Cập nhật nội dung chi tiết về Phát Huy Nhân Tố Con Người Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Sức mạnh của cả dân tộc được khơi dậy và tập hợp nhờ quan điểm “hết sức chăm nom đến đời sống nhân dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của con người và phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội; con người là chủ thể của các mối quan hệ xã hội – lịch sử, là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, con người có sức mạnh rất to lớn. Trong con người có sẵn các nguồn lực, bao gồm: Nguồn lực của cải, tài chính; Nguồn lực sức lao động; Nguồn lực trí tuệ:
Không dừng ở việc xác định vai trò của con người đối với sự nghiệp cách mạng và các nguồn lực có trong con người, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ phải làm gì và làm như thế nào để phát huy được nhân tố con người trong sự nghiệp cách mạng. Người đề cập tới nhiều khía cạnh, có thể khái quát ở mấy điểm chính sau:
Thứ nhất, muốn phát huy sức mạnh của con người, Đảng, chính quyền, mỗi cá nhân phải có lòng thương yêu vô hạn, sự cảm thông, sự tin tưởng tuyệt đối vào con người, vào nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên “trước hết phải tin tưởng lực lượng và trí tuệ của nhân dân là vô cùng vô tận”(1). “Việc gì có lợi cho dân thì làm, việc gì có hại cho dân thì phải tránh”(2). Người cũng nhấn mạnh: nếu không tin dân thì dân cũng không tin Đảng, Chính phủ. Nếu dân chúng không tin Đảng, Chính phủ thì “biết, họ cũng không nói. Nói, họ cũng không nói hết lời”. Vì vậy, “đảng viên nào không được dân tin, dân phục, dân yêu thì chưa xứng đáng là một người đảng viên”(3). Như vậy, thương yêu vô hạn, sự cảm thông, tin tưởng tuyệt đối vào con người, quyết tâm phấn đấu giải phóng con người trở thành tiền đề đầu tiên để có thể phát huy sức mạnh vốn có trong con người.
Thứ hai, để phát huy sức mạnh của con người, Đảng, Chính phủ phải hoạch định, xác lập một hệ thống chính sách hoàn chỉnh, phù hợp với thực tiễn, phục vụ cho lợi ích của dân tộc tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân, bao quát các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là những vấn đề an sinh xã hội. Trước hết là chính sách phát triển sản xuất và tiền lương phải hợp lý. Tiền lương của người lao động phải luôn gắn chặt với hiệu quả công việc, bởi lương là một trong những thước đo công sức, trình độ, thái độ, ý thức, tinh thần lao động. Nâng lương là một trong những biểu hiện nâng cao mức sống, mức thu nhập của người lao động. Nếu đồng lương không tương xứng với giá trị sức lao động thì những tư liệu sinh hoạt cần thiết của người lao động cũng không được đáp ứng, điều này sẽ đánh mất động lực của quá trình sản xuất và nền kinhh tế tất yếu sẽ bị ngưng trệ.
Theo Hồ Chí Minh, cần thi hành một hệ thống chính sách xã hội hướng tới con người như: thi hành một nền chính trị liêm khiết, cải thiện đời sống nhân dân, cứu tế thất nghiệp, sửa đổi chế độ xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa…Nội dung chính sách phải phong phú, đa dạng. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ phải lấy dân làm gốc, quan tâm chăm lo đến mọi tầng lớp người trong xã hội. Chính sách xã hội đúng đắn là một chính sách lấy việc phát huy sức mạnh của nhân dân, xây dựng từng bước con người mới là trung tâm. Cần chú ý đến việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích riêng và lợi ích chung. Nếu lợi ích cá nhân không trái với lợi ích tập thể thì không phải là xấu. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”(4). Hồ Chí Minh còn thấy được vai trò động lực cực kỳ quan trọng của lợi ích cá nhân. “Quần chúng rất nhiều sáng kiến, họ hiểu biết rất mau, nhất là những cái thuộc về quyền lợi của họ”(5). Điểm mấu chốt để có thể giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung đó là phải tìm ra điểm tương đồng, lợi ích chung giữa những cá nhân, giai cấp. Mẫu số chung đó chính là lợi ích dân tộc.
Thứ ba, muốn phát huy được sức mạnh của con người thì phải quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của con người, các quyền lợi của con người phải được bảo vệ và ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Ý thức về tính cấp thiết phải xây dựng, ban hành và thực hiện những chính sách về thể chế, pháp chế đảm bảo cho hoạt động của Nhà nước dân chủ, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng cùng tập thể Trung ương Đảng, Chính phủ ban hành Hiến pháp 1946. Bản Hiến pháp đã phản ánh và quy định chặt chẽ quyền và nghĩa vụ của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh: Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó có quan hệ rất chặt với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ, quần chúng đề ra sáng kiến. Vì thế Người luôn luôn nhắc nhở: Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh, ra oai với nhân dân. Theo Người, dân chủ là “chìa khóa” vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn. Phát huy dân chủ của nhân dân phải kết hợp chặt chẽ với tăng cường pháp chế, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhà nước phải tiếp tục thể chế hóa bằng pháp luật các quyền dân chủ của người dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ tư, Hồ Chí Minh đã dạy: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”(6). Có thể thấy, vai trò của giáo dục, đào tạo là rất quan trọng để từ đó tạo tiền đề cho việc phát huy sức mạnh của con người. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa có thể được hoàn thiện trước một bước so với hoàn cảnh kinh tế – xã hội, nhưng phải có điều kiện. Một trong những điều kiện đó là việc coi trọng vai trò của giáo dục và đào tạo. Giáo dục, đào tạo có vai trò to lớn để có một đội ngũ lao động giỏi, nâng cao dân trí, đào tạo người lao động trẻ có trình độ khoa học – kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao, có phẩm chất cần thiết của người lao động mới, có tri thức văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật, có ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, có phong cách và phương pháp làm việc khoa học.
