Đề Xuất 4/2023 # Phát Triển Bền Vững Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam # Top 9 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 4/2023 # Phát Triển Bền Vững Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam # Top 9 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Phát Triển Bền Vững Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Tốc độ tăng trưởng doanh thu phí toàn thị trường năm 2017 duy trì trên 20%

Kết thúc giai đoạn 2011-2015, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã đạt vượt mức hầu hết các chỉ tiêu trung hạn đề ra tại Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm giai đoạn 2011-2020. Cụ thể, tổng doanh thu của toàn thị trường trong giai đoạn 2011 – 2015 đạt mức tăng trưởng bình quân 16,8%/năm.

Trong đó, doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân 17,94%/năm; Doanh thu hoạt động đầu tư tăng bình quân 12,19%/năm; Tổng tài sản tăng bình quân 15,57%/năm; tổng các quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhằm sẵn sàng đáp ứng nghĩa vụ chi trả bồi thường cho khách hàng của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng bình quân 16,78%/năm.

Năm 2016, tốc độ tăng trưởng doanh thu phí của toàn thị trường bảo hiểm đạt 24,46% so với năm 2015; Tổng tài sản toàn thị trường ước đạt 240.507 tỷ đồng, tăng 18,72% so với năm 2015; Tổng đầu tư trở lại nền kinh tế ước đạt 192.896 tỷ đồng, tăng 20,14% so với năm 2015.

Các sản phẩm bảo hiểm được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp hơn 1.187 sản phẩm bảo hiểm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đa dạng của khách hàng. Nhiều loại hình sản phẩm mới, bảo hiểm vì mục tiêu an sinh xã hội đã được các doanh nghiệp bảo hiểm nghiên cứu, triển khai như: Bảo hiểm liên kết đầu tư, bảo hiểm vi mô, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm bảo lãnh, bảo hiểm hưu trí…

Bên cạnh các kênh phân phối truyền thống, các kênh phân phối mới như bảo hiểm qua ngân hàng, bán bảo hiểm qua các đối tác kinh doanh, bán hàng trực tuyến, điện thoại…. cũng được các doanh nghiệp triển khai, giúp khách hàng tiếp cận dễ dàng hơn với các sản phẩm bảo hiểm.

Năng lực tài chính, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam được nâng cao, hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm đã xây dựng đầy đủ các quy trình nghiệp vụ theo quy định của pháp luật, từng bước chuẩn hoá các khâu trong hoạt động kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đã tổ chức được hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả, đầu tư phát triển hệ thống công nghệ thông tin hiện đại phục vụ cho hoạt động kinh doanh và công tác quản trị, điều hành.

Năm 2017, tình hình kinh tế thế giới khởi sắc hơn đã có tác động tích cực đến nền kinh tế trong nước. Đồng thời, Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp phát triển kinh tế – xã hội, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong bối cảnh chung đó, thị trường bảo hiểm Việt Nam tiếp tục đạt được nhiều kết quả tích cực.

Dự báo cả năm 2017, tốc độ tăng trưởng doanh thu phí của toàn thị trường sẽ được duy trì ở mức trên 20%; Tổng tài sản toàn thị trường được dự báo đạt 301.346 tỷ đồng, tăng 21,96% so với năm 2016; Tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế ước đạt 246.173 tỷ đồng, tăng 26,66% so với năm 2016.

Hoàn thiện chính sách, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển

Thị trường bảo hiểm phát triển ổn định trong những năm qua là nhờ khung khổ pháp lý trong lĩnh vực này ngày càng được hoàn thiện, góp phần tạo môi trường kinh doanh minh bạch, bình đẳng, tạo thuận lợi cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm, đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế. Trong giai đoạn 2011-2015, có 31 văn bản quy phạm pháp luật được ban hành gồm các Nghị định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Bộ Tài chính.

Những văn bản này đã được rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới tập trung vào các mục tiêu tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp bảo hiểm tăng trưởng hiệu quả, tăng cường quản trị doanh nghiệp, cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo an toàn tài chính và quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.

Năm 2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định 73/2016/NĐ-CP thay thế 4 Nghị định về kinh doanh bảo hiểm, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc của doanh nghiệp, tạo hành làng pháp lý đầy đủ, minh bạch, bình đẳng và đồng bộ, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính, khơi thông nguồn vốn trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, tạo thuận lợi cho sự phát triển của thị trường.

Nhằm thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của thị trường bảo hiểm, Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ ban hành các Nghị định về bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm vi mô, bảo hiểm cháy nổ bắt buộc và Nghị định sửa đổi bổ sung Nghị định số 98/2012/NĐ-CP nhằm tạo hành lang pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp bảo hiểm triển khai các sản phẩm mới.

Khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế

Thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng thể hiện được vai trò, vị trí trong nền kinh tế – xã hội, góp phần thực hiện thành công các giải pháp chủ yếu về chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước. Thể hiện cụ thể như:

Một là, thị trường bảo hiểm là công cụ hữu ích bảo vệ tài chính cho các nhà đầu tư. Đến nay, bảo hiểm đã và đang bảo vệ cho hầu hết tất cả các loại hình tài sản của mọi thành phần và ngành nghề kinh tế với nhiều loại hình bảo hiểm đa dạng như bảo hiểm tài sản thiệt hại, bảo hiểm hàng không, bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm thủy sản….

Theo thống kê của các doanh nghiệp bảo hiểm, có khoảng 80% các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình kinh tế lớn của Nhà nước đã và đang được các doanh nghiệp bảo vệ về mặt tài chính trong trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm mà không cần phải sử dụng đến nguồn kinh phí hỗ trợ thiệt hại từ ngân sách nhà nước, góp phần thực hiện chính sách tài khóa.

Hai là, bảo hiểm đã và đang góp phần bổ trợ cho các chính sách an sinh xã hội. Hiện nay có gần 10 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, sức khỏe (trong đó có 6 triệu người tham gia bảo hiểm nhân thọ, 4 triệu người tham gia bảo hiểm phi nhân thọ); 12 triệu học sinh được bảo hiểm sức khỏe, tai nạn; 18 triệu lượt khách được bảo hiểm hàng không; trên 12 triệu lượt khách được bảo hiểm tai nạn đường sắt; 1.620 triệu lượt khách được bảo hiểm tai nạn hành khách vận chuyển đường bộ.

Những người được bảo hiểm nói trên đã có thể tự thu xếp, bảo vệ về mặt tài chính, được bảo hiểm chi trả bồi thường khi không may xảy ra tai nạn, ốm đau, mà không cần tới sự hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức xã hội đã triển khai bảo hiểm vi mô dành cho người có thu nhập thấp với doanh thu phí đạt 25,58 tỷ đồng, tổng số quyền lợi bảo hiểm chi trả là 3,9 tỷ đồng.

Ba là, bảo hiểm góp phần thực hiện các chương trình mục tiêu, nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ. Việc thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp đã được triển khai ở 20 tỉnh, thành phố và thu hút 304.017 hộ nông dân tham gia, được sự hưởng ứng cao của cả người dân và các địa phương, góp phần vào việc thực hiện chính sách tam nông của Đảng và Nhà nước. Tổng giá trị bảo hiểm của cả chương trình thí điểm là 7.747,9 tỷ đồng, tổng số tiền bồi thường bảo hiểm là 712,9 tỷ đồng.

Bốn là, bảo hiểm là kênh huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh tế. Tính đến hết năm 2016, tổng nguồn vốn đầu tư trở lại nền kinh tế của các doanh nghiệp bảo hiểm ước đạt 194.374 tỷ đồng, góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư dài hạn ổn định cho nền kinh tế.

Trong đó, tổng số tiền đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm vào trái phiếu chính phủ ước đạt gần 97.900 tỷ đồng, với 90% là trái phiếu chính phủ dài hạn, góp phần thực hiện thành công các kế hoạch phát hành trái phiếu chính phủ, ổn định kinh tế vĩ mô.

Năm là, thị trường bảo hiểm phát triển đã thúc đẩy hội nhập, hợp tác kinh tế quốc tế. Trong các hiệp định tự do hoá thương mại song phương và đa phương, lĩnh vực bảo hiểm luôn cam kết với lộ trình và mức độ mở cửa thị trường cao, tạo điều kiện thúc đẩy hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào các thị trường lớn có mức độ bảo hộ cao như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản…

Đảm bảo thị trường bảo hiểm phát triển bền vững 

Sự tăng trưởng kinh tế và các chính sách hỗ trợ phát triển thị trường dịch vụ của Chính phủ trong thời gian sắp tới sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện của thị trường bảo hiểm. Mức độ thâm nhập của bảo hiểm hiện nay mới chỉ đạt 2,44% so với GDP thấp hơn so với mức trung bình của khối ASEAN (3,55%), châu Á (5,37%) và mức trung bình thế giới (6,3%). Đặc biệt, một số lĩnh vực như bảo hiểm thiên tai, bảo hiểm tài sản công, bảo hiểm xuất nhập khẩu, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe… tiềm năng của thị trường vẫn chưa được khai thác hết.

Bên cạnh những cơ hội, thị trường bảo hiểm cũng phải đối mặt với nhiều thách thức như: Nền kinh tế Việt Nam chưa thực sự ổn định; thảm họa, thiên tai xảy ra với tần suất ngày càng lớn; rủi ro bảo hiểm diễn ra nhiều, khó lường, số lượng ngày càng tăng… gây ra những ảnh hưởng bất lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Những thay đổi của cuộc Cách mạng 4.0 và xu thế hội nhập sâu rộng của kinh tế toàn cầu đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hơn nữa năng lực quản trị, hiệu quả kinh doanh và khả năng tài chính.

