Đề Xuất 3/2023 # Phát Triển Bền Vững Kinh Tế Tư Nhân Ở Việt Nam: Một Số Vấn Đề Đặt Ra Và Giải Pháp # Top 3 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Phát Triển Bền Vững Kinh Tế Tư Nhân Ở Việt Nam: Một Số Vấn Đề Đặt Ra Và Giải Pháp # Top 3 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Phát Triển Bền Vững Kinh Tế Tư Nhân Ở Việt Nam: Một Số Vấn Đề Đặt Ra Và Giải Pháp mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Thứ hai, 22 Tháng 6 2020 15:27

1189 Lượt xem

(LLCT) - Trong những năm qua, với chủ trương, chính sách phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) theo hướng cởi mở, thông thoáng, nhất là từ khi có Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3-6-2017 “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, KTTN đã phát triển mạnh mẽ và đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết để kinh tế tư nhân phát triển bền vững và thực sự trở thành “động lực quan trọng” của nền kinh tế. 

Từ khóa: kinh tế tư nhân, phát triển bền vững kinh tế tư nhân.

1. Thành tựu và một số vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay

Kinh tế tư nhân ở nước ta được xác định là loại hình kinh tế nằm ngoài kinh tế nhà nước (không tính kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài), gồm “kinh tế cá thể, tiểu chủ và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân”(1) dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Đến nay, loại hình KTTN ở Việt Nam khá đa dạng, từ doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tư nhân hoặc công ty cổ phần có vốn nhà nước dưới 50% (gọi chung là doanh nghiệp tư nhân – DNTN) và các hộ kinh doanh cá thể (phi nông nghiệp và nông, lâm, thủy sản).

Thứ nhất, số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh nhưng tỷ lệ ngừng hoạt động, giải thể nhiều

Mặc dù số lượng DNTN tăng nhanh qua các năm, chiếm tỷ trọng lớn (gần 97% tổng số doanh nghiệp của nền kinh tế) nhưng tỷ lệ phá sản và ngừng hoạt động cũng rất cao. Năm 2019, số DNTN đăng ký thành lập mới cao nhất trong 9 năm qua (138,1 nghìn doanh nghiệp), đồng thời số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh và giải thể, phá sản cũng khá cao: 28.700 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn (tăng 5,9% so với năm 2018); 43.700 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể (tăng 41,7%). Trong số 16.800 doanh nghiệp chính thức giải thể năm 2019 (tăng 3,2% so với năm 2018), có 15.200 doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm trên 90%; 212 doanh nghiệp có quy mô vốn trên 100 tỷ đồng, chiếm trên 1%(5). Như vậy, số doanh nghiệp giải thể, ngừng kinh doanh chiếm 64,59% tổng số doanh nghiệp thành lập mới. Thực tế này khiến các hộ kinh doanh cá thể thiếu động lực phát triển trở thành doanh nghiệp và mục tiêu một triệu doanh nghiệp năm 2020 và xa hơn là 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030 khó thành hiện thực.

 Thứ hai, thiếu “đầu tàu” dẫn dắt kinh tế tư nhân tham gia chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế

Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, DNTN chỉ có khoảng 1,7% có quy mô lớn, còn lại hơn 98% có quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ, trong đó các doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm 78,2%. Hầu hết các DNTN được hình thành sau thời gian tích lũy ngắn, dựa vào vốn tự có, ít được Nhà nước hỗ trợ và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực bất động sản, dịch vụ nên kinh nghiệm quản trị, mô hình phát triển, khả năng liên kết… còn nhiều hạn chế. Một số tập đoàn KTTN đã được hình thành, có quy mô khá lớn nhưng chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực tài chính, kinh doanh bất động sản, sản xuất hàng tiêu dùng. Đối với các hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp, quy mô vốn và lao động của các hộ này cũng rất thấp: 150,61 triệu đồng và 1,69 người(6). Vì vậy, KTTN nói chung, đặc biệt là DNTN Việt Nam thiếu vắng doanh nghiệp “đầu tàu” đủ mạnh dẫn dắt các doanh nghiệp tham gia chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế. Báo cáo triển vọng phát triển châu Á của Ngân hàng phát triển châu Á cho biết, mới có 21% DNTN của Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, thấp hơn so với Thái Lan (30%) và Malaysia (46%).

Thứ ba, hiệu quả hoạt động của kinh tế tư nhân chưa cao, năng suất lao động thấp nhất trong các khu vực kinh tế

Giai đoạn 2011-2017, bình quân năng suất lao động xã hội của DNTN chỉ bằng 28,59% doanh nghiệp nhà nước và 58,62% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2017, năng suất lao động của DNTN tăng lên và đạt 228,4 triệu đồng/lao động, bằng 33,68% doanh nghiệp nhà nước và 69% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài(7). Năng suất lao động của DNTN thấp đã ảnh hưởng đến năng suất lao động chung của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Tính cả hộ kinh doanh, năng suất lao động của khu vực KTTN còn thấp hơn nhiều, chỉ bằng 17% khu vực kinh tế nhà nước và bằng 14,42% khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Hiệu suất sinh lời của KTTN khá thấp. Bình quân giai đoạn 2011-2017, tỷ suất lợi nhuận trên tài sản của DNTN chỉ đạt gần 3,8%, thấp hơn mức chung của toàn bộ doanh nghiệp (gần 6%). Tương tự đối với tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (1,7% so với 3,8%) và tỷ suất lợi nhuận trên vốn (1,23% so với 2,63%)(8). Tỷ suất sinh lời thấp ảnh hưởng đến khả năng tự tích lũy và mở rộng quy mô của khu vực KTTN.

Thứ tư, năng lực công nghệ, trình độ đội ngũ chủ doanh nghiệp và lao động của KTTN thấp

DNTN là loại hình tiên tiến nhất trong KTTN, song phần lớn các DNTN sử dụng công nghệ thấp, trong đó có 52% DNTN sử dụng thiết bị lạc hậu, 38% sử dụng thiết bị trung bình, chỉ có 10% sử dụng thiết bị tương đối hiện đại. Quy mô nhỏ, vốn ít nên hầu hết các DNTN chưa đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ lõi, công nghệ tiên phong, chưa quan tâm đến đổi mới sáng tạo. Đến nay, các DNTN Việt Nam chỉ dành từ 0,2%-0,3% doanh thu vào đổi mới công nghệ, trong khi đó các doanh nghiệp ở Ấn Độ dành 5%, Hàn Quốc 10%. Bên cạnh đó, trình độ đội ngũ chủ doanh nghiệp và lao động cũng rất thấp: trên 55% tổng số đội ngũ chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa có trình độ trung cấp trở xuống, trong đó, 43,3% trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông. Do đó, việc nắm bắt cơ hội cũng như thực hiện các cải cách đưa ra tầm nhìn đúng cho sự phát triển của DNTN còn hạn chế. Đội ngũ lao động trong khu vực KTTN có 75% chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật(9). Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể, lao động chủ yếu có trình độ phổ thông. Với những hạn chế này, mục tiêu thu hẹp khoảng cách công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng nhân lực và năng lực cạnh tranh của DNTN so với các nước ASEAN-4 khó thực hiện được.

Thứ năm, đóng góp của kinh tế tư nhân vào tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm và chủ yếu do khu vực phi chính thức

Mặc dù hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển KTTN từng bước được hoàn thiện; môi trường đầu tư, kinh doanh từng bước được cải thiện theo hướng thông thoáng, thuận lợi hơn, song đóng góp của KTTN vào tăng trưởng kinh tế của nước ta những năm gần đây có xu hướng giảm. Giai đoạn 2011-2018, tỷ trọng đóng góp của KTTN vào tăng trưởng kinh tế nước ta giảm, từ 39,89% năm 2011 xuống 38,25% năm 2018, giảm 1,64%. Bình quân cả giai đoạn này, KTTN đóng góp gần 39% vào tăng trưởng GDP, giảm trên 4% so với giai đoạn 2006-2010 (43% với 39%)(10). Trong đó, các DNTN chỉ đóng góp trên 8%, còn thành phần kinh tế nhỏ lẻ, phi chính thức (kinh tế cá thể) đóng góp trên 30% GDP. Điều này cho thấy, thể chế phát triển KTTN vẫn còn nhiều nút thắt, chưa tạo ra đột phá để khu vực kinh tế này phát triển, đồng thời, bản thân KTTN cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém nên chưa đóng góp tương xứng với tiềm năng, vị trí cũng như vai trò là động lực quan trọng của nền kinh tế.

Thứ sáu, việc vi phạm pháp luật và cạnh tranh không lành mạnh còn phổ biến, đại đa số DNTN chưa có thương hiệu. Tình trạng các cơ sở KTTN sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường diễn ra phổ biến. Theo số liệu của Cục Cảnh sát Môi trường, số vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất kinh doanh, trong đó chủ yếu là KTTN ngày càng gia tăng. Các năm 2011-2014 có 44.991 vụ, bình quân 11.247 vụ/năm, riêng năm 2018, có 13.929 vụ(11). Ngoài ra, tình trạng nhiều DNTN vì lợi nhuận bất chấp đạo đức kinh doanh, làm ăn chộp giật, gian lận thương mại, trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế, vi phạm Luật Cạnh tranh còn phổ biến, ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh, cuộc sống người dân. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều DNTN không đảm bảo lợi ích của người lao động, có tới 50% doanh nghiệp chưa tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động và có rất nhiều doanh nghiệp nợ bảo hiểm với hàng nghìn tỷ đồng(12). Nhiều DNTN báo cáo tài chính không trung thực, nợ quá hạn ngân hàng, trốn và nợ thuế kéo dài, gây hậu quả xấu về kinh tế – xã hội và làm suy giảm lòng tin của người dân cũng như các cơ quan chức năng đối với KTTN.

 2. Giải pháp phát triển bền vững kinh tế tư nhân trong thời gian tới

2.1. Nhóm giải pháp thuộc về khu vực kinh tế tư nhân

 Một là, nâng cao năng lực quản trị của khu vực KTTN. Chủ DNTN, nhất là chủ các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ, các nhân sự cấp cao; chủ cơ sở kinh tế cá thể phải chủ động và tích cực trau dồi các kiến thức về kinh tế thị trường, quản trị doanh nghiệp, pháp luật trong kinh doanh, kiến thức về hội nhập; bám sát các định hướng của Đảng và Nhà nước, chủ động, nhạy bén nắm bắt cơ hội để xây dựng chiến lược kinh doanh và quản trị phù hợp với yêu cầu thị trường và nguồn lực hiện có, phòng tránh rủi ro pháp lý, liên kết sản xuất… Có như vậy, các loại hình KTTN mới có thể tồn tại, thích ứng và phát triển bền vững.

Hai là, chú trọng đầu tư đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao trình độ lao động. Đầu tư đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, qua đó, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh doanh, năng lực cạnh tranh cho khu vực KTTN… Tuy nhiên, do đặc thù nên mỗi loại hình KTTN cần thực hiện những giải pháp khác nhau cho phù hợp:

Đối với các DNTN quy mô lớn và vừa: Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ công nghệ, nhất là công nghệ lõi, công nghệ cao vào sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, các doanh nghiệp phải tăng tỷ lệ đầu tư vào nghiên cứu và triển khai. Một mặt, các doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ và có lộ trình thích hợp thực hiện nghiên cứu và triển khai (có thể tự chủ hoặc liên doanh, liên kết với doanh nghiệp khác, tranh thủ cơ hội từ phía Nhà nước). Mặt khác, đẩy mạnh đổi mới công nghệ, hiện đại hóa trang thiết bị. Đồng thời, cần tập trung nâng cao trình độ đội ngũ lao động, nhất là đội ngũ lao động trực tiếp. Các doanh nghiệp cần đặt ra yêu cầu hay áp lực để người lao động tự học hoặc tham gia các khóa bồi dưỡng nâng cao trình độ; có cơ chế khuyến khích, thu hút cũng như tạo động lực để họ vươn lên học tập nâng cao trình độ tay nghề thông qua chế độ lương, thưởng, hoặc mời chuyên gia về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho người lao động trong doanh nghiệp.  

Đối với các DNTN quy mô nhỏ, siêu nhỏ: các doanh nghiệp này năng lực tài chính hạn chế, khó tiếp cận với các nguồn lực bên ngoài nên cần tập trung nâng cao năng lực chủ động tiếp nhận chuyển giao, đổi mới công nghệ như: nâng cao trình độ lao động, chủ động tiếp nhận công nghệ mới, công nghệ cao vào sản xuất.

Đối với các hộ kinh doanh: Nguồn lực tự có hạn chế và khó tiếp cận với các nguồn lực bên ngoài nên cần chú trọng ứng dụng tiến bộ công nghệ, hợp lý hóa quy trình sản xuất, kinh doanh.  

Ba là, xây dựng văn hóa kinh doanh, xây dựng thương hiệu, coi trọng chữ tín với khách hàng. Khu vực KTTN, đại diện là DNTN, các hộ kinh doanh cá thể phải có ý thức xây dựng và thực hiện văn hóa kinh doanh, xây dựng thương hiệu thể hiện qua các hành động: kinh doanh trung thực, thực hiện trách nhiệm xã hội, bảo đảm lợi ích cho người lao động, người tiêu dùng; chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm… Thực hiện nhất quán và tốt các biện pháp này sẽ giữ vững chữ tín đối với Nhà nước, cộng đồng, khách hàng, cổ đông và người lao động; tạo niềm tin cho đối tác…

2.2. Nhóm giải pháp thuộc về Nhà nước

-  Quyết liệt triển khai thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết 10-NQ/TW Hội nghị Trung ương 5 khóa XII.