Về mục tiêu của chiến lược giáo dục và đào tạo là nhằm đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà. Muốn đạt được mục tiêu chiến lược thì nội dung, phương pháp giáo dục phải toàn diện. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất”(7). Nó thể hiện sự kết hợp giữa nội dung toàn diện và phương pháp toàn diện, giữa nhận thức và hành động, lời nói và việc làm, giữa tư tưởng và sự nêu gương thực hành, giữa tư tưởng và lối sống, nếp sống. Theo Hồ Chí Minh, mục đích của việc học là để sửa chữa tư tưởng, để tu dưỡng đạo đức cách mạng, để tin tưởng, học để hành. Do đó, phải học ở trường, ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân. “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, “giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích, thì phải: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”(8).
Vấn đề phát huy nhân tố con người được Hồ Chí Minh đề cập với nội dung sâu sắc và toàn diện, đầy tính cách mạng và khoa học. Không chỉ đánh giá cao vị trí, vai trò của con người, thấy được tính tất yếu của vấn đề phát huy nhân tố con người, Hồ Chí Minh còn xây dựng được một hệ thống các giải pháp toàn diện, coi việc thực hiện đúng đắn các giải pháp đó là khâu then chốt, quyết định thành công.
2. Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh vào việc phát huy nhân tố con người để phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay
Qua hơn 30 năm đổi mới, trên cơ sở đánh giá thực tiễn và tổng kết lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: con người và các nguồn lực của con người đóng vai trò quyết định sự phát triển của đất nước. Nhân tố con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật rất quan trọng nhưng quan trọng nhất vẫn là nhân tố con người. Trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2020, Đảng ta xác định mục tiêu: Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững…Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế…Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đặt ra một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm là: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, về nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”(9). Như vậy, đến Đại hội lần thứ XII, vấn đề “phát triển con người toàn diện” được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016 – 2020 và “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển”. Đây là bước tiến trong nhận thức của Đảng sau 35 năm đổi mới, khẳng định và nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của việc phát huy nhân tố con người, phát triển con người toàn diện, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc thời kì hội nhập quốc tế.
Trong giai đoạn hiện nay, phát huy nhân tố con người luôn gắn liền với xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc. Trong điều kiện khoa học và công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức phát triển, hội nhập gia tăng thì mối quan hệ biện chứng này càng trở nên quan trọng. Đối với nước ta, để phát huy nguồn lực con người một cách hợp lý, hiệu quả cần phải có một hệ thống các biện pháp đồng bộ, trong đó, cần tập trung vào một số biện pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ
Phát triển mạnh mẽ giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ, một mặt, phục vụ trực tiếp sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; mặt khác, xây dựng tiềm lực trí tuệ – cốt lõi của nguồn nhân lực chất lượng cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Trí tuệ là một trong những chỉ số quan trọng nhất của chất lượng nhân tố con người, nhất là trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ có những bước phát triển nhảy vọt, khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và sự xuất hiện của kinh tế tri thức hiện nay. Bên cạnh đó, cần phải chú trọng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho con người, trước hết là với các thế hệ trẻ – những chủ nhân tương lai của đất nước. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải có sức khoẻ, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Chú trọng phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người. Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)(10).
Mặt khác, để phát huy vai trò của giáo dục – đào tạo con người trong sự nghiệp đổi mới, cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng hợp lý, hiệu quả lực lượng lao động. Đồng thời, cần kết hợp giữa nâng cao trình độ dân trí và phát triển nguồn nhân lực đồng đều ở các vùng miền, các cộng đồng xã hội; gắn chiến lược phát triển khoa học công nghệ với nâng cao hàm lượng trí tuệ trong nhân tố con người. Từ chỗ có nguồn lực con người bảo đảm về chất lượng, cần xây dựng và thực hiện những phương thức, cơ chế phát huy nguồn lực đó.
Thứ hai, quan tâm giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích theo phương châm bảo đảm công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước phát triển.
Thứ ba, xây dựng và thực hiện một cơ chế dân chủ trong mọi mặt của đời sống xã hội nhằm tạo môi trường, điều kiện thiết yếu để phát huy vai trò của nguồn lực con người trong các lĩnh vực.
Nhân tố con người chỉ được khai thác và phát huy tối đa khi con người thực sự làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ chính mình. Để phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của con người trong mọi hoạt động thì nhất thiết phải xây dựng và thực hiện một cơ chế dân chủ, trong đó ngày càng quan tâm đến dân chủ trực tiếp nhằm hiện thực hoá những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội. Việc phát huy dân chủ không chỉ tạo cơ hội thuận lợi cho tất cả mọi người có thể cống hiến năng lực của mình cho xã hội, mà còn có ý nghĩa tạo điều kiện cho việc thực hiện cơ chế phản biện xã hội với tinh thần lành mạnh, xây dựng và phát huy trách nhiệm công dân. Nói cách khác, thông qua quá trình dân chủ hoá, trí tuệ của toàn dân được huy động và đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội. Đó cũng là lý do tại sao Hồ Chí Minh coi dân chủ là chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi vấn đề mà thực tiễn cách mạng đặt ra. Tuy nhiên, thực hiện dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ cương pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa; khắc phục mọi biểu hiện dân chủ cực đoan hoặc lợi dụng “dân chủ” để chia rẽ khối đại đoàn kết, làm rạn nứt sự đồng thuận xã hội. Lấy dân chủ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước làm nòng cốt để thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường dân chủ nhằm giải phóng mọi năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân, góp phần ổn định chính trị – xã hội, tạo điều kiện cho sự nghiệp đổi mới thắng lợi.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc luôn nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của nhân tố con người và lấy đó làm điểm tựa vững chắc là điều kiện để chúng ta đưa sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đến thắng lợi. Phát huy nhân tố con người để phát triển kinh tế – xã hội, đó là một vấn đề có tính quy luật. Trong giai đoạn hiện nay, phải phát huy nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hoá, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân.
