Đề Xuất 3/2023 # Phân Tích Bài Thơ Tỏ Lòng (Thuật Hoài) # Top 8 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Phân Tích Bài Thơ Tỏ Lòng (Thuật Hoài) # Top 8 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Phân Tích Bài Thơ Tỏ Lòng (Thuật Hoài) mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Các học sinh sẽ được học tác phẩm “Tỏ lòng” của tác giả Phạm Ngũ Lão trong chương trình Ngữ Văn lớp 10. Đây là một tác phẩm thơ mà đã được tác giả gửi gắm vào đó tình yêu nước nồng cháy, khát khao được cống hiến sức lực và tài năng của bản thân cho triều đại, cho đất nước. Với bài phân tích bài thơ Tỏ Lòng (Thuật hoài) – Phạm Ngũ Lão của chúng tôi có thể giúp các học tính phần nào cảm nhận được hào khí anh hùng đời Trần được truyền tải qua từng câu chữ, vần thơ.

1. “Tỏ lòng”- Tiếng nói của người thi sĩ – người anh hùng yêu nước

Phân tích bài thơ Tỏ lòng của tác giả Phạm Ngũ Lão để thấu hiểu vang vọng nỗi lòng yêu nước nước đến mãnh liệt của chính người thi sĩ – người anh hùng bất khuất đầy cảm phục của dân tộc. Đây được coi như là một kiệt tác hào hùng của dân tộc, luôn chứa chan một tình yêu nước vô bờ bến, lòng tự hào của tác giả đối với dân tộc, thể hiện một thời oanh liệt vẻ vang của các tướng lĩnh đời Trần.

Bài thơ chính là hào khí của một đấng nam nhi với đầy ắp ý chí và khát vọng chiến công khi Tổ quốc gặp nguy nan. Khi phân tích bài thơ Tỏ lòng chúng ta sẽ hiểu rõ nỗi lòng của tác giá. “Tỏ lòng” còn được coi là một bức tranh tự họa mà chính bản thân danh tướng Phạm Ngũ Lão đã họa lên. Chủ nghĩa yêu nước của tác phẩm được tác giả thể hiện qua những ngôn từ trang nghiêm, cổ kính như: “xông pha trận mạc, cầm ngang ngọn giáo…” Hình ảnh quân đội Sát Thát được hiện lên vô cùng hào khí, đông đảo, với một sức mạnh phi thường mà không kẻ thù nào có thể đánh bại. Khí thế hừng hực ấy có thể đánh tan bất kể kẻ thù nào có ý muốn lăm le xâm lược nước ta.

2. Giới thiệu về tác giả Phạm Ngũ Lão

Tác giả Phạm Ngũ Lão là người con được sinh ra trên mảnh đất Phù Ủng (nay thuộc tỉnh Hưng Yên) vào năm Ất Mão – 1255. Ông sinh vào thời vương triều nhà Trần đang cùng quân dân cả nước đứng lên chống lại quân xâm lược Nguyên – Mông lần thứ 2. Xuất thân của ông đã là một huyền thoại đối với dân gian, con người làng Phù Ủng ấy với tính tình khẳng khái, ý chí khác người, luôn phấn đấu không ngừng trên con đường công danh của mình.

Có thể thấy được một người có xuất thân từ miền quê bình thường, nhưng lại lọt vào con mắt của vị đại tướng triều Trần, điều này đã chứng tỏ được tài chí của Phạm Ngũ lão cũng như khả năng dùng người của các thánh tướng thời bấy giờ. Với tài năng thiên bẩm của mình, lại được sự chỉ dạy của đích thân thánh tướng Trần Quốc Tuấn đã giúp ông mau chóng trở thành người vị tướng kiệt xuất trong cả hai lần cùng dân tộc đánh dậy đánh bại quân Nguyên – Mông. Những ngày tháng sau đó, ông trở thành phò tá đắc lực cho ba đời vua Trần, lập không ít chiến công, đánh dẹp quân Chiêm Thành và Ai Lao, cũng như dẹp loạn tại các vùng biên giới.

Vào tháng 9 năm 1284, tình hình chiến sự nước nhà có phần phức tạp, Trần Quốc Tuấn đã có quyết định giao cho Phạm Ngũ Lão nhiệm vụ bảo vệ vùng viên giới Đông Bắc của dân tộc, ông đã trở thành một vị tướng trẻ tuổi luôn lập được chiến công hiển hách và tạo dựng được niềm tin to lớn đối với các vị vua và tướng lĩnh đời Trần.

Phạm Ngũ Lão còn bộc lộ mình là một vị tướng tài ba, kiệt xuất của dân tộc. Danh tiếng của Phạm ngũ Lão luôn khiến cho quân giặc phải ái ngại, khiếp sợ, uy danh của ông được vang xa đến tận quân địch. Trong những ngày kháng chiến gian khổ, nguy hiểm, cùng với sự dày dạn chiến đấu và kinh nghiệm chiến trường đã khiến ông trở thành một biểu tượng niềm tin chiến thắng đối với tất cả các binh lính. Vị tướng xuất thân từ nông dân này, luôn làm được những điều phi thường, khiến tất cả chúng ta đều bất ngờ và nể phục.