Tập trung xóa bỏ những rào cản, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho KTTN phát triển. Các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh thực hiện chính phủ điện tử, tiếp tục rà soát, bãi bỏ các điều kiện kinh doanh không còn phù hợp. Hỗ trợ giáo dục và đào tạo để nâng cao trình độ văn hóa, kiến thức kinh doanh cũng như năng lực quản lý của chủ doanh nghiệp, người lao động trong khu vực KTTN.

Nhà nước cần có cơ chế, chính sách khuyến khích thành lập DNTN như: thu hẹp các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, giảm và đi đến xóa bỏ các giấy phép con. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động, tự nguyện chuyển đổi sang hoạt động kinh doanh theo mô hình doanh nghiệp.

Bảo đảm thực thi các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, phong trào khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Tạo môi trường, điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa này “lớn” nhanh. Đồng thời, tạo tiền đề hình thành các DNTN quy mô lớn, các tập đoàn kinh tế KTTN sở hữu hỗn hợp có tiềm lực vững mạnh, đủ sức cạnh tranh, tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp chế biến, chế tạo, điện tử.

– Tạo cơ hội và điều kiện cho KTTN khai thác, sử dụng nguồn lực quốc gia vào phát triển kinh tế.

Thực hiện quyết liệt chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng dịch chuyển từ phát triển các lĩnh vực khai thác tài nguyên, bất động sản,… sang các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ mà Việt Nam có thế mạnh. Cần tạo điều kiện cho KTTN tham gia vào quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, được hưởng các ưu đãi về lãi suất, vay vốn, đào tạo, thuê mặt bằng, thủ tục hành chính khi tham gia vào những lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới.

Đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đang thực hiện chức năng “kinh doanh”. Việc cổ phần hóa, thoái vốn sẽ tạo cơ hội để KTTN khai thác, sử dụng các nguồn lực thoái lui từ khu vực kinh tế nhà nước (ngành, lĩnh vực kinh doanh, vốn, tài nguyên, nhân lực, thị trường, v.v.), từ đó, thay thế doanh nghiệp nhà nước đầu tư vào những ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm.

Phát triển kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực để nâng cao tính sẵn sàng về công nghệ cho khu vực KTTN. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng xương sống phục vụ phát triển kinh tế, như: mạng thông tin, internet, giao thông; xây dựng các trung tâm kiểm dịch, hệ thống hỗ trợ xây dựng thương hiệu và cấp chứng chỉ sản phẩm cho KTTN. Bên cạnh đó, đổi mới căn bản hệ thống giáo dục và đào tạo, gắn giáo dục – đào tạo với nhu cầu thị trường, đặc biệt chú trọng đào tạo nghề và đào tạo nhân tài.

– Công khai, minh bạch, công bằng về cơ hội, điều kiện đối với KTTN trong tiếp cận các nguồn lực (ngành, lĩnh vực kinh doanh, vốn, đất đai, tài nguyên, thị trường, các dự án, nhân lực, v.v..). Tăng tính liêm chính trong quản lý nhà nước và trong thực thi chính sách. Tăng cường giám sát và có chế tài nghiêm khắc để bảo đảm cơ hội, điều kiện đối với KTTN trong tiếp cận, sử dụng các nguồn lực và trong thực thi chính sách để phát triển bền vững KTTN và để KTTN trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế.

 - Tăng cường hiệu quả công tác quản lý, kiểm tra, giám sát của Nhà nước đối với việc thực thi chủ trương, chính sách phát triển KTTN cũng như đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Qua đó, kịp thời phát hiện những cơ chế, chính sách, giải pháp phục vụ phát triển khu vực KTTN chưa phù hợp để điều chỉnh, nhân rộng những cơ chế, chính sách hợp lý. Kịp thời xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của KTTN.

 

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 3-2020

(1) Nghị quyết số: 14-NQ/TW ngày 18-3-2002 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân.

(2) Tính toán từ số liệu của Cục Đăng ký kinh doanh, các năm 2017-2019.

(3) Tổng cục Thống kê các năm 2011-2017; Cục Đăng ký kinh doanh 2019.

(4) Ban Kinh tế Trung ương (2019): Diễn đàn kinh tế tư nhân Việt Nam.

(5) Tổng cục Thống kê: Tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2019.

(6) Tổng cục Thống kê: Kết quả tổng điều tra kinh tế năm 2017, Nxb Thống kê 2018, tr.29.

(7) Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019): Hội nghị “Cải thiện năng suất lao động quốc gia”.

(8) Tổng cục Thống kê.

(9) Vinh Chi: Doanh nghiệp lớn của Việt Nam chỉ ngang bằng doanh nghiệp nhỏ của Philippines, https://vietnamfinance.vn, ngày 23-12-2019.

(10) Tính toán từ số liệu Tổng cục Thống kê các năm.

(11) Kinh tế 2018-2019 Việt Nam và Thế giới, tr.118.

(12) Doanh nghiệp nợ bảo hiểm xã hội: Khó xử lý – vì sao?, http: chúng tôi ngày 21-11-2019.

TS Nguyễn Thị Miền

Viện Kinh tế,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Kinh Tế Tư Nhân Ở Việt Nam

