Đề Xuất 3/2023 # Phát Triển Bền Vững Thị Trường Mua Bán Nợ Doanh Nghiệp Tại Việt Nam: Góc Nhìn Từ Công Ty Tnhh Mua Bán Nợ # Top 11 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Phát Triển Bền Vững Thị Trường Mua Bán Nợ Doanh Nghiệp Tại Việt Nam: Góc Nhìn Từ Công Ty Tnhh Mua Bán Nợ # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Phát Triển Bền Vững Thị Trường Mua Bán Nợ Doanh Nghiệp Tại Việt Nam: Góc Nhìn Từ Công Ty Tnhh Mua Bán Nợ mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

(thitruongtaichinhtiente.vn) – Bài viết phân tích thực trạng nợ của các doanh nghiệp (DN) và thị trường mua bán nợ DN ở Việt Nam trên góc nhìn từ hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam để có cái nhìn tổng quan về thị trường nợ và hoạt động mua bán nợ DN nhằm phát triển thị trường mua bán nợ DN ở Việt Nam.

Tóm tắt: Nợ đang là một mối quan tâm lớn của các doanh nghiệp (DN) Việt Nam. Nợ có thể giúp các doanh nghiệp (DN) kinh doanh tốt hơn, tuy nhiên nó cũng có thể khiến các DN gặp nhiều khó khăn về dòng tiền và khả năng thanh khoản. Trong khi đó, thị trường mua bán nợ ở Việt Nam mới đang ở giai đoạn đầu phát triển. Bài viết phân tích thực trạng nợ của các DN và thị trường mua bán nợ DN ở Việt Nam trên góc nhìn từ hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam để có cái nhìn tổng quan về thị trường nợ và hoạt động mua bán nợ DN nhằm phát triển thị trường mua bán nợ DN ở Việt Nam.

Sustainable development of corporate debt market in Vietnam: A perspective from  Vietnam Debt & Asset Trading Corporation

Abstract: Debt is a big concern of Vietnamese enterprises. Debt can help enterprises  do business better, however it can also make them face many difficulties in controlling cash flow and liquidity. Meanwhile, the debt market in Vietnam is still in its early stage of development. The article analyzes current debt status of enterprises and debt market in Vietnam from the perspective of  business activities of Vietnam Debt & Asset Trading Corporation to get an overview of debt market and its operations in order to develop debt market in Vietnam.

1. Thực trạng nợ của các DN ở Việt Nam

1.1. Quan điểm về nợ DN, nợ xấu và hoạt động mua bán nợ ở Việt Nam

Theo Hoàng Trần Hậu và Vũ Sỹ Cường (2015), trước hết nợ doanh nghiệp cũng là một khoản nợ, tức là một cam kết chưa được thanh toán. Doanh nghiệp phát sinh nợ phải trả khi (i) không trả cho một dịch vụ, hàng hóa hay tài sản đã được thỏa thuận trước; (ii) không trả các khoản bắt buộc theo luật quy định đầy đủ và kịp thời; (iii) đi vay tiền mặt của người cho vay hoặc phát hành trái phiếu doanh nghiệp và (iv) cam kết với ngân hàng sự bảo lãnh về khoản vay của người khác, khi người đi vay không trả tiền, ngân hàng sẽ truy đòi doanh nghiệp bảo lãnh.

Nợ doanh nghiệp: có đặc trưng đầy đủ của một khoản nợ nên phải đi kèm với nguyên tắc hoàn trả, đảm bảo khả năng thanh toán cả gốc và phần cả phần giá trị tăng thêm biểu hiện qua tiền lãi. Khi nguyên tắc này không được đáp ứng ở mức độ nhất định thì khoản nợ đó bị coi là nợ xấu. Tổng kết quan điểm về nợ xấu của một số tổ chức như Ngân hàng Thế giới, nhóm chuyên gia tư vấn Advisory Expert Group (AEG), Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng (BCBS), Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng như Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS), Nguyễn Thu Hương (2016), đưa ra kết luận: “Nợ xấu là những khoản nợ quá hạn trả nợ trên 90 ngày và/hoặc được đánh giá là khó có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi”.

Như vậy có thể đưa ra kết luận về hoạt động mua bán nợ nói chung hay cụ thể là đối với các khoản “Nợ xấu”, thực chất là việc bên Bán nợ (chủ nợ ban đầu) chuyển “khoản nợ phải thu” của mình đối với bên Khách nợ sang cho bên Mua nợ và bên Mua nợ sẽ trở thành chủ nợ mới của bên Khách nợ.