Phạm Ngũ Lão còn là một vị tướng luôn có mặt trong những trận chiến cam go, quan trọng, luôn sẵn sàng đẩy cao tinh thần dân tộc, xông lên giết giặc làm gương cho các quân lính. Ông luôn đồng cam cộng khổ, yêu lính như người thân, trên chiến trường luôn là một người quả cảm, tiên phong, dũng cảm, biết phát huy tất cả sở trường để góp phần giúp quân đội giành chiến thắng.

Là người đức độ tài cao, Phạm Ngũ Lão đã là nhân vật đi vào lịch sự được các thế hệ mến mộ, kính trọng, những con người quê hương Phù Ủng luôn thờ và nhớ ơn ông. Đặc biệt là người dân Hưng Yên ngày nay, để tưởng nhớ công ơn của ông với đất nước, hàng năm đều tổ chức lễ hội Phù Ủng. Cho đến ngày nay, trên khắp cả nước có rất nhiều nơi lập đền thờ để thờ danh tướng Phạm Ngũ Lão, để đời đời con cháu ghi nhớ công ơn của ông.

3. Xác định yêu cầu của đề bài phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Đây là dạng bài văn phân tích tác phẩm văn học, cụ thể ở đây là một bài thơ của Phạm Ngũ Lão. Do đó, bạn cần trình bày những đánh giá, nhận định về tác phẩm qua từng phần, từng yếu tố của tác phẩm ấy. Sau đó tổng hợp lại. Như vậy, bài làm sẽ phân tích từng bộ phận, từng mặt của tác phẩm để tìm hiểu, nhận định. Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão là bài làm văn phân tích toàn bộ tác phẩm nên các bạn học sinh cần đề cập tới cả nội dung và nghệ thuật của tác phẩm để xem xét, đánh giá. Khi triển khai, bạn sẽ tiến hành phân tích từng phần của tác phẩm một cách đầy đủ, chi tiết cho từng ý. Mỗi ý sẽ chiếm một phần của bài làm.

Cuối cùng, bạn tổng hợp các ý đã phân tích ở trên và đưa ra những đánh giá chung về nội dung, nghệ thuật.

Về bố cục, bài văn cũng gồm có Mở bài, Thân bài, Kết luận. Trong đó:

* Mở bài: Bạn cần giới thiệu chung về tác phẩm Tỏ Lòng như tác phẩm, tác giả và nội dung cần quan tâm.

Tác giả: Phạm Ngũ Lão là người văn võ toàn tài, từng đóng góp nhiều chiến công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông ở thời Trần.

Tác phẩm: Bài thơ nêu lên những chiến thắng vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc, là niềm tự hòa, hào khí Đông A, cũng như thể hiện chí trai của đấng nam nhi.

* Thân bài: Bạn tiến hành phân tích từng ý của tác phẩm. Mỗi ý sẽ có một đoạn. Có nhiều cách để triển khai ý của tác phẩm như theo từng cặp thơ, câu thơ hay theo trình tự xuất hiện. Lưu ý, mỗi đoạn cũng có mở đoạn, thân đoạn và kết đoạn. Các đoạn phải có câu nối, liên kết với nhau.

Cụ thể: Bài thơ có 4 câu thơ, viết thể thất ngôn tứ tuyệt đường luật. Có thể chia bố cục bài thơ làm 2 phần:

a, Hai câu thơ đầu tiên: Sức mạnh quân đội nhà Trần

” Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

(Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu

Ba quân như hổ báo, khí thể hùng dũng nuốt trôi trâu)

+ Tư thế: “Cầm ngang ngọn giáo” là tư thế hùng dũng, vững chãi, kiên cường, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Nhiệm vụ giữ gìn non sông, đất nước, tổ quốc trong thời gian dài từ thế kỉ này sang thế kỉ khác.

+ “Tam quân”: hình ảnh chỉ quân đội nhà Trần, thể hiện sức mạnh to lớn, hùng hậu. Phép so sánh “tì hổ” “khí thôn ngưu” càng làm cụ thể hóa sức mạnh đó. Hổ báo là loài mãnh thú chốn rừng sâu, có sức mạnh dũng mãnh, khí thế hừng hực, có thể “nuốt trôi trâu”.

b, Chí làm trai và nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

(Thân nam nhi mà chưa trả xong nợ công danh

Thì luống thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu)

+ Nợ công danh: Theo quan niệm nhà Nho, nợ công danh là món nợ với đời của thân trai ngay từ khi sinh ra cần phải làm được điều gì đó có ích, đóng góp cho non sông, đất nước. “Nợ công danh” bao gồm hai phương diện, thứ nhất là lập công, thứ hai là lập danh, để lại danh tiếng cho đời.

+ Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão: Phạm Ngũ Lão cho rằng thân là đấng nam nhi mà không trả nợ công danh thì nên cảm thấy hổ thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu. Câu chuyện về Vũ Hầu (Khổng Minh) tức là người tận tâm tận lực với chủ tướng, với non sông đất nước cho đến hơi thở cuối cùng, để lại tiếng vang và là tấm gương sáng cho hậu thế.