I.Lời mở đầu Kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân) là sản phẩm của công cuộc đổi mới, ngày càng lớn mạnh và có vị thế mới trong nền kinh tế, đang phát huy tác dụng tích cực trong sự nghiệp phát triển đất nước cùng với đà phát triển của công cuộc đổi mới. Đó cũng là một đặc điểm nổi bật trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Vai trò của thành phần kinh tế tư nhân đã được khẳng định là quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Đây là một bước phát triển mới về nhận thức lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn. Kinh tế tư nhân có vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Ngay ở các nước phát triển, sự đóng góp của kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng khá lớn trong nền kinh tế. II.Thực trạng kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay. Ở Việt Nam, từ khi đổi mới, trong các văn kiện Đại hội Đảng đã xác định có nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân được chia thành 2 thành phần: Kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Đến Báo cáo Chính trị tại Đại hội X của Đảng lại xác định thành phần kinh tế tư nhân bao gồm: cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân. Vai trò của thành phần kinh tế tư nhân đã được khẳng định là quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Đây là một bước phát triển mới về nhận thức lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn. Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế trực tiếp tạo nên sự nhạy cảm về mặt kinh tế – chính trị. Do đó, việc thừa nhận vai trò của kinh tế tư nhân như hiện nay là một bước đột phá quan trọng. Nếu như những năm trước đổi mới, thành phần kinh tế tư nhân chỉ được coi là một thành phần kinh tế “tàn dư”, chỉ tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sẽ bị thu hẹp dần trong quá trình lớn lên của các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (toàn dân và tập thể), thì đến Đại hội VIII và Đại hội IX của Đảng thành phần kinh tế tư nhân mới được khẳng định sự tồn tại lâu dài “cả đến khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng”. Thực tiễn cho thấy, trong kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 thành phần kinh tế tư nhân phát triển với tốc độ cao, tỷ trọng đóng góp vào ngân sách Nhà nước lớn. Theo số liệu thống kê, công nghiệp ngoài quốc doanh (bao gồm cả kinh tế tư nhân) tuy vẫn là khu vực nhỏ nhất so với các khu vực khác, nhưng có nhịp độ tăng trưởng cao nhất: năm 2000 chiếm 24,6% trong giá trị sản xuất theo giá thực tế của toàn ngành công nghiệp, năm 2003 là 27,5%, năm 2004 tăng lên 28,5% và năm 2005 đạt trên 37% Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, hiện có hàng triệu cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ, hơn 71.000 trang trại và hơn 120.000 doanh nghiệp tư nhân. Chỉ tính trong 4 năm gần đây với 72.601 doanh nghiệp có vốn đăng ký đạt 145.000 tỷ đồng (tương đương với 9 tỷ USD), tỷ trọng đầu tư của các loại doanh nghiệp tư nhân trong tổng đầu tư xã hội đạt từ 23% đến 25%. Năm 2005 kinh tế tư nhân đóng góp khoảng hơn 37% GDP. Đối với khu vực kinh tế tư bản tư nhân việc quan niệm thế nào là bóc lột cũng cần có nhận thức mới cho phù hợp với thực tế cuộc sống. Chúng ta biết rằng, bất kỳ loại hình sản xuất, kinh doanh nào trong nền kinh tế thị trường ở nước ta cũng đều phải có lợi nhuận (trừ các doanh nghiệp công ích phi lợi nhuận). Tuy nhiên, lợi nhuận ở đây được hiểu là phần giá trị dôi ra ngoài phần giá trị tất yếu (bao gồm cả phần lao động quản lý của chủ doanh nghiệp), còn quan hệ bóc lột hay không, bóc lột nhiều hay ít là phụ thuộc vào phần dôi ra ngoài phần giá trị tất yếu của toàn bộ doanh nghiệp và phần dôi ra đó được sử dụng thế nào? Việc xác định mức độ bóc lột là vấn đề không khó khăn. Quan hệ cung cầu trên thị trường lao động, việc chấp nhận mức tiền công giữa người lao động và người sử dụng lao động (trên cơ sở bộ Luật Lao động và chính sách tiền lương của Nhà nước trong từng giai đoạn, từng lĩnh vực) có thể là thước đo về tính hợp lý của quan hệ trao đổi, có thể coi đó là mức độ chấp nhận được của tất cả các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh, bao gồm cả doanh nghiệp tư bản tư nhân và doanh nghiệp tư bản tư nhân Mặt khác, cần thấy rằng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang hướng tất cả các thành phần kinh tế đều phải kinh doanh có lãi (có lợi nhuận), có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, nhất là trên thương trường khu vực và quốc tế. Đồng thời, thông qua điều hành vĩ mô của Nhà nước để bảo đảm cho sự phân phối sản phẩm thặng dư – lợi nhuận ngày càng hợp lý hợp trên phạm vi toàn xã hội và trong từng doanh nghiệp Cơ cấu các thành phần kinh tế ngày càng được chuyển dịch theo hướng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, trong đó kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Khi sửa đổi Luật doanh nghiệp (năm 2000), các doanh nghiệp tư nhân đã có điều kiện thuận lợi để phát triển. Bộ luật này đã thể chế hóa quyền tự do kinh doanh của các cá nhân trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm, dỡ bỏ những rào cản về hành chính đang làm trở ngại đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp như cấp giấy phép, thủ tục, các loại phí… Tính trong giai đoạn 2000-2004, đã có 73.000 doanh nghiệp tư nhân đăng ký mới, tăng 3,75 lần so với giai đoạn 1991-1999. Cho đến năm 2004, đã có 150.000 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp, với tổng số vốn điều lệ là 182.000 tỷ đồng. Từ năm 1991 đến năm 2003, tỷ trọng của khu vực kinh tế tư nhân trong GDP đã tăng từ 3,1% lên 4,1%, kinh tế ngoài quốc doanh khác từ 4,4% lên 4,5%, kinh tế cá thể giảm từ 35,9% xuống 31,2%, và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 6,4% lên 14%. Từ 1/7/2006, Luật Doanh nghiệp 2005 (áp dụng chung cho cả doanh nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài) đã có hiệu lực, hứa hẹn sự lớn mạnh của các doanh nghiệp bởi sự bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế tư nhân bừng nở mạnh mẽ và ngày càng giữ vai trò quan trọng trong thị trường nước ta cũng như trong hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tiễn đã khẳng định: dù còn những phản ứng của tư duy giáo điều, cũ kỹ và những rào cản của bộ máy muốn níu kéo cơ chế cũ, sự lớn mạnh của khu vực kinh tế tư nhân – thể hiện ý chí của dân – là không lực luợng nào có thể cản trở. Cục diện mới của kinh tế tư nhân đã mở ra. Kinh tế tư nhân tăng nhanh, góp phần quan trọng giải quyết việc làm cho xã hội, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong GDP cũng như trong đầu tư phát triển và đang vững vàng trong cạnh tranh, hội nhập. Năm 2003, kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân) chiếm 38,96% GDP; 26,4% giá trị sản xuất công nghiệp (năm 2002); 79,9% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ; trên 2/3 hàng hóa xuất khẩu… Đến hết năm 2005, cả nước có 205.000 doanh nghiệp tư nhân đăng ký theo Luật Doanh nghiệp; 2,5 triệu hộ kinh doanh cá thể công thương nghiệp và dịch vụ; 13.000 trang trại và 12 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hóa, tạo ra sinh khí mới năng động, sáng tạo trước nay chưa từng có cho nền kinh tế. Trong nhiều ngành kinh tế, kinh tế tư nhân đang giữ vị trí chủ yếu trong sản xuất và xuất khẩu, như gạo, hải sản, chè, cà phê, hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ, v.v… với hiệu quả cao rõ rệt. Một tầng lớp xã hội mới, doanh nhân, đã bắt đầu hình thành, được xã hội công nhận và tôn vinh là “chiến sĩ xung kích thời bình”. Dự thảo Báo cáo Chính trị tại Đại hội X (công bố ngày 3-2-2006) nêu rõ chủ trương của Đảng đối với kinh tế tư nhân trong thời gian tới chính là sự khẳng định thực tiễn đã diễn ra trong cuộc sống. Dự thảo viết: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”; “Phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân. Mọi công dân có quyền tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh với quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ; có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội, nguồn lực kinh doanh, thông tin và tiếp nhận thông tin”. Dự tháo Báo cáo còn nhấn mạnh “Xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu” và “Xóa bỏ mọi rào cản hữu hình và vô hình, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành, nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”. Việc Đại hội X cho phép “đảng viên làm kinh tế không giới hạn về quy mô” sẽ góp phần củng cố niềm tin của xã hội vào tiền đồ, triển vọng của kinh tế tư nhân. * Kinh tế tư nhân không chỉ có tiếng nói quyết định đến sức mạnh kinh tế của hầu hết các quốc gia mà còn trở thành một lực lượng kinh tế có ý nghĩa chính trị toàn cầu. Phát triển khu vực kinh tế tư nhân cũng có nghĩa là bảo tồn tính đa dạng phong phú của đời sống kinh tế, xem nó như là nguồn gốc của mọi sự phát triển. Ngày nay sở hữu tư nhân đã phát triển lên một trình độ mới về chất, quy mô sở hữu của nhiều Cty ngày càng đồ sộ và nhiều Cty tạo ra lượng tài sản có giá trị lớn hơn cả GDP của một số quốc gia. Cùng với quá trình phát triển kinh tế, nhân loại càng ngày càng sáng tạo ra nhiều loại hình sở hữu mới. Ngoài sở hữu tài sản hữu hình, người ta không chỉ sở hữu những tài sản vô hình như các nhãn hiệu hàng hóa, bí quyết công nghệ mà còn sở hữu cả không gian ảo trên mạng Internet và tài sản ảo là những bit thông tin đang tràn ngập trên mạng thông tin toàn cầu. * Sự biến đổi về chất của kinh tế tư nhân Chúng ta đang chứng kiến một thời đại các rào cản đầu tư, thương mại hàng hóa và dịch vụ dần bị dỡ bỏ, nền kinh tế thị trường mở đang tạo điều kiện dễ dàng cho kinh tế tư nhân lớn mạnh không ngừng. Trong quá trình phát triển, kinh tế tư nhân đã tồn tại dưới nhiều dạng như kinh tế cá thể, Cty và ngày nay là những Cty đa quốc gia. Sự lớn mạnh của các Cty đa quốc gia trong những năm cuối của thế kỷ XX cho thấy kinh tế tư nhân đã có sự phát triển vượt bậc với những thay đổi về chất. Các Cty đa quốc gia chính là biểu hiện của kinh tế tư nhân được quốc tế hóa, nó trở thành lực lượng hùng mạnh nhất của kinh tế tư nhân. Trong nền kinh tế thị trường mở, quốc gia nào có nền kinh tế tư nhân tham gia nhiều nhất, đầy đủ nhất và sâu sắc nhất vào nền kinh tế toàn cầu thì quốc gia đó sẽ càng có ưu thế trong cạnh tranh. Dựa trên bối cảnh và xu thế phát triển này, mỗi quốc gia cần phải có chính sách phát triển kinh tế tư nhân thích hợp của mình, trong đó, phải đặc biệt chú ý đến sự hợp tác của kinh tế tư nhân trong nước với các công ty đa quốc gia cũng như trực tiếp tham gia vào các công ty đa quốc gia. * Phương tiện hiệu quả nhất để phát triển kinh tế Vấn đề là kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước cùng song song tồn tại trong thế giới ngày nay nhưng tại sao kinh tế tư nhân lại tỏ ra năng động hơn, có sức sống hơn và phát triển mạnh mẽ hơn? Câu trả lời là kinh tế tư nhân có sự tương thích rất cao với kinh tế thị trường, đặc biệt là tính chất mở cửa thị trường ngày càng tăng, sự hợp tác và cạnh tranh quốc tế đòi hỏi các thực thể kinh tế phải rất linh hoạt và tự chủ trong hoạt động kinh doanh, điều này vốn là nhược điểm của kinh tế nhà nước. Tính cạnh tranh cao của kinh tế tư nhân không phải ngẫu nhiên mà có, nó được hình thành thông qua hàng chuỗi các vụ phá sản của các Cty, đó chính là sự chọn lọc tự nhiên trong quá trình phát triển. Về phương diện tình cảm xã hội, người ta thấy ái ngại và thương xót mỗi khi có một vụ phá sản nào đó nhưng kinh tế có quy luật riêng của nó, không phụ thuộc vào tình cảm của chúng ta. Kinh tế tư nhân đối mặt với những thử thách khắc nghiệt như vậy để phát triển cũng như mỗi cá nhân chúng ta cần trải qua những gian lao, thậm chí vấp ngã để trở nên vững vàng hơn trong cuộc sống. * Giá trị nhân văn của kinh tế tư nhân Thực tế cho thấy kinh tế tư nhân có vai trò đắc lực tạo ra sự phát triển của xã hội, tạo cho mỗi cá nhân vô số cơ hội có việc làm để khẳng định mình, để mưu cầu cuộc sống và hạnh phúc, tức là góp phần tạo ra con người với nhiều phẩm chất tốt đẹp hơn. Phát triển kinh tế, suy cho cùng không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện. Mục tiêu tối thượng của nhân loại là xã hội phát triển, con người phát triển. Có thể nói rằng kinh tế tư nhân là một phương tiện quan trọng để con người có cơ hội hoàn thiện mình trong quá trình phát triển hướng thiện của nhân loại. Con người đã sáng tạo ra và quyết định lựa chọn kinh tế tư nhân để phát triển, nhưng đồng thời kinh tế tư nhân lại là môi trường tốt để con người tự thân phát triển, con người có cơ hội tự hoàn thiện vì sự phát triển của chính nó và thông qua đó phát triển toàn xã hội. Đó chính là giá trị nhân văn chân chính của kinh tế tư nhân. * Phát triển năng lực con người Kinh tế tư nhân có cội nguồn từ cá nhân, vì vậy phát triển kinh tế tư nhân phải dựa trên nền tảng phát triển các giá trị cá nhân, phát triển năng lực cá nhân, phát triển con người. Có thể nói, không có sự phát triển năng lực cá nhân thì sẽ không có sự phát triển kinh tế tư nhân. Một trong những yếu tố cạnh tranh của một cộng đồng xã hội chính là tính đa dạng của sự sáng tạo, mà tính đa dạng của sự sáng tạo là hệ quả tất yếu của sự đa dạng của những năng lực cá nhân. Sự đa dạng của năng lực cá nhân là kết quả trực tiếp của sự tôn trọng các giá trị cá nhân. Như vậy, có thể nói lý thuyết phát triển kinh tế tư nhân bắt nguồn từ lý thuyết phát triển con người. * Phát triển các quyền cá nhân Sự phát triển xã hội gắn liền với sự phát triển ngày càng phong phú các quyền cá nhân. Sự phát triển của các quyền cá nhân đến lượt nó sẽ thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ. Không có các quyền cá nhân làm tiền đề thì không thể có các quyền của kinh tế tư nhân. Trong thực tế, hiện nay, những hiện tượng can thiệp vào đời sống cá nhân diễn ra tràn lan ở khá nhiều quốc gia. Khi chúng ta không xây dựng, không tôn trọng các quyền cá nhân, có nghĩa là các giá trị cá nhân không được pháp chế hóa, định chế hóa, hoặc chúng ta không nhận thức các quyền cá nhân như những động lực của sự phát triển cá nhân, như những không gian xã hội cần thiết cho một cá nhân phát triển thì không thể phát triển khu vực tư nhân lành mạnh được. Chừng nào một xã hội chưa tôn trọng các quyền cá nhân, kèm theo đó là sở hữu cá nhân thì xã hội đó không thể xây dựng khu vực kinh tế tư nhân một cách chuyên nghiệp được. Trong những năm gần đây, khu vực kinh tế tư nhân, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), đã được nhìn nhận như động lực tăng trưởng kinh tế quan trọng của Việt Nam. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) hiện đang xây dựng kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2006-2010. Kế hoạch này sẽ là một bộ phận cấu thành của kế hoạch phát triển Kinh tế – Xã hội 5 năm 2006-2010 của Chính phủ Việt Nam. Trên cơ sở bản kế hoạch này, Cục Phát triển DNNVV của Bộ KH-ĐT sẽ xây dựng một kế hoạch hành động về phát triển DNNVV bao gồm các chương trình, biện pháp trợ giúp khối doanh nghiệp này. Với bối cảnh trên, bản tin này bàn về tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân hiện nay, đưa ra một số đề xuất về chính sách nâng cao chất lượng phát triến kinh tế khu vựcViệc đăng ký thành lập doanh nghiệp đã trở nên khá dễ dàng, giúp tăng nhanh số lượng doanh nghiệp thành lập mới.Luật doanh nghiệp năm 1999 đánh dấu một mốc quan trọng trong những nỗ lực của Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho khối kinh tế tư nhân phát triển. Với tinh thần chủ đạo là “doanh nghiệp được tự do kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm”, chuyển từ “cấp phép kinh doanh” sang “đăng ký kinh doanh”. Luật doanh nghiệp năm 1999 đã giúp giảm đáng kể thời gian và chi phí đăng ký thành lập doanh nghiệp. Nhờ đó, mỗi năm có thêm hàng chục ngàn doanh nghiệp được chính thức thành lập. Theo số liệu của Trung tâm Thông tin Doanh nghiệp (TTTTDN) của Bộ KH-ĐT, kể từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực vào đầu năm 2000, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới cho đế cuối năm 2003 nhiều gấp hơn hai lần số lượng doanh nghiệp thành lập trong vòng 10 năm trước đó, nâng tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam lên khoảng 128.000.Số lượng doanh nghiệp thực sự đang hoạt động không nhiều như con số đăng ký. Theo điều tra của Tổng cục thống kê (TCTK), số doanh nghiệp đang hoạt động tính đến thời điểm cuối năm 2002 là 62.908, cuối năm 2003 là 72.010, tức là khoảng 55% so với số doanh nghiệp đã đăng ký. Trong một nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, việc dừng kinh doanh cũng như việc đăng ký kinh doanh mới là hiện tượng bình thường của quá trình phát triển khi mà các doanh nghiệp phản ứng với thay đổi liên tục của môi trường bên ngoài, ví dụ như cơ hội thị trường mới, các khó khăn mới xuất hiện v.v. Vì vậy, hiện tượng số lượng doanh nghiệp còn hoạt động ít hơn số lượng doanh nghiệp đã đăng ký thành lập là một điều dễ hiểu và ở một mức độ nào đó phản ánh sự năng động của khối doanh nghiệp tư nhân. Ở các nước phát triển thuộc tổ chức OECD, tỷ lệ doanh nghiệp còn hoạt động sau 2 năm vào khoảng 60-70% và sau 7 năm thì chỉ còn là 40-50%. Tuy nhiên, hệ thống đăng ký doanh nghiệp hiện nay của Việt Nam chưa cung cấp được thông tin đầy đủ về những doanh nghiệp đã dừng hoạt động hay thay đổi và lý do thay đổi. Theo kết quả nghiên cứu gần đây của MPDF, nguyên nhân giải thích sự chênh lệch giữa số liệu của cơ quan phụ trách đăng ký doanh nghiệp và TCTK là doanh nghiệp giải thể và dừng hoạt động thì hầu như không được ghi nhận trong hệ thống đăng ký doanh nghiệp của TTTTDN; nhiều doanh nghiệp đăng ký thành lập không phải là doanh nghiệp thành lập mới mà là chi nhánh hoặc công ty con của một doanh nghiệp khác và một số doanh nghiệp có thể đăng ký nhằm phục vụ những mục đích cá nhân hay mục đích đặc biệt của riêng doanh nghiệp (ví dụ như được mua quyển “hóa đơn đỏ” VAT). Hiểu rõ hơn những nguyên nhân này sẽ giúp Nhà nước có được các chính sách quản lý và hỗ trợ doanh nghiệp thiết thực hơn. Các doanh nghiệp đang hoạt động chưa phát triển mạnh về chất do còn nhiều khó khăn trong hoạt động sau đăng ký. Trong khi việc thành lập doanh nghiệp đã dễ dàng hơn nhiều, thì hoạt động kinh doanh cũng như cơ hội đầu tư mở rộng sản xuất của doanh nghiệp tư nhân sau đăng ký vẫn còn bị nhiều cản trở. Tuy khối doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh về số lượng nhưng quy mô đầu tư sản xuất nói chung còn tương đối nhỏ. Một doanh nghiệp tư nhân bình quân chỉ có 31 lao động, 4 tỷ đồng vốn – thấp hơn đáng kể so với con số 421 lao động và 167 tỷ đồng vốn của doanh nghiệp nhà nước và 299 lao động. 134 tỷ đồng vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Quy mô vốn có hạn đã hạn chế khả năng trang bị công nghệ tiên tiến của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, với mức đầu tư trung bình cho tài sản cố định trên một lao động chỉ có 43 triệu đồng so với 137 triệu đồng đối với doanh nghiệp nhà nước và 247 triệu đồng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp tư nhân không thể tham gia vào những dự án lớn từ ngân sách nhà nước cũng như khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế do quy mô quá nhỏ và năng lực hạn chế. Trong nhiều trường hợp, tốc độ phát triển của các công ty tư nhân bị hạn chế bởi một số yếu tố của môi trường kinh doanh. Đó là những cản trở trong việc tiếp cận các nguồn lực thiết yếu bên ngoài như đất đai, vốn đầu tư và các hạn chế do một số quy định có tính kiểm soát còn cứng nhắc, đặc biệt trong lĩnh vực thuế . III.Các giải pháp để phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam Để phát triển mạnh mẽ hơn nữa kinh tế tư nhân đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, có hai loại việc sau đây cần được chú trọng. Một là, về mặt Nhà nước. Trước hết là xóa bỏ những thể chế, chính sách còn thể hiện sự phân biệt đối xử giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân, giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân. Trong thự

