảo tính chất bền vững của chính KCN. Với KCN có diện tích quá lớn sẽ khó lấp đầy, gây lãng phí nguồn tài nguyên đất; còn KCN quá nhỏ thì việc đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống quản lý môi trường và các dịch vụ đi kèm sẽ gặp nhiều khó khăn và không đảm bảo hiệu quả hoạt động. Qua nghiên cứu kinh nghiệm phát triển của các quốc gia khác, kết hợp với phân tích thực tế các KCN của Vùng, tác giả cho cho rằng nên qui định qui mô tối thiểu để đưa vào qui hoạch KCN là 200 ha; đối với các địa phương không có thế mạnh trong thu hút vốn đầu tư, qui mô KCN tối đa là 500 ha. 2. Thúc đẩy liên kết, phối hợp phát triển các KCN vùng KTTĐBB Tăng cường sự phối hợp giữa các Bộ, ngành trung ương và các tỉnh, thành phố trong VKTTĐ trên cơ sở triển khai thực hiện Quy chế phối hợp ban hành theo quyết định 159/2007/QĐ-TTG. Theo dõi và chỉ đạo kịp thời những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Quyết định này của Thủ tướng Chính phủ. Các nội dung chủ yếu cần tập trung đẩy mạnh sự phối hợp và liên kết vùng cho phát triển bền vững các KCN là : (i) Trao đổi, cung cấp thông tin giữa các địa phương trong vùng; (ii) Xây dựng và đưa nội dung hợp tác vào kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm của mỗi ngành, mỗi địa phương; (iii) Hình thành và mở rộng các tổ chức hoạt động kinh tế mang tính liên kết vùng nhằm tăng quy mô, tăng khả năng cạnh tranh và chủ động tham gia hội nhập khu vực và quốc tế hình thành các trung tâm xúc tiến đầu tư quy mô vùng và tăng cường hoạt động liên kết trong lĩnh vực này. 3. Tăng cường liên kết doanh nghiệp và phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ 4. Cải thiện môi trường đầu tư trong các KCN Trước hết cần hoàn thiện môi trường pháp lý và đơn giản hoá các thủ tục hành chính, thông qua việc nhanh chóng xây dựng và thông qua luật về KCN, hoàn thiện cơ chế “một cửa tại chỗ” và coi đây là công cụ quan trọng tạo lập môi trường hành chính thuận lợi trong KCN, đồng thời ổn định các chính sách và cơ chế để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư vào KCN có những tính toán chiến lược dài hạn và bền vững. Tạo điều kiện giảm thiểu chi phí kinh doanh cho các nhà đầu tư vào KCN thông qua các chính sách trực tiếp và gián tiếp như: giảm chi phí sử dụng các dịch vụ công cộng, chi phí duy tu bảo dưỡng cơ sở hạ tầng, thu chi phí theo mức độ hoạt động thực tế (tỷ lệ lấp đầy KCN, doanh thu, kim ngạch xuất khẩu,… ). Hoạt động xúc tiến đầu tư cần có sự tập trung với sự tham gia và hỗ trợ của các cơ quan nhà nước trung ương, cơ quan điều phối VKTTĐ, đặc biệt là Ban liên lạc các KCN vùng KTTĐBB thông qua việc thiết lập các kênh thông tin tập trung như: website, các chiến dịch xúc tiến đầu tư, các đoàn vận động đầu tư và liên kết chặt chẽ với các tổ chức, nhà đầu tư quốc tế. Hoạt động này cần có sự chỉ đạo tập trung bởi một cơ quan chuyên trách, được sử dụng ngân sách nhà nước để tiến hành hoạt động. Ngoài ra, việc tăng cường tham gia vào hiệp hội các KCN và khu chế xuất khu vực và thế giới cũng sẽ góp thêm cơ hội quảng bá cho các KCN của Vùng và cả nước. Trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay, các nước trong khu vực đang triển khai mạnh mẽ các biện pháp thúc đẩy thu hút các nguồn vốn đầu tư như: Tạm hoãn áp dụng việc tăng mức lương tối thiểu, áp dụng thuế suất ưu đãi theo lĩnh vực, khu vực dưới dạng luật có giới hạn về thời gian. Trường hợp của Thái Lan, nước này cũng chia các khu vực hưởng ưu đãi đầu tư ra làm 3 khu vực và áp dụng thuế suất ưu đãi và thời gian miễm giảm thuế như Việt Nam. Tuy nhiên, cuối năm 2008 Chính phủ Thái đã quyết định áp dụng mức thuế suất ưu đãi và thời gian miễn giảm thuế ngang bằng với khu vực có mức ưu đãi cao nhất cho tất cả các khu vực, trừ khu vực 1 là Bangkok đến năm 2014. Do vậy, theo tác giả, bên cạnh việc thực hiện các gói kích cầu đầu tư bằng hỗ trợ lãi suất, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, gia hạn nộp thuế VAT,… đang áp dụng, chúng ta cũng có thể thúc đẩy thu hút đầu tư bằng cách ưu đãi có thời hạn cho các doanh nghiệp khi đầu tư vào các KCN vùng KTTĐBB như các ưu đãi vào KCN các vùng khó khăn khác trong nước.  