Cuối cùng, bạn tổng hợp kết quả sau khi phân tích tác phẩm để đưa ra đánh giá chung, nhận định về tác phẩm Tỏ Lòng của Phạm Ngũ Lão

* Kết bài: Đánh giá chung về tác phẩm và nêu bài học ý nghĩa đối với lịch sử văn học, đối với người đọc ngày nay.

4. Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Chính bởi Phạm Ngũ Lão là người chinh chiến trên chiến trường nhiều năm, nên ông luôn đề cao vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng dân tộc, anh dũng, hiên ngang với tư tưởng lớn lao, thế nên ngay trong hai câu thơ đầu tác giả đã thể hiện hình ảnh người anh hùng với khí chất hùng dũng:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quốc tì hổ khí thôn ngưu”

“Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”

Trong câu thơ đầu, từ “Hoành sóc” mà tác giả sử dụng có nghĩa là “múa giáo”, ý muốn nói đến hình ảnh người anh hùng đang hiên ngang cầm mũi giáo trên tay đứng bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, khi sử dụng từ “Hoành sóc” tác giả mới có thể diễn tả hết được khí thế hiên ngang của một con người với tinh thần anh dũng, sắt đá, trần đầy nhiệt huyết, sẵn sàng dâng cao ngọn giáo, xả thân vì nước.

Phạm Ngũ Lão không hề chỉ định rõ chủ ngữ là ai, nhưng khi đọc ai cũng có thể liên tưởng đến ông đang nói về một người anh hùng dân tộc – những con người không phân biệt bất kể thời gian, không gian hoàn cảnh như thế nào, học chỉ cần biết rằng dù là nơi đâu trên mảnh đất này đều là tình yêu của họ, và rồi dù có phải ” tải mấy thu” thì họ vẫn luôn như vậy, vẫn luôn một lòng yêu nước đến bất tận, và từ những con người trân quý như vậy, đạo tạo ra một quân đội hùng mạnh:

“Tam quốc tì hổ khí thôn ngưu”

Câu thơ này có thể được hiểu theo 2 cách, có thể hiểu rằng “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” và người đọc cũng có thể hiểu theo ý khí thế như là sao Ngưu, át cả sao trời. Có lẽ, không có một câu văn hay bất kể từ ngữ nào có thể diễn tả về sự hùng hậu và chí khí của đội quân nhà Trần, đến mức mà tác giả còn phải mượn hình ảnh sao Ngưu để diễn tả.

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”

“Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

Đối với tác giả Phạm Ngũ Lão, một đấng nam nhi “đầu đội trời, chân đạp đất” phải lập được công danh với đất nước. Tư tưởng cao cả của ông được thể hiện qua câu “Nam nhi vị liễu công danh trái”. Ngay từ ngày còn là một thanh niên, ông không bao giờ cho phép mình được tầm thường, thấp kém, ông luôn tự hướng mình đến những điều mạnh mẽ lớn lao. Bởi vậy, khi nhìn đến hình ảnh Vũ hầu ông lại khiêm tốn và sử dụng từ “luống thẹn”.

Vũ hầu chính là Gia Cát Lượng, một người tài trong thời Tam Quốc, có công lớn trong việc giúp Lưu Bị gầy dựng lại triều đại nhà Hán, sau được phong làm Vũ Lượng hầu (thường được gọi tắt là Vũ hầu). Không phải không có lý gì khi Phạm Ngũ Lão lại nhắc tới vị danh tướng này trong các vần thơ của mình, đó chính vì Vũ hầu chính là động lực, là lý tưởng cao đẹp để ông có những cố gắng và cống hiến hết sức mình cho dân tộc.

Cả cuộc đời của Phạm Ngũ Lão, ông luôn muốn được làm gì đó cho nước, cho dân. Sự bày tỏ sự hổ thẹn của mình càng khiến cho người đọc cảm nhận được nhân cách cao cả của ông, ông có một lý tưởng thực sự của một người anh hùng, xứng đáng trở thành một đấng nam nhi ở thiên hạ. Thế nhưng đối với ông, như thế vẫn là chưa đủ, ông vẫn luôn cảm thấy sự cống hiến của bản thân dành cho đất nước là quá ít. Từ đó ông luôn tự nhủ với bản thân mình phải thật sự cố gắng hơn nữa, cống hiến nhiều hơn nữa. Những lời văn, ý thơ, từ ngữ được ông sử dụng với giọng điệu đầy hào hùng, dứt khoát đã góp phần không nhỏ thể hiện lòng quyết tâm cùng với tâm tư tình cảm của Phạm Ngũ Lão, người đọc hoàn toàn có thể thấy ông là một vị tướng “văn võ song toàn”.

Phân tích bài thơ Tỏ lòng (Thuật hoài) để cảm nhận ý nghĩa sâu sắc trong từng áng văn. Qua tác phẩm thơ của ông, Phạm Ngũ Lão đã để lại cho các thế hệ sau này một bài học quý báu, sâu sắc về lý tưởng sống, ông hướng cho các thế hệ mai sau một suy nghĩ sống là phải không ngừng phấn đấu, không ngừng vươn lên, luôn hướng bản thân đến những điều tốt đẹp, luôn cố gắng phấn đấu hết sức mình để góp phần bảo vệ quê hương, tổ quốc, non sông thân yêu.