1.2. Đặc điểm nợ của các DN tại Việt Nam

– Nợ được các DN sử dụng nhiều, đơn giản và tiềm ẩn nhiều rủi ro

Ở Việt Nam, với sự cạnh tranh gay gắt của thị trường thì hình thức mua bán chịu hàng hóa diễn ra ngày càng thường xuyên hơn. Theo thống kê với bộ dữ liệu của tác giả, các khoản phải thu khách hàng chiếm 18,68% tổng tài sản và khoản phải trả người bán chiếm 11,60% tổng tài sản. Tín dụng thương mại gần như thành quy luật chung của thị trường, người bán nhiều khi phải chấp nhận cho người mua thanh toán tiền hàng trả chậm như một hình thức khuyến mãi, cạnh tranh, thu hút người mua hàng. Do đó, các điều kiện mua hàng trả chậm tương đối đơn giản, dễ dàng và ít các điều khoản ràng buộc. Nó chủ yếu dựa trên mối quan hệ quen biết, bạn hàng, tin tưởng lẫn nhau bởi vì người Việt thường hay cả nể giúp đỡ nhau trong nhiều mối quan hệ. Tuy nhiên, đó chính là lý do làm cho nợ phát sinh nhiều rủi ro cho người bán, vì sẽ xảy ra những tình trạng quỵt nợ, nợ kéo dài giữa các DN.

– Chưa có những quy định cụ thể cho nợ

Tại Việt Nam, hình thức mua bán chịu hàng hóa đang dần trở nên quen thuộc với các DN. Trong số đó, có nhiều giao dịch chỉ được lập một văn bản thỏa thuận đơn giản về số tiền và thời gian thanh toán chậm. Do đó, chúng ít có giá trị pháp lý và khó giải quyết khi phát sinh tranh chấp hay khởi kiện.

1.3. Nợ của các DN Việt Nam từ kết quả điều tra khảo sát

1.3.1. Dữ liệu khảo sát

Mẫu được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên. Sau khi thu thập dữ liệu, tác giả loại ra những công ty có đặc thù không phù hợp với mục tiêu nghiên cứu. Cuối cùng, nhóm tác giả thu được bảng dữ liệu là báo cáo tài chính đã được kiểm toán của 326 công ty cổ phần phi tài chính niêm yết trên sở giao dịch HNX và HOSE, được cung cấp bởi Tổng cục Thống kê Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2013-2017 với khoảng 1.630 quan sát.

Nợ của DN trên cơ sở khảo sát hoạt động tín dụng thương mại của DN gồm khoản phải thu khách hàng, phải trả nhà cung cấp và nợ ròng.

1.3.2. Khoản phải thu khách hàng

Tỷ lệ khoản phải thu khách hàng được xác định là tỷ lệ khoản phải thu khách hàng trên tổng tài sản của DN.

Bảng 1. Tỷ lệ khoản phải thu khách hàng của các DN

Nguồn: Tổng hợp số liệu khảo sát của nhóm tác giả

Qua bảng 1 ta thấy tỷ lệ khoản phải thu khách hàng trên tổng tài sản của các DN Việt Nam đang chiếm một tỷ lệ không nhỏ là 18,68%. Tuy nhiên, nếu so với nghiên cứu của García-Teruel and Martínez-Solano (2010) thì tỷ lệ khoản phải thu trên tổng tài sản của Việt Nam còn thấp so các nước khác, ví dụ như tỷ lệ này ở Tây Ban Nha là 39,28%, ở Hy Lạp là 36,55%, ở Pháp là 35,55%,… và thấp nhất là Phần Lan với tỷ lệ là 19,18%. Trong đó, ngành công nghệ là ngành có giá trị trung bình tỷ lệ khoản phải thu lớn nhất, chiếm 31,29% tổng tài sản. Điều này cho thấy, trong nền kinh tế hiện đại, công nghệ là một ngành đặc thù có tốc độ tăng trưởng cao, mức độ cạnh tranh trong ngành lớn, do đó buộc các DN phải mở rộng chính sách nợ nhằm thu hút khách hàng và mở rộng thị trường. Trong khi đó, hai ngành sử dụng chính sách nợ ít nhất là ngành các dịch vụ hạ tầng và ngành dịch vụ tiêu dùng với tỷ lệ khoản phải thu trên tài sản tương ứng là 11,55% và 12,86%.

Khoản phải trả người bán được xác định là tỷ lệ khoản phải trả người bán trên tổng tài sản (hay tổng nguồn vốn) của DN.

Bảng 2. Tỷ lệ khoản phải trả người bán của các DN

Nguồn: Tổng hợp số liệu khảo sát của nhóm tác giả

Trung bình khoản phải trả người bán toàn ngành chiếm 11,60% tổng nguồn vốn. Trong đó, ngành công nghệ là ngành có mức chiếm dụng vốn của nhà cung cấp lớn nhất, với tỷ lệ trung bình là 14,44% tổng nguồn vốn. Cá biệt trong ngành này có DN với tỷ lệ chiếm dụng vốn của nhà cung cấp lên tới 69,45% tổng nguồn vốn của DN. Đây cũng chính là ngành cấp nợ cho khách hàng nhiều nhất trong toàn ngành. Tuy nhiên, tỷ lệ chiếm dụng vốn của người bán ở các DN Việt Nam vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với các nước khác trên thế giới. Ví dụ như trong nghiên cứu của García-Teruel and Martínez-Solano (2010) thì tỷ lệ này ở Pháp là 28,52%, Bỉ là 27,00%, Hy Lạp là 26,70%,… trong đó, ít nhất là ở Phần Lan nhưng vẫn còn lớn hơn ở Việt Nam với tỷ lệ 13,17%. Tuy nhiên, có những ngành như y tế và hàng tiêu dùng sử dụng rất ít nguồn vốn này với tỷ lệ lần lượt là 9,39% và 9,62% tổng nguồn vốn.