(1), Sđd, t.12, tr.283
(2), Sđd, t.4, tr.21
(3), Sđd, t.7, tr.55
(4), Sđd, t.11, tr.610
(5), Sđd, t.8, tr.48
(6), Sđd, t.11, tr.528
(7), Sđd, t.12, tr.647
(8), Sđd, t.6, tr.208
(9), Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.219
(10), (14), Dự thảo Báo cáo Tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2011 – 2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030, tr.49, tr.62.
TS. Vũ Hồng HuyBan Tuyên giáo Trung ương
Xây Dựng Nhà Nước Kiến Tạo Phát Triển Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có một tâm nguyện và ham muốn “là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”1. Vì thế ngay sau khi nước nhà được độc lập, Người đã đưa ra những chỉ dẫn quý báu trên tất cả các lĩnh vực nhằm xây dựng và phát triển đất nước. Với tinh thần đó, bài viết tập trung làm rõ tư tưởng, những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước phát triển, liêm khiết, phục vụ Nhân dân. Từ đó, đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, phục vụ Nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển, liêm khiết, phục vụ Nhân dân
Mặc dù không có những bài viết cụ thể về xây dựng nhà nước kiến tạo, song qua các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy, Người luôn quan tâm đến việc xây dựng một Nhà nước kiến tạo phát triển nhằm thực hiện mục tiêu đem lại cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho Nhân dân. Nhà nước mà Hồ Chí Minh xây dựng hoàn toàn chủ động trong việc thiết kế chiến lược phát triển đất nước với đường lối “kiến quốc” trên tất cả các lĩnh vực; chủ động đối phó với những diễn biến bất lợi khi thù trong, giặc ngoài quyết liệt phá hoại thành quả của cách mạng. Hồ Chí Minh là người mở đường, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho giới công thương và các giới khác. Người cho rằng, quyền tư hữu tài sản của công dân được bảo đảm và Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của những người lao động riêng lẻ. Trong Thư gửi các giới Công Thương Việt Nam, Người viết: “Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn độc lập của nước nhà, thì giới Công – Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng… Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà công nghiệp, thương nghiệp thịnh vượng”2. Người bày tỏ mong muốn, mọi người cùng đem vốn vào làm những công cuộc ích nước, lợi dân. Điều đó đã tác động tích cực đến việc huy động các nguồn lực và tiềm năng to lớn của Nhân dân trong xây dựng và phát triển nền kinh tế của đất nước, đồng thời thể hiện tầm chiến lược sâu sắc, cách nhìn biện chứng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa quyền lợi của cá nhân và quyền lợi của nhà nước.
Trong hoàn cảnh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ vừa mới ra đời, Hồ Chí Minh đề ra những nhiệm vụ cấp bách cần phải làm ngay: Một là, phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất, một cuộc lạc quyên để giải quyết nạn đói; Hai là, mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ, vì một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, mà hiện tại hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ; Ba là, phải có một hiến pháp dân chủ bằng cách tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu; Bốn là, mở một chiến dịch giáo dục lại nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, kiệm, liêm, chính để làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập; Năm là, bỏ ngay ba thứ thuế là thuế thân, thuế chợ, thuế đò và tuyệt đối cấm hút thuốc phiện; Sáu là, đề nghị Chính phủ tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết3. Để thực hiện tốt những nhiệm vụ ấy, Hồ Chí Minh đã đưa ra cách tổ chức các ủy ban nhân dân có từ 5 đến 7 người, trong đó có người chuyên phụ trách: tổ chức và giám đốc các cơ quan y tế, vệ sinh, cứu tế, bài trừ hủ tục; tổ chức và điều khiển các cuộc giải trí công cộng, du lịch, ca kịch, chiếu bóng, hội hè; tổ chức và trông coi công cuộc giáo dục nhân dân: mở trường học, chống nạn mù chữ, mở thư viện…4. Như vậy, Hồ Chí Minh quan tâm tới một xã hội trong đó mọi người không chỉ có cơm ăn, áo mặc mà còn phải được học hành, chữa bệnh; một xã hội có quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, hay nói cách khác, đó là một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Người không chỉ quan tâm đến mức sống mà còn quan tâm tới chất lượng cuộc sống, trong đó lấy giá trị nhân văn làm nền tảng. Đó là một xã hội phát triển và phát triển bền vững, đạt tới mục tiêu tự do, hạnh phúc cho con người.
Muốn xây dựng được Nhà nước kiến tạo phát triển, theo Hồ Chí Minh phải xây dựng Chính phủ thực sự vì dân, liêm khiết và có năng lực thực thi công việc. Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I (tháng 10/1946), Hồ Chí Minh đã đề cập đến Chính phủ liêm khiết, Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái, Chính phủ kiến thiết quốc gia, xây dựng một nước Việt Nam mới và trịnh trọng tuyên bố trước Quốc hội: “Tuy trong nghị quyết không nói đến, không nêu lên hai chữ liêm khiết, tôi cũng xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới: Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết”5. Đó là một Chính phủ hành động vì lợi ích của dân, do dân tổ chức nên, do dân đôn đốc, kiểm soát và phê bình, biết dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức; “một Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất của nước nhà”6. Theo đó, phải xây dựng một Chính phủ có năng lực quản lý, điều hành đất nước để giải quyết các nhiệm vụ của nước nhà, đem lại lợi ích cho quốc gia – dân tộc, cho Nhân dân, làm tăng thêm sức mạnh của đất nước với mục đích “làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm”7. Đó chính là sự trăn trở, lo toan của người đứng đầu Chính phủ đối với đời sống của Nhân dân, đồng thời thể hiện tầm nhìn xa, trông rộng của Người khi không chỉ giải quyết những nhiệm vụ trước mắt mà còn hướng tới phát triển đất nước lâu dài. Trong bài viết Chính phủ là công bộc của dân, Người nhấn mạnh: “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”8.
Dù chỉ duy nhất một lần tuyên bố trước Quốc hội về một Chính phủ liêm khiết, nhưng trong một phần tư thế kỷ (1945-1969), Chính phủ do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng Chính phủ kiến tạo ở các giai đoạn sau. Với tư cách là người đứng đầu Chính phủ, Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng về phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân.