Với biện pháp tu từ “Thậm xưng” được tác giả sử dụng chính trong bài thơ đã tăng thêm phần sáng tạo, chính vì vậy những hình tượng thơ trong bài luôn mang một tầm vóc vũ trụ. Những hình ảnh được tác giả mang ra so sánh trong bài thơ cũng hết sức độc đáo, nó không chỉ khơi nguồn cảm hứng trong thơ ca mà còn thể hiện sức mạnh dân tộc to lớn, trở thành một thành tích thơ ca sáng gia trong nền văn học nước nhà thời bấy giờ.

Qua bài phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão sẽ thấy rằng tác giả đã thể hiện thành công, nổi bật hình ảnh người chiến sĩ anh hùng với những khao khát, ước mơ cháy bỏng có thể lập được chiến công để báo nợ đất nước, báo đáp ơn vua. Khát vọng ấy, thể hiện rực rỡ tấm lòng kiên trung, ái quốc của người anh hùng dân tộc. Bài thơ được ông viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, với giọng điệu oai vệ, hùng tráng, ngôn ngữ, ý thơ lại mạnh mẽ, hàm súc, bài thơ như một khúc tráng ca, nêu cao hình ảnh của những người chiến sĩ đời Trần.

Đặc biệt người đọc có thể lấy hình ảnh oai hùng, lẫm liệt của quân dân nhà Trần để làm tấm gương học tập và noi theo. Bản thân là một đấng nam nhi hãy luôn thẳng thắn, kiên cường, luôn sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ đất nước bất cứ ở nơi đâu và khi nào. Trong cuộc sống hiện tại, một số bạn trẻ còn đang chưa ý thức được trách nhiệm của bản thân, vẫn mải chơi bời, không chú tâm đến học tập và chưa có các hành động để xây dựng một tương lai tốt đẹp, vậy thì ngay bây giờ, hãy đặt lại cho bản thân những suy nghĩ đúng đắn, bắt tay ngay vào việc phấn đấu hoàn thiện bản thân, mà trước hết đó chính là quyết tâm học tập. Đồng thời cần loại bỏ những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội ra khỏi cuộc sống bản thân, để góp phần xây dựng đất nước tươi đẹp, văn minh hơn.

Bài phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, chỉ vẻn vẹn có bốn câu thơ ngắn gọn, nhưng lại hàm chứa bên trong là nỗi lòng bao la của vị tướng sĩ hào hùng. Bài thơ cũng chính là bài học giáo dục ý thức thế hệ trẻ nước nhà bây giờ và mai sau, tất cả đã tạo nên một giá trị lớn lao cho bài thơ. Hy vọng rằng khi đọc bài phân tích bài thơ Tỏ lòng của chúng tôi có thể giúp các bạn học sinh hiểu được ý nghĩa sâu xa mà tác giả Phạm Ngũ Lão muốn gửi gắm qua bài thơ, từ đó có thể trau dồi thêm cho bản thân thật nhiều các kiến thức nhân văn phục vụ chính các em trong cuộc sống hàng ngày.

Đề bài: Hình tượng người anh hùng trong bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão.

Mỗi tác phẩm không chỉ là tiếng lòng của người nghệ sĩ thể hiện dưới ngòi bút mà còn là vũ khí trong mỗi trận đánh, tiếp thêm sức mạnh và niềm tin để chiến thắng quân thù. Bởi vậy mà trong hai câu thơ của Raxun Gamzatop đã viết:

“Thơ như đôi cánh nâng tôi bay

Thơ là vũ khí trong trận đánh”

Và bài thơ “Thuật hoài” (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão cũng là một trong những khúc tráng ca lẫm liệt, khơi dậy niềm tin và sức mạnh cho những chiến sĩ thời bấy giờ, tinh thần quyết thắng trước mọi thế lực xâm lược. Sức mạnh của người anh hùng dân tộc trong bài thơ tỏa ra trong từng câu chữ.

Tác giả Phạm Ngũ Lão, từng là một tướng sĩ thời Trần, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Trong không khí sục sôi của dân tộc thời bấy giờ, với khí thế “Sát Thát”, là một người văn võ toàn tài, ông đã tự họa lên vẻ đẹp của người anh hùng trong thời đại hào khí Đông A qua “Thuật hoài”.

Sức mạnh của người anh hùng thời Trần trước tiên được thể hiện ở hình ảnh “múa giáo non sông cáp kỷ thu”:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”

(Cầm ngang ngọn giáo bảo vệ non sông đã mấy thu)

Người anh hùng hiện lên với vẻ đẹp kì vĩ, tư thế hiên ngang sánh tầm với non sông, đất nước cùng với sự trường tồn của thời gian. Cây giáo trong tay là thứ vũ khí để bảo vệ non sông, đất nước. Trong bản phiên âm, vẻ đẹp của người anh hùng được hiện lên ngay qua hình ảnh “Hoành sóc”-cầm ngang ngọn giáo, nhưng trong bản dịch thơ lại chuyển thành “múa giáo” làm mất đi sự uy nghiêm, chưa thể hiện được hết sự kỳ vĩ, vững chắc, quyết tâm.

