Đề Xuất 3/2023 # Nông Nghiệp Việt Nam: Những Vấn Đề Tồn Tại # Top 11 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Nông Nghiệp Việt Nam: Những Vấn Đề Tồn Tại # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Nông Nghiệp Việt Nam: Những Vấn Đề Tồn Tại mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Quản lý khoa học

- Trần Đức Viên

Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, chúng ta phải thừa nhận là, nền nông nghiệp nước ta về cơ bản vẫn là nền sản xuất thô về sản phẩm, thấp về đẳng cấp, tiêu tốn nhiều nguồn lực, ứng dụng KH&CN và cơ giới hóa trong nông nghiệp còn khiêm tốn, sức cạnh tranh với khu vực và thế giới chưa cao; thậm chí, ở một số lĩnh vực còn đi sau thế giới khá xa. Các nguyên nhân của tình trạng này là do sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất lao động thấp mà giá thành nông sản lại cao, thiếu tính liên kết trong nội bộ ngành nông nghiệp và giữa ngành nông nghiệp với các ngành kinh tế khác như công nghiệp và dịch vụ (như công nghiệp hỗ trợ ngành nông nghiệp chẳng hạn), tạo ra quá nhiều tầng nấc trung gian trong chuỗi giá trị; một nghiên cứu cho thấy, trong khi các quốc gia khác chỉ có chừng 2-4 tác nhân trung gian thì ở Việt Nam con số này là 5-7.

Người Việt coi trọng nghề nông, minh triết của người Việt coi nông nghiệp là gốc của mọi thứ trong xã hội, ‘canh nông vi bản’. Ngày nay nông nghiệp không chỉ giúp ổn định cuộc sống cho phần lớn dân cư nông thôn (‘yên dân’), mà còn là nền tảng cho phát triển kinh tế-xã hội và ổn định chính trị, tạo tiền đề để hiện thực hóa khát vọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước từ một quốc gia có nền nông nghiệp còn chưa phát triển. Trong năm 2020, tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 khiến nhiều ngành công nghiệp, dịch vụ bị đình đốn thì sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vẫn phát triển, vẫn đảm bảo ổn định an ninh lương thực trong nước và duy trì xuất khẩu nông sản. Những kết quả này rất quan trọng, xét trong bối cảnh khu vực nông thôn chiếm tới 63% dân cư, 66% số hộ, 68% người làm việc; nông nghiệp chiếm tỷ trọng 13.96% trong GDP (Tổng cục thống kê, 2019). Tuy nhiên, ngành nông nghiệp vẫn tồn tại những thách thức và điểm yếu nghiêm trọng cần sớm khắc phục và giải quyết.

Những thách thức từ bên ngoài

Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào điều kiện khí hậu cho nên thách thức trực tiếp và lâu dài đến sản xuất nông nghiệp là tác động của biến đổi khí hậu – Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu. Nếu mực nước biển dâng cao thêm 1m mà Việt Nam không có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu, thì khoảng 40% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích Đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng ven biển sẽ bị ngập. Lũ lụt sẽ khiến gần 50% diện tích đất nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long bị ngập lụt không còn khả năng canh tác (Phạm Tất Thắng, 2017). Mặt khác, biến động thời tiết ngày càng cực đoan, bất thường, khó kiểm soát; các nhà khoa học cũng dự báo các tỉnh Tây Nguyên và miền Trung sẽ bị hạn nhiều hơn; số đợt không khí lạnh, rét đậm, rét hại sẽ xuất hiện nhiều hơn ở các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ, bão lũ sẽ gây ảnh hưởng ngày thêm nặng nề trên qui mô cả nước.

Diện tích bình quân đất nông nghiệp/người của Việt Nam tiếp tục giảm và ở mức thấp của thế giới.

Nền nhiệt của Việt Nam đã tăng lên đáng kể; nguồn nước chịu ảnh hưởng do thay đổi lượng mưa; mực nước biển dâng dẫn đến thu hẹp diện tích sản xuất, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016); xói lở và xâm nhập mặn diễn ra ngày càng phức tạp và có chiều hướng gia tăng (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Những ảnh hưởng trên khiến cho việc phát triển nông nghiệp gặp bất lợi lớn, do đó cần có các chính sách phù hợp để thúc đẩy phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, thích ứng với biến đổi khí hậu.  Căng thẳng thương mại Mỹ – Trung từ năm 2018 và các biến động địa-chính trị khác, đã tạo ra áp lực đối với các tập đoàn đa quốc gia trong việc điều chỉnh chuỗi cung ứng. Đại dịch toàn cầu Covid-19 đã cho thấy những rủi ro của việc các nước phụ thuộc vào một nguồn cung, và các chuỗi cung ứng được tổ chức quá dàn trải, làm cho chuỗi cung ứng toàn cầu dễ bị đứt gãy, tổn thương.  Với các ngành kinh tế dựa vào tài nguyên như nông nghiệp thì ‘thượng nguồn’ của chuỗi cung ứng chính là các tài nguyên đầu vào như nước và đất đai. Biến đổi khí hậu đã tạo ra thách thức vô cùng to lớn đối với việc sử dụng tài nguyên nước và tài nguyên đất. Nhưng sự thiếu phối hợp, thiếu thiện chí giữa các quốc gia trong cùng một lưu vực cũng tạo ra những căng thẳng ngày càng tăng về tài nguyên nước. Đồng bằng sông Cửu Long là một ví dụ cho thấy tác hại nghiêm trọng của biến đổi khí hậu và các thách thức chính trị quốc tế đến an ninh chuỗi cung ứng trong ngành nông nghiệp. Quá trình toàn cầu hóa, đa phương hóa mạnh mẽ cũng là một thách thức lớn (song cũng đồng thời là cơ hội, nếu biết cách biến ‘nguy’ thành ‘cơ’) khi gắn với chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân túy, với các hàng rào phi thuế quan, các biện pháp phòng vệ tinh vi, làm xu hướng tài chính quốc tế thay đổi kèm theo với các xung đột thương mại, bất ổn chính trị, cùng với dịch bệnh, khiến xu hướng thương mại nông sản quốc tế, tiêu chuẩn thị trường luôn thay đổi; đồng thời, các yêu cầu mới về môi trường và lao động luôn xuất hiện. Tất cả những điều đó tất yếu dẫn đến cạnh tranh thị trường ngày càng trở nên gay gắt hơn.