1.3.3. Nợ ròng

Nợ ròng được xác định là chênh lệch giữa khoản phải thu và khoản phải trả trên tổng tài sản. Như vậy, nếu nợ ròng dương chứng tỏ DN đang bị khách hàng chiếm dụng vốn và nếu nợ ròng âm chứng tỏ DN đang chiếm dụng vốn của nhà cung cấp.

Bảng 3. Tỷ lệ nợ ròng của các DN

Nguồn: Tổng hợp số liệu khảo sát của nhóm tác giả

Nhìn chung ở Việt Nam, nợ ròng trong toàn ngành cũng như trong từng ngành đều dương, chứng tỏ hầu hết các DN đều cấp nợ cho khách hàng nhiều hơn là chiếm dụng vốn của người bán. Qua bảng 3 ta thấy nợ ròng trung bình toàn ngành là 7,08% tổng tài sản, có nghĩa là trong toàn ngành thì trung bình các DN đang cho khách hàng chiếm dụng vốn nhiều hơn là đi chiếm dụng vốn của nhà cung cấp. Riêng nhóm ngành các dịch vụ hạ tầng thì nợ ròng mang giá trị âm, tức là trung bình các DN trong ngành này chiếm dụng vốn của người bán nhiều hơn là cấp nợ cho khách hàng là 0,8% tổng tài sản. Nhưng với giá trị bé như vậy thì có thể thấy nhóm ngành các dịch vụ hạ tầng có tình hình công nợ phải thu và phải trả tương đối cân bằng nhất so với các nhóm ngành còn lại.

1.4. Đánh giá mức độ ảnh hưởng nợ của các DN

1.4.1. Vai trò của nợ đối với các DN tại Việt Nam

– Tăng nguồn vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh

Nhờ có nợ, các DN có thể tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh với thủ tục đơn giản và chi phí có thể thấp hơn so với đi vay ngân hàng, tùy thuộc vào mối quan hệ tín nhiệm giữa người bán và người mua. Như vậy, nợ giúp gia tăng nguồn vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.

– Tiết kiệm chi phí sử dụng vốn và chi phí lưu thông tiền tệ

– Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng hóa

Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng DN này thừa vốn nhưng DN khác lại thiếu vốn thường xuyên diễn ra. Nhờ có vay nợ làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh được liên tục, không gián đoạn ngắt quãng khi DN bị thiếu tiền tạm thời, đồng thời nó giúp cho các DN khác tiêu thụ được hàng hóa. Điều này giúp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN.

– Khuyến khích sản xuất kinh doanh

Theo mẫu nghiên cứu, các DN Việt Nam trung bình đang chiếm dụng vốn của nhà cung cấp khoảng 11,60% tổng vốn kinh doanh. Số vốn này có thể tạo động lực khuyến khích các DN sản xuất kinh doanh và tạo ra nhiều cơ hội kiếm lời. Hơn nữa, các DN còn có khả năng được hưởng một khoản lợi từ chiết khấu nếu thanh toán sớm theo thời gian quy định. Bên cạnh đó, DN cung ứng nợ cũng bán được hàng để tiếp tục chu kỳ sản xuất kinh doanh mới, giảm chi phí bảo quản lưu kho và tạo động lực sản xuất kinh doanh.

1.4.2. Ảnh hưởng của nợ

– Ảnh hưởng đối với DN có nợ tồn đọng

áp lực của một DN có nợ tồn đọng là vô cùng to lớn do các khoản nợ sẽ tạo ra những chi phí không mong đợi, sẽ ăn mòn dần vốn của DN và có khả năng dẫn đến nguy cơ phá sản.

– Ảnh hưởng đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng

Nếu DN bị đối tác nợ nhiều thì sẽ có khả năng gia tăng nợ đối với các TCTD. Một tác động lớn đối với TCTD khi có nợ là làm giảm hiệu quả tín dụng và làm tăng chi phí cho TCTD. Nợ tăng cao có thể dẫn đến tình trạng thua lỗ và giảm lòng tin của người gửi tiền, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của TCTD.

– Ảnh hưởng đối với nền kinh tế

Mối quan hệ giữa ngân hàng – khách hàng – nền kinh tế là hết sức chặt chẽ. Nợ phát sinh do khách hàng, DN sản xuất kinh doanh (SXKD) kém hiệu quả sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế do vốn ứ đọng, SXKD đình trệ. Sự phá sản của DN, đặc biệt là hệ thống ngân hàng sẽ tạo ra một cú sốc lớn đối với cả nền kinh tế. Thất nghiệp, bất ổn về an ninh, mất nguồn thu từ thuế hay thiếu sản phẩm đều là các yếu tố làm giảm GDP, làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế so với các nước khác.