2. Một số giải pháp nhằm xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển, phục vụ Nhân dân trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Từ yêu cầu thực tiễn khách quan, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã khẳng định quyết tâm xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ Nhân dân. Nghị quyết số 33/NQ-CP, ngày 09/5/2016 của Chính phủ nêu rõ: “xây dựng Chính phủ trong sạch, liêm chính, Chính phủ kiến tạo phát triển… Chính phủ là công bộc của dân, gắn bó với Nhân dân, phục vụ Nhân dân”14. Đảng ta xác định một trong những nhiệm vụ cần tập trung thực hiện là: “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế và năng lực kiến tạo sự phát triển của Nhà nước”15. Có thể nói, xây dựng một Nhà nước kiến tạo phát triển, phục vụ Nhân dân đã trở thành một định hướng lớn trong chủ trương của Đảng và Nhà nước. Đó là một nhà nước có bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu quả, tận tụy phục vụ Nhân dân, tạo điều kiện cho nhu cầu phát triển của doanh nghiệp và người dân.
Hiện nay, hoạt động quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước được đổi mới theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, trong sạch và hiện đại. Tổ chức bộ máy của Nhà nước đang được sắp xếp tinh gọn, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ đã có chuyển biến tích cực, ngày càng đi vào nền nếp và chặt chẽ hơn; bước đầu ngăn chặn, khắc phục được nhiều hạn chế, yếu kém, tiêu cực trong công tác cán bộ. Ý thức, tinh thần phục vụ Nhân dân được củng cố và tăng cường. Nhiều cơ chế, chính sách đã được tổ chức lấy ý kiến Nhân dân trước khi quyết định ban hành. Việc thực hiện dân chủ ở cơ sở được tiến hành nghiêm túc. Tuy nhiên, việc đổi mới, sắp xếp, tinh gọn bộ máy ở một số nơi còn thiếu quyết liệt, chưa đạt mục tiêu đề ra. Tinh giản biên chế chưa thực sự gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Việc bổ nhiệm cán bộ ở một số cơ quan, đơn vị chưa thật sự nghiêm túc, chưa đúng quy trình. Quyền làm chủ của Nhân dân ở một số nơi, trên một số lĩnh vực còn bị vi phạm. Chất lượng thực hiện dân chủ có nơi còn thấp và mang tính hình thức. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và người đứng đầu các cơ quan, đơn vị chưa thật sự tiên phong, gương mẫu trước Nhân dân; tệ quan liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí xảy ra gây bất bình trong Nhân dân, làm mất niềm tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước… Trước thực trạng trên, đòi hỏi cần quán triệt sâu sắc hơn nữa những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, liêm khiết, phục vụ Nhân dân, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen.
Một là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có phẩm chất, năng lực, tận tụy và tâm huyết với sự phát triển của đất nước, đặc biệt phải thật sự thấm nhuần và tích cực thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, có tâm trong sáng, không vụ lợi, vị kỷ, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Đây là nhân tố quan trọng, giữ vai trò trung tâm, quyết định sự thành công của mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng.Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc”16.
Nhân tài là lực lượng tổ chức, tiên phong, quyết định tốc độ, chất lượng phát triển của mỗi quốc gia. Do đó, để thu hút được những người tài tham gia vào bộ máy nhà nước cần xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp nhằm tuyển dụng, thu hút đội ngũ cán bộ có năng lực, phẩm chất và trách nhiệm với công việc; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách khoa học, hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tiễn của mỗi cơ quan, đơn vị; chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh chống lại các biểu hiện tiêu cực trong đội ngũ cán bộ để làm trong sạch bộ máy nhà nước. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII nhấn mạnh: phải có “quy định khung cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài”, “có cơ chế phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội và triển vọng phát triển vào vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả vượt cấp, nhất là cán bộ trẻ”17.
Hai là, đổi mới, sắp xếp, xây dựng bộ máy tinh gọn, hiệu quả, tinh giản biên chế nhà nước.
Ngay trong những ngày đầu độc lập, Hồ Chí Minh đã đề cập đến sự cần thiết phải đổi mới tổ chức bộ máy của chính quyền cách mạng non trẻ. Theo đó, “phải sắp xếp cho gọn gàng, hợp lý, mọi người đều có công việc thiết thực, những người thừa phải đưa đi chỗ thiếu, những người ở lại phải thi đua nâng cao năng suất của mình. Thế là tinh giản, tinh là năng suất lên cao, làm cho mau cho tốt, giản là vừa phải, không kềnh càng, tránh hình thức”18. Trong giai đoạn hiện nay, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và xây dựng mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển cần nâng cao nhận thức, quyết tâm của cả hệ thống chính trị về sự cần thiết, cấp bách trong thực hiện nhiệm vụ đổi mới, sắp xếp lại bộ máy quản lý tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đề cao vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức, địa phương; gắn việc đổi mới, sắp xếp lại bộ máy quản lý của hệ thống chính trị với tổ chức, sắp xếp lại các đơn vị hành chính trên phạm vi cả nước.
Thực hiện tinh giản biên chế nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, thu hút những người có đức, có tài tham gia vào hoạt động công vụ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị – xã hội, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Để đạt được điều đó cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức; tăng cường công tác quản lý, siết chặt kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng; thực hiện nghiêm túc việc đánh giá, phân loại cán bộ, công chức hằng năm; cấp ủy, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị cần phối hợp chặt chẽ với các tổ chức Đoàn, Hội trong cơ quan quan tâm, giúp đỡ, chuyển đổi công tác phù hợp với năng lực, sở trường của cán bộ, công chức; vận động, thuyết phục những cán bộ, công chức yếu kém về năng lực công tác tự nguyện thực hiện tinh giản biên chế; kiên quyết xử lý các cán bộ, công chức thiếu tinh thần trách nhiệm, tự kiêu, tự mãn, thiếu ý chí vươn lên.
Ba là, mở rộng sự tham gia của người dân vào hoạt động quản lý nhà nước, tăng cường đối thoại với người dân và doanh nghiệp bằng nhiều hình thức để đưa chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước sát với thực tiễn hơn.