Ths. Vũ Thành Hưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân  

Phát Triển Kinh Tế Trang Trại: Cần Đồng Bộ Các Giải Pháp

Ông Nguyễn Duy Lượng (người ngoài cùng bên trái) thăm mô hình trồng rau, củ, quả công nghệ cao trên đất cát hoang hóa ở xã Thạch Văn (Thạch Hà – Hà Tĩnh) . Ảnh: Trí Thức

Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, kinh tế trang trại chính là cơ sở khơi dậy tiềm năng trong dân cư để chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, sản xuất hàng hóa, thúc đẩy áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho nông dân, góp phần tạo ra các vùng sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp hàng hóa tập trung, làm tăng khối lượng và giá trị hàng hóa, góp phần xây dựng nông thôn mới.

Chìa khóa mở ra nhiều cơ hội làm giàu cho nông dân

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, cả nước hiện nay có hơn 29.853 trang trại, trong đó có 7.641 trang trại trồng trọt; 14.551 trang trại chăn nuôi; 4.241 trang trại thủy sản; 3.276 trang trại tổng hợp và 144 trang trại lâm nghiệp. Các mô hình trang trại được phân bố đều khắp trong các vùng cả nước.

Hiện nay, hình thức kinh tế trang trại đang tăng nhanh về số lượng với nhiều thành phần kinh tế tham gia, song quy mô đất đai còn hạn hẹp, vốn đầu tư chủ yếu là vốn tự có và vốn vay của cộng đồng, nguồn vốn vay tín dụng ngân hàng còn chiếm tỉ trọng thấp. Vốn bình quân của một trang trại khoảng 1,3 tỷ đồng và giá trị nông sản hàng hóa bình quân một trang trại đạt khoảng 1,5 tỷ đồng/năm.

Lao động của các trang trại chủ yếu là lao động gia đình, bao gồm cả chủ hộ trực tiếp tham gia sản xuất (chiếm trên 70%). Tổng diện tích đất trang trại khoảng 133.826 ha, so với diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng trong cả nước chiếm 0,6%. Bình quân một trang trại có 4,54 ha đất; trong đó trang trại trồng trọt là 89.432 ha, bình quân 10,2 ha/TT; chăn nuôi 16.777 ha, bình quân 1,5 ha/TT; trang trại tổng hợp 12.636 ha, bình quân 3,1 ha/TT; lâm nghiệp 6.739 ha, bình quân 15,7 ha/TT; thủy sản 6.442 ha, bình quân 1,2 ha/TT.

Thực tiễn những năm qua, kinh tế trang trại giống như chiếc chìa khóa mở ra nhiều cơ hội làm giàu cho nông dân, đã có nhiều mô hình trang trại phát huy được lợi thế vùng, địa phương hiệu quả cho thu nhập cao, doanh thu từ 1-3 tỷ đồng/năm, một số mô hình cho doanh thu từ 5-10 tỷ đồng/năm, một số trang trại trong bối cảnh hội nhập đã có sự gắn bó mật thiết với thị trường thông qua các hợp đồng sản xuất, tiêu thụ bền vững (sản xuất theo đơn đặt hàng; sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng; sản xuất theo số lượng nhất định, sản phẩm bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm).

Những mô hình trang trại này đã cho doanh thu hàng chục tỷ đồng mỗi năm. Từ thực tiễn, khẳng định, kinh tế trang trại là một trong những loại hình mũi nhọn trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.

Những giải pháp cụ thể

Về đất đai, Chính phủ đã có Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2000 về kinh tế trang trại, đây là hành lang pháp lý rất quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân phát triển kinh tế trang trại. Tuy nhiên, nhiều chính sách trong Nghị quyết dành cho kinh tế trang trại không còn phù hợp nữa như: đất sử dụng cho kinh tế trang trại được hưởng chính sách ưu tiên, nhưng không có quy định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, điều này không những làm hạn chế sự năng động trong hoạt động sản xuất mà còn khó khăn cho chủ trang trại. Có rất nhiều quy định nằm trong nhiều văn bản khác nhau, chưa kể đến việc tùy theo điều kiện của mình mà mỗi địa phương còn ban hành chính sách riêng để hỗ trợ khuyến khích trang trại phát triển. Vì vậy, cần có sự điều chỉnh việc sử dụng đất đai trong các trang trại theo hướng tăng quy mô bằng cách khuyến khích tích tụ tập trung ruộng đất và liên kết trong sản xuất…