Phát huy kết quả đạt được của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong những năm qua, để đảm bảo sự phát triển bền vững của thị trường bảo hiểm, thời gian tới cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật: Cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm một cách tổng thể theo hướng hệ thống pháp luật mới sẽ có phạm vi điều chỉnh rộng hơn và đồng bộ hơn hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong mối liên kết với các mảng thị trường dịch vụ tài chính, đảm bảo thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế về dịch vụ bảo hiểm.

Thứ hai, nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Xây dựng bộ tiêu chuẩn về đánh giá, xếp loại doanh nghiệp; ban hành các quy định về quản trị rủi ro doanh nghiệp, tiêu chuẩn, vị trí chức danh quản trị điều hành, các yêu cầu đối với hệ thống công nghệ thông tin làm cơ sở để các doanh nghiệp bảo hiểm chuẩn hóa hoạt động, nâng cao khả năng quản trị, điều hành, năng lực tài chính, chất lượng dịch vụ, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Thứ ba, đa dạng và chuyên nghiệp hóa các kênh phân phối bảo hiểm, tăng cường chất lượng và tính chuyên nghiệp của đội ngũ đại lý bảo hiểm, đồng thời phát huy việc áp dụng công nghệ, kỹ thuật số vào việc giới thiệu và bán các sản phẩm bảo hiểm, tăng cường sự minh bạch và khả năng tiếp cận các sản phẩm bảo hiểm của khách hàng.

Thứ tư, đổi mới phương thức quản lý giám sát, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. Công tác quản lý, giám sát cần được đổi mới theo hướng kết hợp linh hoạt giữa quản lý, giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ, tăng cường đối thoại với doanh nghiệp.

Hoạt động quản lý giám sát chuyển dần mô hình sang quản lý giám sát dựa trên cơ sở rủi ro, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, chuyển các hoạt động quản lý, giám sát từ kiểm tra trước sang kiểm tra sau (hậu kiểm), tăng cường tính chủ động, trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động quản trị điều hành, sử dụng và quản lý nguồn vốn, phù hợp với quy mô, phạm vi và đặc thù kinh doanh của từng doanh nghiệp.

Nguồn: tapchitaichinh.vn

Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam Tăng Trưởng Nhanh Và Bền Vững

(TBTCVN) – Báo cáo số liệu từ Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm (QLBH) Bộ Tài chính cho thấy, năm 2017,  thị trường BH tiếp tục tăng trưởng khả quan.

Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Xuân Hà (thứ 7 từ phải qua) chụp ảnh lưu niệm với các đại biểu tham dự Hội nghị thường niên thị trường BH năm 2017 Ảnh: H.T

Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với sự chỉ đạo, điều hành sát sao của Chính phủ, lãnh đạo Bộ Tài chính, sự quyết tâm cao của cơ quan quản lý bảo hiểm (BH) và sự đồng hành của các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH), Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, thị trường BH tiếp tục tăng trưởng khả quan. Tổng doanh thu toàn thị trường ước đạt 105.611 tỷ đồng, tăng trưởng 21,2% (so với năm 2016).

Tiếp tục đà tăng trưởng nhanh

Nhằm duy trì thị trường BH Việt Nam phát triển an toàn, lành mạnh, tại Hội nghị thường niên thị trường BH năm 2017, Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Xuân Hà đã yêu cầu Cục QLBH, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cũng như các DNBH phối hợp tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách; thực hiện tốt công tác quản lý, giám sát; chấn chỉnh những tồn tại được phát hiện trong quá trình thanh tra, kiểm tra; đồng thời tiếp tục triển khai các chương trình mục tiêu như: BH thiên tai, BH nông nghiệp, BH thủy sản, BH vi mô, BH hưu trí…

“Các DNBH cần đổi mới hơn nữa công tác quản trị DN theo hướng chuyên nghiệp, phù hợp với thông lệ quốc tế; quan tâm đến việc đa dạng hóa và phát triển sản phẩm, mở rộng các kênh phân phối như bancassurance, hệ thống đại lý, thương mại điện tử; hợp tác cạnh tranh lành mạnh và tuân thủ pháp luật trong quá trình hoạt động kinh doanh; thực hiện tốt việc chi trả quyền lợi BH cho các tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư không may gặp rủi ro…”, Thứ trưởng nhấn mạnh.

Theo đó, với sự chỉ đạo, điều hành sát sao của lãnh đạo Bộ Tài chính, sự quyết tâm cao của cơ quan quản lý BH và sự đồng hành của các DNBH, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, thị trường BH năm 2017 tiếp tục tăng trưởng khả quan. Tổng doanh thu toàn thị trường BH ước đạt 105.611 tỷ đồng, tăng trưởng 21,2%.

Đến nay thị trường đã có 62 DNBH, trong đó có 29 DNBH phi nhân thọ, 18 DNBH nhân thọ, 14 DN môi giới bảo hiểm, 2 doanh nghiệp tái bảo hiểm và 1 chi nhánh DNBH phi nhân thọ nước ngoài. Các DNBH đã tích cực đóng góp vào phát triển kinh tế – xã hội. Cụ thể, năm 2017, tổng số tiền các DNBH đầu tư trở lại nền kinh tế ước đạt 247.801 tỷ đồng, tăng 26,74%. Bên cạnh đó, năng lực tài chính của DNBH ngày càng được tăng cường vững chắc; giá trị tổng tài sản toàn thị trường BH đến hết năm 2017 ước đạt 302.935 tỷ đồng, tăng 23,44%.

Cũng theo Cục QLBH, trong năm 2017, các DNBH đã thực hiện tốt chức năng là tấm lá chắn tài chính cho người tham gia BH trước rủi ro bất ngờ xảy ra. Theo đó, các DNBH đã bồi thường và trả tiền BH ước đạt  29.423 tỷ đồng, tăng 14,92%.

Bên cạnh đó, công tác quản lý, giám sát thị trường cũng được Cục QLBH thực hiện theo phương pháp, cách thức đổi mới và hiệu quả. Công tác thanh kiểm tra DNBH được tăng cường bao gồm cả thanh kiểm tra toàn diện và theo chuyên đề. Qua đó, cơ quan quản lý không chỉ phát hiện, ngăn ngừa các vi phạm mà còn phát hiện bất cập trong cơ chế chính sách để sửa đổi, bổ sung từ đó tạo môi trường pháp lý ngày càng hoàn thiện, góp phần đảm bảo thị trường phát triển lành mạnh, an toàn và hiệu quả. 

Đại biểu và các DNBH dự Hội nghị thường niên thị trường BH năm 2017 Ảnh: H.T

Đặc biệt, hệ thống khung khổ pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh BH tiếp tục được hoàn thiện. Trong năm 2017, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành các nghị định về BH nông nghiệp, Nghị định thay thế Nghị định số 130/2006/NĐ-CP về BH cháy nổ bắt buộc; ban hành Thông tư số 50/2017/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Kinh doanh BH; sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2012/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh BH, kinh doanh xổ số… 

Các văn bản mới được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý đồng bộ hỗ trợ DNBH triển khai áp dụng quy định pháp luật, tháo gỡ vướng mắc, hỗ trợ DNBH triển khai các sản phẩm mới, nâng cao năng lực nhận BH…, thúc đẩy DNBH phát triển bền vững.

Theo lãnh đạo Cục QLBH, những kết quả đạt được trong năm 2017 đã và đang tạo đà để thị trường BH có những bước phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn tiếp theo. 

Mở rộng thị trường năm 2018

Để đảm bảo thị trường BH tiếp tục phát triển bền vững trong năm 2018 và những năm tiếp theo, đại diện Cục QLBH cho biết, sẽ tập trung thực hiện một số giải pháp thúc đẩy thị trường BH phát triển; trong đó tiếp tục tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật như: Trình Chính phủ ban hành nghị định về BH vi mô do các tổ chức chính trị, xã hội triển khai. Đồng thời, Bộ Tài chính tổng kết, đánh giá để trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 103/2008/NĐ – CP  và Nghị định số 214/2013/NĐ-CP về BH bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

Các chính sách mới cũng đồng thời khuyến khích, hỗ trợ các DNBH phát triển và đa dạng hóa sản phẩm BH; đa dạng và chuyên nghiệp hóa các kênh phân phối BH. Bên cạnh đó, cơ quan QLBH sẽ nghiên cứu, ban hành hướng dẫn đối với các hoạt động giao dịch điện tử trong lĩnh vực BH, tạo hành lang pháp lý cho các DNBH triển khai các kênh phân phối mới…

Chủ tịch Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam Phan Kim Bằng chia sẻ: Nhu cầu về BH của người dân đang tiếp tục tăng. Nhận thức của người dân và các tổ chức kinh tế về vai trò của BH tiếp tục được nâng cao. Bên cạnh đó, việc cơ quan quản lý nỗ lực ban hành những chính sách mới của Nhà nước về BH, những sửa đổi về chủ trương, quy định pháp luật trong nghị định về BH nông nghiệp; nghị định về BH cháy nổ bắt buộc… sẽ hỗ trợ, tạo điều kiện để thị trường BH tiếp tục phát triển bền vững, duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong năm 2018.

Đại diện Cục QLBH cho biết, với những nỗ lực của cơ quan quản lý và của DNBH trong năm 2018, sẽ giúp thị trường thu hút được nhiều hơn nữa các nhà đầu tư có uy tín, đồng thời thị trường sẽ tiếp tục tăng trưởng hiệu quả, bền vững, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Dự kiến thị trường BH tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng trên 20%. 