Vai Trò Và Các Giải Pháp Phát Triển Kinh Tế Tư Nhân Ở Việt Nam

phát triển kinh tế, tạo việc làm, huy động các nguồn lực xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội . Qua đó khu vực kinh tế tư nhân khẳng định vị trí vững chắc của mình trong nền kinh tế. Hiến pháp 1992 xác định : “Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không hạn chế về quy mô hoạt động tronh những ngành, nghề có lợi cho quốc tế dân sinh. Kinh tế kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển (Điều 21) Đại hội Đảng ix xác định : ” Thực hiện nhất quán cơ sở phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo quản lý đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế tư nhân định hướng XHCN cùng phát triển lâu dài, hợp tài và cạnh tranh lành mạnh : trong đó nền kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” (Văn kiện Đại hôị Đảng ix) Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, kinh tế tư nhân còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém như : quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý thấp, sức cạnh tranh yếu, tình trạng trốn thuế, gian lận thương mại, kinh doanh trái pháp luật trong khu vực kinh tế tư nhân. Mặc dù Đảng và nhà nước có đường lối, chính sách tạo điều kiện thuân lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, nhưng kinh tế tư nhân vẫn gặp phải nhiều rào cản : thiếu vốn, môi trường kinh doanh, hệ thống pháp luật, quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân… Kinh tế tư nhân là vấn đề khá nhạy cảm cả về lý luận và thực tiễn : đình hướng XHCN trong phát triển kinh tế tư nhân, vấn đề quan điểm đối với kinh tế tư nhân. Đảng viên làm kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế tư nhân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế được coi là cần thiết. Trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam (quá độ lên CNXH), hoàn thiện lý luận, nhận thức đúng đắn về khu vực kinh tế tư nhân là rất cần thiết: Từ đó có những đựờng lối, cơ sở cụ thể tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xây dựng XHCN. Với nội dung:”Vai trò và các giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam”, hy vọng đề án sẽ đóng góp phần nào trong việc nhận thức rõ hơn, đúng đắn hơn về khu vực kinh tế tư nhân mà chủ yếu là vai trò của kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay. Từ đó có những giải pháp, đường lối, chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân nói riêng và của toàn bộ kinh tế nói chung. Nội dung đề án gồm: Chương I : Lý luận về kinh tế tư nhân Chương ii : Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiệ nay- vai trò và tình hình phát triển Chương iii: Các giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay. Chương i : Lý luận về kinh tế tư nhân. I. Khái niệm và bản chất của kinh tế tư nhân(KTTN): 1. Khái niệm: Theo thông lệ của theo thông lệ thống kê quốc tế người ta thường chia nền kinh tế của cá quốc gia thành 2 khu vực: khu vực KTNN và khu vực kinh tế nhà nước. ở Việt Nam, với bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa, tồn tại bên cạnh khu vực KTNN là khu vực kinh tế tư nhân. Hội nghị lần thứ v ban chấp hành trung ương Đảng khoá ix khẳng định :”Kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân”. Như vậy, với khái niệm trên bao gồm hai nội dung: – Về lĩnh vực sản xuất kinh doanh:Kinh tế tư nhân rất rộng về cả hình thức sở hữu và ngành nghề mà các chủ thể đó tham gia vào sản xuất kinh doanh:công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, chế biến nông lâm sản, thương mại, dịch vụ. Về tổ chức: Khu vực kinh tế tư nhân bao gồm các hình thức kinh tế sau: Kinh tế cá thể: Được hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay cá nhân hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động của chính cá nhân và hộ đó, không thuê mướn lao động làm thuê. Kinh tế tiểu chủ: là hình thưc kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý và điều hành, hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất và có sử dụng lao động làm thuê. Kinh tế tư bản tư nhân: gồm công ty trách nhiệm hữu hạn,doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần được thành lập theo luật doanh nghiệp, luật công ty. 2. Bản chất của KTTN: Như ở trên chúng ta đã biết, KTTN không phải là 1 thành phần kinh tế mà là 1 phạm trù để chỉ nhóm thành phần kinh tế có những đặc trưng chung, lại vừa có bước khác nhau. Có thể xem xét KTTN trên các quan hê kinh tế cơ bản sau . 2.1. Quan hệ sở hữu: Khu vực KTTN tồn tại song song với khu vực kinh tế nhà nước, dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất(hoặc vốn ). Nó gồm sở hữu tư nhân nhỏ, là sở hữu của những người lao động tự do, sản xuất ra sản phẩm từ lao động của chính mình và các thành viên trong gia đình(thợ thủ công cá thể, tiểu thương, các hộ nông dân…), và sở hữu tư nhân lớn của các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài đầu tư ở VN. 2.2. Quan hệ quản lý Xuất phát từ quan hệ sở hữu của KTTN, quan hệ quản lý của khu vực kinh tế này bao gồm các quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ và sở hữu tư nhân lớn. Quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ là quan hệ dưạ trên sự tổ chức điều hành hay phân công công việc trong nội bộ gia đình, giữa các thành viên, thường dựa trên quan hệ tình cảm. Quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân lớn là quan hệ quản lý giữa chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư với công nhân, người lao động. Người quản lý là những cá nhân : chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư hoặc một nhóm người. 2.3. Quan hệ phân phối Trong kinh tế tư nhân, quan hê phân phối dựa trên cơ sở các loại hình sở hữu tư nhân khác nhau. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh mà người sở hữu đồng thời là người lao động (thường ở người kinh tế cá thể, tiểu chủ ), thì phân phối sản xuất lao động là tự phân phối trong nội bộ chủ thể kinh tế đó. Đối với cá cơ sở sản xuất kinh doanh lớn khác có thuê mướn lao động(thành phần KTTN, thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế hỗn hợp) thì phân phối kết quả căn cứ vào sở hữu giá trị, túc là sức lao động của lao động làm thuê và sở hữu tư bản. ở Việt Nam bản chất nhà nước là XHCN, quan hệ phân phối có khác so với nhà nước mang bản chất TBCN, ở đây quyền lợi người lao động được đảm bảo tốt hơn, người lao động được trả công xứng đáng với số lao động họ bỏ ra KTTN ở Việt Nam chịu sự quản lý của nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, mục đích phát triển nền phát triển KTTN nhằm phát triển kinh tế xã hội, xây dựng XHCN. Vì vậy, ở Việt Nam, KTTN mang bản chất XHCN. 2.4. Định hướng XHCN là một đặc trưng của KTTN ở Việt Nam: Phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội, đưa đất nước phát triển giàu mạnh, hướng tới chủ nghĩa xã hội là mục tiêu mà Đảng, nhà nước và nhân dân Việt Nam đang hướng tới. Định hướng XHCN là một đặc trưng của KTTN ở Việt Nam hiện nay, giữ vững định hướng đó trong phát triển KTTN là một vấn đề rất nhạy cảm, là vấn đề mà xã hội rất quan tâm. Trong sự hoạt động, phát triển của khu vực KTTN, Đảng luôn nhấn mạnh định hướng XHCN, đưa KTTN phát triển hàng đầu, kìm chế những tiêu cực do khu vực KTTN gây ra. Phát triển KTTN cần quán triệt một luận điểm quan trọng của Đảng được nêu ra trong nghị quyền Đại hội vi cách đây 18 năm là :”Tiêu chuẩn đánh giá sự vần dụng đúng đắn các quá trình thông qua chủ trương cộng sản của Đảng và nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao”. Đặc trưng định hướng XHCN trong phát triển KTTN làm hạn chế, giảm bớt tiêu cực, sự bóc lột lao động của nhà tư bản với lao động làm thuê, từ đó góp phần phân phối thu nhập xã hội công bằng hơn, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, đảm bảo an toàn xã hội, ổn đinh chính trị phát triển kinh tế. II. Sự tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam là một tất yếu khách quan 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin về nền kinh tế nhiều thành phần V.I. Lê nin lần đầu tiên đề xuất khái niệm thành phần kinh tế là trọng tưởng” Về bệnh ấu trĩ” “tả khuynh và tính tiểu tư sản”. Nêu ra khái niệm này, Lênin đã cung cấp một cách nhìn, cách hiểu về một kết cấu kinh tế đa dạng, một kết cấu gồm nhiều cấp độ phát triển với nhiều tính chất khác nhau cùng tồn tại bản chất trong thời kỳ quá độ. Lê nin cho rằng, ở Nga lúc đó có 5 thành phần kinh tế: kinh tế nông dân gia trưởng, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, thành phần kinh tế tư bản tư nhân , thành phần kinh tế tư bản nhà nước, thành phần chủ nghĩa xã hội. Các phương thức sản xuất được xếp, định vị vào từng thành phần kinh tế thích hợp, gắn với mỗi hình thức sản xuất có một đại biểu kinh tế, một chủ thể kinh tế nhất định. Quy luật quan hệ sản xuất phối hợp với tính chất và trình độ phát triển của một lực lượng sản xuất là quy luật chung cho mọi phương thức sản xuất. Trong nền kinh tế chưa thực sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhỉều trình độ khác nhau tương ứng với mỗi trình độ của một lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do đó cơ cấu của nền kinh tế xác đình về phương diện kinh tế xã hội phải là kết cấu kinh tế nhiều thành phần. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau, do đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có nhiều hình thức, tức là nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần . v.i. Lênin nhận thấy, con đường phát triển kinh tế, nội dung cơ bản của cuộc xây dựng CNXH ở Nga, tất yếu phải thúc đẩy tiến trình kinh tế. Coi đó là khâu quyết định vì: kinh tế tư bản tư nhân là nấc thang phát triển cao và là động lực của sự phát triển, giải quyết trạng thái kinh tế chậm phát triển, phương thức sản xuất lạc hậu . Vào năm 1953, để mô tả kết cấu kinh tế của XH dân chủ mới của VN Hồ Chủ Tịch đã dùng khái niệm”loại kinh tế”, người viết :”trong chế độ dân chủ mới, có 5 loại hình kinh tế khác nhau: A: Kinh tế quốc doanh( thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân) B: Các hợp tac xã (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến đến CNXH) C: Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghiệp( có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa CNXH). D: Tư bản của tư nhân E : Tư bản của nhà nước (như nhà nước hùn vốn với TBCN để kinh doanh). Trong 5 loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả”. Cho nên nền kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng CNXH chứ không phải theo hướng chủ nghĩa tư bản. Như vậy lực lượng của chủ nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh khẳng định trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay tồn tại thành phần kinh tế phi XHCN là tất yếu khách quan. 2. Kinh tế tư nhân trước và sau đổi mới (1986), quan điểm của Đảng KTTN trên thực tế có sức sống mãnh liệt và có nhiều đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhưng do những sai lầm, nóng vội đã coi KTTN là đối tượng phải cải tạo,không được khuyến khích phát triển, không được pháp luật bảo vệ, người ta gọi nó là”kẻ thù” của CNXH. Những người làm việc trong thành phần kinh tế này có địa vị chính trị thấp kém. Sản xuất kinh doanh của họ bị trói buộc, kìm hãm, bị kinh tế quốc doanh, tập thể chèn ép. Quan niệm cũ của xã hội là khu vực KTTN gắn liền với tự quyền đi lên chủ nghĩa tư bản nó đối lầp với con đường đi lên CNXH. Ngay trong điều kiện khó khăn như vậy, khu vực KTTN vẫn tồn tại và chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng quỹ thu nhập của hộ dân cư. Chẳng hạn, trong thu nhập của hộ người nông dân là xã viên hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, thu từ kinh tế tập thể thường chiếm 30 – 40%, kinh tế phụ gia đình (thực chất là khu vực KTTN) chiếm 60 – 70%. Như vậy có nghĩa là trong nhà nước nơi có phong trào hợp tác hoá mạnh nhất, triệt để nhất nhưng luôn tồn tại kinh tế cá thể. Đại hội Đảng lần thứ vi là mốc lịch sử đánh dấu sự chuyển hướng có ý nghiã quyết đình đối với sự hình thành mô hình kinh tế phối hợp với tiền tệ Việt Nam và quy luật khách quan. Đường lối đổi mới được tiếp tục khẳng định và hoàn thiện tại các Đại hội lần thứ vii. Viii, và ix. chủ trương đối với kinh tế tư nhân được đại hội Đảng VI đề ra :”Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác nhau trong sự liên kết chặt chẽ dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế XHCN”- Văn kiện Đại Hội đại biểu lần thứ VI, NXB sự thật, Hà Nội (tr44). Đại hội còn chỉ rõ:”Kinh tế gia đình có vị trí quan trọng và khả năng dồi dào, cần được khuyến khích và giúp đỡ phát triển trong mối quan hệ hỗ trợ và gắn bó với kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể”. Đối với kinh tế tiểu tư sản, Nhà nước thừa nhận sự cần thiết của bộ phận kinh tế này trong thời kỳ quá độ, hướng dẫn và giúp đỡ nó sản xuất, kinh doanh liên kết với kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể. Cương lĩnh tại Đại hội vii của Đảng(1991) đã xác định :”Kinh tế cá thể còn có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào làm ăn hợp tác trên nguyên tắc tự nguyên dân chủ cùng có lợi.Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh, do luật pháp qui định. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức. Đại Hội Đảng lần thứ ix xác định : “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trựờng định hướng XHCN” ( Văn kiện Đại hội Đảng, trang 95 – 96). “Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn ” ( Văn kiện Đại hội Đảng ix, trang 98). “Khuyến khích phát triển kinh tế Tư bản tư nhân rộng rãi trong những nghành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế Tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài, khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước “. “Xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xác định tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai ” Như vậy trong quan điểm của Đảng và của Nhà nước đã có những đổi mới quan trọng trong tư duy nhận thức, đánh giá về khu vực kinh tế tư nhân; và dần được cụ thể hoá bằng những chích sách và pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển : -Từ chỗ chia kinh tế thành 2 bộ phận: XHCN và phi XHCN,chủ trương xoá bỏ thành phần kinh tế phi XHCN, đã chuyển sang thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần, với nhiều hình thức sở hữu, tổ chức kinh doanh đa dạng. -Từ chỗ coi kinh tế quốc doanh là chủ đạo, phải nắm giữ mọi ngành nghề, lĩnh vực, độc quyền nắm tiền,nắm hàng đã chuyển sang phân biệt rõ sở hữu Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước; phát triển kinh tế thị trường định hựớng XHCN, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô. Những nỗ lực trên về việc tạo lập hành lang pháp lý để cho KTTN của nước ta phát triển nhanh chóng và vững chắc. Qua đó khẳng định: Đảng, Nhà nước ta tạo điều kiện cho khu vực KTTN phát triển thuận lợi, phát huy hết mọi tiềm lực, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển, tiến lên CNXH. Được Nhà nước khuyến khích phát triển, tồn tại bên cạnh khu vực kinh tế Nhà nước, khu vực KTTN có vai trò như thế nào và tình hình phát triển của khu vực này ra sao, chúng ta cùng xem xét ở chương sau. Chương II : Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam I. Vai trò của kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay 1. Ưu thế của kinh tế tư nhân Những đặc điểm vốn có: -KTTN có sức sống mạnh mẽ: Khác với kinh tế nhà nước, KTTN dễ thành lập, mang tính tự nhiên, lan truyền, không cần sự hỗ trợ nhiều của Nhà nước. Sự phát triển của KTTN là mang tính khách quan, phản ánh quy luật cung cầu trên thị trường. Sức sống mãnh liệt của KTTN thể hiện sự tồn tại của nó trong nền kinh tế dù cho Nhà nước không thừa nhận, không chấp nhận nó, dù cơ chế kinh tế kìm hãm nó. -Tính bền vững, truyền thống lưu truyền kinh nghiệm : KTTN ra đời cùng sự ra đời của sản xuất hàng hoá và nó là nhân tố thúc đẩy sản xuất phát triển. Hộ gia đình là thành phần kinh tế không thể thiếu trong KTTN; với đặc trưng là một tế bào của nền kinh tế, hộ gia đình luôn tồn tại, phát triển trong nền kinh tế, dưới nhiều hình thức, quy mô. Gắn với sở hữu tư nhân và quá trình tự phát, quá trình phát triển KTTN là quá trình lưu truyền kinh nghiệm truyền thống trong bản thân các doanh nghiệp, xí nghiệp tư nhân, trong các hộ kinh tế gia đình. Những bí quyết công nghệ, kinh nghiệm kinh doanh thường tồn tại trong phạm vi nhỏ và đặc trưng nhất là các làng nghề truyền thống; nó được chuyển từ đời này qua đời khác. -KTTN có cơ cấu tổ chức linh hoạt: Trong bất kỳ một nền kinh tế nào, thì vấn đề then chốt là phải đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. KTTN với sự linh hoạt của mình sẽ phủ đầy những lỗ trống trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng tốt hơn kinh tế nhà nước. Với những đặc điểm vốn có đó, KTTN có ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế . 2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế ở Việt Nam Kể từ sau đại hội Đảng lần thứ vi (tháng 12/1986), và nhất là khi Luật công ty, Luật doanh nghiệp có hiệu lực, KTTN đã được chú trọng và có điều kiện phát triển: số doanh nghiệp trong khu vực KTTN tăng mạnh cả về số lượng, quy mô và vốn đầu tư, tham gia vào mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh của xã hội. Qua đó cho thấy sức sống mạnh mẽ của khu vực KTTN; KTTN khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong sự phát triển kinh tế. Vai trò đó thể hiện qua từng lĩnh vực: 2.1. Trong lĩnh vực nông nghiệp: Trong lĩnh vực nông nghiệp, số hộ tư nhân, cá thể kinh doanh sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn: 81.659 hộ. Đây thực sự là một lực lượng kinh tế mạnh, thể hiện ở các mặt sau: – Trong một thời gian ngắn, các hộ nông dân đã mua sắm nhiều thiết bị hiện đại, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp lên một bước, cụ thể đã mua: 109483 máy phát điện, 36011 động cơ chạy xăng, 72286 máy kéo nhỏ, 5378009 máy bơm … – Kinh tế trang trại phát triển mạnh: trong thời gian ngắn, số trang trại được thành lập là: trên 110000 trang trại trong cả nước, trong đó các tỉnh phía Bắc chiếm 67000 trang trại, tương đương 61% . Hình thức kinh tế trang trại là những tổ chức kinh tế nằm trong khu vực kinh tế tư nhân nhằm đưa sản xuất nông nghiệp lên trình độ sản xuất hàng hoá. Lượng vốn bình quân của mỗi trang trại là 291,43 triệu đồng, nguồn vốn chủ yếu là do chủ trang trại bỏ vốn ra, chiếm 91,03%. Trang trại tạo ra lượng hàng hóa lớn, trung bình một trang trại cung cấp một lượng giá trị hàng hoá là 91.45 triệu đồng, chủ yếu là nông sản, hải sản, sản phẩm chăn nuôi. Như vậy, kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam lên kinh tế hàng hoá, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tạo việc làm cho trên 60 vạn lao động, với tiền công trung bình 434.29 nghìn đồng/gười /tháng. Kinh tế trang trại huy động vốn của người dân, khai thác hiệu quả nguồn lực về nông nghiệp của địa phương. Khu vực KTTN trong nông nghiệp thời gian qua đã góp phần quan trọng vào ngành nông nghiệp: tạo ra gần 1/4 tổng sản lượng của Việt Nam, 30% kim ngạch hàng xuất khẩu. Qua đó, góp phần tích cực trong việc công hiệp hoá nông nghiệp nông thôn, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. 2.2. Trong lĩnh vực công nghiệp: Không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp, KTTN tham gia mạnh mẽ vào lĩnh vực công nghiệp. Toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình đã đóng góp vào sản lượng công nghiệp cả nước là:58% năm 2000, Khu vực KTTN mà đặc biệt là các doanh nghiệp, hộ gia đình có vai trò quan trọng tronglĩnh vực công nghiệp chế tạo. Năm 1999 có 600000 doanh nghiệp, hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo, đóng góp 28% giá trị gia tăng trong công ngiệp chế tạo. Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp sẽ còn tăng hơn nữa vì thể chế pháp lý từ năm 1998 đến nay, nhất là luật doanh nghiệp được phê chuẩn và có hiệu lực từ năm 2000. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong những năm gần đây, trong nông thôn cả nước có khoảng 18 – 20% số hộ nông dân tham gia hoạt động phi nông nghiệp. Trong đó 1/2 là hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng thuộc KTTN, cá thể và hộ gia đình. Hoạt động công nghiệp của KTTN trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn lại có tác động mạnh mẽ đến quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông thôn. Điều này thể hiện: – Hình thành loại hoạt động có tính chất công nghiệp ngay tại địa bàn nông thôn cạnh hoạt động nhà nước. – Giải quyết được nhiều việc làm tại chỗ, góp quyền chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. – Góp phần nâng cao đời sống ngưòi dân nông thôn, do đó mở rộng thị trường trong nước: thị trường hàng tiêu dùng, hàng tư liệu sản xuất, sức lao động. – Góp phần tạo điều kiện và thúc đẩy xây dựng nông thôn Việt Nam hiện đại theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Việc xây dựng nông thôn mới hiện đại là mục tiêu lớn của công nghiệp hoá hiện đại hoá theo tinh thần mới, đòi hỏi cơ sở hạ tầng có nguồn vốn lớn mà chỉ Nhà nước thì không thể làm được. Thu nhập từ hoạt động của khu vực KTTN sẽ là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho sự nghiệp này. Với sự năng động của mình, khu vực kinh tế tư nhân hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp sẽ góp phần thu hút vốn, tiếp cận với khoa học kỹ thuật hiện đại, tận dụng tri thức con người, kinh nghiệm kinh doanh, qua đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước 2.3. Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ: Đây là lĩnh vực kinh tế tư nhân hoạt động sôi động, ngày càng lấn át khu vực kinh tế quốc doanh. Số lượng tăng lên nhanh chóng: năm1986 có 56,8 vạn hộ, năm 1995 có 94 vạn hộ. Tư thương và hộ cá thể ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ: năm 1987, khu vực này đảm nhận tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội là 59%, năm 1995 là 79,4%. – Về mặt số lượng, cơ cấu: 12/2001 số hộ cá thể trong cả nước là 7685978 hộ, trong lĩnh vực thương mại và khách sạn chiếm 54,4%; tập trung nhiều ở thành phố lớn như: thành phố Hồ Chí Minh 17%, Hà Nội 13,6%, Quảng Ninh 7,17%… – Về mặt lao động: lĩnh vực thương mại và dịch vụ tư nhân có thể thu hút nhiều lao động và giải quyết việc làm tốt, tỷ trọng lao động thương nhân cá thể năm 2001 chiếm 87,2%, khu vực khác chiếm 12,8%. – Về doanh số kinh doanh: tổng mức bán lẻ của thương nghiệp tư nhân tăng từ 66,9% lên 75,1% (từ 1990 – 2001). Thương nghiệp quốc doanh và khu vực khác giảm từ 33,1% xuống còn 24,9%. – Đóng góp vào nguồn thu ngân sách khu vực này cũng rất đáng kể, tổng số thuế nộp vào ngân sách nhà nước tăng từ 908 tỷ đồng năm 1991 lên 9782,7 tỷ đồng năm 2001. Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, còn phải kể đến vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong xuất nhập khẩu. Tỷ trọng của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước trong giá trị xuất khẩu tăng từ 12% năm 1997 lên 22% năm 2000 và tỷ trọng trong giá trị nhập khẩu đã tăng từ 4% lên tới 16%. Như vậy, trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Đặc biệt là trong việc sản xuất hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân thì khu vực KTTN làm tốt hơn khu vực kinh tế nhà nước. 2.4. Trong xây dựng kết cấu hạ tầng: Với chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm và mục tiêu tới năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, đòi hỏi một kết cấu hạ tầng tương ứng, bao gồm những công trình lớn về phát triển đường sắt, đường bộ, hàng không. Để xây dựng được hệ thống kết cấu hạ tầng phù hợp cho mục đích phát triển kinh tế cần nguồn vốn rất lớn mà nếu chỉ có nguồn vốn Nhà nước thì không đủ sức thực hiện. Những chỉ số sau nói lên điều đó: vốn đầu tư ngành năng lượng hàng năm khoảng 2ữ2,5 tỷ USD, dành 5,3ữ5,5% GDP đầu tư cho kết cấu hạ tầng ngành năng lượng; số vốn cần thiết đầu tư cho ngành giao thông vận tải là 11,6 tỷ USD, tương đương 2,5% GDP tích luỹ. Chỉ với 2 ngành nêu trên, số vốn hàng năm cần thiết cho đầu tư là 3,4ữ3,5 tỷ USD, đó là chưa kể tới những kết cấu hạ tầng khác như viễn thông, nước sạch… Trong thập kỷ tới, nhu cầu vốn sẽ rất lớn, khảng 6ữ7% GDP. Vì thế việc thu hút tham gia của khu vực KTTN là hết sức quan trọng, qua đó khẳng định vai trò quan trọng của khu vực KTTN trong nền kinh tế, vốn nhàn rỗi trong dân sẽ đựơc huy động cho hoạt động kinh tế, phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. II. Tình hình phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam – những đóng góp và những hạn chế: 1. Những đóng góp tích cực, vai trò quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian qua: Với những quan điểm, chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước, trong những năm gần đây khu vực KTTN phát triển mạnh mẽ, cụ thể là: tính đến hết tháng 9-2003 cả nước có khoảng 12,4 triệu hộ kinh doanh cá thể, hơn 1000 doanh nghiệp tư nhân. Khu vực KTTN chiếm tỷ trọng áp đảo trong việc tạo chỗ làm mới. Không những thế lượng vốn huy động cho đầu tư khá lớn; tỷ trọng đầu tư của các hộ kinh doanh cá thể và các doanh nghiệp dân doanh trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội năm 2002 là 28.8%. 1.1. Phát triển kinh tế tư nhân thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: a. Xét trên giác độ tổng cung: Sự phát triển của kinh tế tư nhân sẽ cung cấp cho xã hội sản phẩm vật chất và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu đời sống, nhu cầu cho quá trình tái sản xuất của xã hội. Tốc độ tăng trưởng của khu vực KTTN khá ổn định, năm 2002 tăng trưởng cả nước là 7% thì khu vực KTTN trong cả nước tăng 19%, khu vực đầu tư nước ngoài tăng 15%. Với tốc độ tăng trưởng trên, khu vực kinh tế tư nhân tạo ra 43,36% GDP năm 1995; 42,65% GDP năm 1996; 41,54% GDP (1997); 41,07% GDP (1998) và 40,179% GDP (1999). Đây là đóng góp đáng kể vào sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội và tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. b. Xét trên góc độ tổng cầu: Vấn đề tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế là vấn đề quan trọng. Vì vậy nhiều quốc gia trên Thế giới, trong đó có Việt Nam đã có chính sách kích cầu. ở Việt Nam, theo tính toán của các nhà thống kê, để tăng trựởng 1% GDP cần tăng trưởng tiêu dùng 2,1ữ2,2%. Khi khu vực KTTN phát triển sẽ làm tổng cầu tăng, vì: – Do mở rộng sản xuất làm cho nhu cầu các yếu tố đầu vào tăng. – Thu nhập người lao động tăng và số lao động được huy động tăng. 1.2. Huy động vốn trong xã hội: Khu vực KTTN có đóng góp rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư trong xã hội. Tính đến cuối năm 2003, đầu tư của KTTN chiếm 27% tổng đầu tư xã hội của Việt Nam (khoảng 10 tỷ USD), cao hơn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế địa phương. Chẳng hạn, đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh năm 2002 ở thành phố Hồ Chí Minh chiếm 38% tổng số vốn đầu tư xã hội trên địa bàn, cao hơn tỷ trọng vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và ngân sách gộp lại (36,5%). Với hoạt động khu vực KTTN, nguồn vốn trong dân đã dần dần được khơi thông, góp phần thúc đẩy quy mô đầu tư của nền kinh tế. Khu vực kinh tế tư nhân dễ huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Theo kết quả điều tra nguồn lực do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội tiến hành cho thấy có tới trên 70% vốn sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình là huy động của bà con họ hàng. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 1999 – 2000 TT Chỉ Tiêu Đơn vị tính 1999 2000 Tăng so với năm trước 1 Tổng vốn đầu tư phát triển xã hội Tỷ đồng 131171 147633 12.55 2 Khu vực KTTN Tỷ đồng 31542 35894 13.79 2.1 Doanh nghiệp tư nhân Tỷ trọng trong toàn xã hội Tỷ trọng trong khu vực KTTN Tỷ đồng % % 5628 4.29 17.04 6627 4.48 18.46 17.75 2.2 Hộ kinh doanh cá thể Tỷ trọng trong toàn xã hội Tỷ trọng trong khu vực KTTN Tỷ đồng % % 25914 19.75 82.15 29267 19.82 81.53 12.93 1.3. Phát triển kinh tế tư nhân góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giữ gìn ổn định xã hội: Tạo công ăn việc làm có thể coi là đóng góp quan trọng nhất của khu vực KTTN. Trong điều kiện nước ta, vấn đề lao động và việc làm đang là vấn đề cấp bách. Hệ thống các doanh nghiệp nhà nước đang trong quá trình cải cách, không tạo thêm được nhiều việc làm mới, khu vực hành chính nhà nước đang giảm biên chế và tuyển dụng mới không nhiều. Do đó khu vực KTTN là nơi thu hút, tạo việc làm mới cho xã hội. Các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể (phi nông nghiệp) đã sử dụng hơn 6 triệu người. Trong 3 năm (2000-2002) các doanh nghiệp dân doanh và hộ cá thể mới thành lập đã tạo ra khoảng 1,5 triệu chỗ làm mới. Cùng với sự tăng trưởng của khu vực KTTN là thu nhập của người lao động ngày một nâng cao. Theo Tổng cục Thống kê thì mức thu nhập bình quân tháng một lao động như sau: Các loại hình doanh nghiệp Mức thu nhập trung bình(1000đ) Chung các loại hình doanh nghiệp – Doanh nghiệp nhà nước – Doanh nghiệp tư nhân – Công ty cổ phần – Tập thể – Công ty trách nhiêm hữu hạn – Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1041.1 1048.2 651.1 933.0 529.3 801.8 1754.5 Thu nhập người lao động tăng, đời sống nhân dân được nâng cao, góp phần quan trọng trong phân phối lại thu nhập, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, qua đó tình hình chính trị đất nước được củng cố ổn định. 1.4. Tăng thu cho ngân sách quỗc gia Đóng góp của doanh nghiệp vào ngân sách nhà nước đang có xu hựớng tăng nhanh, từ khoảng 6.4% năm 2001 lên hơn 7% năm 2002. Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103.6% kế hoạch, tăng 13% so với năm 2001. Ngoài ra khu vực KTTN còn góp phần tăng nguồn thu ngân sách như: thuế môn bài, VAT và các khoản phí khác. ở một số địa phương, đóng góp của doanh nghiệp dân doanh chiếm tỷ trọng lớn như: thành phố Hồ Chí Minh là 15%, Tiền Giang: 24%, Đồng Tháp: 16%, Gia Lai: 22%, Quảng Nam 22%, Bình Định: 33%… 1.5. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, hoàn thiện hệ thống ngành nghề: KTTN phát triển bên cạnh các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam, nó sẽ góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh ở các loại hình doanh nghiệp. KTTN ngày càng phát triển đa dạng về lĩnh vực, do vậy những lĩnh vực vốn trước đây có sự độc quyền thì na._.