Hình ảnh người anh hùng cầm vũ khí bảo vệ tổ quốc ấy đã góp phần làm nên sự vững mạnh của cả một đội quân:

“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

“Tam quân” khiến ta liên tưởng đến quân đội thời Trần nhưng trên hết đó chính là sức mạnh toàn dân đồng lòng, từ vua quan đến các bậc thường dân đều chung sức mạnh đẩy lùi giặc ngoại xâm. Nghệ thuật so sánh “tì hổ”, “khí thôn ngưu” đã khái quát hóa tinh thần của đội quân “sát thát” vừa có sức mạnh vũ bão như loài hổ “Chúa tể của rừng xanh”, vừa có chí khí ngút trời có thể lấn át được cả bầy trâu.

Hai câu thơ với nghệ thuật so sánh, hình ảnh ước lệ, gợi tả đã khẳng định sức mạnh của dân tộc trước kẻ thù xâm lăng. Khí thể hùng mạnh ấy đã làm tăng thêm niềm tin, khơi dậy sự quyết thắng của dân tộc, quyết bảo vệ lãnh thổ, đánh tan kẻ thù.

Bài thơ không chỉ đẹp ở vẻ đẹp của người anh hùng mà còn đẹp ở ý chí, tâm hồn đẹp của một nhân cách thanh cao qua hai câu thơ cuối cùng:

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

(Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)

Câu thơ đề cập đến chí làm trai, tráng chí của người anh hùng thời Trần, cũng là lí tưởng sống của biết bao thế hệ trai tráng khác qua các thời đại:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông”

( Nguyễn Công Trứ)

hay trong bài “Cảm hoài” của Đặng Dung cũng nhắc tới mối thù của nước nhà:

“Quốc thù chưa trả già sao vội

Dưới nguyệt mài gươm đã bấy chầy”

Trong câu thơ của Phạm Ngũ Lão có bày tỏ khát vọng được lập công, cống hiến cho đất nước, lưu danh muôn đời như các bậc tiền nhân lỗi lạc. Bản thân ông đã là người văn võ song toàn, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông của dân tộc, nhưng ông vẫn cảm thấy như vậy chưa đủ, vẫn chưa trả được “nợ công danh” với đời nên còn cảm thấy hổ thẹn khi nghe chuyện “Vũ Hầu”. Vũ Hầu là nhân vật nổi tiếng thời Hán, lập nhiều công lớn, là một trung thần luôn tận tâm vì nước cho đến tận lúc chết đi. Cách nói của Phạm Ngũ Lão thể hiện hoài bão, khát vọng của đấng nam nhi muốn hiến dâng tài trí cho đất nước.

Trong bài thơ “Thu vịnh”, Nguyễn Khuyến cũng thể hiện cải “thẹn” khác rất cao đẹp:

“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”

Cái thẹn của Nguyễn Khuyến là cái thẹn của một nhà nho, còn cái thẹn của Phạm Ngũ Lão là cái thẹn của một bậc anh hùng, muốn góp hết sức mình cho đất nước.

Như vậy, qua bài thơ, vẻ đẹp người anh hùng “Sát thát” hiện lên vô cùng rõ nét qua bút pháp nghệ thuật đặc sắc, ngôn ngữ tráng lệ, gợi ra dáng vóc của người anh hùng trong thần thoại, người dũng sĩ trong sử thi. Bài thơ còn là lời “tỏ lòng”, “tỏ chí” của một đấng nam nhi, một bậc trung quân ái quốc.

Vẻ đẹp của “Thuật Hoài” cùng với những sáng tác khác cùng thời như “Tụng giá hoàn kinh sư” của Trần Quang Khải, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn đã làm sáng ngời hào khí Đông A thời bấy giờ. Đọc những sáng tác với vẻ đẹp sáng rực ấy, bản thân thế hệ trẻ chúng ta trong cuộc sống hiện nay cũng cần nhìn nhận lại lối sống của mình. Trước hết là ý thức rèn luyện, tu dưỡng về mặt thể chất. Sau đó là nuôi dưỡng tâm hồn, với tinh thần yêu nước, sống có lí tưởng, đóng góp cho cuộc đời.

Mỗi người trong cuộc đời không nên ngủ quên trên chiến thắng mà cần phải sống có lí tưởng, hoài bão, cống hiến hơn nữa. Bởi “Những khát vọng tốt đẹp chính là cơn gió đẩy con thuyền cuộc đời mặc dù nó vẫn thường gây nên những cơn giông tố” (Safontaine). Hay “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường, không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống. Chúng ta mỗi thế hệ trẻ cần khắc ghi lời dạy của ông cha, đưa đất nước ngày càng tiến bộ đi lên, vượt qua những chông gai, thử thách, bão tố:

“Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất

Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi”

(Nguyễn Việt Chiến)

Phân Tích Bài Thơ Thuật Hoài ( Tỏ Lòng ) Của Phạm Ngũ Lão

Việt Nam, đất nước tuy bé nhỏ đầy những gian lao vất vả nhưng rất đỗi anh hùng đã trải qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước với những mốc son chói lọi trong lịch sử.

Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời đời được ghi lại trong những áng văn chương kiệt xuất như: “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu, v.v… Đặc biệt và nổi bật hơn hết cả là tác phẩm “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ là một khúc tráng ca hào hùng và mang nặng nỗi niềm của tác giả.Phạm Ngũ Lão(1255-1320) trong thời kì loạn lạc với cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên của đất nước. Bên cạnh một nhà quân sự tài giỏi, ông còn là một nhà thơ vĩ đại với hai tác phẩm “Thuật hoài” và “Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương” còn vang vọng mãi với non sông.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh tráng lệ với âm hưởng hào hùng:

Bước vào thời đại chiến tranh ấy, cái thời mà ngọn lửa như thiêu đốt cả tâm hồn quyết tâm diệt tan kẻ thù xâm lăng bờ cõi, khẳng định lại một lần nữa: “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư”! Và khi đó, xuất hiện tư thế hiên ngang của người anh hùng đất Việt “hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”. Câu thơ đầu tiên đã vẽ nên hình tượng oai phong lẫm liệt của người tráng sĩ với tư thế cầm ngang ngọn giáo sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tư thế ấy mang đậm tính tự hào rằng mình là người con đất Việt và sẵn sàng hy sinh để bảo vệ bờ cõi Việt, bảo vệ nhân dân Việt, bảo vệ non sông gấm vóc ngàn thu này. Hình ảnh lớn lao của người chiến sĩ đã sánh với tầm vóc bao la hùng vĩ của đất trời, lấn át cả khí thế của quân giặc. Đó còn biểu trưng cho lối sống cao đẹp cống hiến hết sức để bảo vệ đất nước một cách kiên trì, nhẫn nại. Dù bao nhiêu năm đi chăng nữa thì lí tưởng bảo vệ, khôi phục non sông vẫn mãi trường tồn. Chỉ qua câu thơ dầu đã cho ta thấy được hào khí Đông A.Ở đây hào khí Đông A chính là hào khí thời trần ,theo chữ Hán chữ “Đông” và 1 bộ phận của chữ “A” ghép thành. Qua hào khí đó thể hiện niềm tự hào về sức mạnh của thời đại.

Nếu câu thơ đầu thể hiện vẻ đẹp của con người với tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao, kỳ vĩ mang tầm vóc vũ trụ mà hơn cả là hào khí “Đong A” thì câu thơ thứ hai như tô đậm hào khí “Đông A” , tô đậm hình ảnh “ba quân” tượng trưng cho sức mạnh của quân đội nhà Trần và sức mạnh dân tộc Đại Việt lúc bấy giờ.

Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời xuất phát từ câu “khí thôn Ngưu đẩu” hay đó chính là khí thể hùng mạnh có thể nuốt trôi trâu của tam quân thời Trần. Biện pháp nghệ thuật cường điệu hoá sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, có tính sử thi. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” bất khả chiến bại mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc.

Nếu ở hai câu đầu giọng điệu sôi nổi hùng tráng thì đến đây âm hưởng thơ bỗng dưng như một nốt trầm lắng lại với lời bộc bạch, tâm sự, bày tỏ nỗi lòng của nhà thơ:

Thời xưa, Nho giáo đã nêu lên triết lí kẻ làm trai từ lúc sinh ra đã gánh nợ công danh. Người đàn ông phải hướng đến “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” lấy đó là lí tưởng, là cái đích phải hướng tới. Thời Trần, cái chí làm trai ấy là “Phá cường địch, báo hoàng ân” của vị anh hùng trẻ tuổi Trần Quốc Toản, là câu nói quả quyết của Thái sư Trần Thủ Độ: “Đầu thần còn chưa rơi xuống xin bệ hạ đừng lo” hay đó là vị Quốc Công tiết chế với “Hịch tướng sĩ” mang đậm hào khí anh hùng: “…dẫu cho thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng”. Ấy chính là khát vọng được gánh vác vận mệnh đất nước, dân tộc, lập chiến công hiển hách, là lý tưởng lập công danh sự nghiệp của nam nhi thời loạn lạc. “Công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm.