Về chính sách tín dụng hỗ trợ cho kinh tế trang trại, Nhà nước đã ban hành nhiều nhưng nằm rải rác ở các văn bản khác nhau, chưa có một văn bản mang tính hệ thống tích hợp tất cả các chính sách đó, nhiều quy định còn chưa rõ. Đó là những bất cập cần được nghiên cứu để hỗ trợ kinh tế trang trại phát triển. Hiện nay, Chính phủ đã có Nghị định 55/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015, theo Nghị định thì chủ trang trại hoạt động trên địa bàn nông thôn hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp được tổ chức tín dụng cho vay vốn. Đối tượng cho vay để sản xuất nông nghiệp được mở rộng, hình thức cho vay phong phú và thời hạn cho vay cũng có nhiều thay đổi; tuy nhiên, để biết được những quy định này thì chỉ có lĩnh vực chuyên ngành, đối tượng trang trại rất khó tiếp cận…

Xây dựng các mô hình kinh tế trong nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Tùy theo điều kiện tự nhiên, kỹ thuật, địa hình canh tác khác nhau đã có các mô hình khác nhau. Xây dựng các mô hình điểm về sản xuất, chế biến nông sản thực phẩm an toàn là một giải pháp có tính đột phá và bền vững để quản lý tốt chất lượng, an toàn thực phẩm, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng; đồng thời là cơ sở để liên kết các hộ sản xuất nhỏ lẻ thành tổ hợp tác sản xuất kinh doanh; sản phẩm đưa ra thị trường được kiểm soát, được các cơ quan có thẩm quyền xác nhận.

Thực tiễn có thể áp dụng mô hình khác nhau như: đối với mô hình trồng trọt thực hiện theo tiêu chuẩn VietGAP, sản phẩm hữu cơ (5 không: không bón phân hóa học, không hóa chất bảo quản, không chất kích thích tăng trưởng, không sử dụng thuốc diệt cỏ, không biến đổi gen).

Đối với mô hình chăn nuôi gia súc tiêu chuẩn thực hiện (4 không – 2 sạch: không chất tạo nạc, không thuốc tăng trọng, không lạm dụng kháng sinh, không sử dụng chất cấm; và sạch vật nuôi, sạch chuồng trại).

Đối với mô hình chăn nuôi gia cầm theo hướng an toàn sinh học cần thực hiện (3 không – 2 sạch: không thuốc tăng trọng, không lạm dụng kháng sinh, không sử dụng chất cấm khác; và sạch vật nuôi, sạch chuồng trại)…

Tập trung nguồn lực khoa học – công nghệ cho việc phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa: Yếu tố khoa học công nghệ là chìa khóa, là động lực yêu cầu tất yếu để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch là hướng đi bền vững và cũng là hướng đầu tư rất tốt cho phát triển kinh tế; Vì vậy, cần tập trung nguồn lực và tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ trong nông nghiệp, nông thôn. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất thông qua công tác khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư; tăng cường công nghệ chế biến hiện đại, chế biến sâu, tận dụng chế biến các phế phụ phẩm trong sản xuất để tăng giá trị gia tăng cho nông sản. Chú trọng tạo ra những sản phẩm nông nghiệp sạch, nông sản hữu cơ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đạt tiêu chuẩn VietGAP để tăng sức cạnh tranh, chủ động hội nhập.

Tăng cường xúc tiến thương mại, phát triển thị trường nông sản: Ngành nông nghiệp đang chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp; Vì vậy, cần thiết phải đưa vào nội dung về phát triển thị trường, bởi thị trường sẽ khơi thông được đầu sản xuất; đồng thời ngành nông nghiệp phải hỗ trợ, định hướng, đào tạo để nông dân chủ động nắm bắt cơ hội và thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường, trước mắt là xây dựng và triển khai kế hoạch đăng ký mã vùng trồng, làm nhãn hiệu, tem truy xuất nguồn gốc nông sản.