Phát Triển Bền Vững Ở Việt Nam

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM

HIỆN TRẠNG, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP

GS.TS. Lê Văn Khoa

TS. Nguyễn Ngọc Sinh

Hội Bảo Vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE)

                                               

I. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG (PTBV) LÀ TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM

        Pierre Gourou, nhà địa lý học nổi tiếng trên thế giới, chuyên gia về các vùng nhiệt đới ẩm, đã đề xuất một khái niệm về văn minh của loài người. Ông cho rằng,Việt Nam có truyền thống hàng nhiều thế kỷ về PTBV. Một nền văn hoá có hiệu suất cao về mật độ, không gian và thời gian (Pierre Gourou, 1982).

Pierre Gourou, nhà địa lý học nổi tiếng trên thế giới, chuyên gia về các vùng nhiệt đới ẩm, đã đề xuất một khái niệm về văn minh của loài người. Ông cho rằng,Việt Nam có truyền thống hàng nhiều thế kỷ về PTBV. Một nền văn hoá có hiệu suất cao về mật độ, không gian và thời gian (Pierre Gourou, 1982).

          Với khái niệm này nền văn hoá đồng nghĩa với khả năng duy trì cuộc sống của con người. Sự duy trì này không hoàn toàn phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên được duy trì. Các châu thổ các sông tại các vùng nhiệt đới khác nhau trên thế giới hầu như có điều kiện đất đai, thuỷ văn, khí hậu tương tự như nhau, nhưng có khả năng duy trì rất khác nhau. Mật độ dân số trung bình của các châu thổ nhiệt đới ở Châu Phi và Nam Mỹ là 14 người/km2, ở Châu Á là 170 người/km2. Tại Đồng Bằng Sông Hồng (ĐBSH), mật độ này là 430 người vào năm 1931; 650 người vào năm 1975 và vào khoảng 1.238 người/km2 hiện nay. ĐBSH rộng 15.000 km2. Khả năng duy trì cuộc sống lâu dài này đã lôi cuốn sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau: địa lý; lịch sử; nhân học; kinh tế… Ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài “nền văn hoá sông Hồng“, “nền văn minh lúa nước”, “phương thức sản xuất Châu Á”…là thuật ngữ đã được dùng để chỉ rõ đặc trưng về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và mối quan hệ giữa con người với tài nguyên thiên nhiên trên ĐBSH. Đó là do:

          – Người dân đã sử dụng các công nghệ với những đặc điểm tiêu tốn ít năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo của mặt trời, thuỷ lực, gió, thuỷ triều; sử dụng vật liệu tái tạo, tìm được tại chỗ hoặc gần nơi sản xuất; sử dụng, tái chế tất cả các phế thải, phụ phẩm của quá trình sản xuất và tiêu dùng. Trong vườn nhà của người nông dân ĐBSH tài nguyên đất được sử dụng 2-3 vụ mỗi năm, nguồn nước được sử dụng nhiều lần từ dùng để uống, đun nấu, rửa đến tưới vườn, ruộng. Năng lượng mặt trời được dùng để phơi sấy, năng lượng thuỷ triều để tưới tiêu, gió để đẩy thuyền; nhiệt lượng từ không khí để biến thực phẩm qua lên men. Nhiều vật liệu xây dựng lấy từ cây cỏ, tre nứa. Nước bẩn từ nhà bếp, nhà vệ sinh chảy về vườn, ruộng.

          – Sự tạo lập nên những giá trị văn hoá đề cao sự tự tôn trong lao động sản xuất, tiết kiệm trong tiêu thụ và sử dụng tài nguyên, tránh những hành động can thiệp vào cân bằng và hài hoà của thiên nhiên. Trong xã hội truyền thống ở Việt Nam, người có học được đặt vào vị trí cao nhất (nhất sĩ) người nông dân được đặt ở vị trí thứ hai(nhì nông). Kham khổ, tiết chế trong ăn, mặc, ở, được xem là đức tính quan trọng, ăn chay, cấm sát sinh là những tập quán phổ biến trong tín đồ phật giáo.

– Một hệ thống xã hội phát triển tinh thần đoàn kết, tương trợ trong nhân dân, tạo nên khả năng huy động tài sản của cộng đồng hoặc của cá nhân nhằm đảm bảo cho những việc công ích, kể cả việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, phòng chống thiên tai và bảo vệ môi trường (BVMT) đang là cơ sở tổ chức xã hội này.

– Từ kinh nghiệm nhiều thế kỷ tại ĐBSH có thể thấy rằng PTBV là có khả năng hiện thực. Tính hiện thực này dựa trên sự tổ hợp của lựa chọn đúng đắn điều kiện thiên nhiên, sử dụng công nghệ “sạch” thích hợp và hình thành một nền văn minh hoá PTBV.

Chiến lược PTBV do IUCN, UNEP, WWWF soạn thảo xác định:

“Đạo đức tạo nên một cơ sở cho PTBV”. Dựa trên nền tảng này, các tổ chức trên đề nghị:

          “Phải đề cao đạo đức của thế giới về PTBV; mở rộng và tăng cường giáo dục môi trường; thừa nhận và cải tiến ý thức tập thể và cộng đồng về PTBV; chấp nhận luật pháp và sáng kiến củng cố các biện pháp PTBV”(IUCN,UNEP, WWF,1989).

          Gần đây, quốc tế lại đánh giá cao về hệ thống lúa nước có tưới và xem là một hệ thống canh tác bền vững nhất do người Việt Nam sáng tạo. Đó là do:

          1. Là một hệ canh tác bền vững, ổn định về năng suất và an toàn để đầu tư thâm canh. Hệ thống tưới tiêu đã nhân tạo hoá một phần điều kiện tự nhiên để canh tác lúa nước.

          2. Hạn chế lũ lụt: đê điều nhằm bảo vệ các cánh đồng lúa khỏi bị ngập lụt, nhưng mặt khác cần thấy tác động ngược lại là chính cánh đồng lúa đã góp phần hạn chế lũ lụt. Có thể xem vai trò các cánh đồng lúa như các hồ chứa nước và BVMT có giá trị tương đương như các hồ chứa nước nhất là các cánh đồng cao, ít bằng phẳng.

          3. Duy trì tài nguyên nước: Các cánh đồng lúa luôn lưu giữ lớp nước trên bề mặt trải rộng trên diện tích lớn của lãnh thổ, nhờ đó đã tác động  tích cực đến chế độ nước ngầm. Nước ngầm được cánh đồng lúa duy trì đã góp phần ổn định lưu lượng các dòng sông mùa cạn và duy trì mực nước ngầm cho các giếng nước sinh hoạt.

          4. Làm trong sạch môi trường (đất và khí quyển) và tạo cảnh quan đẹp cho vùng quê. Các cánh đồng lúa và kể cả cánh đồng màu, các vườn cây đã tiêu thụ, phân giải các rác thải góp phần giảm thiểu ô nhiễm đất. Đối với việc làm sạch không khí ngoài chức năng điều tiết khí CO2, các cánh đồng lúa còn hấp thu các khí độc như SO2 và NO2. Các hệ thống canh tác RVAC, nông lâm nghiệp kết hợp, xen canh, luân canh, làm ruộng bậc thang ở những vùng cao đều là những sáng tạo truyền thống của các dân tộc Việt Nam trong sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên và BVMT.

Như vậy, định hướng chiến lược để PTBV ở Việt Nam rất phù hợp với truyền thống của người dân Việt Nam và nếu có những giải pháp phù hợp sẽ khơi dậy mạnh mẽ truyền thống cao đẹp này.