Đặt trong thời đại của Phạm Ngũ Lão, chí làm trai này đã cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp lớn lao. Phạm Ngũ Lão cũng từ cái chí, cái nợ nam nhi, nam tử đó mà cùng dân tộc chiến đấu chống xâm lược bền bĩ, ròng rã bao năm. Đặc biệt ở đây cũng từ cái chí, cái nợ đó mà nảy sinh trong tâm trạng một nỗi thẹn. Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Thẹn bởi vì so với cha ông mình chưa có gì đáng nói. Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời, song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì thế “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu” thực chất là một lời thề suốt đời tận tuỵ với chủ tướng Trần Hưng Đạo. Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn. Với Phạm Ngũ Lão, tuy là một nhà thao lựơc kiệt xuất, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên lần hai, ba nhưng ông vẫn tự thấy hổ thẹn. Ông thẹn vì chưa khội phục được giang sơn, vì kém cỏi chưa được như Vũ hầu, chưa báo được Hoàng ân. Nỗi thẹn ấy không làm cho con người trở nên nhỏ bé mà trái lại nâng cao phẩm giá con người. Đó là cái thẹn của một con người có lý tưởng, hoài bão vừa lớn lao, vừa khiêm nhường. Nỗi thẹn của một con người luôn dành trọn cái tâm cho đất nước, cho cộng đồng. Ẩn sau cái thẹn cao cả, khiêm tốn và ấy là cả một nỗi niềm khao khát được cống hiến hơn nữa cho Tổ quốc, cho dân tộc, để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng”.

Hình ảnh tráng sĩ lồng vào trong hình ảnh dân tộc thật đẹp có tính chất sử thi, hoành tráng. Đó chính là sức mạnh, âm vang của thời đại, vẻ đẹp của người trai thời Trần, là sản phẩm của “hào khí Đông A”. Nói cách khác, đó là hình ảnh con người vũ trụ, mang tầm vóc lớn lao. Con người ấy vì ai mà xông pha, quyết chiến? Tất cả xuất phát từ trách nhiệm, ý thức dân tộc và nền thái bình. Vì thế con người vũ trụ gắn với con người trách nhiệm, con người ý thức, bổn phận, con người hành động, đó chính là những biểu hiện của con người cộng đồng, con người xả thân vì đất nước.

Thuật hoài là một bài thơ Đường luật ngắn gọn nhưng hàm súc với thủ pháp gợi, thiên về ấn tượng, khái quát kết hợp với bút pháp hoành tráng mang âm hưởng sử thi đã khắc họa vẻ đẹp của người anh hùng hiên ngang, hùng dũng với sức mạnh lý tưởng lớn lao cao cả, tâm hồn sáng ngời nhận cách cùng khí thế hào hùng, quyết chiến quyết thắng của “hào khí Đông A”-hào khí thời Trần. Ngày nay, việc “cứu nước phò nguy” đâu phải là không cần thiết nữa vì vậy, mỗi thanh niên chúng ta cần học tập thật tốt, rèn luyện nhân cách đạo đức, xác định cho mình lí tưởng sống đúng đắn và quan trọng hơn là phải biết ước mơ và hành động vì sự nghiệp đất nước, đưa Việt Nam sánh ngang tầm với các cường quốc khắp năm châu.

Phân Tích Nội Dung, Nghệ Thuật Khổ Thơ Cuối Bài Thơ Quê Hương

Nguyễn Thiếp (1723-1804) tự là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, người đương thời kính trọng gọi là La Sơn Phu Tử, quê ở làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh.

Nguyễn Thiếp là người “thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu”, từng đỗ đạt, làm quan dưới triều Lê nhưng sau đó từ quan về dạy học. chính vì gắn bó với công việc dạy học cho nên Nguyễn Thiếp hiểu ra mục đích thật sự của việc học. Có thể nói bài bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp không chỉ để lại cho những người thời địa ấy những bài học quý giá mà còn để lại cho chúng ta những người thế hệ ngày nay và mai sau.

Bàn luận về phép học là một phần trong bản tấu của Nguyễn Thiếp gửi cho vua Quang Trung. Trong bài này tác giả của chúng ta đã nêu rõ quan điểm của mình về mục đích thật sự của việc học đó là đạo đức, là tri thức, để góp phần hưng thịnh cho đất nước.

Mở đầu đoạn trích tác giả nêu lên câu châm ngôn để cho thấy được mục đích chân chính của việc học là gì “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học”. Theo đó chúng ta sẽ đi tìm hiểu hai luận điểm chính là bàn luận về mục đích của việc học và tác dụng của việc học.

Với mục đích của việc học tác giả đưa ra câu nói trên. Đó là cách so sánh vô cùng hay và hấp dẫn. việc học giống như là mài ngọc thành đồ vật vậy, con người không học thì cũng không thể thành người được. Đó là cả một quá trình dài đầy gian khổ và thách thức nhưng mục đích chính mà việc học đặt ra là để hoàn thiện con người. Sự hoàn thiện đó bao gồm trước hết là đạo đức và sau đó là tri thức. Việc học vốn mang một ý nghĩa cao quý : “Biết rõ đạo”. Tức là học để biết cách làm người, học để sống tốt, cư xử đúng chuẩn mực. “Ngọc không mài, không thành đồ vật”, con người không học hành, tu dưỡng thì chẳng thành được con người có khả năng làm việc tốt, giúp ích cho đời. Dưới thể chế phong kiến theo Nho giáo xưa, học hành, thi cử còn là con đường trực tiếp dẫn đến chốn quan trường, là cơ hội để một đấng nam nhi góp sức mình cho đất nước. như vậy co thể thấy việc học rất quan trọng đặc biệt là trong xã hội phong kiến xưa. Học tập là một quy luật tất yếu trong cuộc sống. Kẻ đi học là học luân thường đạo lí để làm người. Đạo học ngày trước lấy rèn luyện đạo đức làm chính, đó là những cách cư sử trong tam cương ngũ thường ngày xưa.