2. Thực trạng phát triển thị trường mua bán nợ của các DN Việt Nam

2.1. Thực trạng cơ sở pháp lý và cơ sở hạ tầng

– Thực trạng cơ sở pháp lý

Thị trường mua bán nợ tại Việt Nam chỉ mới bao gồm thị trường mua bán các loại trái phiếu sau khi đã phát hành và thị trường mua bán các khoản nợ khác giữa các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Hiện nay, chưa có văn bản pháp luật quy định về hoạt động mua bán các sản phẩm phức tạp hơn của thị trường mua bán nợ như các công cụ phái sinh tín dụng và chứng khoán hoá. Trên thực tế, các loại hàng hoá này cũng chưa xuất hiện trên thị trường mua bán nợ tại Việt Nam.

– Thực trạng cơ sở hạ tầng

Việt Nam chưa xây dựng được khung pháp lý đủ mạnh có tính răn đe trong việc yêu cầu các DN minh bạch trong cung cấp thông tin và cũng chưa có khung pháp lý trong việc bảo vệ nhà đầu tư.

2.2. Thực trạng cấu trúc thị trường mua bán nợ

Hình 1. Chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ ở Việt Nam

– Hàng hóa trên thị trường mua bán nợ: Bao gồm trái phiếu chính phủ và trái phiếu DN.

– Hình thức mua bán nợ: Bao gồm mua bán nợ thông qua đấu giá, mua bán nợ bằng cách thương lượng, đàm phán, mua bán nợ bằng trái phiếu đặc biệt, mua bán nợ theo giá trị thị trường, mua bán nợ theo chỉ định của cấp có thẩm quyền và mua bán nợ thông qua hoạt động mua bán sáp nhập (M&A).

2.3. Thực trạng các tổ chức hỗ trợ

– Bên môi giới, tư vấn và cung cấp dịch vụ sàn giao dịch nợ

– Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và thẩm định giá

Nghị định số 88/2014/NĐ-CP quy định về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm. Hơn nữa, theo Quyết định 517/QĐ-TTg ban hành ngày 17/4/2015 phê duyệt quy hoạch phát triển dịch vụ xếp hạng tín nhiệm đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ, việc phát hành trái phiếu DN sẽ phải qua xếp hạng tín nhiệm kể từ năm 2020. Ngoài ra, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 101/2005/NĐ-CP về thẩm định giá và Bộ Tài chính đã ban hành được bộ 12 tiêu chuẩn thẩm định giá.

Tuy nhiên, theo thống kê của ADB (2016), Việt Nam chưa có các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và định giá có uy tín. Điều này gây khó khăn trong việc định giá các khoản nợ và nợ xấu trong quá trình mua bán nợ, cũng làm hạn chế sự phát triển của thị trường trái phiếu DN do chưa có các “điểm chuẩn” (benchmark) nhất định để nhà đầu tư và DN phát hành trái phiếu xác định mức giá trái phiếu phù hợp.

2.4. Thực trạng các tổ chức quản lý, giám sát thị trường mua bán nợ của các TCTD ở Việt Nam

– Trách nhiệm của Bộ Tài chính

+ Chịu trách nhiệm trước Chính phủ về quản lý nhà nước đối với DN kinh doanh dịch vụ mua bán nợ.

+ Thực hiện quản lý, kiểm tra, thanh tra, giám sát theo thẩm quyền hoạt động kinh doanh dịch vụ mua bán nợ.

– Trách nhiệm của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

+ Thực hiện kiểm tra, thanh tra việc chấp hành quy định của pháp luật về hoạt động kinh doanh dịch vụ mua bán nợ trên địa bàn tỉnh, thành phố và xử lý vi phạm theo thẩm quyền đối với những hành vi vi phạm hoạt động kinh doanh dịch vụ mua bán nợ.

+ Báo cáo Bộ Tài chính về tình hình kinh doanh dịch vụ mua bán nợ trên địa bàn tỉnh, thành phố theo định kỳ, đột xuất.

– Trách nhiệm của cơ quan đăng ký kinh doanh

+ Tiếp nhận, xử lý hồ sơ đăng ký DN, đăng ký thay đổi nội dung Giấy chứng nhận đăng ký DN đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ mua bán nợ.

+ Báo cáo ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về tình hình cấp, bổ sung Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ mua bán nợ theo định kỳ, đột xuất.

– Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước

Phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát theo thẩm quyền hoạt động kinh doanh dịch vụ mua bán nợ theo quy định của Nghị định 69/2016 đối với công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại.

3. Đánh giá chung về phát triển bền vững thị trường mua bán nợ DN ở Việt Nam

Khi nợ được coi là một loại hàng hóa và hoạt động mua bán nợ đã được đề cập tới trong các văn bản luật chính thức thì khái niệm “thị trường mua bán nợ” hoặc “thị trường mua bán nợ xấu” vẫn chưa được các văn bản luật của Việt Nam đề cập tới. Theo Nguyễn Thu Hương (2016), “Thị trường mua bán nợ xấu là nơi mua bán các khoản nợ xấu, hàng hóa giao dịch trên thị trường mua bán nợ xấu là các khoản nợ xấu dưới dạng tài sản nợ hoặc các khoản nợ xấu được chứng khoán hóa”.