II. HIỆN TRẠNG CÁC HOẠT ĐỘNG VỀ PTBV CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

          Trong quá trình hội nhập quốc tế, vào năm 1991, Việt Nam đã thông qua ” Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển lâu bền  1991-2000“. Tiếp đó, đây là một trong những hoạt động đầu tiên ở tầm quốc gia về PTBV. Ngày 17/8/2004 Chính phủ đã ra quyết định số 153/2004/TTg ban hành văn bản “Định hướng Chiến lược về phát triển bền vững ở Việt Nam – (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam)”. Nội dung của Định hướng chiến lược về PTBV bao gồm mục tiêu dài hạn, những nguyên tắc, những lĩnh vực ưu tiên,những định hướng về chính sách và biện pháp tổ chức thực hiện PTBV. Định hướng chiến lược đề ra khung chính sách để các ngành, các địa phương, các tổ chức xã hội thiết kế và thực hiện chương trình hành động tiến tới PTBV của mình.

          Định hướng chiến lược đã đề ra một số giải pháp nhằm tổ  chức thực hiện chính như sau:

          1. Phát triển hệ thống thể chế phù hợp với những yêu cầu PTBV, bao gồm hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách và các văn bản pháp luật và xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động giữa các Bộ, Ngành, địa phương.

          2. Tăng cường năng lực quản lý PTBV của đội ngũ cán bộ.

          3. Huy động toàn dân tham gia thực hiện PTBV, thấm nhuần phương châm ” PTBV là sự nghiệp của toàn dân”

          4.Xây dựng và thực hiện chương trình hành động về PTBV của ngành và địa phương.

          5. Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong lĩnh vực PTBV và BVMT.

Chương trình nghị sự 21 của Việt nam (CTNS21) đánh dấu một thời kỳ mới thực hiện quan điểm của Nhà nước Việt Nam. Đó là “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Đối với Việt Nam, đây là một cách tiếp cận mang tính hệ thống, dài hạn, bảo đảm sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội,môi trường theo hướng bền vững.

Thời gian qua, để đưa những định hướng của chiến lược vào cuộc sống được sự hỗ trợ của Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Cơ quan phát triển Quốc tế Đan Mạch (DANIDA), Cơ quan Phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA) cùng các tổ chức quốc tế khác, Dự án “Hỗ  trợ xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 quốc gia của Việt nam – VIE/01/021 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện với sự phối hợp của các Bộ, Ngành, địa phương đã triển khai nhiều hoạt động đến các tỉnh, thành và huyện, nhiều phương pháp tiếp cận, xây dựng và đánh giá định lượng các mô hình PTBV đã ra đời, trong đó phải kể đến các phương pháp xây dựng ma trận: “Động lực – Áp lực – Hiện trạng – Đáp ứng” đã trở thành phổ biến trong đánh giá tiến bộ về PTBV. Bên cạnh đó, Dự án VIE/01/021 đã lần lượt ban hành 10 chuyên đề, bước đầu kiến nghị Bộ  chỉ tiêu khởi đầu VN0  ở 2 cấp Quốc gia và các địa phương.

            Ở cấp quốc gia, gồm:

          – 12 chỉ tiêu (CT) về lĩnh vực kinh tế

          – 17 CT về lĩnh vực xã hội

         

– 12 CT về lĩnh vực tài nguyên- môi trường và

          – 3  CT về lĩnh vực thể chế nhằm PTBV

            Ở

cấp các địa phương, gồm:

           

– 7  CT về lĩnh vực kinh tế

          – 14 CT về lĩnh vực xã hội

         

– 6   CT về tài nguyên- môi trường và

          – 2   CT về lĩnh vực thể chế

          Năm 2006, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam(VACNE), với sự hỗ trợ của Dự án VIE/01/21 bước đầu phát hiện các loại mô hình trong nhiều lĩnh vực và tiến hành mô tả chi tiết và kiến nghị khả năng mở rộng nếu có điều kiện (bảng1)

Bảng 1. Các mô hình về Phát triển Bền vững ở Việt nam

Lĩnh vực

Mô hình

Số lượng mô hình đã  được nghiên cứu

Khả năng mở rộng mô hình

Công nghiệp

Sản xuất sạch hơn (cơ sở sản xuất)

                  4

     120

Nông nghiệp

Làng sinh thái

                 3

       18

Cộng đồng

Cộng đồng tham gia BVMT, PTBV(xã)

                  4

     3.000   

Thành phố

PTBV thành phố (thành phố)

                  3

        100

Vùng ven biển

PTBV vùng ven biển(tỉnh, thành phố)

                  3

          23

Lưu vực sông

PTBV lưu vực sông(lưu vực)

                  1

          20

Nguồn: Hội BVTN và MT Việt Nam, 2006

          Nhìn lại quá trình gần 5 năm thực hiện những nhiệm vụ đã nêu trong định hướng, Hội BVTN&MT Việt Nam với tư cách là tổ chức phản biện phi Chính phủ nhận thấy, kể từ khi Quyết định 153 của Chính phủ được ban hành, Việt Nam đã đạt được bước tiến khá dài trên con đường đi tới mục tiêu phát triển bền vững (PTBV). Có thể kể ra đây những kết quả chính như sau:

1. Phát triển hệ thống thể chế phù hợp với yêu cầu PTBV

          Chủ trương PTBV được các cơ quan lãnh đạo Đảng và Quốc Hội tích cực hưởng ứng và PTBV đã trở thành một quan điểm chủ đạo trong đường lối và chính sách phát triển dài hạn của Việt Nam thông qua việc lồng ghép một số chỉ tiêu cơ bản vào kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2006-2010. Một số biện pháp về tổ chức và thể chế cho PTBV đã được thành lập: sự hình thành Hội đồng PTBV quốc gia theo quyết định số 1032/QĐ/TTg ngày 27/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ và Văn phòng PTBV đặt trong Bộ KH&ĐT(Văn phòng 21) có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức, hướng dẫn và chỉ đạo thống nhất việc thực hiện trong phạm vi cả nước Chiến lược PTBV.

2. Tăng cường năng lực quản lý PTBV của đội ngũ cán bộ

          Trong những năm qua  nhiều cuộc hội thảo, lớp tập huấn đã được tổ chức ở tất cả các vùng, miền trong cả nước để phổ biến nội dung của Định hướng Chiến lược PTBV. Đặc biệt ở 6 tỉnh tiến hành thí điểm (Thái Nguyên, Sơn La, Ninh Bình, Quảng Nam, Lâm Đồng, Bến Tre).

3. Huy động được một bộ phận dân chúng tham gia thực hiện PTBV

4. Xây dựng và thực hiện chương trình hành động về PTBV của ngành và địa phương

           

Cụ thể, Thông tư hướng dẫn các Ngành và địa phương xây dựng Chương trình nghị sự 21 cấp Ngành và địa phương đã được Bộ KH &ĐT ban hành 2005 (Thông tư 01/2005/TT-BKH ngày 9/3/2005). Theo tinh thần của Thông tư này, 6 tỉnh nói trên đã  được Dự án VIE/01/021- Bộ KH&ĐT triển khai thí điểm thực hiện quy trình mẫu xây dựng CTNS21 của tỉnh. Các tỉnh còn lại, trong đó có Hà Nội, một số cũng đã và đang tiến hành xây dựng CTNS21 của địa phương mình. Tại các tỉnh làm thí điểm đã thành lập Uỷ Ban PTBV do 1 Phó Chủ tịch tỉnh làm chủ nhiệm, Giám đốc Sở KH&ĐT làm Phó Chủ nhiệm. Tại những địa phương, hoặc ngành này nhiều mô hình trình diễn về PTBV đã được thực hiện và VACNE đã tổng kết để phổ biến (bảng 1).

          Cụ thể, mô hình xây dựng Hương ước làng bản về PTBV, phổ biến các mô hình nông nghiệp kết hợp với bảo vệ rừng ở tỉnh Sơn La; phổ biến các phương thức thực hiện nông nghiệp bền vững trong việc trồng trọt và chế biến chè sạch ở 2 tỉnh Thái Nguyên và Lâm Đồng; xây dựng Quy ước cộng đồng để thực hiện du lịch sinh thái bền vững ở Ninh Bình; phổ biến quy trình tạo năng lượng sạch trong cộng đồng nghèo ở Quảng Nam; phương thức nuôi tôm sinh thái ở Bến Tre; kết hợp phát triển ngành nghề để xoá đói giảm nghèo với việc bảo tồn các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng…

5. Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong lĩnh vực PTBV và BVMT

Với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhiều Dự án quan trọng đang thực hiện nhằm xoá đói giảm nghèo, nâng cao bình đẳng giới, BVMT, giảm nhẹ tác động của thiên tai, cải cách thể chế và quản trị…

6. Xu hướng tích cực trong chính sách đảm bảo công nghiệp hoá sạch

          Xu hướng tích cực trong chính sách đảm bảo công nghiệp hoá sạch là sản xuất sạch hơn đã được chú ý thúc đẩy áp dụng ở quy mô cả nước. Chỉ thị số 08/CT-BCN ngày 10/7/2007 của Bộ trưởng Bộ công nghiệp về việc áp dụng sản xuất sạch hơn trong các cơ sở công nghiệp đã chỉ đạo các tập đoàn, tổng công ty và doanh nghiệp công nghiệp nghiên cứu, phổ biến và áp dụng.

Đến nay đã có hơn 30% số cơ sở công nghiệp áp dụng. Tuy chưa kèm theo những công cụ điều chỉnh pháp lý, khuyến khích kinh tế và hỗ trợ kỹ thuật để hiện thực hoá Chỉ thị, song đây là bước tiến về nhận thức của giới lãnh đạo công nghiệp với vai trò sản xuất sạch hơn.

7. Văn kiện Định hướng Chiến lược PTBV đặt phát triển bền vững nông nghiệp và nông thôn như là một lĩnh vực ưu tiên hàng đầu

          Bên cạnh đó, Đề án ” Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân” được Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 7 (năm 2008) thông qua đã vạch ra những kết quả, những tồn tại và giải pháp. Tuy có nhiều khó khăn thực hiện PTBV ở nông thôn do chủ yếu sản xuất tiêu nông, nhưng trong những năm gần đây đã gặt hái nhiều thành công trong chuyển giao công nghệ, trong xây dựng các mô hình sản xuất bền vững như VAC, mô hình canh tác bền vững trên đất dốc (SALT), mô hình làng kinh tế sinh thái…và phong trào làm hầm biogas đã cải thiện đáng kể bộ mặt nông thôn và ở mức độ nào đó đã thể hiện tính bền vững.

III. NHỮNG THÁCH THỨC

1. Phát triển hệ thống thể chế phù hợp với yêu cầu PTBV

          Quá trình thực hiện PTBV đã bắt đầu được các cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương chú ý và đã có những bước tiến đáng kể. Tuy vậy, tiến độ thực hiện còn chậm so với mong đợi và vì vậy tình hình phát triển kinh tế vẫn đang tiếp tục gây suy thoái môi trường và nhiều lĩnh vực xã hội yếu kém vẫn chưa được cải thiện. Những ví dụ điển hình là các vụ gây ô nhiễm môi trường trầm trọng của Công ty Vedan Việt Nam, Công ty Miwon, gần 1500 làng nghề nông thôn phát triển không bền vững, vẫn tiếp tục sản xuất theo phương thức cũ gây ô nhiễm môi trường. Một số trung tâm làng nghề ở Bắc Ninh, Hưng Yên đã hình thành, nhưng công tác quản lý yếu kém dẫn đến việc các hộ chuyển cả gia đình ra sống ở các trung tâm và chiếm dụng luôn đất đai.

          – Quyết định số 685/QĐ-BKH ngày 28/6/2004 của Bộ KH&ĐT về việc thành lập văn phòng PTBV.

          – Quyết định số 1032/QĐ-TTg ngày 27/9/2005 của Thủ tướng Chính Phủ về việc thành lập Hội đồng PTBV Quốc gia.

          – Quyết định số 248/QĐ-TTg ngày 24/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng PTBV Quốc gia.

          – Thông tư số 01/2005/TT-BKH ngày 09/3/2005 của Bộ KH&ĐT về việc triển khai thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Định hướng chiến lược PTBV ở Việt Nam.

2. Về tổ chức

          Văn phòng PTBV đã qua 4 năm hoạt động, nhưng đội ngũ cán bộ mỏng và năng lực yếu. Văn phòng chưa thực hiện được tất cả các chức năng quản lý cũng như triển khai thực hiện, đặc biệt là công tác đôn đốc, giám sát, đánh giá kết quả hoạt động PTBV. Một số tỉnh thí điểm tuy có tổ chức Uỷ ban phát triển bền vững nhưng hoạt động như thế nào là tuỳ thuộc vào từng địa phương, khâu kiểm tra, đánh giá còn yếu.

          Hội đồng PTBV quốc gia được thành lập từ 2005, ban đầu quá cồng kềnh (gồm 44 thành viên đại diện lãnh đạo các Bộ, Ngành, đoàn thể, tổng công ty lớn). Chính vì vậy, tháng 2/2009 Chính phủ đã có quyết định điều chỉnh tổ chức của Hội đồng với chức năng và nhiệm vụ tập trung hơn, cơ cấu tổ chức gọn hơn (gồm 30 thành viên).

3. Về Thông tư hướng dẫn triển khai CTNS21

          Tuy đã được phổ biến tới tất cả các tỉnh và Bộ, Ngành, nhưng mới chỉ có những tỉnh thành nằm trong diện thí điểm, được Dự án VIE/01/021 cấp kinh phí thì khởi động, tuyệt đại đa số các tỉnh, thành còn lại chưa  thực hiện đầy đủ. Lý do có thể là:

          – PTBV và CTNS21 là những vấn đề mới nên rất cần những hướng dẫn về việc xây dựng Chương trình nghị sự 21 cho các địa phương. Cần phải có sự hỗ trợ qua tập huấn, bồi dưỡng cán bộ và tư vấn về các phương pháp tiến hành công việc.