Đối với thị trường Trung Quốc, đây là thị trường xuất khẩu chính của nông sản Việt Nam, nhưng nay Trung Quốc siết chặt quy định nhập khẩu với trái cây Việt Nam qua cả kênh chính thức và các kênh khác như chủ hàng… đồng thời yêu cầu sản phẩm phải được cấp mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói; trước mắt có vẻ khó khăn với doanh nghiệp, nhưng về lâu dài sẽ đem lại những thay đổi tích cực cho ngành sản xuất rau quả; Đòi hỏi từ doanh nghiệp, hợp tác xã đến người nông dân sẽ phải thay đổi quan điểm và phương thức sản xuất nâng cao chất lượng, quan tâm hơn tới việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, quy trình canh tác, mẫu mã sản phẩm…

Xây dựng thương hiệu nông sản chủ lực: Hiện nay, nông nghiệp Việt Nam có 10 sản phẩm nông lâm thủy sản xuất khẩu chính, có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD. Tuy nhiên, 90% nông sản vẫn xuất khẩu dưới dạng thô, kim ngạch còn thấp do giá xuất khẩu thấp hơn các sản phẩm cùng loại của nhiều nước. Chúng ta vẫn còn khoảng 80% lượng nông sản chưa xây dựng được thương hiệu. Đây là một bất lợi lớn, khiến sức cạnh tranh của các loại nông sản Việt Nam trên thị trường còn yếu và chịu nhiều thua thiệt. Các trang trại, doanh nghiệp cần sớm triển khai xây dựng thương hiệu cho các mặt hàng nông sản của mình khi đáp ứng được các yếu tố chính như: được sản xuất trên quy mô lớn với mức độ cơ giới hóa cao, có khối lượng và giá trị tiêu thụ lớn, chất lượng đồng đều, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, giá bán cạnh tranh, có khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn trong và ngoài nước.

Việt Nam là một nước nông nghiệp mạnh trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, để phát triển kinh tế trang trại, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, Chính phủ cần hỗ trợ mạnh hơn nữa về chính sách đất đai, tín dụng, khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư cơ sở hạ tầng nông nghiệp, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu các sản phẩm chủ lực; tăng cường sự liên kết giữa các thành phần kinh tế, lĩnh vực kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm, phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

TS. Nguyễn Duy Lượng (Phó chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam)

Phát Triển Nhanh Và Bền Vững Là Quan Điểm Xuyên Suốt Trong Chiến Lược Phát Triển Kinh Tế

Thời sự – Chính trị

Phát triển nhanh và bền vững là quan điểm xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ta

15:8′ 16/7/2010

I- Quan niệm phát triển bền vững xuất hiện từ những năm đầu thập kỷ 80 thế kỷ 20, được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 với hàm ý tổng quát là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau (1). Ðây là quá trình phải bảo đảm có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.

Ở nước ta, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã được nhận thức rất sớm và thể hiện trong nhiều chủ trương, nghị quyết của Ðảng. Ngay từ Ðại hội III năm 1960 và Ðại hội IV năm 1976, Ðảng ta đã đặt mục tiêu “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Ðại hội VII thông qua Chiến lược Phát triển kinh tế – xã hội 1991 – 2000, nhấn mạnh “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”. Ðại hội VIII nêu bài học “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. Chiến lược Phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010 thông qua tại Ðại hội IX khẳng định “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Ðại hội X nêu bài học về phát triển nhanh và bền vững, trong đó ngoài các nội dung phát triển kinh tế, xã hội, môi trường còn bổ sung yêu cầu phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ và xác định mục tiêu tổng quát của Kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 là “Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát triển con người”. 

Như vậy, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã sớm được Ðảng và Nhà nước ta đặt ra với nội dung ngày càng hoàn thiện và đã trở thành một chủ trương nhất quán trong lãnh đạo, quản lý, điều hành tiến trình phát triển của đất nước trong nhiều thập kỷ qua. Nhà nước ta cũng đã có những cam kết mạnh mẽ về phát triển bền vững (2).

II- Trong mười năm qua, thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7,3%/năm (3), thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt khoảng 1.200 USD, vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế được giữ vững, thâm hụt ngân sách và nợ quốc gia được kiểm soát trong giới hạn an toàn. Ðời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện tốt hơn. Thu nhập thực tế bình quân đầu người 10 năm qua tăng khoảng 2,3 lần. Công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt nhiều thành tựu nổi bật, được quốc tế đánh giá cao. Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống còn 2 lần năm 2008. Trẻ em được quan tâm bảo vệ, chăm sóc; tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 33,8% xuống còn dưới 18%. Tuổi thọ bình quân tăng từ 67 lên 72 tuổi. Cả nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Chỉ số phát triển con người (HDI) không ngừng tăng lên, năm 2008 là 0,733, thuộc nhóm nước trung bình cao trên thế giới. Mức hưởng thụ văn hóa, điều kiện tiếp cận thông tin của người dân được nâng lên rõ rệt. Hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng. Cùng với những kết quả to lớn trong việc xã hội hóa phát triển các lĩnh vực xã hội, ngân sách Nhà nước chi cho các lĩnh vực này không ngừng tăng lên; bảo hiểm y tế được mở rộng từ 13,4% dân số năm 2000 lên khoảng 62% năm 2010. Bình đẳng giới có nhiều tiến bộ, tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội và giữ các trọng trách trong hệ thống chính trị ngày càng cao. Năm 2008, nước ta đã hoàn thành hầu hết các Mục tiêu Thiên niên kỷ đặt ra cho năm 2015.

Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm và có mặt được cải thiện. Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng, xã hội cởi mở và đồng thuận hơn. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Chính trị – xã hội ổn định. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi; thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo ra những tiền đề quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Bên cạnh những kết quả nêu trên, trong sự phát triển cũng còn nhiều yếu kém, bất cập. Những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn hạn chế; lãng phí, thất thoát còn nhiều; hiệu quả đầu tư thấp. Tiêu hao nguyên liệu, năng lượng còn rất lớn. Việc khai thác và sử dụng tài nguyên chưa thật hợp lý và tiết kiệm. Các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc, bội chi ngân sách, thâm hụt cán cân thương mại còn lớn, lạm phát còn cao. Môi trường sinh thái nhiều nơi bị ô nhiễm nặng.

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều bất cập, một số mặt vẫn còn bức xúc; tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; ùn tắc và tai nạn giao thông còn nghiêm trọng; tham nhũng chưa bị đẩy lùi; chất lượng giáo dục và đào tạo, nhất là đào tạo đại học và dạy nghề còn yếu kém và chậm được cải thiện; các bệnh viện bị quá tải, chất lượng dịch vụ y tế còn thấp.

3- Từ thực tiễn nêu trên, dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 nêu bài học “Ðặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển… giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng” và xác định “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”, với các nội dung chủ yếu là “Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Ðẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế – xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện môi trường. Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết; phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế – xã hội. Phải đặc biệt quan tâm giữ vững ổn định chính trị – xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”.

Ðể hiện thực hóa quan điểm phát triển nhanh và bền vững, phải thực hiện đồng bộ các định hướng phát triển đã nêu trong dự thảo Chiến lược, trong đó cần tập trung thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp sau:

Một là, bằng các giải pháp và sức mạnh tổng hợp, kiên quyết giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đất nước. Ðây là điều kiện tiên quyết nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững và cũng là một lợi thế của đất nước ta. 

Hai là, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế; giữ vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng và sự hoạt động an toàn, hiệu quả của các định chế tài chính.

Thế hệ chúng ta đã từng chứng kiến những cuộc khủng hoảng lương thực, khủng hoảng năng lượng, mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu xảy ra trong các năm 2007 – 2009 và cuộc khủng hoảng nợ công ở một số nước hiện nay. Những cuộc khủng hoảng này là hậu quả của sự phát triển không bền vững, gây mất ổn định toàn cầu và tác động đến tăng trưởng của hầu hết các quốc gia, kinh tế thế giới suy giảm, thất nghiệp gia tăng, xung đột xã hội lan rộng…

Ở nước ta, cùng với những bất cập, yếu kém trong quản lý vĩ mô, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động tiêu cực đến sự phát triển của đất nước, lạm phát tăng cao, tốc độ tăng trưởng suy giảm, đời sống nhân dân gặp khó khăn. Kinh nghiệm quốc tế cũng như của nước ta những năm qua cho thấy giữ vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh tài chính, kiểm soát được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn vừa là tiền đề để tăng trưởng nhanh vừa là nội dung của tăng trưởng bền vững, trở thành nhiệm vụ quan trọng nhất trong quản lý kinh tế của bất cứ quốc gia nào.

Ba là, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để bảo đảm đạt tốc độ tăng trưởng cao đồng thời nâng cao chất lượng tăng trưởng. Bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao, ổn định và không ngừng nâng cao chất lượng tăng trưởng là yếu tố quyết định nhất để phát triển nhanh và bền vững. Có đạt được tốc độ tăng trưởng cao, đất nước mới phát triển nhanh, rút ngắn khoảng cách với các nước, mới tạo được nguồn lực để phát triển các lĩnh vực xã hội, phát triển con người, đầu tư phát triển những khu vực khó khăn, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng trong nước, mở rộng hệ thống  phúc lợi và an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Với ưu thế về nguồn lực con người, chính trị xã hội ổn định, vị trí địa – kinh tế thuận lợi, lại là nước đi sau, chúng ta có điều kiện để phát triển nhanh. Mặt khác, có nâng cao chất lượng tăng trưởng mới tăng được hiệu suất sử dụng vốn và sức cạnh tranh của nền kinh tế, mới mở rộng được thị trường tiêu thụ trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trên cơ sở đó, tạo ra giá trị gia tăng lớn cho đất nước, tăng khả năng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, bảo đảm nguồn lực cho tăng trưởng cao và ổn định trong dài hạn.