PGS.TS Đào Văn Hùng từng nhận định ở Việt Nam hiện nay, thị trường nợ của doanh nghiệp vẫn chủ yếu là thị trường sơ cấp, tức là các khoản nợ đi từ Chủ nợ ban đầu tới tay các công ty mua nợ, đặc biệt là Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam (DATC) mà chưa có nhiều sự mua đi bán lại tại thị trường thứ cấp do sự hạn chế về đối tượng tham gia, sự phát triển của thị trường, các tổ chức định giá uy tín.

Phương thức mua bán nợ của DATC

Biểu đồ 1. Tổng hợp kết quả kinh doanh của DATC giai đoạn 2011- đầu 2017

Đvt: tỷ đồng

Quan điểm của DATC về tái cấu trúc thông qua mua bán nợ

Một trong những phương thức xử lý nợ xấu của DATC đó chính là tái cấu trúc toàn diện bao gồm 3 lĩnh vực để lập ra một kế hoạch kinh doanh tổng thế: (i) tái cấu trúc tài chính, (ii) tái cấu trúc hoạt động và (iii) tái cấu trúc quản trị và điều hành. Theo DATC: “tái cơ cấu DN khách nợ thông qua hoạt động mua bán nợ là việc DATC mua nợ từ các chủ nợ của DN, sau đó giúp DN xử lý các tồn tại yếu kém trong hoạt động sản xuất kinh doanh, làm cho DN có điều kiện để hoạt động và phát triển có hiệu quả, từ đó tạo nguồn trả nợ cho các chủ nợ”.

Các hình thức để xử lý bao gồm: tổ chức đòi nợ trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức tài chính trung gian; hoặc tiến hành bán nợ và tài sản tồn đọng bằng các hình thức thỏa thuận, đấu thầu, đấu giá; sử dụng nợ đã mua để góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh. Hoán đổi nợ thành vốn cổ phần để đảm bảo quyền sở hữu của Nhà nước và giảm đòn bẩy nợ của các doanh nghiệp, ngoài ra còn tạo niềm tin cho các nhà đầu tư khi góp vốn vào DN.

Hình 1. Quy trình tái cấu trúc thông qua mua bán nợ của DATC

Xử lý nợ xấu DN thông qua tái cấu trúc của DATC là một quy trình phức tạp đòi hỏi sự tương tác ít nhất 3 bên DATC (bên Mua nợ), bên Chủ nợ và bên Khách nợ (công ty con nợ). Khi ấy, DATC cùng một lúc đóng 2 vai trò vừa là Chủ nợ mới của bên Khách nợ, vừa là cổ đông tiềm năng của DN đó. Hiện nay, DATC đã xây dựng bài bản, chi tiết quy trình tái cấu trúc thông qua mua bán nợ.

– ADB (2016), Báo cáo thường niên, ADB.

– Bộ Tài chính (2004), Thông tư 39/2004/TT-BTC của về việc hướng dẫn trình tự, thủ tục và xử lý tài chính đối với hoạt động mua, bán, bàn giao, tiếp nhận, xử lý nợ và tài sản tồn đọng của DN, ban hành ngày 11tháng 5 năm 2004.

– Chính phủ (2001), Nghị định số 32/2001/NĐ-CP Hướng dẫn chi tiết thi hành pháp lệnh thương phiếu, ban hành ngày 5 tháng 7 năm 2001.

– Chính phủ (2005), Nghị định số 101/2005/NĐ-CP về thẩm định giá, ban hành ngày 03 tháng 8 năm 2005

– Chính phủ (2014), Nghị định số 88/2014/NĐ-CP quy định về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm, ngày 26 tháng 09 năm 2014

– Chính phủ (2016), Nghị định số 69/2016/NĐ-CP về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ, ban hành ngày 1 tháng 7 năm 2016.

– García-Teruel, P. J. and Martínez-Solano, P. (2010), ‘Determinants of trade credit: A comparative study of European SMEs’, International Small Business Journal, số 28(3), tr. 215–233.

– Hoàng Trần Hậu và Vũ Sỹ Cường (2015), “Chuyên đề 24: Thị trường mua bán nợ– thực trạng và triển vọng phát triển ở Việt Nam”, truy cập ngày 7/12/2017, http://www.daotaomof.vn/bvct/chi-tiet/369/chuyen-de-24-thi-truong-mua-ban-no-thuc-trang-va-trien-vong-phat-trien-o-viet-nam.html.

– Nguyễn Thu Hương (2016), Luận án Tiến sĩ kinh tế Học viện Tài chính, “Phát triển thị trường mua bán nợ xấu tại Việt Nam”.

– Thời báo Tài chính Việt Nam (2017), Chứng khoán hóa nợ xấu để phát triển thị trường mua bán nợ, truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019, từ http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/tien-te-bao-hiem/2017-11-29/chung-khoan-hoa-no-xau-de-phat-trien-thi-truong-mua-ban-no-50963.aspx

– Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 517/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch phát triển dịch vụ xếp hạng tín nhiệm đến 2020 và tầm nhìn đến 2030, ban hành ngày 17 tháng 04 năm 2015.