Đảng, Nhà nước, cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu các cấp cần tăng cường đối thoại với Nhân dân, trực tiếp gặp gỡ, hỏi han và bàn bạc với dân để nghe dân nói, xem dân làm, thấy được cuộc sống của dân, đặc biệt là đi sâu tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của dân, từ đó đề ra hoặc sửa đổi, bổ sung chủ trương, chính sách làm cho ý Đảng, lòng dân thống nhất, hòa quyện với nhau. Mọi hoạt động của bộ máy nhà nước phải dựa trên nền tảng phục vụ Nhân dân, tạo điều kiện để Nhân dân dễ tiếp cận, dễ đối thoại, dễ kiểm tra, giám sát, huy động được tối đa trí tuệ, sáng kiến và sự đóng góp của người dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Nhà nước kiến tạo phát triển chính là Nhà nước phục vụ Nhân dân, lấy lòng dân làm thước đo, mọi việc làm của Nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân.
Bốn là, tăng cường sự tương tác giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước, giữa bộ máy nhà nước với các tổ chức chính trị – xã hội.
Sự phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải dựa trên cơ sở bảo đảm tính độc lập theo chức năng được phân công và yêu cầu kiểm soát lẫn nhau, bổ trợ cho nhau theo quy định của pháp luật. Cơ quan lập pháp cần xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển thể chế kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Cơ quan hành pháp cần xây dựng nền hành chính phục vụ, tạo môi trường thuận lợi nhằm huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực thực hiện mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Cơ quan tư pháp cần giải quyết các công việc thuộc lĩnh vực tài phán, giải quyết tranh chấp, xét xử… một cách công tâm, minh bạch, đúng pháp luật nhằm bảo đảm trật tự, kỷ cương, tạo điều kiện thuận lợi cho xã hội vận hành, phát triển ổn định và bền vững. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội và bảo đảm quyền dân chủ thực sự để người dân giám sát hiệu quả hoạt động của các bộ phận trong bộ máy quản lý của Nhà nước; thường xuyên đánh giá việc thực hiện thống nhất chức năng xã hội – chính trị của Nhà nước để không ngừng hoàn thiện mối quan hệ giữa Nhà nước với các định chế xã hội.
Tình hình thế giới và trong nước với những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen đã đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và Nhân dân cần phải quyết tâm, nỗ lực phấn đấu để tham gia kiến thiết và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách để phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Muốn vậy, phải chú trọng chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chủ động hội nhập quốc tế; xây dựng và thực hiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển bền vững, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước dân chủ, phát triển, trong sạch, vững mạnh được thể hiện sâu sắc, phong phú và trở thành một quan điểm cách mạng, khoa học trong thời đại mới. Tư tưởng đó là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc, là nguồn động viên các tầng lớp nhân dân cùng thi đua góp sức mình phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, tạo nguồn sức mạnh mới vượt qua thách thức để xây dựng thành công Nhà nước kiến tạo phát triển, phục vụ Nhân dân trong giai đoạn hiện nay.◈
1, 2, 3, 4, 8, 9, 11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 187, 53, 6-8, 12-13, 21, 66, 21-22.
5, 6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 478.
7, 16. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 81, 309.
10, 12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 377; t. 6, tr. 127.
13, 18. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 364, 432.
14. Nghị quyết số 33/NQ-CP, ngày 09/5/2016 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4/2016.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2017, tr. 54.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr. 64-65.
TS. Trần Thị Phúc An
Theo Tạp chí Nhịp cầu Tri thức
Tư Tưởng Hồ Chí Minh Trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
Đăng ký tham quan
Các bạn có thể đăng ký tham quan trực tuyến bằng cách điền vào các thông tin sau và gửi cho chúng tôi:
Tính năng này Bảo tàng đang triển khai và hoàn thiện trong thời gian sắp tới. Để mua vé tham quan Bảo tàng, Quý khách vui lòng liên hệ đến số điện thoại: 024.38463757/
Trân trọng cảm ơn
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong quân đội nhân dân Việt Nam
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng trong công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, góp phần xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong quân đội là một trong những nội dung cốt lõi để cán bộ, chiến sĩ phấn đấu xứng danh Bộ đội Cụ Hồ, thể hiện rõ tính đặc thù của hoạt động quân sự trong tình hình mới, góp phần định hướng tư tưởng chính trị trong quân đội.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự không chỉ xuất phát từ các thành tựu trong kỹ thuật và chiến thuật quân sự, mà còn thể hiện tính cách mạng và chiến lược trong khoa học quân sự. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng tài tình học thuyết quân sự Mác – Lênin vào điều kiện và hoàn cảnh cách mạng Việt Nam, một học thuyết mang tính tổng hợp, coi sức mạnh quân sự gắn liền với chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa, xã hội, khoa học và kỹ thuật, v.v..
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Tư tưởng đó đã trở thành quy luật sống còn của dân tộc ta. Bảo vệ đất nước phải luôn gắn liền với xây dựng đất nước, động viên toàn dân kháng chiến luôn đi đôi với bồi bổ sức dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương thực hiện kháng chiến toàn diện bằng sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, trong đó lấy đấu tranh quân sự là chủ chốt.
Những tư tưởng chủ đạo đó đã được thể hiện ở ba quyết định có ý nghĩa lịch sử:
Một là, quyết định chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang và kêu gọi cả nước đứng lên Tổng khởi nghĩa, đưa Cách mạng Tháng Tám đi đến thành công, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hai là, quyết định phát động toàn dân đứng lên kháng chiến chống Pháp, đưa cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp đến thắng lợi, giải phóng một nửa đất nước, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ba là, quyết định phát động cả nước đứng lên chống Mỹ, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã động viên được lực lượng toàn dân tham gia cuộc kháng chiến ác liệt và lâu dài chưa từng có trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Người nhấn mạnh: “không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng được”1. Kháng chiến toàn diện là phát huy đến mức cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh giặc trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, tư tưởng.