Ðể tăng trưởng cao, đạt tốc độ bình quân 7 – 8%/năm, phải tháo gỡ mọi cản trở về thể chế và thủ tục hành chính, giải phóng và phát triển mạnh lực lượng sản xuất gắn với nâng cao trình độ khoa học, công nghệ. Phải tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế tư nhân – thành phần có tốc độ tăng trưởng cao nhất và tạo nhiều việc làm nhất. Mặt khác, phải đổi mới, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước, để doanh nghiệp nhà nước trở thành công cụ quan trọng trong việc thực hiện chính sách cơ cấu và định hướng tổ chức thị trường. Phải thực hiện đa sở hữu, công khai minh bạch, nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp và quan trọng hơn là đặt doanh nghiệp nhà nước vào môi trường cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong cơ chế thị trường. Chỉ có như vậy mới nâng cao được hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước và sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước mới không chèn lấn các nguồn lực để phát triển khu vực tư nhân – một động lực chủ yếu của tăng trưởng.

Nâng cao hiệu quả đầu tư công là một yếu tố quan trọng bảo đảm chất lượng tăng trưởng. Trong mười năm tới, cần tập trung hơn nữa đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, từng bước hiện đại, tạo điều kiện cho kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững. Hoàn thiện cơ chế giám sát và tăng cường công tác giám sát đầu tư. Kiên quyết và có biện pháp mạnh mẽ chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí trong đầu tư.

Cùng với việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cải cách hành chính, cần phát huy có hiệu quả chức năng kiến tạo phát triển của nhà nước, nhất là trong thời kỳ đầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, thể hiện trong việc đề ra chính sách cơ cấu và định hướng phát triển vùng đúng đắn.

Bốn là, phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, yếu tố làm nên giá trị ổn định, lâu bền của một quốc gia, hình thành bản sắc riêng có của một dân tộc. Văn hóa làm nên nguồn lực xã hội to lớn, thấm sâu vào quá trình phát triển. Sự phát triển của một thời đại ở bất kỳ quốc gia nào đều có dấu ấn khai sáng của văn hóa. Trên nền tảng văn hóa, con người không chỉ giải quyết mối quan hệ với đồng loại, ứng xử với môi trường thiên nhiên trong đời sống hiện tại mà còn giải quyết mối quan hệ với các thế hệ tương lai trong quá trình phát triển. Với ý nghĩa này, văn hóa không chỉ là kết quả của phát triển nhanh, bền vững mà còn là yếu tố tạo nên sự phát triển nhanh, bền vững. Phải đặt yêu cầu phát triển văn hóa ngang tầm và hài hòa với phát triển kinh tế. Tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển.

Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là nội dung rất quan trọng của phát triển bền vững. Ðây còn là tiêu chí thể hiện bản chất của chế độ ta. Sự bất bình đẳng và phân hóa giàu nghèo ở mức cao tạo nên xung đột xã hội ở không ít các quốc gia trên thế giới, làm suy giảm tăng trưởng. Vì vậy, Ðảng ta chủ trương phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Chúng ta sẽ tập trung hơn cho công cuộc xóa đói giảm nghèo, đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để thực hiện giảm nghèo bền vững. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, đồng thời hạn chế phân hóa giàu nghèo, chủ yếu thông qua chính sách điều tiết thu nhập, phát triển hệ thống phúc lợi xã hội và an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân phối trong các doanh nghiệp, chính sách tiền lương, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

Tập trung sức phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là đào tạo đại học và dạy nghề để có nguồn nhân lực chất lượng cao, cơ cấu hợp lý nhằm đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Tập trung chỉ đạo kiên quyết, đồng bộ và huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị để bảo đảm đạt được những chuyển biến rõ rệt, vững chắc trong công tác phòng chống tham nhũng, tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông.

Năm là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ rộng rãi, nhất là dân chủ trực tiếp, xây dựng xã hội đồng thuận, cởi mở.

Thực hiện dân chủ là một thành tố của phát triển bền vững, được Ðảng ta nêu rõ tại Ðại hội Ðảng lần thứ X, nhằm hoàn thiện, làm phong phú thêm nội dung phát triển bền vững. Ðiều này xuất phát từ luận điểm rất quan trọng: con người vừa là mục tiêu vừa là chủ thể của phát triển. Nguồn lực con người là lợi thế cạnh tranh dài hạn, là yếu tố quyết định sự phát triển của một quốc gia. Thực hành dân chủ rộng rãi sẽ phát huy khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, đóng góp vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Dân chủ càng cao thì đồng thuận xã hội càng sâu, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng được củng cố vững chắc.