– Ủy ban thường vụ quốc hội (1999), Pháp lệnh số 17/1999/PL-UBTVQH10 về thương phiếu, ban hành ngày 24 tháng 12 năm 1999.

Bài đăng trên Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 16/2020

Gỡ ‘Nút Thắt’ Thị Trường Mua Bán Nợ Xấu

Theo số liệu từ Công ty Quản lý tài sản của các TCTD (VAMC), tính đến tháng 8/2020, lũy kế mua nợ bằng trái phiếu đặc biệt (TPĐB) đạt 329.007 tỉ đồng. Trong đó, mua nợ bằng TPĐB sau khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực đạt 67.612 tỉ đồng, mua nợ theo giá trị thị trường từ 2017 đến 2020 đạt 8.341 tỉ đồng. Kết quả thu hồi nợ từ biện pháp xử lý tài sản đảm bảo tăng gấp 1,5 lần so với giai đoạn trước đó. Thu hồi từ biện pháp bán nợ tăng gấp hơn 4 lần so với giai đoạn trước đó…

Đặc biệt, sau khi Nghị quyết 42 ra đời, VAMC được chấp thuận tăng vốn điều lệ lên 5.000 tỉ đồng nhằm tăng cường nguồn lực phục vụ hoạt động mua nợ theo giá trị thị trường và đã triển khai một loạt giải pháp phát triển thị trường mua bán nợ.

Hiện nay, thị trường mua bán nợ Việt Nam có sự tham gia của gần 40 doanh nghiệp. Mặc dù vậy, hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu ở thị trường sơ cấp, các khoản nợ xấu của TCTD được bán trực tiếp cho các tổ chức mua bán, xử lý nợ do Chính phủ thành lập (Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam (DATC), VAMC, hoặc tổ chức mua bán nợ khác để thu hồi nợ.

Trong khi đó, số giao dịch mua bán nợ giữa các nhà đầu tư trên thị trường thứ cấp còn tương đối hạn chế. Nguyên nhân một phần là do chưa có sàn giao dịch nợ xấuchuyên nghiệp tại Việt Nam để các TCTD, nhà đầu tư tiếp cận, trao đổi thông tin và thực hiện giao dịch các khoản nợ xấu. Chính điều này cũng làm cho thị trường mua bán nợ chưa phát triển như kỳ vọng.

Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, Chuyên gian tài chính- ngân hàng, điều quan trọng nhất là làm sao thu hút được nhà đầu tư ngoại tham gia mua bánnợ xấu. Tuy nhiên, Việt Nam chưa có thị trường chính thống, chuyên nghiệp, đã cản trở mua bán nợ của các nhà đầu tư ngoại. Do vậy để thị trường này sôi động, cần gỡ những “nút thắt” hiện nay đang cản trở mua bán nợ theo giá thị trường và tăng thanh khoản cho thị trường này.

Đến nay, quy định pháp luật về xử lý nợ xấu nói chung và xử lý tài sản đảm bảo của các khoản nợ xấu nói riêng còn nhiều bất cập, chồng chéo, chưa tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho các ngân hàng xử lý nợ xấu.

Cụ thể, chưa có quy định cụ thể về tiêu chuẩn thẩm định giá khoản nợ làm cơ sở cho các tổ chức thẩm định giá thực hiện. Việc ban hành một khung pháp lý hoàn chỉnh, vững chắc về xử lý nợ xấu không chỉ giúp ngân hàng bớt thấp thỏm trong xử lý nợ xấu, mà còn khiến nhà đầu tư yên tâm hơn khi tham gia thị trường này.

Vì vậy, để tạo lập, phát triển thị trường mua bán nợ, ông Nguyễn Giang Nam- Phó Tổng Giám đốc VAMC cho rằng, cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý về phát triển thị trường mua bán nợ, xây dựng và ban hành tiêu chuẩn thẩm định giá khoản nợ tạo cơ sở pháp lý để thực hiện, thành lập Hiệp hội các công ty mua bán nợ (AMC) nhằm kết nối, chia sẻ thông tin, minh bạch thông tin về hàng hóa (nợ xấu và tài sản bảo đảm)… Bên cạnh đó, cần có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư, kể cả nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường mua bán nợ xấu thông qua việc tăng quyền của chủ nợ.

Những Giải Pháp Tạo Lập Thị Trường Mua Bán Nợ

Các TCTD vẫn phải trích lập 20% dự phòng rủi ro trong vòng 5 năm và có trách nhiệm thu đòi nợ. Nguồn: internet

Bên cạnh đó, nên nghiên cứu việc cho ra đời hoạt động của các công ty định giá có chức năng định giá độc lập các khoản nợ như mô hình các công ty định giá hiện tại. Việc ra đời các công ty dạng này sẽ giúp cả bên mua nợ và bên bán nợ có cơ sở để xem xét, quyết định việc mua bán và đảm bảo việc mua bán nợ được thực hiện khách quan. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các TCTD nhà nước, khi trách nhiệm về sử dụng và mất vốn luôn rất nặng nề.