Đặng Hương

Nguồn: Thời báo tài chính Việt Nam

Phát Triển Bền Vững Ở Việt Nam

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM

HIỆN TRẠNG, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP

GS.TS. Lê Văn Khoa

TS. Nguyễn Ngọc Sinh

Hội Bảo Vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE)

                                               

I. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG (PTBV) LÀ TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM

        Pierre Gourou, nhà địa lý học nổi tiếng trên thế giới, chuyên gia về các vùng nhiệt đới ẩm, đã đề xuất một khái niệm về văn minh của loài người. Ông cho rằng,Việt Nam có truyền thống hàng nhiều thế kỷ về PTBV. Một nền văn hoá có hiệu suất cao về mật độ, không gian và thời gian (Pierre Gourou, 1982).

Pierre Gourou, nhà địa lý học nổi tiếng trên thế giới, chuyên gia về các vùng nhiệt đới ẩm, đã đề xuất một khái niệm về văn minh của loài người. Ông cho rằng,Việt Nam có truyền thống hàng nhiều thế kỷ về PTBV. Một nền văn hoá có hiệu suất cao về mật độ, không gian và thời gian (Pierre Gourou, 1982).

          Với khái niệm này nền văn hoá đồng nghĩa với khả năng duy trì cuộc sống của con người. Sự duy trì này không hoàn toàn phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên được duy trì. Các châu thổ các sông tại các vùng nhiệt đới khác nhau trên thế giới hầu như có điều kiện đất đai, thuỷ văn, khí hậu tương tự như nhau, nhưng có khả năng duy trì rất khác nhau. Mật độ dân số trung bình của các châu thổ nhiệt đới ở Châu Phi và Nam Mỹ là 14 người/km2, ở Châu Á là 170 người/km2. Tại Đồng Bằng Sông Hồng (ĐBSH), mật độ này là 430 người vào năm 1931; 650 người vào năm 1975 và vào khoảng 1.238 người/km2 hiện nay. ĐBSH rộng 15.000 km2. Khả năng duy trì cuộc sống lâu dài này đã lôi cuốn sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau: địa lý; lịch sử; nhân học; kinh tế… Ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài “nền văn hoá sông Hồng“, “nền văn minh lúa nước”, “phương thức sản xuất Châu Á”…là thuật ngữ đã được dùng để chỉ rõ đặc trưng về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và mối quan hệ giữa con người với tài nguyên thiên nhiên trên ĐBSH. Đó là do:

          – Người dân đã sử dụng các công nghệ với những đặc điểm tiêu tốn ít năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo của mặt trời, thuỷ lực, gió, thuỷ triều; sử dụng vật liệu tái tạo, tìm được tại chỗ hoặc gần nơi sản xuất; sử dụng, tái chế tất cả các phế thải, phụ phẩm của quá trình sản xuất và tiêu dùng. Trong vườn nhà của người nông dân ĐBSH tài nguyên đất được sử dụng 2-3 vụ mỗi năm, nguồn nước được sử dụng nhiều lần từ dùng để uống, đun nấu, rửa đến tưới vườn, ruộng. Năng lượng mặt trời được dùng để phơi sấy, năng lượng thuỷ triều để tưới tiêu, gió để đẩy thuyền; nhiệt lượng từ không khí để biến thực phẩm qua lên men. Nhiều vật liệu xây dựng lấy từ cây cỏ, tre nứa. Nước bẩn từ nhà bếp, nhà vệ sinh chảy về vườn, ruộng.

          – Sự tạo lập nên những giá trị văn hoá đề cao sự tự tôn trong lao động sản xuất, tiết kiệm trong tiêu thụ và sử dụng tài nguyên, tránh những hành động can thiệp vào cân bằng và hài hoà của thiên nhiên. Trong xã hội truyền thống ở Việt Nam, người có học được đặt vào vị trí cao nhất (nhất sĩ) người nông dân được đặt ở vị trí thứ hai(nhì nông). Kham khổ, tiết chế trong ăn, mặc, ở, được xem là đức tính quan trọng, ăn chay, cấm sát sinh là những tập quán phổ biến trong tín đồ phật giáo.

– Một hệ thống xã hội phát triển tinh thần đoàn kết, tương trợ trong nhân dân, tạo nên khả năng huy động tài sản của cộng đồng hoặc của cá nhân nhằm đảm bảo cho những việc công ích, kể cả việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, phòng chống thiên tai và bảo vệ môi trường (BVMT) đang là cơ sở tổ chức xã hội này.

– Từ kinh nghiệm nhiều thế kỷ tại ĐBSH có thể thấy rằng PTBV là có khả năng hiện thực. Tính hiện thực này dựa trên sự tổ hợp của lựa chọn đúng đắn điều kiện thiên nhiên, sử dụng công nghệ “sạch” thích hợp và hình thành một nền văn minh hoá PTBV.

Chiến lược PTBV do IUCN, UNEP, WWWF soạn thảo xác định:

“Đạo đức tạo nên một cơ sở cho PTBV”. Dựa trên nền tảng này, các tổ chức trên đề nghị:

          “Phải đề cao đạo đức của thế giới về PTBV; mở rộng và tăng cường giáo dục môi trường; thừa nhận và cải tiến ý thức tập thể và cộng đồng về PTBV; chấp nhận luật pháp và sáng kiến củng cố các biện pháp PTBV”(IUCN,UNEP, WWF,1989).

          Gần đây, quốc tế lại đánh giá cao về hệ thống lúa nước có tưới và xem là một hệ thống canh tác bền vững nhất do người Việt Nam sáng tạo. Đó là do:

          1. Là một hệ canh tác bền vững, ổn định về năng suất và an toàn để đầu tư thâm canh. Hệ thống tưới tiêu đã nhân tạo hoá một phần điều kiện tự nhiên để canh tác lúa nước.

          2. Hạn chế lũ lụt: đê điều nhằm bảo vệ các cánh đồng lúa khỏi bị ngập lụt, nhưng mặt khác cần thấy tác động ngược lại là chính cánh đồng lúa đã góp phần hạn chế lũ lụt. Có thể xem vai trò các cánh đồng lúa như các hồ chứa nước và BVMT có giá trị tương đương như các hồ chứa nước nhất là các cánh đồng cao, ít bằng phẳng.

          3. Duy trì tài nguyên nước: Các cánh đồng lúa luôn lưu giữ lớp nước trên bề mặt trải rộng trên diện tích lớn của lãnh thổ, nhờ đó đã tác động  tích cực đến chế độ nước ngầm. Nước ngầm được cánh đồng lúa duy trì đã góp phần ổn định lưu lượng các dòng sông mùa cạn và duy trì mực nước ngầm cho các giếng nước sinh hoạt.

          4. Làm trong sạch môi trường (đất và khí quyển) và tạo cảnh quan đẹp cho vùng quê. Các cánh đồng lúa và kể cả cánh đồng màu, các vườn cây đã tiêu thụ, phân giải các rác thải góp phần giảm thiểu ô nhiễm đất. Đối với việc làm sạch không khí ngoài chức năng điều tiết khí CO2, các cánh đồng lúa còn hấp thu các khí độc như SO2 và NO2. Các hệ thống canh tác RVAC, nông lâm nghiệp kết hợp, xen canh, luân canh, làm ruộng bậc thang ở những vùng cao đều là những sáng tạo truyền thống của các dân tộc Việt Nam trong sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên và BVMT.

Như vậy, định hướng chiến lược để PTBV ở Việt Nam rất phù hợp với truyền thống của người dân Việt Nam và nếu có những giải pháp phù hợp sẽ khơi dậy mạnh mẽ truyền thống cao đẹp này.

II. HIỆN TRẠNG CÁC HOẠT ĐỘNG VỀ PTBV CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

          Trong quá trình hội nhập quốc tế, vào năm 1991, Việt Nam đã thông qua ” Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển lâu bền  1991-2000“. Tiếp đó, đây là một trong những hoạt động đầu tiên ở tầm quốc gia về PTBV. Ngày 17/8/2004 Chính phủ đã ra quyết định số 153/2004/TTg ban hành văn bản “Định hướng Chiến lược về phát triển bền vững ở Việt Nam – (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam)”. Nội dung của Định hướng chiến lược về PTBV bao gồm mục tiêu dài hạn, những nguyên tắc, những lĩnh vực ưu tiên,những định hướng về chính sách và biện pháp tổ chức thực hiện PTBV. Định hướng chiến lược đề ra khung chính sách để các ngành, các địa phương, các tổ chức xã hội thiết kế và thực hiện chương trình hành động tiến tới PTBV của mình.

          Định hướng chiến lược đã đề ra một số giải pháp nhằm tổ  chức thực hiện chính như sau:

          1. Phát triển hệ thống thể chế phù hợp với những yêu cầu PTBV, bao gồm hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách và các văn bản pháp luật và xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động giữa các Bộ, Ngành, địa phương.

          2. Tăng cường năng lực quản lý PTBV của đội ngũ cán bộ.

          3. Huy động toàn dân tham gia thực hiện PTBV, thấm nhuần phương châm ” PTBV là sự nghiệp của toàn dân”

          4.Xây dựng và thực hiện chương trình hành động về PTBV của ngành và địa phương.

          5. Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong lĩnh vực PTBV và BVMT.

Chương trình nghị sự 21 của Việt nam (CTNS21) đánh dấu một thời kỳ mới thực hiện quan điểm của Nhà nước Việt Nam. Đó là “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Đối với Việt Nam, đây là một cách tiếp cận mang tính hệ thống, dài hạn, bảo đảm sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội,môi trường theo hướng bền vững.