Chính vì thế tác giả nhấn mạnh vào việc học là rất cần thiết. Con người mà không học thì giống như ngọc không mai không thành đồ vật và không thể thành người hoàn thiện được. những truyền thống quý báu như Tiên học lễ hậu học văn được kế thừa từ những bàn luận của Nguyễn Thiếp.

Không chỉ đưa mục đích chân chính cũng như tác dụng thực sự của việc học đối với hưng thịnh đất nước mà Nguyễn Thiếp còn khuyên vua Quang Trung mở hình thức học phổ biến hơn. Làm thế nào để tất cả mọi người đều ý thức được việc học và có thể học ở bất kì đâu : “Thầy trò của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tùy đâu tiện đấy mà đi học”.

Về trình tự học cũng như ta học chứ vậy, phải đi từ thấp tới cao từ nhỏ tới lớn. phải biết được những chữ cái có tỏng bảng thì mới mong học được thành những chữ ghép vào với nhau “Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm”. Có thể hiểu rằng muốn học rộng thì trước tiên phải học được những cái cơ sở cái nền tảng thì mới có thể mong làm cho kiến thức của mình sâu rộng và giúp ích cho đất nước được. không những thế tác giả chỉ ra việc học và việc hanh phải đi đôi gắn kết với nhau, học trước rồi hành sau không thể bỏ được nếu muốn học thành tài.

Cuối cùng tác giả khẳng định tác dụng to lớn và lâu dài của việc học đối với mỗi cá nhân và cho toan đất nước. Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua. Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị. Phương pháp học tập tốt sẽ là tiền đề để tạo ra những người có đức có tài giúp cho đất nước hưng thịnh. Người học giỏi mà có đạo đức thì cũng góp phần làm cho đất nước hưng thịnh.

Như vậy có thể thấy Nguyễn Thiếp đã đem đến cho chúng ta một tầm hiểu biết mới về phép học. Mặc dù là bản tấu nhưng chúng ta cũng thấy được tác giả luôn giữ thái độ chân thành cung kính với vua Quang Trung chứ không phải lên mặt. qua đây chúng ta thấy Nguyễn Thiếp là một vị quân thần không những giỏi có tài mà còn có đức, biết đi trước thời đại bỏ qua những trào lưu học lấy bổng lộc để thấy rõ được những tác dụng chân chính của việc học. Đặc biệt sau bài này chung ta có thể áp dụng vào sự nghiệp học hành ngày nay.

Phân Tích Nghệ Thuật Trong Từng Khổ Thơ Trong Bài Từ Ấy

– Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm

– Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Nghệ thuật trong bài thơ “Từ ấy”

– Hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ” cho nguồn nhiệt lượng cách mạng làm bùng sáng tâm hồn nhà thơ, “mặt trời chân lí” là một liên kết đầy sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa. Câu thơ ca ngợi ánh sáng điệu kì của cách mạng. Đó là thứ ánh sáng của tư tường cộng sản – ánh sáng của những công bình xã hội, của chân lí xã hội.

– Những vang động và vui tươi tràn ngập trong tâm hồn được so sánh bằng những hình ảnh và âm thanh lấy từ thiên nhiên tạo vật qua thủ pháp liệt kê: “vườn hoa lá”, “đậm hương” “rộn tiếng chim”.

– Động từ “buộc” là một ngoa dụ để thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm sắt đá của Tố Hữu để vượt qua “ranh giới” của “cái tôi” để chan hòa mọi người “Tôi buộc lòng tôi với mọi người”.

– Từ đó, tâm hồn nhà thơ vươn đến “trăm nơi” (hoán dụ) và “trang trải” sẻ chia bằng những đồng cảm sâu sắc, chân thành và tự nguyện đến với những con người cụ thể.

– Biện pháp liệt kê + điệp cấu trúc (là + …) cho thấy nhà thơ vượt qua những tầm thường ích kỉ trong đời sống tâm hồn chật hẹp để vươn đến một tình yêu “vẹn tròn to lớn”. Nhà thơ tự nhận mình “là con của vạn nhà” trong nghĩa đồng bào thiêng liêng nhất; là em của “vạn kiếp phôi pha” gần gũi bằng tình cảm xót thương những kiếp đời lao khổ, bất hạnh, những kiếp sống mòn mỏi, đáng thương; là anh của “vạn đầu em nhỏ” “cù bất cù bơ”. Từ những cảm nhận ấy đã giúp nhà thơ say mê hoạt động cách mạng với những thiết tha cao đẹp công hiến đời mình góp phần giải phóng đất nước, giải phóng những kiếp lầm than trong xã hội tăm tối dưới bóng thù xâm lược.

Trần Mai Lan

Giảng viên tiếng anh

BẠN MUỐN TẠO HỘI THI TRÊN MYALOHA

Bạn đang đọc nội dung bài viết Phân Tích Bài Thơ Tỏ Lòng (Thuật Hoài) trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!