Khi đã có sự thống nhất về cách phân loại nợ và tỷ lệ nợ xấu thì quy định buộc các TCTD phải bán nợ cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) nếu tỷ lệ nợ xấu trên 3% mới phát huy được hiệu quả, buộc các TCTD phải thực hiện bán nợ, làm tăng cung của thị trường.

Giải pháp phía cầu Xây dựng chính sách ưu đãi thuế

Nhiều nhà đầu tư (NĐT) sau khi mua nợ không bán lại nợ, mà trực tiếp cấp thêm vốn để khôi phục và phát triển hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, trước khi bán lại để thu hồi vốn. Vì thế, chính sách ưu đãi thuế đối với hoạt động mua bán nợ sẽ khuyến khích và tạo động lực cho các NĐT tham gia.

Ổn định và lành mạnh hóa thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán (TTCK) có mối liên hệ chặt chẽ với thị trường mua bán nợ và việc tái cấu trúc nền kinh tế. Doanh nghiệp sau khi được mua bán sẽ được đầu tư vốn để khôi phục hoạt động sản xuất – kinh doanh, đến khi có đủ điều kiện, chủ nợ mới sẽ tiến hành phát hành cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO) và đưa doanh nghiệp lên niêm yết trên sàn chứng khoán để thu hồi vốn. Đây là cách phổ biến được các nước phát triển áp dụng để xử lý nợ xấu, trường hợp tiêu biểu nhất gần đây chính là Công ty General Motors đã niêm yết trở lại TTCK Mỹ sau hơn 1 năm nộp đơn tuyên bố phá sản (Chính phủ Mỹ đã bỏ ra gần 50 tỷ USD và tiếp nhận 61% cổ phần của Công ty).

Một TTCK minh bạch, tăng trưởng tốt sẽ là thước đo chính xác sức khỏe của các doanh nghiệp niêm yết nói riêng và nền kinh tế nói chung, đồng thời làm tăng niềm tin của các NĐT mua nợ, bởi TTCK là một trong những biện pháp thu hồi vốn đầu tư.

Mở cửa cho NĐT nước ngoài

Tại Hội thảo “Chuyển động kinh tế vĩ mô và triển vọng tái cấu trúc hệ thống TCTD Việt Nam” mới đây, TS. Lê Xuân Nghĩa cho biết, mặc dù VAMC mới ra đời, nhưng đã có rất nhiều NĐT nước ngoài muốn mua nợ xấu của Việt Nam, trong số đó có những NĐT lớn của thế giới như Blackstone Group, Deutsche Bank Capital…

Thực lực của các công ty mua bán nợ tại Việt Nam hiện không đủ sức để xử lý khoản nợ xấu lớn với giá trị khoảng 14 tỷ USD, vì vậy Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích các NĐT nước ngoài tham gia thị trường mua bán nợ. Với nguồn vốn lớn và kinh nghiệm hàng chục năm phát triển thị trường mua bán nợ, các NĐT ngoại sẽ là một trong những đối tác tham gia hoạt động hiệu quả trên thị trường Việt Nam.

Thúc đẩy phạm vi hoạt động của các AMC

Các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) của các ngân hàng thường chỉ co hẹp hoạt động trong việc xử lý nợ của ngân hàng mẹ. Nếu các công ty này không tham gia mua bán các khoản nợ của các ngân hàng khác, thì không thể hình thành thị trường mua bán nợ tập trung. NHNN nên có quy định, các TCTD có nợ xấu trên 3% phải thành lập AMC riêng, phạm vi hoạt động là toàn bộ tài sản và các khoản nợ xấu trên thị trường.

Hoàn thiện khung pháp lý

Muốn có thị trường mua bán nợ thì phải có người mua, người bán; phải có khuôn khổ pháp lý tốt cho thị trường hoạt động. Đặc biệt, muốn thu hút các NĐT nước ngoài tham gia thị trường này thì khuôn khổ pháp lý phải tạo thuận lợi cho họ, đặc biệt là vấn đề trần tỷ lệ sở hữu tại các doanh nghiệp, nhất là các ngân hàng, cũng như việc sở hữu tài sản tại Việt Nam, nhất là bất động sản. Cần rà soát và xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về mua bán nợ, về quan hệ giữa công ty xử lý nợ với các TCTD. Môi trường đầu tư minh bạch, rõ ràng, thủ tục nhanh chóng, đơn giản sẽ thu hút được NĐT nước ngoài tham gia thị trường.

Một số giải pháp khác Thành lập Hiệp hội Các công ty mua bán nợ

Thực tế cho thấy, mô hình hiệp hội hoạt động tương đối hiệu quả tại Việt Nam. Tuy đã có Hiệp hội Ngân hàng, nhưng việc thành lập Hiệp hội Các công ty mua bán nợ có thể là nhân tố cần thiết để thị trường mua bán nợ Việt Nam có điều kiện phát triển. Hiệp hội là đại diện cho tiếng nói của các công ty mua bán nợ, bao gồm VAMC, DATC và các AMC của các TCTD cũng như các tổ chức, doanh nghiệp khác có chức năng mua bán nợ.