Thời gian qua, để đưa những định hướng của chiến lược vào cuộc sống được sự hỗ trợ của Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Cơ quan phát triển Quốc tế Đan Mạch (DANIDA), Cơ quan Phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA) cùng các tổ chức quốc tế khác, Dự án “Hỗ  trợ xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 quốc gia của Việt nam – VIE/01/021 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện với sự phối hợp của các Bộ, Ngành, địa phương đã triển khai nhiều hoạt động đến các tỉnh, thành và huyện, nhiều phương pháp tiếp cận, xây dựng và đánh giá định lượng các mô hình PTBV đã ra đời, trong đó phải kể đến các phương pháp xây dựng ma trận: “Động lực – Áp lực – Hiện trạng – Đáp ứng” đã trở thành phổ biến trong đánh giá tiến bộ về PTBV. Bên cạnh đó, Dự án VIE/01/021 đã lần lượt ban hành 10 chuyên đề, bước đầu kiến nghị Bộ  chỉ tiêu khởi đầu VN0  ở 2 cấp Quốc gia và các địa phương.

            Ở cấp quốc gia, gồm:

          – 12 chỉ tiêu (CT) về lĩnh vực kinh tế

          – 17 CT về lĩnh vực xã hội

         

– 12 CT về lĩnh vực tài nguyên- môi trường và

          – 3  CT về lĩnh vực thể chế nhằm PTBV

            Ở

cấp các địa phương, gồm:

           

– 7  CT về lĩnh vực kinh tế

          – 14 CT về lĩnh vực xã hội

         

– 6   CT về tài nguyên- môi trường và

          – 2   CT về lĩnh vực thể chế

          Năm 2006, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam(VACNE), với sự hỗ trợ của Dự án VIE/01/21 bước đầu phát hiện các loại mô hình trong nhiều lĩnh vực và tiến hành mô tả chi tiết và kiến nghị khả năng mở rộng nếu có điều kiện (bảng1)

Bảng 1. Các mô hình về Phát triển Bền vững ở Việt nam

Lĩnh vực

Mô hình

Số lượng mô hình đã  được nghiên cứu

Khả năng mở rộng mô hình

Công nghiệp

Sản xuất sạch hơn (cơ sở sản xuất)

                  4

     120

Nông nghiệp

Làng sinh thái

                 3

       18

Cộng đồng

Cộng đồng tham gia BVMT, PTBV(xã)

                  4

     3.000   

Thành phố

PTBV thành phố (thành phố)

                  3

        100

Vùng ven biển

PTBV vùng ven biển(tỉnh, thành phố)

                  3

          23

Lưu vực sông

PTBV lưu vực sông(lưu vực)

                  1

          20

Nguồn: Hội BVTN và MT Việt Nam, 2006

          Nhìn lại quá trình gần 5 năm thực hiện những nhiệm vụ đã nêu trong định hướng, Hội BVTN&MT Việt Nam với tư cách là tổ chức phản biện phi Chính phủ nhận thấy, kể từ khi Quyết định 153 của Chính phủ được ban hành, Việt Nam đã đạt được bước tiến khá dài trên con đường đi tới mục tiêu phát triển bền vững (PTBV). Có thể kể ra đây những kết quả chính như sau:

1. Phát triển hệ thống thể chế phù hợp với yêu cầu PTBV

          Chủ trương PTBV được các cơ quan lãnh đạo Đảng và Quốc Hội tích cực hưởng ứng và PTBV đã trở thành một quan điểm chủ đạo trong đường lối và chính sách phát triển dài hạn của Việt Nam thông qua việc lồng ghép một số chỉ tiêu cơ bản vào kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2006-2010. Một số biện pháp về tổ chức và thể chế cho PTBV đã được thành lập: sự hình thành Hội đồng PTBV quốc gia theo quyết định số 1032/QĐ/TTg ngày 27/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ và Văn phòng PTBV đặt trong Bộ KH&ĐT(Văn phòng 21) có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức, hướng dẫn và chỉ đạo thống nhất việc thực hiện trong phạm vi cả nước Chiến lược PTBV.

2. Tăng cường năng lực quản lý PTBV của đội ngũ cán bộ

          Trong những năm qua  nhiều cuộc hội thảo, lớp tập huấn đã được tổ chức ở tất cả các vùng, miền trong cả nước để phổ biến nội dung của Định hướng Chiến lược PTBV. Đặc biệt ở 6 tỉnh tiến hành thí điểm (Thái Nguyên, Sơn La, Ninh Bình, Quảng Nam, Lâm Đồng, Bến Tre).

3. Huy động được một bộ phận dân chúng tham gia thực hiện PTBV

4. Xây dựng và thực hiện chương trình hành động về PTBV của ngành và địa phương

           

Cụ thể, Thông tư hướng dẫn các Ngành và địa phương xây dựng Chương trình nghị sự 21 cấp Ngành và địa phương đã được Bộ KH &ĐT ban hành 2005 (Thông tư 01/2005/TT-BKH ngày 9/3/2005). Theo tinh thần của Thông tư này, 6 tỉnh nói trên đã  được Dự án VIE/01/021- Bộ KH&ĐT triển khai thí điểm thực hiện quy trình mẫu xây dựng CTNS21 của tỉnh. Các tỉnh còn lại, trong đó có Hà Nội, một số cũng đã và đang tiến hành xây dựng CTNS21 của địa phương mình. Tại các tỉnh làm thí điểm đã thành lập Uỷ Ban PTBV do 1 Phó Chủ tịch tỉnh làm chủ nhiệm, Giám đốc Sở KH&ĐT làm Phó Chủ nhiệm. Tại những địa phương, hoặc ngành này nhiều mô hình trình diễn về PTBV đã được thực hiện và VACNE đã tổng kết để phổ biến (bảng 1).

          Cụ thể, mô hình xây dựng Hương ước làng bản về PTBV, phổ biến các mô hình nông nghiệp kết hợp với bảo vệ rừng ở tỉnh Sơn La; phổ biến các phương thức thực hiện nông nghiệp bền vững trong việc trồng trọt và chế biến chè sạch ở 2 tỉnh Thái Nguyên và Lâm Đồng; xây dựng Quy ước cộng đồng để thực hiện du lịch sinh thái bền vững ở Ninh Bình; phổ biến quy trình tạo năng lượng sạch trong cộng đồng nghèo ở Quảng Nam; phương thức nuôi tôm sinh thái ở Bến Tre; kết hợp phát triển ngành nghề để xoá đói giảm nghèo với việc bảo tồn các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng…

5. Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong lĩnh vực PTBV và BVMT

Với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhiều Dự án quan trọng đang thực hiện nhằm xoá đói giảm nghèo, nâng cao bình đẳng giới, BVMT, giảm nhẹ tác động của thiên tai, cải cách thể chế và quản trị…

6. Xu hướng tích cực trong chính sách đảm bảo công nghiệp hoá sạch

          Xu hướng tích cực trong chính sách đảm bảo công nghiệp hoá sạch là sản xuất sạch hơn đã được chú ý thúc đẩy áp dụng ở quy mô cả nước. Chỉ thị số 08/CT-BCN ngày 10/7/2007 của Bộ trưởng Bộ công nghiệp về việc áp dụng sản xuất sạch hơn trong các cơ sở công nghiệp đã chỉ đạo các tập đoàn, tổng công ty và doanh nghiệp công nghiệp nghiên cứu, phổ biến và áp dụng.

Đến nay đã có hơn 30% số cơ sở công nghiệp áp dụng. Tuy chưa kèm theo những công cụ điều chỉnh pháp lý, khuyến khích kinh tế và hỗ trợ kỹ thuật để hiện thực hoá Chỉ thị, song đây là bước tiến về nhận thức của giới lãnh đạo công nghiệp với vai trò sản xuất sạch hơn.

7. Văn kiện Định hướng Chiến lược PTBV đặt phát triển bền vững nông nghiệp và nông thôn như là một lĩnh vực ưu tiên hàng đầu

          Bên cạnh đó, Đề án ” Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân” được Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 7 (năm 2008) thông qua đã vạch ra những kết quả, những tồn tại và giải pháp. Tuy có nhiều khó khăn thực hiện PTBV ở nông thôn do chủ yếu sản xuất tiêu nông, nhưng trong những năm gần đây đã gặt hái nhiều thành công trong chuyển giao công nghệ, trong xây dựng các mô hình sản xuất bền vững như VAC, mô hình canh tác bền vững trên đất dốc (SALT), mô hình làng kinh tế sinh thái…và phong trào làm hầm biogas đã cải thiện đáng kể bộ mặt nông thôn và ở mức độ nào đó đã thể hiện tính bền vững.

III. NHỮNG THÁCH THỨC

1. Phát triển hệ thống thể chế phù hợp với yêu cầu PTBV

          Quá trình thực hiện PTBV đã bắt đầu được các cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương chú ý và đã có những bước tiến đáng kể. Tuy vậy, tiến độ thực hiện còn chậm so với mong đợi và vì vậy tình hình phát triển kinh tế vẫn đang tiếp tục gây suy thoái môi trường và nhiều lĩnh vực xã hội yếu kém vẫn chưa được cải thiện. Những ví dụ điển hình là các vụ gây ô nhiễm môi trường trầm trọng của Công ty Vedan Việt Nam, Công ty Miwon, gần 1500 làng nghề nông thôn phát triển không bền vững, vẫn tiếp tục sản xuất theo phương thức cũ gây ô nhiễm môi trường. Một số trung tâm làng nghề ở Bắc Ninh, Hưng Yên đã hình thành, nhưng công tác quản lý yếu kém dẫn đến việc các hộ chuyển cả gia đình ra sống ở các trung tâm và chiếm dụng luôn đất đai.

          – Quyết định số 685/QĐ-BKH ngày 28/6/2004 của Bộ KH&ĐT về việc thành lập văn phòng PTBV.