Ðể phát huy dân chủ, làm cho dân chủ trở thành nguồn lực phát triển, phải bảo đảm hai điều kiện: (1) tạo cơ hội cho mọi người được học tập, xây dựng xã hội học tập nhằm nâng cao dân trí; (2) thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thông qua các thiết chế bảo đảm dân chủ trong mọi mặt của đời sống xã hội, mở rộng dân chủ trực tiếp. Dân chủ phải gắn với kỷ luật, kỷ cương.

Có thể nói nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường đi liền với bảo đảm phúc lợi – an sinh xã hội và dân chủ xã hội chủ nghĩa là 3 trụ cột chính trong tiến trình phát triển của đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Trong đó, dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực. Cả 3 trụ cột này phải mạnh và có sự phát triển tương thích, đồng bộ. Một trụ cột yếu sẽ cản trở sự vận động của các trụ cột khác và ảnh hưởng đến sự phát triển chung.

Sáu là, tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường.

Bảo vệ và cải thiện môi trường là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững. Môi trường bị ô nhiễm, tài nguyên bị cạn kiệt, rừng bị tàn phá, đất bị xói mòn và tình trạng sa mạc hóa, biến đổi khí hậu, nguy cơ nước biển dâng… làm thu hẹp không gian sinh tồn của con người chẳng những tác động tiêu cực đến cuộc sống hiện tại mà còn đe dọa sự phát triển của các thế hệ tương lai.

Ðối với nước ta, tình trạng ô nhiễm môi trường và những nguy cơ do biến đổi khí hậu và nước biển dâng là những thách thức to lớn. Vì vậy, phát triển kinh tế phải gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường; chủ động đối phó với hiểm họa nước biển dâng; sử dụng công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, phát triển kinh tế xanh là nội dung có tác động mạnh nhất đến phát triển bền vững, phải được thể hiện trong toàn bộ kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của cả nước cũng như trong từng lĩnh vực, ở từng địa phương, đơn vị.

Thực hiện có hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững  đòi hỏi phải tạo được sự chuyển biến có tính cách mạng, thấu suốt về nhận thức, đổi mới mạnh mẽ về tư duy, quán triệt trong mọi chính sách, quy hoạch, kế hoạch, dự án và chương trình hành động; tổ chức thực hiện quyết liệt ở tất cả các ngành, các cấp với sự đồng thuận tham gia của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng doanh nghiệp và mọi người dân trong cả nước.

Chúng ta tin tưởng vững chắc rằng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với sự điều hành có hiệu quả của Nhà nước, sự phấn đấu nỗ lực của toàn dân, toàn quân, nhất định đất nước ta sẽ bước vào một thời kỳ mới phát triển nhanh và bền vững.

NGUYỄN TẤN DŨNG

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ  

(1) Báo cáo Brundtland của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (WCED).

(2) Quyết định số 153 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam; thành lập hội đồng phát triển bền vững quốc gia, xây dựng đề án thực hiện chương trình nghị sự 21 và các mục tiêu thiên niên kỷ và nhiều văn bản khác.

(3) Dự kiến năm 2010 GDP tăng trưởng đạt 6,5% thì bình quân 10 năm 2001-2010 đạt 7,27%.

(Nguồn: Báo Nhân Dân)

Kinh Tế Tuần Hoàn, Giải Pháp Phát Triển Bền Vững Cho Doanh Nghiệp

Tuy nhiên, để có thể thực hiện được 3 mục tiêu trên, đòi hỏi công ty kiên trì và luôn đổi mới trong đầu tư, xây dựng cũng như vận hành hệ thống nhà máy, trang trại. Đơn cử, với mục tiêu giảm thiểu và sử dụng tối ưu lượng vật liệu sử dụng, công ty đã triển khai việc giảm lượng bao bì nhựa, muỗng nhựa (trong thùng sản phẩm Sữa chua ăn) và ống hút nhựa. Đồng thời, nghiên cứu các bao bì có thể mở và uống trực tiếp mà không cần ống hút kết hợp. Ở mục tiêu nâng cấp thay thế vật liệu bằng các vật liệu thân thiện môi trường, Vinamilk nghiên cứu ứng dụng các vật liệu nhựa có khả năng phân hủy vi sinh toàn toàn ở điều kiện ủ thông thường; ưu tiên ứng dụng các vật liệu thay thế nhựa thông thường bằng những vật liệu có khả năng tái tạo như giấy, gỗ, tinh bột… Riêng ở mục tiêu tăng cường tái sử dụng, tái chế, Vinamilk đã triển khai sử dụng bao bì giấy theo công nghệ Tetra Brick Aseptic; sử dụng bao bì có thể tái chế toàn bộ và được chứng nhận FSC – chứng nhận sản phẩm mang lại lợi ích về môi trường, kinh tế và xã hội. Ngoài ra, công ty còn hợp tác với các đối tác thiết lập giải pháp thu gom và tái chế bao bì phù hợp, nhất là tái chế nhựa trong sản xuất nhưng vẫn đảm bảo các yếu tố an toàn vệ sinh thực phẩm.