Thêm các giải pháp xử lý nợ xấu

Việc thành lập VAMC đang bắt đầu phát huy tác dụng khi đã có nhiều TCTD đánh tiếng muốn bán nợ xấu. Đến nay, VAMC đã mua được 38.900 tỷ đồng nợ xấu, tương đương 32.400 tỷ đồng giá trị trái phiếu đặc biệt. Tuy nhiên, sau khi mua nợ xấu, VAMC làm gì thì vẫn chưa rõ ràng. Đối với những khoản nợ này, các TCTD vẫn phải trích lập 20% dự phòng rủi ro trong vòng 5 năm và có trách nhiệm thu đòi nợ.

Trường hợp VAMC không bán được nợ xấu, các TCTD sẽ phải mua lại các khoản nợ xấu đã bán và tiếp tục xử lý. Như vậy, nợ xấu không được xử lý dứt điểm, mà chỉ tạm thời chuyển khỏi bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp chuyển sang VAMC trong vòng 5 năm. Đây chỉ là biện pháp tạm thời để giảm bớt tỷ lệ nợ xấu, giúp các ngân hàng giải quyết một phần vốn tồn đọng trong nợ xấu để đưa dòng tiền vào lưu thông trong nền kinh tế.

Kỳ 1: Góc Nhìn Tổng Quan Thị Trường Bán Lẻ Việt Nam

SỨC HẤP DẪN CỦA THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM

Việt Nam sở hữu một thị trường bán lẻ vô cùng tiềm năng, trị giá 127.7 tỉ USD vào năm 2017 và xếp hạng 6 trong Chỉ số Phát triển Bán lẻ Toàn cầu (GDRI). Đồng thời, thị trường tăng trưởng khá ổn đinh trong những năm gần đây, và được kì vọng sẽ đạt mức 10.3%/năm cho giai đoạn 2018 – 2020. Tuy nhỏ về qui mô nhưng với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, hiện thị trường bán lẻ Việt Nam đang đầy sức hấp dẫn với mức độ bão hòa khá thấp.

Có rất nhiều yếu tố đóng góp vào sự phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam, có thể kể đến như sự lớn mạnh của tầng lớp thu nhập trung bình trong xã hội. Được dự đoán sẽ đạt 44 triệu người vào năm 2020, đối tượng này thường có xu hướng ưa chuộng hàng chất lượng cao và đòi hỏi nhiều trải nghiệm mua sắm cao cấp hơn. Ngoài ra, kể từ năm 2013, chỉ số niềm tin người tiêu dùng Việt ngày càng gia tăng, chạm đỉnh 94.9 vào H1 2016, và được dự đoán sẽ tiếp tục ổn định ở mức cao trong thời gian sắp tới. Cuối cùng, ngày càng nhiều người nước ngoài đến sinh sống và làm việc tại Việt Nam đồng nghĩa với nhu cầu hàng hóa cũng ngày càng đa dạng, tạo cơ hội cho các sản phẩm nước ngoài tiến vào thị trường.

II. CÁC THÀNH PHẦN TRONG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM

Thị trường bán lẻ Việt Nam được chia làm ba kênh chính: Truyền thống, Hiện đại và Điện tử. Do thương mại điện tử đã được Ipsos BC phân tích trong các Kỳ trước, Kỳ này sẽ tập trung chủ yếu vào hai kênh Truyền thống và Hiện đại.

Các tiểu thương, chủ cửa hàng tạp hóa nhỏ lẻ nên chuẩn bị tinh thần sẵn sàng đối mặt với thách thức đến từ sự gia tăng không ngừng của các cửa hàng tiện lợi. Để đối phó với thực trạng này, Ipsos BC cho rằng các cửa hàng tạp hóa có thể tìm đến các mô hình nhượng quyền để liên kết với tập đoàn lớn, hoặc chuyển đổi mô hình kinh doanh để tránh đối đầu trực tiếp với các cửa hàng tiện lợi đến từ các tập đoàn bán lẻ lớn mạnh về vốn.

Các doanh nghiệp có thể nắm bắt thời cơ này để nhanh chóng bước chân vào thị trường bán lẻ Việt Nam với độ bão hòa thấp. Tuy nhiên, cần lưu rằng mức độ cạnh tranh trong thị trường hiện đang khá cao, với các tập đoàn lớn đang cạnh tranh dữ đội để chiếm ưu thế về mặt bằng.

Tiếp theo Kỳ 2: Cuộc Cạnh Tranh Giữa Truyền Thống và Hiện Đại trong Thị Trường Bán Lẻ

Bạn đang đọc nội dung bài viết Phát Triển Bền Vững Thị Trường Mua Bán Nợ Doanh Nghiệp Tại Việt Nam: Góc Nhìn Từ Công Ty Tnhh Mua Bán Nợ trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!