Trong khi nêu khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, Đảng ta đồng thời đề ra nhiệm vụ xây dựng hậu phương vững mạnh về mọi mặt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào Thi đua ái quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công nghiên cứu kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa quân sự của dân tộc ta, đó là: “thực túc binh cường”, “quốc thịnh binh cường”, chính sách “ngụ binh ư nông”, đồng thời Người còn vận dụng học thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác – Lênin, kinh nghiệm quân sự của các nước trên thế giới để xây dựng hậu phương vững mạnh, đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta khẳng định chiến lược đánh lâu dài nhằm làm thất bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương trường kỳ kháng chiến, vừa chiến đấu vừa phát triển lực lượng, tích lũy kinh nghiệm để đủ sức đánh bại quân địch. Trong trường kỳ kháng chiến, Người rất coi trọng giành cho được những thắng lợi liên tiếp, dù nhỏ, vừa “góp gió thành bão” đưa kháng chiến tiến lên, vừa để nuôi dưỡng chí khí cách mạng, tinh thần kiên trì chiến đấu của đồng bào và chiến sĩ.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta một lần nữa lại đề ra chiến lược đánh lâu dài với Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do”2.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương “trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”. Người nhắc lại kinh nghiệm này của ông cha ta và giải thích: “Kháng chiến phải trường kỳ, vì đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị về toàn diện, của toàn dân”3. Người nhấn mạnh: “Địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng”4. Kháng chiến trường kỳ, nhưng không có nghĩa là phải kéo dài vô hạn, mà phải nỗ lực vượt bậc, vừa tiêu diệt địch, vừa bồi dưỡng phát triển lực lượng của ta, càng đánh ta càng mạnh, địch càng yếu, đánh bại từng âm mưu, chiến lược của địch, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Trong tình hình đó phải biết tạo thời cơ và nắm vững thời cơ để giành thắng lợi càng sớm càng tốt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định quyết tâm chiến đấu đến cùng vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Chống Mỹ, cứu nước là cuộc chiến trường kỳ và gian khổ. Vì so sánh lực lượng có sự chênh lệch rất lớn, nên ta cần có thời gian để tập trung, tổ chức, xây dựng, chuyển hóa lực lượng ngày càng lớn mạnh, có lợi cho ta, hạn chế những lợi thế và khoét sâu yếu điểm của địch. Thực tế trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tư tưởng Hồ Chí Minh về trường kỳ kháng chiến là một sách lược đặc biệt quan trọng trong đường lối quân sự của Việt Nam.
Khi chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, Người đưa ra quyết tâm: Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. “Hễ còn một tên lính thực dân trên đất nước Việt Nam thì cứ đánh, đánh cho đến thắng lợi hoàn toàn”5. Đến cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Người ra lời kêu gọi: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”6. Đó là tinh thần kiên quyết tiến công của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng, của toàn quân và toàn dân ta trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành trên những cơ sở lý luận và thực tiễn hết sức phong phú. Tư tưởng đó bắt nguồn từ truyền thống yêu nước với ý thức cộng đồng, ý thức đoàn kết dân tộc được hình thành và củng cố qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo nên những giá trị truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam. Tinh thần, ý thức đó đã tạo nên sức mạnh vô địch của cả dân tộc để chiến thắng mọi thiên tai, địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững. Về mặt thực tiễn, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng ở các nước trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. “Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc còn được Hồ Chí Minh vận dụng sáng suốt những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: đó là cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế, vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”7.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân
Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược năm 1946, Hồ Chí Minh viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”8.
Xây dựng lực lượng quân sự bao gồm ba thứ quân, xây dựng lực lượng chính trị rộng khắp và kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, sử dụng linh hoạt các phương pháp tiến công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến việc giáo dục tư tưởng, chính trị và nhiệm vụ chính trị cho các lực lượng. Tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Ở tư tưởng Hồ Chí Minh, giữa chính trị và quân sự có mối quan hệ mật thiết với nhau, dùng chính trị để phục vụ cho quân sự, dùng quân sự để xây dựng chính trị và kết hợp chính trị với quân sự để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bằng tinh thần và sức mạnh của toàn dân.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người chủ trương “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền và Mặt trận dân tộc thống nhất, kêu gọi toàn dân thi đua ái quốc “chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm”, “hậu phương thi đua với tiền phương”, “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, thi đua thực hành cần, kiệm, liêm, chính, thi hành đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, thực hiện các chính sách bồi dưỡng sức dân để kháng chiến lâu dài.
Tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân, hiện nay, Đảng ta rất coi trọng việc giáo dục ý thức quốc phòng cho các tầng lớp nhân dân, kêu gọi Nhân dân đề cao cảnh giác, chống các âm mưu và thủ đoạn của địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình”. Cùng với chiến lược phát triển kinh tế, Đảng ta đề ra chiến lược về quốc phòng và an ninh quốc gia; kết hợp kinh tế với quốc phòng; kết hợp giữa xây dựng lực lượng vũ trang chính quy với các lực lượng tự vệ ở địa phương, tạo nên thế trận quốc phòng toàn dân nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang và Quân đội nhân dân Việt Nam
Ngày 22/12/1964, nhân dịp kỷ niệm Quân đội ta tròn 20 tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”9.
Trên nền tảng lý luận về chiến tranh nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập và rèn luyện Quân đội ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang hình thành trên cơ sở nghiên cứu, nắm vững lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, học thuyết Mác – Lênin về chiến tranh và quân đội, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta. Người cho rằng, xây dựng lực lượng vũ trang quân sự phải bắt nguồn từ lực lượng đấu tranh chính trị, biểu hiện của nó là từ đấu tranh chính trị chuyển thành đấu tranh quân sự, đặc biệt phải luôn kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự. Năm 1944, Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay. Người khẳng định những tiêu chí cơ bản nhất để xác định bản chất Quân đội ta: “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Người yêu cầu: “Quân đội ta nhất định phải tiến từng bước lên chính quy và hiện đại”10. Người xác định nhiệm vụ của Quân đội là vừa chiến đấu, vừa công tác, vừa sản xuất, trong đó chiến đấu là nhiệm vụ chủ yếu. Cùng với công tác chính trị, quân sự, Hồ Chí Minh còn luôn quan tâm tới các biện pháp nhằm xây dựng tinh thần đoàn kết cho bộ đội, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế.