          – Quyết định số 1032/QĐ-TTg ngày 27/9/2005 của Thủ tướng Chính Phủ về việc thành lập Hội đồng PTBV Quốc gia.

          – Quyết định số 248/QĐ-TTg ngày 24/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng PTBV Quốc gia.

          – Thông tư số 01/2005/TT-BKH ngày 09/3/2005 của Bộ KH&ĐT về việc triển khai thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Định hướng chiến lược PTBV ở Việt Nam.

2. Về tổ chức

          Văn phòng PTBV đã qua 4 năm hoạt động, nhưng đội ngũ cán bộ mỏng và năng lực yếu. Văn phòng chưa thực hiện được tất cả các chức năng quản lý cũng như triển khai thực hiện, đặc biệt là công tác đôn đốc, giám sát, đánh giá kết quả hoạt động PTBV. Một số tỉnh thí điểm tuy có tổ chức Uỷ ban phát triển bền vững nhưng hoạt động như thế nào là tuỳ thuộc vào từng địa phương, khâu kiểm tra, đánh giá còn yếu.

          Hội đồng PTBV quốc gia được thành lập từ 2005, ban đầu quá cồng kềnh (gồm 44 thành viên đại diện lãnh đạo các Bộ, Ngành, đoàn thể, tổng công ty lớn). Chính vì vậy, tháng 2/2009 Chính phủ đã có quyết định điều chỉnh tổ chức của Hội đồng với chức năng và nhiệm vụ tập trung hơn, cơ cấu tổ chức gọn hơn (gồm 30 thành viên).

3. Về Thông tư hướng dẫn triển khai CTNS21

          Tuy đã được phổ biến tới tất cả các tỉnh và Bộ, Ngành, nhưng mới chỉ có những tỉnh thành nằm trong diện thí điểm, được Dự án VIE/01/021 cấp kinh phí thì khởi động, tuyệt đại đa số các tỉnh, thành còn lại chưa  thực hiện đầy đủ. Lý do có thể là:

          – PTBV và CTNS21 là những vấn đề mới nên rất cần những hướng dẫn về việc xây dựng Chương trình nghị sự 21 cho các địa phương. Cần phải có sự hỗ trợ qua tập huấn, bồi dưỡng cán bộ và tư vấn về các phương pháp tiến hành công việc.

          – Chương trình nghị sự 21 quốc gia mới chỉ mang tính chất khung định hướng và chưa có văn bản nào quy định phải bắt buộc tuân thủ tất cả các Điều trong đó.

5. Định hướng Chiến lược PTBV mới chỉ dừng lại ở phạm trù lý luận, chưa thực sự đi vào thực tiễn cuộc sống. Quá trình chuyển sang phát triển theo chiều sâu hầu như không có như định hướng chiến lược đã đề ra là  chuyển tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu bằng cách áp dụng công nghệ mới, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao hiệu quả…Các cấp chính quyền hiện vẫn theo đuổi  tốc độ tăng trưởng kinh tế thông qua các chính sách thu hút đầu tư “thoáng” bằng cách xây dựng cơ sở hạ tầng ở những địa điểm thuận tiện, hạ giá cho thuê đất, ưu đãi thuế, đơn giản hoá thủ tục…Nếu xét theo các tiêu chí PTBV thì chính sách này là không bền vững, là nới lỏng những tiêu chuẩn sử dụng tiết kiệm tài nguyên quý hiếm như đất đai, khoáng sản, năng lượng và hạ thấp tiêu chuẩn BVMT. Tình trạng lãng phí đất ở các khu công nghiệp (tỷ lệ lấp đầy diện tích các khu công nghiệp trên cả nước chưa đến 50%), đã chuyển đổi gần 400.000 ha đất nông nghiệp màu mỡ  thành các khu công nghiệp, đô thị, sân golf, cho  phép đầu tư các nhà máy có nguy cơ gây ô nhiễm cao, khai thác và hối hả khai thác các loại khoáng sản để xuất khẩu thô hiện đang là những vấn đề bức xúc trong xã hội. Những ví dụ điển hình là như dự án khai thác bauxite Tây Nguyên đã thể hiện rõ nét những khía cạnh tiêu cực về kinh tế, xã hội, tài nguyên và môi trường. Việc cả nước hiện có 141 sân golf ở 39 tỉnh sử dụng 49.268 ha đất trong đó có 2.625 ha đất trồng lúa, sân golf đã trở thành một hiện tượng đang bùng nổ, là sát thủ của nhà nông, đe dọa an ninh lương thực quốc gia, mất việc làm của một bộ phận không nhỏ nông dân và gây ô nhiễm môi trường do dùng nhiều nước và hoá chất bảo vệ mặt cỏ.

6. Các nhà hoạch định chính sách và lập quy hoạch

còn xem nhẹ và chưa nhận thức đầy đủ sự cần thiết của việc gắn kết môi trường vào các quy hoạch phát triển.

Trong khi đó các nhà môi trường lại bị đứng ngoài quá trình xây dựng các quy hoạch phát triển đó. Nhiều ngành kinh tế phát triển nhanh gây áp lực lớn đến môi trường và xã hội, nhưng khi lập quy hoạch phát triển lại hầu như không đề cập đến PTBV theo khía cạnh môi trường và an sinh xã hội. Đa số các bản quy hoạch này thường nặng về phát triển kinh tế, chưa quan tâm đúng mức đến sinh kế của một bộ phận đông đảo dân cư và BVMT. Nói cách khác, nhận thức về PTBV mới chỉ dừng lại ở phạm trù lý thuyết chưa có tính thực tiễn, khoảng cách giữa nhận thức về lý luận và thực tiễn còn rất rộng. Ví dụ, công trình thuỷ điện Sơn La mang tầm cỡ Quốc gia tuy đã được tiến hành, nhưng kéo dài còn sơ sài, không xét tới tính bền vững. Việc tách riêng đánh giá tác động môi trường với tái định cư, với giao thông thuỷ bộ là không hợp lý, không thể hiện tính bền vững.

7. Công tác truyền thông về CTNS21

còn yếu ở Trung ương và địa phương, chỉ những cán bộ  quản lý chủ          chốt mới được thông tin, còn nhiều bộ phận cán bộ các Sở, Ban Ngành và cộng đồng đều thiếu thông tin. Do đó, quá trình lập quy hoạch thiếu sự tham gia của cộng đồng địa phương, dẫn đến hiệu quả và tính thực thi các quy hoạch rất thấp. Dự án VIE/01/021- Bộ KH&ĐTđã lựa chọn bộ chỉ tiêu khởi đầu gồm 58 CT. Trong đó lĩnh vực kinh tế gồm 12 CT, lĩnh vực xã hội: 17 CT; lĩnh vực TNMT 12 CT; lĩnh vực thể chế 3 CT, nhưng đến nay vẫn chưa được công bố chính thức. Một mặt khác, đến nay không có một văn bản nào  quy định về việc đưa vào giảng dạy CTNS21 ở các Trường Đại học và Cao đẳng, nếu có chỉ mang tính tự phát và theo yêu cầu của rất ít khối trường.

8. Những thách thức trong lĩnh vực xã hội:

          Thực hiện Định hướng Chiến lược PTBV, một số chính sách mới đã được ban hành trong các lĩnh vực dân số, xoá đói giảm nghèo, đô thị hoá, di dân, y tế và giáo dục là những định hướng ưu tiên. Tuy chưa tạo ra những đột phá về cơ chế, song những chính sách về xã hội cơ bản có tác dụng tích cực đối với ổn định xã hội, nâng cao thu nhập và phúc lợi của các nhóm yếu thế và nghèo, phát triển nguồn lực con người. Ví dụ điển hình là đã điều chỉnh ngưỡng nghèo theo hướng tích cực, với ngưỡng thu nhập cao hơn ở thành thị cũng như khu vực nông thôn. Nhưng do thay đổi về tổ chức, chuẩn bị không đồng bộ, quản lý bị buông lỏng nên đã tác động tiêu cực đến kết quả. Trong 5-6 năm trở lại đây, có tới 2 lần thay đổi tổ chức về công tác dân số gây xáo trộn rất lớn trong toàn bộ hệ thống chuyên trách dân số kế hoạch hoá gia đình ở các địa phương. Kết quả là, xu hướng gia tăng tốc độ tăng dân số và việc lựa chọn giới tính thai nhi đang là nỗi lo trong xã hội; mục tiêu giảm sinh năm 2007 đã không đạt chỉ tiêu của Quốc Hội. Theo báo cáo của Bộ Y tế vào tháng 6/2008, có 39/64 tỉnh thành có mức sinh tăng mạnh như Tp. HCM tăng 30%, Hà Nội tăng 27%, Sơn La tăng 40%, Sóc Trăng tăng 41%. Trong số này số trẻ là con thứ  ba tăng 17% so với cùng kỳ năm 2007.