          – Chương trình nghị sự 21 quốc gia mới chỉ mang tính chất khung định hướng và chưa có văn bản nào quy định phải bắt buộc tuân thủ tất cả các Điều trong đó.

5. Định hướng Chiến lược PTBV mới chỉ dừng lại ở phạm trù lý luận, chưa thực sự đi vào thực tiễn cuộc sống. Quá trình chuyển sang phát triển theo chiều sâu hầu như không có như định hướng chiến lược đã đề ra là  chuyển tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu bằng cách áp dụng công nghệ mới, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao hiệu quả…Các cấp chính quyền hiện vẫn theo đuổi  tốc độ tăng trưởng kinh tế thông qua các chính sách thu hút đầu tư “thoáng” bằng cách xây dựng cơ sở hạ tầng ở những địa điểm thuận tiện, hạ giá cho thuê đất, ưu đãi thuế, đơn giản hoá thủ tục…Nếu xét theo các tiêu chí PTBV thì chính sách này là không bền vững, là nới lỏng những tiêu chuẩn sử dụng tiết kiệm tài nguyên quý hiếm như đất đai, khoáng sản, năng lượng và hạ thấp tiêu chuẩn BVMT. Tình trạng lãng phí đất ở các khu công nghiệp (tỷ lệ lấp đầy diện tích các khu công nghiệp trên cả nước chưa đến 50%), đã chuyển đổi gần 400.000 ha đất nông nghiệp màu mỡ  thành các khu công nghiệp, đô thị, sân golf, cho  phép đầu tư các nhà máy có nguy cơ gây ô nhiễm cao, khai thác và hối hả khai thác các loại khoáng sản để xuất khẩu thô hiện đang là những vấn đề bức xúc trong xã hội. Những ví dụ điển hình là như dự án khai thác bauxite Tây Nguyên đã thể hiện rõ nét những khía cạnh tiêu cực về kinh tế, xã hội, tài nguyên và môi trường. Việc cả nước hiện có 141 sân golf ở 39 tỉnh sử dụng 49.268 ha đất trong đó có 2.625 ha đất trồng lúa, sân golf đã trở thành một hiện tượng đang bùng nổ, là sát thủ của nhà nông, đe dọa an ninh lương thực quốc gia, mất việc làm của một bộ phận không nhỏ nông dân và gây ô nhiễm môi trường do dùng nhiều nước và hoá chất bảo vệ mặt cỏ.

6. Các nhà hoạch định chính sách và lập quy hoạch

còn xem nhẹ và chưa nhận thức đầy đủ sự cần thiết của việc gắn kết môi trường vào các quy hoạch phát triển.

Trong khi đó các nhà môi trường lại bị đứng ngoài quá trình xây dựng các quy hoạch phát triển đó. Nhiều ngành kinh tế phát triển nhanh gây áp lực lớn đến môi trường và xã hội, nhưng khi lập quy hoạch phát triển lại hầu như không đề cập đến PTBV theo khía cạnh môi trường và an sinh xã hội. Đa số các bản quy hoạch này thường nặng về phát triển kinh tế, chưa quan tâm đúng mức đến sinh kế của một bộ phận đông đảo dân cư và BVMT. Nói cách khác, nhận thức về PTBV mới chỉ dừng lại ở phạm trù lý thuyết chưa có tính thực tiễn, khoảng cách giữa nhận thức về lý luận và thực tiễn còn rất rộng. Ví dụ, công trình thuỷ điện Sơn La mang tầm cỡ Quốc gia tuy đã được tiến hành, nhưng kéo dài còn sơ sài, không xét tới tính bền vững. Việc tách riêng đánh giá tác động môi trường với tái định cư, với giao thông thuỷ bộ là không hợp lý, không thể hiện tính bền vững.

7. Công tác truyền thông về CTNS21

còn yếu ở Trung ương và địa phương, chỉ những cán bộ  quản lý chủ          chốt mới được thông tin, còn nhiều bộ phận cán bộ các Sở, Ban Ngành và cộng đồng đều thiếu thông tin. Do đó, quá trình lập quy hoạch thiếu sự tham gia của cộng đồng địa phương, dẫn đến hiệu quả và tính thực thi các quy hoạch rất thấp. Dự án VIE/01/021- Bộ KH&ĐTđã lựa chọn bộ chỉ tiêu khởi đầu gồm 58 CT. Trong đó lĩnh vực kinh tế gồm 12 CT, lĩnh vực xã hội: 17 CT; lĩnh vực TNMT 12 CT; lĩnh vực thể chế 3 CT, nhưng đến nay vẫn chưa được công bố chính thức. Một mặt khác, đến nay không có một văn bản nào  quy định về việc đưa vào giảng dạy CTNS21 ở các Trường Đại học và Cao đẳng, nếu có chỉ mang tính tự phát và theo yêu cầu của rất ít khối trường.

8. Những thách thức trong lĩnh vực xã hội:

          Thực hiện Định hướng Chiến lược PTBV, một số chính sách mới đã được ban hành trong các lĩnh vực dân số, xoá đói giảm nghèo, đô thị hoá, di dân, y tế và giáo dục là những định hướng ưu tiên. Tuy chưa tạo ra những đột phá về cơ chế, song những chính sách về xã hội cơ bản có tác dụng tích cực đối với ổn định xã hội, nâng cao thu nhập và phúc lợi của các nhóm yếu thế và nghèo, phát triển nguồn lực con người. Ví dụ điển hình là đã điều chỉnh ngưỡng nghèo theo hướng tích cực, với ngưỡng thu nhập cao hơn ở thành thị cũng như khu vực nông thôn. Nhưng do thay đổi về tổ chức, chuẩn bị không đồng bộ, quản lý bị buông lỏng nên đã tác động tiêu cực đến kết quả. Trong 5-6 năm trở lại đây, có tới 2 lần thay đổi tổ chức về công tác dân số gây xáo trộn rất lớn trong toàn bộ hệ thống chuyên trách dân số kế hoạch hoá gia đình ở các địa phương. Kết quả là, xu hướng gia tăng tốc độ tăng dân số và việc lựa chọn giới tính thai nhi đang là nỗi lo trong xã hội; mục tiêu giảm sinh năm 2007 đã không đạt chỉ tiêu của Quốc Hội. Theo báo cáo của Bộ Y tế vào tháng 6/2008, có 39/64 tỉnh thành có mức sinh tăng mạnh như Tp. HCM tăng 30%, Hà Nội tăng 27%, Sơn La tăng 40%, Sóc Trăng tăng 41%. Trong số này số trẻ là con thứ  ba tăng 17% so với cùng kỳ năm 2007.

9. Những thách thức trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường:

          Lĩnh vực BVMT gắn bó mật thiết với PTBV. Vì vậy các Bộ luật và các chính sách về tài nguyên – môi trường là một bộ phận không tách rời của quá trình phát triển. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, Việt Nam đã ban hành khoảng 300 văn bản pháp luật BVMT. Đó là những cố gắng lớn, phát huy tác dụng tích cực trong quản lý, sử dụng tài nguyên và BVMT. Tuy nhiên, hệ thống văn bản trong lĩnh vực này còn thiếu nhiều quy định cần được xem xét và bổ sung trong bối cảnh môi trường nước ta ngày càng xuống cấp nghiêm trọng. Thiếu những văn bản về chi trả dịch vụ môi trường (PES), thiếu chính sách cụ thể khuyến khích công nghệ sản xuất sạch hơn. Các chính sách còn thiếu tính hệ thống và thiếu đồng bộ. Nhiều Bộ Luật thiếu chi tiết đòi hỏi văn bản hướng dẫn thi hành Luật dài hơn so với Luật; tính ổn định không cao vì thay đổi quá nhanh, như Nghị định 80/2006/NĐ-CP về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật BVMT, được ban hành năm 2006, qua 1 năm áp dụng đã phải sửa đổi, bổ sung(ngày 28/02/2008, Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 21/2008/NĐ- CP về sửa đổi, bổ sung Nghị định 80 đối với các quy định về thời hạn và quy trình nghiệm thu báo cáo ĐTM); tác dụng răn đe của các hệ thống pháp luật thấp, chế tài xử phạt còn quá nhẹ, chỉ là những giải pháp tạm thời có tính chất cảnh cáo. Mức phạt cao nhất là 70 triệu đồng. So với chi phí để đầu tư thiết bị xử lý ô nhiễm hàng tỷ đồng, thì với mức phạt này nhiều cơ sở công nghiệp sẵn sàng nộp phạt để tiếp tục xả thải các chất thải không qua xử lý ra môi trường; 10% tổng lượng hoá chất bảo vệ thực vật dùng trong nông nghiệp không rõ xuất xứ, chủng loại và có tính độc cao vẫn tràn vào nước ta theo đường tiểu ngạch, sử dụng bừa bãi gây ô nhiễm môi trường và các vụ ngộ độc thực phẩm. Có thể đánh giá rằng, các chính sách thưởng phạt yếu, việc thực thi Luật pháp không đầy đủ và nghiêm túc làm cho các chính sách BVMT không có hiệu cao như mong đợi.

IV. NHỮNG GIẢI PHÁP CẦN THỰC HIỆN TRONG THỜI GIAN TỚI ĐỂ TIẾP TỤC THỰC HIỆN CTNS21

Định hướng Chiến lược PTBV quốc gia cần phải được thực hiện thông qua hàng loạt chính sách, chương trình, dự án và biện pháp cụ thể ở quy mô toàn quốc. Tất cả các hoạt động như xây dựng thể chế, truyền thông và giáo dục cho toàn dân, đào tạo và nâng cao năng lực quản lý PTBV cho cán bộ, cho các tổ chức tham gia CTNS21 đều  phải được tiếp tục mở rộng quy mô hoạt động và tăng hiệu quả của tác động. Cụ thể:

          1. Các cơ quan lãnh đạo và điều phối hoạt động PTBV là Hội đồng PTBV quốc gia và văn phòng PTBV phải được tổ chức tốt để hoạt động tích cực, định hướng và chỉ đạo có hiệu quả sự phối hợp hoạt động giữa các ngành, các địa phương nhằm đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế nhanh với phát triển xã hội và BVMT. Trong bối cảnh hiện nay các cơ quan điều phối hoạt động PTBV phải ý thức được vấn đề lồng ghép các quy hoạch phát triển và các chính sách và hướng dẫn các ngành, các địa phương lập quy hoạch của riêng mình với vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu.

          2. Để đưa Định hướng PTBV vào thực tiễn cuộc sống, sự hỗ trợ từ bên ngoài  về tài chính, kinh nghiệm, tài liệu, phương pháp tiến hành, đào tạo nguồn nhân lực là cực kỳ quan trọng nên phải có giải pháp để thu hút sự hỗ trợ tối đa của các tổ chức Quốc tế, hoặc dưới dạng các Hiệp định đa phương, song phương. Phải đặt vấn đề hội nhập vào trào lưu quốc tế, một mặt tranh thủ sự giúp đỡ, nhưng mặt khác để các Liên doanh, các Dự án 100% vốn nước ngoài phải tôn trọng tính truyền thống về PTBV của nước ta và thiết thực đóng góp vào tiến trình thực thi CTNS21 của Việt Nam, tránh không để hiện tượng Công ty Vedan và Miwon lặp lại lần nữa.

          3. Đẩy mạnh công tác giáo dục, truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của mọi người về PTBV. Đặc biệt phải làm cho PTBV trở thành cách suy nghĩ của mọi cơ quan và tất cả những người chịu trách nhiệm lập kế hoạch và quản lý sự PTBV ở các cấp. Cách tiếp cận PTBV phải được cụ thể hoá thành các chính sách, biện pháp, tổ chức bộ máy thích hợp và có những công cụ hành chính, kinh tế, tài chính phù hợp để thực hiện. Làm tốt công tác giáo dục, truyền thông đồng nghĩa với việc hình thành phong trào tham gia của các tầng lớp nhân dân vào quá trình ra quyết định phương hướng phát triển, thực hiện và giám sát việc thực hiện các kế hoạch và quy hoạch đảm bảo các tiêu chí của PTBV.

          4. Có các giải pháp đào tạo nguồn nhân lực, huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực trong xã hội một cách hợp lý để các ngành, các địa phương có bộ phận chuyên trách, tích cực và chủ động xây dựng và thực hiện chương trình hành động PTBV của mình và hợp tác với nhau đảm bảo sự PTBV ở quy mô liên vùng, liên ngành và quy mô cả nước, nhằm phát huy được hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường cao nhất.

          5. Phải nhanh chóng hình thành cơ chế theo dõi, báo cáo, giám sát, thu thập và công bố rộng rãi thông tin về quá trình thực hiện những nội dung của Định hướng chiến lược PTBV. Có những biện pháp khuyến khích và tạo cơ chế để lôi kéo cộng đồng cùng tham gia vào tiến trình thực hiện CTNS21, kiểm tra, theo dõi và đánh giá những kết quả thu được.

                                                                    Hà Nội, tháng 5 năm 2009

Bạn đang đọc nội dung bài viết Phát Triển Bền Vững Kinh Tế Tư Nhân Ở Việt Nam: Một Số Vấn Đề Đặt Ra Và Giải Pháp trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!