Người quan tâm đến việc tổ chức lãnh đạo, chỉ huy Quân đội, trong đó có các cơ quan lãnh đạo chỉ huy cao nhất của Quân đội như Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; đồng thời, quan tâm tới công tác bảo đảm hậu cần, trang bị vật chất, kỹ thuật cho bộ đội ở chiến trường, coi đây là điều kiện quan trọng để giành thắng lợi. Chính Người đã trực tiếp chỉ đạo khai mở con đường chiến lược đi tới Điện Biên Phủ trong kháng chiến chống thực dân Pháp và sau này là con đường Hồ Chí Minh vượt dãy Trường Sơn, vượt biển để chi viện cho chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để “một bát gạo, một đồng tiền, một viên đạn, một viên thuốc, một tấc vải, phải đi thẳng đến chiến sĩ”11.
Người quan tâm sâu sát và cụ thể từ việc chú trọng nâng cao chất lượng của Quân đội để nâng cao sức mạnh chiến đấu, dặn dò mỗi cán bộ phải: học tư tưởng chiến lược, chiến thuật, học cách dạy bộ đội đánh giặc, học phương pháp chỉ huy chiến đấu. Người ra Chỉ thị: Toàn quân ta phải ra sức học tập chính trị, quân sự và văn hóa. Trong xây dựng Quân đội, Người luôn đề cao tư tưởng chiến lược quân sự là xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, hậu cần nhân dân, xây dựng một hậu phương vững mạnh cho tiền tuyến bởi đó là yếu tố cơ bản bảo đảm cho thắng lớn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề xây dựng Quân đội cách mạng bởi Quân đội là công cụ của nhà nước vô sản chuyên chính. Người đã trực tiếp chỉ đạo việc tổ chức các đội tự vệ, dân quân và sáng lập ra Quân đội nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, Quân đội ta là Quân đội nhân dân, từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu, cho nên đi đến đâu đều được dân tin, dân phục, dân yêu. Từ đó, Người đã phác họa một lực lượng vũ trang nhân dân đông đảo gồm có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và các tổ chức dân quân tự vệ.
Trong suốt quá trình chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa và tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng vai trò chiến lược của dân quân tự vệ, là lực lượng vô địch của toàn dân tộc. Vô luận kẻ địch hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó đều phải tan rã.
Con người và hậu cần kỹ thuật là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, trong đó con người là nhân tố quyết định, hậu cần kỹ thuật là yếu tố rất quan trọng. Trên bước đường tiến lên chính quy, hiện đại, vũ khí và trang bị của Quân đội ta ngày càng nhiều, trình độ ngày càng cao, cơ sở vật chất – kỹ thuật ngày càng lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ phải coi trọng kỹ thuật, ra sức học tập để làm chủ kỹ thuật. Khen ngợi một số đơn vị có thành tích tốt về cải tiến kỹ thuật, Người cho rằng: Đó là bước đầu tiên trên con đường muôn dặm của cách mạng kỹ thuật.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, đội ngũ cán bộ Quân đội đã không ngừng phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng nhân cách, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”, được dân tin, dân phục, dân yêu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đa số cán bộ Quân đội đều thể hiện rõ bản lĩnh chính trị vững vàng của mình; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tích cực tham gia vào công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo; không ngừng nâng cao trình độ, năng lực; giữ vững phẩm chất cách mạng. Tuy nhiên, những biến đổi phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của khu vực, thế giới; sự tác động của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập… đã phần nào chi phối đến tư tưởng, tình cảm của một số cán bộ Quân đội.
Trước những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thực hiện phi chính trị hóa Quân đội của các thế lực thù địch, hơn bao giờ hết, đội ngũ cán bộ Quân đội hôm nay phải tích cực học tập, rèn luyện và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh; phải luôn kiên định lập trường, tư tưởng, trau dồi đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt, quyết tâm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với lòng tin và sự mong mỏi của Người. Đó cũng là những vấn đề cốt lõi nhất đòi hỏi người cán bộ Quân đội phải tiếp tục nâng cao “Đức” và “Tài”, khi đất nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Đây còn là yêu cầu về phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ trong quân đội đã được xác định trong văn kiện của Đại hội Đảng bộ Quân đội trong thời gian tới.
1, 4, 8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 344, 539, 534.
2, 6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 131, 512.
3, 11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 30, 433.
5, 9, 10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 262; t. 14, tr. 435; t. 10, tr. 588.
7. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 182.
Đại tá, TS. Đào Hải Triều
Theo Tạp chí Nhịp cầu Tri thức
Xây Dựng Khối Đoàn Kết Thống Nhất Trong Đảng Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh – người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, luôn đặc biệt chú ý giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên ý thức bảo vệ, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Người khẳng định: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công. Tư tưởng của Người về đoàn kết thống nhất của Đảng là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính nguyên tắc tổ chức kỷ luật trong Đảng với tình thương yêu đồng chí mang đậm nét văn hoá phương Đông, giữa truyền thống dân tộc và phẩm chất tiên tiến của giai cấp công nhân.