9. Những thách thức trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường:

          Lĩnh vực BVMT gắn bó mật thiết với PTBV. Vì vậy các Bộ luật và các chính sách về tài nguyên – môi trường là một bộ phận không tách rời của quá trình phát triển. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, Việt Nam đã ban hành khoảng 300 văn bản pháp luật BVMT. Đó là những cố gắng lớn, phát huy tác dụng tích cực trong quản lý, sử dụng tài nguyên và BVMT. Tuy nhiên, hệ thống văn bản trong lĩnh vực này còn thiếu nhiều quy định cần được xem xét và bổ sung trong bối cảnh môi trường nước ta ngày càng xuống cấp nghiêm trọng. Thiếu những văn bản về chi trả dịch vụ môi trường (PES), thiếu chính sách cụ thể khuyến khích công nghệ sản xuất sạch hơn. Các chính sách còn thiếu tính hệ thống và thiếu đồng bộ. Nhiều Bộ Luật thiếu chi tiết đòi hỏi văn bản hướng dẫn thi hành Luật dài hơn so với Luật; tính ổn định không cao vì thay đổi quá nhanh, như Nghị định 80/2006/NĐ-CP về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật BVMT, được ban hành năm 2006, qua 1 năm áp dụng đã phải sửa đổi, bổ sung(ngày 28/02/2008, Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 21/2008/NĐ- CP về sửa đổi, bổ sung Nghị định 80 đối với các quy định về thời hạn và quy trình nghiệm thu báo cáo ĐTM); tác dụng răn đe của các hệ thống pháp luật thấp, chế tài xử phạt còn quá nhẹ, chỉ là những giải pháp tạm thời có tính chất cảnh cáo. Mức phạt cao nhất là 70 triệu đồng. So với chi phí để đầu tư thiết bị xử lý ô nhiễm hàng tỷ đồng, thì với mức phạt này nhiều cơ sở công nghiệp sẵn sàng nộp phạt để tiếp tục xả thải các chất thải không qua xử lý ra môi trường; 10% tổng lượng hoá chất bảo vệ thực vật dùng trong nông nghiệp không rõ xuất xứ, chủng loại và có tính độc cao vẫn tràn vào nước ta theo đường tiểu ngạch, sử dụng bừa bãi gây ô nhiễm môi trường và các vụ ngộ độc thực phẩm. Có thể đánh giá rằng, các chính sách thưởng phạt yếu, việc thực thi Luật pháp không đầy đủ và nghiêm túc làm cho các chính sách BVMT không có hiệu cao như mong đợi.

IV. NHỮNG GIẢI PHÁP CẦN THỰC HIỆN TRONG THỜI GIAN TỚI ĐỂ TIẾP TỤC THỰC HIỆN CTNS21

Định hướng Chiến lược PTBV quốc gia cần phải được thực hiện thông qua hàng loạt chính sách, chương trình, dự án và biện pháp cụ thể ở quy mô toàn quốc. Tất cả các hoạt động như xây dựng thể chế, truyền thông và giáo dục cho toàn dân, đào tạo và nâng cao năng lực quản lý PTBV cho cán bộ, cho các tổ chức tham gia CTNS21 đều  phải được tiếp tục mở rộng quy mô hoạt động và tăng hiệu quả của tác động. Cụ thể:

          1. Các cơ quan lãnh đạo và điều phối hoạt động PTBV là Hội đồng PTBV quốc gia và văn phòng PTBV phải được tổ chức tốt để hoạt động tích cực, định hướng và chỉ đạo có hiệu quả sự phối hợp hoạt động giữa các ngành, các địa phương nhằm đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế nhanh với phát triển xã hội và BVMT. Trong bối cảnh hiện nay các cơ quan điều phối hoạt động PTBV phải ý thức được vấn đề lồng ghép các quy hoạch phát triển và các chính sách và hướng dẫn các ngành, các địa phương lập quy hoạch của riêng mình với vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu.

          2. Để đưa Định hướng PTBV vào thực tiễn cuộc sống, sự hỗ trợ từ bên ngoài  về tài chính, kinh nghiệm, tài liệu, phương pháp tiến hành, đào tạo nguồn nhân lực là cực kỳ quan trọng nên phải có giải pháp để thu hút sự hỗ trợ tối đa của các tổ chức Quốc tế, hoặc dưới dạng các Hiệp định đa phương, song phương. Phải đặt vấn đề hội nhập vào trào lưu quốc tế, một mặt tranh thủ sự giúp đỡ, nhưng mặt khác để các Liên doanh, các Dự án 100% vốn nước ngoài phải tôn trọng tính truyền thống về PTBV của nước ta và thiết thực đóng góp vào tiến trình thực thi CTNS21 của Việt Nam, tránh không để hiện tượng Công ty Vedan và Miwon lặp lại lần nữa.

          3. Đẩy mạnh công tác giáo dục, truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của mọi người về PTBV. Đặc biệt phải làm cho PTBV trở thành cách suy nghĩ của mọi cơ quan và tất cả những người chịu trách nhiệm lập kế hoạch và quản lý sự PTBV ở các cấp. Cách tiếp cận PTBV phải được cụ thể hoá thành các chính sách, biện pháp, tổ chức bộ máy thích hợp và có những công cụ hành chính, kinh tế, tài chính phù hợp để thực hiện. Làm tốt công tác giáo dục, truyền thông đồng nghĩa với việc hình thành phong trào tham gia của các tầng lớp nhân dân vào quá trình ra quyết định phương hướng phát triển, thực hiện và giám sát việc thực hiện các kế hoạch và quy hoạch đảm bảo các tiêu chí của PTBV.

          4. Có các giải pháp đào tạo nguồn nhân lực, huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực trong xã hội một cách hợp lý để các ngành, các địa phương có bộ phận chuyên trách, tích cực và chủ động xây dựng và thực hiện chương trình hành động PTBV của mình và hợp tác với nhau đảm bảo sự PTBV ở quy mô liên vùng, liên ngành và quy mô cả nước, nhằm phát huy được hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường cao nhất.

          5. Phải nhanh chóng hình thành cơ chế theo dõi, báo cáo, giám sát, thu thập và công bố rộng rãi thông tin về quá trình thực hiện những nội dung của Định hướng chiến lược PTBV. Có những biện pháp khuyến khích và tạo cơ chế để lôi kéo cộng đồng cùng tham gia vào tiến trình thực hiện CTNS21, kiểm tra, theo dõi và đánh giá những kết quả thu được.

                                                                    Hà Nội, tháng 5 năm 2009

Phát Triển Nông Nghiệp Bền Vững Ở Việt Nam

Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài

3

2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4

4. Phương pháp nghiên cứu

5

5. Bố cục của tiểu luận

5 PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG

7

Khái quát chung về phát triển bền vững

7

1.1.

1.1.1.

Sự hình thành về lý thuyết phát triển bền vững

1.1.2.

Khái niệm về phát triển bền vững

Phát triển nền nông nghiệp theo hướng bền vững

15

1.2.1.

Khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững

15

1.2.2.

Nội dung của phát triển nông nghiệp bền vững

17

1.2.

CHƯƠNG 2- THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Ở NƯỚC TA 2.1. Tổng quan về sản xuất nông nghiệp của Việt Nam

2.1.1.

Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân

20

2.1.2.

Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp Việt Nam

24

2.2. Những thành tựu đạt được trong phát triển nền nông nghiệp bền vững ở nước ta

29

2.2.1. Đảm bảo giữ vững được nhịp độ tăng trưởng ổn định và có hiệu quả trong thời gian dài

29

2.2.2. Giải quyết các vấn đề về mặt xã hội nảy sinh trong khu vực nông nghiệp, nông thôn

Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

38

1

Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp 2.2.3. Từng bước xây dựng một nền nông nghiệp theo hướng phát triển sạch, môi trường tự nhiên được bảo vệ và hình thành các vùng nông nghiệp sinh thái

38

2.3. Những hạn chế và thách thức trong phát triển nền nông nghiệp bền vững ở nước ta

39

CHƯƠNG 3- GIẢI PHÁP VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG BỀN VỮNG Ở NƯỚC TA

43

3.1. Các giải pháp để phát triển nền nông nghiệp theo hướng bền vững ở nước ta

43

3.1.1. Về luật pháp và quy hoạch

43

3.1.2. Về kinh tế

44

3.1.3. Về kỹ thuật và công nghệ

45

3.2. Phương hướng, chiến lược phát triển

46

KẾT LUẬN

56

TÀI LIỆU THAM KHẢO

58

PHỤ LỤC

59

Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

2

Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua kinh tế Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn, tốc độ tăng trưởng GDP cao và ổn định vào tốp những nước đầu của thế giới. Đời sống của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Đến năm 2009 chúng ta đã thoát khỏi tình trạng là nước nghèo. Có được những thành tựu to lớn này là có sự đóng góp công sức của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của tất cả các ngành các cấp trong đó có sự đóng góp to lớn của ngành nông nghiệp. Nhờ có sự đổi mới cơ chế, chính sách mà Việt Nam đã thu được rất nhiều thành tựu trong sản xuất nông nghiệp. Với mức tăng trưởng bình quân trên 4% năm, đến nay sản xuất nông nghiệp nói chung đã đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và đóng góp một phần vào giá trị kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế. Sản xuất lựơng thực, đặc biệt là lúa gạo tăng lên liên tục cả về diện tích gieo trồng và năng suất, đã đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và đưa Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, ổn định an ninh lương thực đã tạo ra nền tảng vững chắc cho nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, phục hồi và phát triển mạnh mẽ trong suốt gần 30 năm qua. Những thành tựu đạt được trong sản xuất nông nghiệp là vô cùng to lớn. Song đứng trước những yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, nông nghiệp Việt Nam đang có những bước chuyển mình phát triển theo xu thế chung của thế giới. Một trong những bước chuyển đó chính là phát triển một nền nông nghiệp bền vững. Ở Việt Nam vấn đề phát triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp vẫn còn là một vấn đề mới. Đặc biệt trong gần 30 năm đổi mới vừa qua bên cạnh những thành tựu mà chúng ta đạt được thì thực tiễn cũng đang đặt ra cho chúng ta rất nhiều khó khăn và thách thức khi xây dựng nền nông nghiệp hiện đại.

Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

3

Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Đứng trước những khó khăn và thách thức đó, thì việc xây dựng một nền kinh tế nông nghiệp phát triển theo xu hướng bền vững có ý nghĩa rất quan trọng. Vì những lý do trên tôi đã lựa chọn tìm hiểu đề tài “Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận. 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài: trên cơ sở hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp bền vững, tiểu luận đề ra các giải pháp để xây dựng và phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam trong thời gian tới. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài : –

Hệ thống hoá các vấn đề cơ bản về phát triển bền vững và phát triển

bền vững trong nông nghiệp từ góc độ lý luận và thực tiễn. –

Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển nông nghiệp bền vững của một

số quốc gia trên thế giới. –

Phân tích thực trạng việc phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt

Nam và những vấn đề đặt ra. –

Đề xuất định hướng và giải pháp để phát triển nông nghiệp bền vững

ở nước ta trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu sự phát triển bền vững trong nông nghiệp. Việc phát triển nông nghiệp bền vững đó được xem xét, tiếp cận trên góc độ: đảm bảo nhịp độ tăng trưởng ổn định, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, xây dựng nền nông nghiệp theo xu thế nền nông nghiệp sinh thái và bảo vệ môi trường. Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

4

* Phương pháp xử lý số liệu Căn cứ vào mục đích của đề tài, tôi tiến hành thu thập những số liệu cần có bên trên và phân tích các số liệu đó. Tuy nhiên, để phân tích được, tôi sẽ phân tích các số liệu đó ra theo thời gian, sau đó sắp xếp chúng lại để tạo thành một chuỗi thời gian nhằm cho thấy sự thay đổi qua từng năm trong lĩnh vực Nông nghiệp nông thôn Việt Nam. Từ đó có thể nhận biết được những thành tựu đã đạt được và những hạn chế cần khắc phục để đưa Nông nghiệp nông thôn Việt Nam phát triển theo hướng Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá. Một phương pháp nữa phục vụ tôi trong quá trình phân tích và xử lý số liệu là phương pháp so sánh, nhằm so sánh giữa các năm với nhau và so sánh giữa Nông nghiệp với các ngành khác cũng như giữa Nông nghiệp với tổng thể nền kinh tế… 5. Bố cục của tiểu luận Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển bền vững và phát triển nông nghiệp bền vững.

Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

5

Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Chương 2: Thực trạng phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở nước ta. Chương 3: Phương hướng và giải pháp để phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở nước ta.

Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

6

Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG 1.1. Khái quát chung về phát triển bền vững 1.1.1. Sự hình thành về lý thuyết phát triển bền vững Đã có một lịch sử phát triển tương đối dài để hình thành khái niệm phát triển bền vững: + Năm 1963: Phát hành cuốn sách Mùa xuân câm lặng (Silent Spring): Cuốn sách “Mùa xuân câm lặng” của nữ văn sĩ Rachel Carson, được xuất bản năm 1962, với những tiết lộ về những hiểm họa của thuốc trừ sâu DDT, đã hoài nghi một cách biện chứng niềm tin của nhân loại vào tiến bộ khoa học kỹ thuật này và giúp tạo ra một sân khấu cho các phong trào môi trường. DDT, thuốc trừ sâu mạnh nhất từng được biết đến trên thế giới, đã làm tổn thương tới các hệ tự nhiên. Chỉ một lần phun DDT để diệt một loài sâu hại cây trồng, nó không chỉ diệt được loài sâu bệnh trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng, mà đồng thời cũng tiêu diệt luôn nhiều loài côn trùng có lợi khác và tồn lưu như một độc chất trong môi trường. “Mùa xuân câm lặng” đã làm thay đổi nhận thức của người dân Mỹ về môi trường, góp phần thúc đẩy các chính sách về môi trường của đất nước này. + Tháng 4 năm 1968: Câu lạc bộ Rome được thành lập: Đây là một tổ chức phi chính phủ, hỗ trợ cho việc nghiên cứu “Những vấn đề của thế giới” – một cụm từ được đặt ra nhằm diễn tả những vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường và công nghệ trên toàn cầu với tầm nhìn lâu dài. Tổ chức này đã tập hợp những nhà khoa học, nhà nhiên cứu, nhà kinh doanh cũng như các nhà lãnh đạo của các quốc gia trên thế giới (bao gồm cả Tổng thống Liên xô Mikhail Sergeyevich Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

7

Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Gorbachyov và Rigoberta Menchus Tum). Trong nhiều năm, Câu lạc bộ Rome đã công bố một số lượng lớn các báo cáo, bao gồm cả bản báo cáo Giới hạn của sự tăng trưởng – được xuất bản năm 1972 – đề cập tới hậu quả của việc tăng dân số quá nhanh, sự hữu hạn của các nguồn tài nguyên… + Năm 1970: Thành lập Chương trình Con người và Sinh quyển: Năm 1970, UNESCO thành lập Chương trình Con người và Sinh quyển, với mục tiêu là phát triển cơ sở khoa học cho việc sử dụng hợp lý và bảo tồn các tài nguyên của sinh quyển và cải thiện quan hệ toàn cầu giữa loài người và môi trường. + Tháng 6 năm 1972: Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Con người và Môi trường: Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Con người và Môi trường được tổ chức tại Stockhom, Thụy Điển được đánh giá là hành động đầu tiên đánh dấu sự nỗ lực chung của toàn thể nhân loại, nhằm giải quyết các vấn đề về môi trường. Hội nghị có 113 quốc gia tham dự và đã đạt được những kết quả chính sau: (i) Khởi động các cuộc đối thoại Bắc – Nam; (ii) Khởi động chương trình “Viễn cảnh toàn cầu”; (iii) Khởi động sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ trong giám sát và bảo vệ môi trường; (iv) Thành lập Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP); (v) Đề nghị Đại hội đồng Liên Hợp Quốc lấy ngày 5 tháng 6 làm Ngày Môi trường Thế giới và quyết định rằng vào ngày này hàng năm các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc và tất cả chính phủ các nước tiến hành các hoạt động trên phạm vi toàn thế giới để tái khẳng định mối quan tâm của cả thế giới đối với việc gìn giữ và cải thiện môi trường sống cho nhân loại. Hội nghị đã có một tuyên bố về môi trường con người, thỏa thuận về một chương trình hành động quốc tế rộng lớn, thành lập Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP), Ban thư ký thường trực về môi trường đặt tại Kenya và thành lập Quỹ Môi trường. + Năm 1980: Chiến lược bảo tồn thế giới: Tiếp theo Hội nghị Stockholm, các tổ chức bảo tồn như Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN), Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) và Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới

Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

8

Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp (WWF) đã đưa ra “Chiến lược bảo tồn thế giới”. Chiến lược này thúc giục các nước soạn thảo các chiến lược bảo tồn quốc gia của mình. Ba mục tiêu chính về bảo tồn tài nguyên sinh vật được nhấn mạnh trong Chiến lược như sau: (i) Duy trì những hệ sinh thái cơ bản và những hệ hỗ trợ sự sống (như cải tạo đất, tái sinh các nguồn dinh dưỡng, bảo về an toàn nguồn nước); (ii) Bảo tồn tính đa dạng di truyền; và (iii) Bảo đảm sử dụng một cách bền vững các loài và các hệ sinh thái. Từ khi Chiến lược bảo tồn thế giới được công bố tới nay, đã có trên 60 chiến lược bảo tồn quốc gia được phê duyệt. Trong chiến lược này, thuật ngữ Phát triển bền vững lần đầu tiên được nhắc tới, tuy nhiên mới chỉ nhấn mạnh ở góc độ bền vững sinh thái. Tiếp theo Chiến lược này, một công trình khoa học có tiêu đề “Cứu lấy Trái đất – Chiến lược cho cuộc sống bền vững” đã được IUCN, UNEP và WWF soạn thảo và công bố (1991) (cuốn sách này đã được Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường dịch ra tiếng Việt vào năm 1993). Trong cuốn sách, nhiều khuyến nghị về cải cách luật pháp, thể chế và quản trị đã được đề xuất. + Năm 1984: Thành lập Ủy ban Brundtland: Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã ủy nhiệm cho bà Gro Harlem Brundtland, khi đó là Thủ tướng Na Uy, quyền thành lập và làm Chủ tịch Ủy ban Quốc tế về Môi trường và Phát triển (WCED), nay còn được biết đến với tên Ủy ban Brundtland. Tới nay, Ủy ban này đã được ghi nhận có những cống hiến rất giá trị cho việc đẩy mạnh sự phát triển bền vững. + Năm 1987: Xuất bản Báo cáo Brundtland: Hoạt động của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới trở nên nóng bỏng khi xuất bản báo cáo có tựa đề “Tương lai của chúng ta” (tựa tiếng Anh: Our Common Futur và tiếng Pháp là Notre avenir à tous, ngoài ra còn thường được gọi là Báo cáo Brundtland). Bản báo cáo này lần đầu tiên công bố chính thức thuật ngữ “phát triển bền vững”, sự định nghĩa cũng như một cái nhìn mới về cách hoạch định các chiến lược phát triển lâu dài.

Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

9

10

Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

11

Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Chương trình của Liên Hợp Quốc đã đề xuất 5 nội dung của phát triển bền vững gồm: –

Tập trung phát triển những vùng nghèo đói, đặc biệt là những vùng

rất nghèo mà ở đó con người không có lựa chọn nào khác ngoài làm giảm cấp nguồn lực và môi trường. –

Tạo ra sự phát triển cao về tính tự lập của cộng đồng trong điều kiện

có hạn về nguồn lực, nhất là tài nguyên thiên nhiên. –

Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực dựa trên các kĩ thuật và công

nghệ thích hợp, kết hợp với khai thác tối đa kĩ thuật truyền thống. –

Thực hiện các chiến lược phát triển nhằm đảm bảo tự lực về lương

thực, cung cấp nước sạch và nhà ở, giữ gìn sức khỏe chống suy dinh dưỡng qua những công nghệ thích hợp. –

Xây dựng và thực hiện các chiến lược có người dân tham gia.