Cùng với những giải pháp trên, Vinamilk nỗ lực tìm kiếm các giải pháp kiểm soát các yếu tố đầu vào (vật liệu, năng lượng, nguồn nước) một cách hiệu quả, làm cơ sở để giảm thiểu chất thải phát sinh, hạn chế tối đa các tác động đến môi trường. Theo đó, hiện Vinamilk đã áp dụng hiệu quả hàng loạt công nghệ cao trong phát triển bền vững như 100% trang trại đầu tư công nghệ xử lý chất thải theo công nghệ yếm khí Biogas; 100% nước thải đầu ra được xử lý và tái sử dụng. Riêng lĩnh vực tiết kiệm năng lượng và tài nguyên thông qua sử dụng hệ thống pin mặt trời tại Trang trại bò sữa Organic Đà Lạt. Công ty cũng đã áp dụng công nghệ cao để sử dụng hiệu quả năng lượng như hệ thống điều khiển làm mát tự động, hệ thống đèn led giảm lượng điện tiêu thụ, hệ thống tái sử dụng nước trong chăn nuôi. Hiện tại các nhà máy của Vinamilk đang sử dụng năng lượng xanh và năng lượng tái tạo là nguồn năng lượng chính trong hoạt động sản xuất. Theo đó, nhiên liệu Biomass từ vỏ trấu, xơ dừa, mùn cưa, dăm gỗ được chuyển thành năng lượng lò hơi phục vụ cho sản xuất – thân thiện với môi trường. Năng lượng Biomass chiếm 35% năng lượng sử dụng và tăng dần qua các năm (Vinamilk có 9 nhà máy đang sử dụng năng lượng từ Biomass).

Ngoài ra, các trang trại bò sữa của Vinamilk cũng không hóa chất trong thức ăn và thức uống của gia súc; không sử dụng thuốc trừ sâu bọ, không dùng hóa chất để bón trên cánh đồng thức ăn thô xanh; không được nuôi lớn đàn bò bằng kích thích tố tăng trưởng nhân tạo. Về thực phẩm chăn nuôi, công ty luôn kiểm soát hàm lượng nitơ bón cho đất theo yêu cầu của tiêu chuẩn Organic – EU và trồng luân canh để cải tạo đất ở các trang trại hữu cơ. Nhờ chuẩn hoá đầu tư từ đầu mà 13/13 nhà máy của Vinamilk đều đạt các chứng nhận FSSC 22000, ISO 14001, ISO 50001, OHSAS 18001, Kiểm soát năng lượng chuẩn ISO 50001, Kiểm soát môi trường chuẩn ISO 14001.

Không dừng lại đó, Vinamilk còn tập trung nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng và cán bộ công nhân viên của công ty thông qua việc triển khai các hoạt động trách nhiệm xã hội hướng về cộng đồng và bảo vệ môi trường. Đơn cử, triển khai chương trình Quỹ 1 triệu cây xanh cho Việt Nam và chương trình Sữa học đường quốc gia trên toàn quốc. Năm 2019 là năm thứ 7 trong hành trình đem màu xanh phủ dọc chiều dài đất nước, Vinamilk và “Quỹ 1 triệu cây xanh cho Việt Nam” đã đưa tổng số cây đã trồng tại gần 20 tỉnh thành Việt Nam lên tới gần 700 ngàn cây xanh các loại với giá trị gần 9 tỷ đồng và đang từng bước tiến gần hơn đến mục tiêu 1 triệu cây xanh cho Việt Nam. Ngoài ra, Công ty tổ chức Ngày hội môi trường “Đổi vỏ sữa lấy cây xanh và quà tặng từ Vinamilk” cũng đã thu hút rất nhiều người tham gia. Hoạt động sáng tạo này còn giúp mang đến thêm cây xanh cho mọi người và nâng cao ý thức cho chính các cán bộ công nhân viên của công ty về bảo vệ môi trường.

Với những nỗ lực trong chiến lược phát triển bền vững và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường, Vinamilk vinh dự là Doanh nghiệp 3 năm liên tiếp được bình chọn vào Top 10 doanh nghiệp bền vững.

KHÁNH CHI

Bạn đang đọc nội dung bài viết Phát Triển Bền Vững Về Kinh Tế Các Khu Công Nghiệp Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Bắc Bộ: Thực Trang Và Các Khuyến Nghị Chính Sách trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!