Giáo sư Trần Văn Giàu nói: “Đến Cụ Hồ thì đại đoàn kết được xây dựng trên cả một lý luận chứ không còn đơn thuần là tình cảm tự nhiên của người trong một nước phải thương nhau cùng”(1). Theo số liệu thống kê, trong 1.921 bài viết của Bác có tới 839 bài Bác đề cập đến vấn đề đoàn kết thống nhất và có tới 1.809 lần Bác dùng từ “đoàn kết”, “đại đoàn kết”. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, vấn đề đoàn kết trong Đảng được Bác nhắc đi, nhắc lại tới 16 lần. Trong “Di chúc” thì thuật ngữ “đoàn kết” được Bác nhấn mạnh 7 lần. Bác căn dặn “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng ta và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(2). Đoàn kết thống nhất trong Đảng theo Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải chỉ là “đoàn kết một chiều”, “bằng mặt mà không bằng lòng”, “liên minh”, lúc cần thì hợp lực, không cần thì tìm cách lật đổ nhau… mà phải là đoàn kết có lý, có tình – tình cảm cách mạng trong sáng, tình thương yêu đồng chí, đồng bào. Bác từng nói: “Toàn Đảng, toàn dân đồng sức đồng lòng thì khó khăn gì cũng nhất định khắc phục được”(3).
Với Hồ Chí Minh, đoàn kết thống nhất trong Đảng phải là một chiến lược lâu dài, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam: “Nội bộ Đảng phải đoàn kết nhất trí, đoàn kết không phải ngoài miệng mà phải đoàn kết trong công tác, trong tự phê bình và phê bình giúp nhau tiến bộ”(4). Bác luôn tâm niệm, Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như một người và nhờ vậy “Cách mạng nhất định thành công. Ta thành công chính vì ta đoàn kết, quyết tâm, tin tưởng”(5).
Bác khuyên các đồng chí trong Đảng phải thương yêu đoàn kết, nuôi dưỡng và phát triển tình đồng chí, nghĩa đồng bào, giữ gìn đạo đức cách mạng, chống các căn bệnh công thần, địa vị, hẹp hòi, cục bộ, kèn cựa… “Từ nay, mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, phải kiên quyết chữa cái bệnh hẹp hòi đó để thực hành chính sách đại đoàn kết. Chính sách thành công thì kháng chiến mới dễ thắng lợi”(6).
Có thể nói, xây dựng, củng cố và tăng cường khối đoàn kết thống nhất trong Đảng là nhiệm vụ thường xuyên, là trách nhiệm lớn lao của toàn thể cán bộ, đảng viên, trước hết là của những cán bộ chủ chốt.
Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh, thật sự đoàn kết thống nhất thì mới đảm bảo sự lãnh đạo, đủ sức chèo lái con thuyền cách mạng đến bến bờ thắng lợi. Do đó, mỗi đảng viên phải nhận thức sâu sắc vai trò, vị trí, tầm quan trọng của sự đoàn kết thống nhất, tự giác rèn luyện đạo đức cách mạng, năng lực hoạt động để góp sức xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đồng tâm nhất trí, đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Hiện nay, để bảo vệ và giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng “như giữ gìn con ngươi của mắt mình” cần thực hiện nhiều giải pháp, trong đó: 1. Thực hiện tốt chế độ tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân.
Tự phê bình và phê bình không những là vũ khí sắc bén mà còn là động lực bên trong giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm. Tự phê bình và phê bình phải khách quan, trung thực, thẳng thắn, công khai, chân thành. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(7). Do đó, tự phê bình và phê bình cần tiến hành từ trên xuống, từ dưới lên, phê bình việc chứ không phê bình người và phê bình phải thường xuyên như “rửa mặt hằng ngày”. “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”(8).
2. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; đề cao tính tổ chức và kỷ luật trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Dân chủ trong Đảng là phải làm cho tất cả đảng viên đóng góp ý kiến của mình cho Đảng với ý thức trách nhiệm xây dựng trong nguyên tắc sinh hoạt đảng. Các cấp uỷ đảng phải bảo đảm dân chủ từ cơ sở. Mặt khác, từng cán bộ, đảng viên phải có trách nhiệm đóng góp ý kiến vào những vấn đề chung, nhất là những vấn đề thuộc về đường lối, chính sách và giải pháp thực hiện. Thực hiện tập trung dân chủ thực sự trong sinh hoạt đảng nhằm tạo cơ sở bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
3. Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời hiện tượng mất đoàn kết và nguyên nhân dẫn đến mất đoàn kết, thực hiện tốt chế độ thi đua khen thưởng và kỷ luật của Đảng.
Công tác kiểm tra có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng cường khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Công tác kiểm tra giúp cho các cấp uỷ kịp thời phát hiện và ngăn chặn nguyên nhân, hiện tượng mất đoàn kết. Bên cạnh đó, tổ chức thực hiện tốt công tác thi đua khen thưởng có tác dụng kịp thời động viên, khích lệ những tập thể, cá nhân, cán bộ, đảng viên có thành tích trong xây dựng khối đoàn kết thống nhất, nhắc nhở giáo dục cán bộ, đảng viên không ngừng xây dựng, vun đắp cho khối đoàn kết thống nhất.
4. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt tiêu biểu cho phẩm chất, năng lực của đội ngũ đảng viên, đủ uy tín và khả năng quy tụ đội ngũ, xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong tổ chức đảng.
Cán bộ quyết định sức mạnh và hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Người cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải có năng lực, trình độ, uy tín mới có thể tập hợp, tổ chức, quy tụ được sức mạnh đội ngũ đảng viên và quần chúng. Cùng với việc quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ, công tác đánh giá, quản lý cán bộ cần phải được chú trọng hơn, phải quan tâm bồi dưỡng thường xuyên kiến thức về công tác tổ chức, cán bộ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết thống nhất trong Đảng mãi mãi là kim chỉ nam cho hành động, là ngọn đèn pha soi đường để mỗi chúng ta phấn đấu, bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao ý thức đoàn kết góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh.
(1) Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Tư tưởng Hồ Chí Minh xuất bản, H.1993, tập 2, tr.34. (2) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2002, tập 12, tr.510. (3) Sđd, tập 10, tr.545. (4) Sđd, tập 9, tr.400. (5) Sđd, tập 11, tr.467. (6) Sđd, tập 5, tr.238. (7) Sđd, tập 5, tr.261. (8) Sđd, tập 5, tr.232.
NGUYỄN THỊ NGỌC CẢNH Khoa Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị khu vực III
xaydungdang.org.vn
Bạn đang đọc nội dung bài viết Phát Huy Nhân Tố Con Người Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!