Để có sự phát triển bền vững cần có các yếu tố sau (theo Mal Com Gillis): –

Một hệ thống chính trị đảm bảo sự tham gia có hiệu quả của người

dân vào việc ra quyết định. –

Một hệ thống kinh tế góp phần tạo sản phẩm thặng dư và kĩ thuật

công nghệ dựa trên tính tự lập và bền vững. –

Một hệ thống sản xuất đảm bảo phục hồi hệ sinh thái cho sự phát

Một hệ thống công nghệ làm nền tảng chọn xây dựng các phương

triển. pháp bền vững, lâu dài. –

Một hệ thống quốc tế đẩy mạnh mối quan hệ bền vững về thương

mại và tài chính. Hiện nay, đã có khoảng 120 nước trên thế giới xây dựng và thực hiện chương trình nghị sự 21 về PTBV cấp quốc gia và gần 7.000 chương trình nghị

Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

12

Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp sự 21 cấp địa phương. Đối với Việt Nam phát triển bền vững là con đường tất yếu. Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Điều đó đã được khẳng định qua Tuyên bố Rio de Janeiro (1992) về môi trường và phát triển, bao gồm 27 nguyên tắc cơ bản và Chương trình nghị sự 21. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (2002) ở Johannesburg, các nguyên tắc trên và Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững đã được khẳng định lại và cam kết thực hiện đầy đủ. Phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước nhấn mạnh: “Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Quan điểm phát triển bền vững đã được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010 là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế – xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững và thực hiện cam kết quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã ban hành “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) theo Quyết định 153/QĐTTg ngày 17/8/2004 làm cơ sở cho việc xây dựng các chiến lược, quy hoạch tổng Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

13

Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp thể và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước cũng như của các ngành và địa phương. Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng (2011) tiếp tục khẳng định: “phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội, môi trường; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần cho xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại hội thông qua cũng chứa đựng nhiều nội dung quan trọng của phát triển bền vững, như gắn phát triển kinh tế tri thức với bảo vệ môi trường; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát triển kinh tế – xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng – an ninh; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng – an ninh, quốc phòng – an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế – xã hội và trên từng địa bàn. Quan điểm của Đảng về phát triển bền vững còn được phát triển, hoàn thiện và cụ thể hóa trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 được thông qua tại Đại hội XI của Đảng, trong đó nổi bật nhất là quan điểm về mối quan hệ tác động qua lại giữa “phát triển nhanh” với “phát triển bền vững”: “Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế – xã hội”. Như vậy, Đại hội XI của Đảng đã kế thừa và phát triển quan điểm của các Đại hội Đảng trước đây về phát triển bền vững ở Việt Nam với những nội dung phong phú, đa dạng, cụ thể, toàn diện và khoa học, vừa thể hiện được quan niệm chung của thế giới về phát triển bền vững, vừa phù hợp với khả năng, điều kiện và đặc điểm của Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế.

Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

14

Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Nhằm triển khai thực hiện các quan điểm chỉ đạo của Đại hội XI về phát triển bền vững, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 432/2012/QĐTTg ngày 12/4/2012 phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 và Quyết định số 160/2013/QĐ-TTg ngày 15/1/2013 ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về phát triển bền vững giai đoạn 2013 – 2015. Điều đó cho thấy có sự thống nhất cao trong nhận thức tư tưởng của Đảng và Nhà nước về vấn đề này. Hiện nay, định hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam xác định 19 lĩnh vực ưu tiên: 5 lĩnh vực thuộc kinh tế; 5 lĩnh vực xã hội; 9 lĩnh vực tài nguyên môi trường. Trong các lĩnh vực kinh tế cần ưu tiên có lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững. 1.2. Phát triển nền nông nghiệp theo hướng bền vững 1.2.1. Khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững Cùng với định nghĩa về PTBV, khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững cũng hình thành. Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20, những vấn đề đặt ra chủ yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp: bảo vệ môi trường đất, nước và khởi xướng một số hệ thống canh tác bền vững. Mục đích của nông nghiệp bền vững là kiến tạo một hệ thống bền vững về sinh thái, có tiềm lực về kinh tế, có khả năng thoả mãn những nhu cầu của con người mà không huỷ diệt đất đai, không làm ô nhiễm môi trường. Sau khi tổng kết nhiều mô hình và để phát triển toàn diện hơn, năm 1991 khái niệm “Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn Bền vững” (SARD) được đưa ra ở hội nghị của FAO về Nông nghiệp và Môi trường, tổ chức ở Hertogenbosch, tập trung vào những vấn đề bền vững trong tiến trình phát triển nông nghiệp và nông thôn ở cả các nước phát triển và đang phát triển. Vấn đề quan trọng là khái niệm SARD được nhận thức và khẳng định tại Hội nghị thượng đỉnh trái đất Rio Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

15

Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

16

Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp chắn và giới hạn. Nông nghiệp là ngành phải đáp ứng yêu cầu này trong điều kiện quỹ đất trồng trọt đã khai thác cạn, và lại phải tránh sử dụng những đất ít hoặc không thích hợp cho sản xuất nông nghiệp. Quan niệm “Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững” xứng đáng được đặt ở vị trí trọng tâm trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn của các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Hơn nữa, phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giúp các quốc gia sớm đạt được các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG), bởi vì nó có mối liên kết chặt chẽ với các mục tiêu này, cụ thể là xoá đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường (Sơ đồ 1).

1.2.2. Nội dung của phát triển nông nghiệp bền vững 1.2.2.1. Phát triển bền vững nông nghiệp về kinh tế Phát triển bền vững nông nghiệp về kinh tế là sự phát triển đảm bảo tăng trưởng, phát triển ổn định lâu dài về mặt kinh tế của nông nghiệp, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế của quốc gia, cộng đồng. Mục tiêu của phát triển bền

Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

17

Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp vững về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu nâng cao đời sống của người dân, tránh được sự suy thóai và gánh nặng nợ nần cho thế hệ tương lai. Điều đó được thể hiện ở các tiêu chí sau: – Sản xuất nông nghiệp phải đáp ứng nhu cầu xã hội về sản phẩm nông nghiệp gồm: gia tăng sản lượng, làm tăng giá trị sản phẩm hàng hóa; hàng hóa sản xuất ra đáp ứng một phần nhu cầu sử dụng của người dân; chất lượng sản phẩm phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của thị trường, trước hết là đảm bảo tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm. – Hiệu quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp ngày càng cao. Người nông dân phải có sự đầu tư tăng năng suất lao động, năng suất ruộng đất và năng suất cây trồng, đảm bảo sản xuất ra một khối lượng hàng hóa lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. – Sử dụng hiệu quả các nguồn lực lao động, vốn, lựa chọn hình thức sản xuất phù hợp để sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên, tăng năng suất. 1.2.2.2. Phát triển bền vững nông nghiệp về xã hội Phát triển bền vững nông nghiệp về xã hội đó chính là sự đóng góp cụ thể của nông nghiệp cho phát triển xã hội, đảm bảo sự công bằng trong phát triển. Phát triển nông nghiệp bền vững về xã hội sẽ đảm bảo cuộc sống của người nông dân đạt kết quả ngày càng cao; nâng cao thu nhập, đảm bảo cuộc sống gia đình, cải thiện chất lượng cuộc sống, góp phần xóa đói giảm nghèo, giảm khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp và nhóm xã hội. Giảm các tệ nạn xã hội, nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần cho người nông dân. Điều đó được thể hiện ở các yếu tố sau: – Sử dụng hợp lý lao động: phát triển kinh tế nông nghiệp phải đi đôi với giải quyết việc làm cho người lao động.

Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

18

Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp – Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo. – Tăng trưởng kinh tế làm giảm khoảng cách giàu nghèo, đảm bảo ổn định xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. 1.2.2.3. Phát triển bền vững nông nghiệp về môi trường Phát triển bền vững nông nghiệp về môi trường là phải khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên đất, nước, rừng, biển, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên kết hợp với việc phát triển nông lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản.

Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

19

Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Ở NƯỚC TA 2.1. Tổng quan về sản xuất nông nghiệp của Việt Nam 2.1.1. Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp. Nó không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học – kỹ thuật, bởi vì một mặt cơ sở để phát triển nông nghiệp là việc sử dụng tiềm năng sinh học – cây trồng, vật nuôi. Chúng phát triển theo qui luật sinh học nhất định con người không thể ngăn cản các quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chúng, mà phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn các qui luật để có những giải pháp tác động thích hợp với chúng. Mặt khác quan trọng hơn là phải làm cho người sản xuất có sự quan tâm thoả đáng, gắn lợi ích của họ với sử dụng quá trình sinh học đó nhằm tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cuối cùng hơn. Nông nghiệp nếu hiểu theo nghĩa hẹp chỉ có ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi và ngành dịch vụ trong nông nghiệp. Còn nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng nó bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngành thủy sản. Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản giữ vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế ở hầu hết cả nước, nhất là ở các nước đang phát triển. Ở những nước này còn nghèo, đại bộ phận sống bằng nghề nông. Tuy nhiên, ngay cả những nước có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ trọng GDP nông nghiệp không lớn, nhưng khối lượng nông sản của các nước này khá lớn và không ngừng tăng lên, đảm bảo cung cấp đủ cho đời sống con người những sản phẩm tối cần thiết đó là lương thực, thực phẩm. Những sản phẩm này cho dù trình độ khoa học – công nghệ phát triển như hiện nay, vẫn chưa có ngành nào có thể thay thế được.

Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

20

Bạn đang đọc nội dung bài viết Phát Triển Bền Vững Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!