Nền nông nghiệp quảng canh rủi ro và thiếu hiệu quả 

Sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp thời gian qua có đóng góp của nhiều ‘điểm sáng’ về thâm canh, ứng dụng công nghệ cao chủ yếu mang tính quảng canh, dựa trên thâm dụng tài nguyên thiên nhiên, thâm dụng lao động, lấy sản lượng, năng suất là chính, chưa quan tâm đúng mức đến chất lượng, hiệu quả kinh tế, giá trị gia tăng của nông sản hàng hóa, và bảo vệ môi trường, dù thời kỳ ‘đói khát’ đã qua từ lâu. Hơn nữa, nông nghiệp lại chưa gắn với công nghiệp thành một hệ thống để bổ sung, tương trợ cùng nhau phát triển. Số lượng các doanh nghiệp lớn đóng vai trò dẫn dắt trong quá trình hội nhập cho ngành còn ít. Vì vậy, nền nông nghiệp vẫn chưa khắc phục được những yếu kém nội tại, kinh tế nông thôn đang phát triển không đồng đều, thiếu ổn định, mà thực tế ‘được mùa mất giá’, ‘giải cứu nông sản’ hết cây này sang con khác, hết năm này qua năm khác là thí dụ điển hình, là minh chứng của một nền sản xuất chưa bền vững, rủi ro cao, giá cả của đầu ra nông sản bấp bênh, sự thua thiệt thường rơi vào người sản xuất và các doanh nghiệp nhỏ. Hầu hết các loại giống cây trồng từ lúa, hoa màu, rau quả đến các giống vật nuôi cao sản, máy móc, thiết bị, phần lớn vật tư nông nghiệp… đều là ‘hàng ngoại nhập’. Ví dụ, hơn 90% số máy kéo bốn bánh và máy công tác kèm theo, máy gặt đập liên hợp, phải nhập khẩu. Năm trong số sáu đại gia lớn nhất thế giới về giống cây trồng đã có mặt tại Việt Nam, từ Syngenta của Thụy Sĩ đến Bayer của Đức, Dupont và Monsanto của Mỹ…  trong khi sự hỗ trợ của nhà nước với các công ty nội địa còn chưa đủ mạnh nên thị trường giống cây trồng và giống vật nuôi đứng trước nguy cơ nằm dưới sự thống lĩnh và lũng đoạn của các tên tuổi nước ngoài. Giống trong nước, dù tốt nhưng thiếu trợ giá, ko có chính sách giúp nông dân mua nợ (mua trước, trả sau), chế độ thưởng cho các tư thương bán giống chưa đủ mạnh… nên dần lép vế. Dưới tác động của các hiệp định thương mại tự do (FTAs) với những cam kết mở cửa thị trường sâu rộng, hàng rào thuế quan được gỡ bỏ, nếu chúng ta không kịp có các chính sách hỗ trợ để phát triển công tác giống trong nước thì sẽ buộc phải dọn đường cho nông sản, thực phẩm, giống cây giống con, v.v… từ nước ngoài tràn vào.  Khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp kém do chủng loại sản phẩm chưa đa dạng, chất lượng thấp, kích cỡ không đồng đều, thiếu nhãn mác để nhận diện, chưa có truy xuất nguồn gốc, chưa có thương hiệu trên thị trường. Đa phần sản phẩm nông sản của Việt Nam xuất khẩu ở dạng thô, chưa qua chế biến, chiếm trên 80% kim ngạch xuất khẩu (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Theo Tổng cục hải quan (2020), thị trường xuất khẩu lệ thuộc phần lớn vào Trung Quốc (trên 60% sản lượng rau quả, trên 60% cao su) nhưng chủ yếu qua đường tiểu ngạch nên giá trị thấp. Điểm qua các chỉ số (1) Xếp hạng toàn cầu về khối lượng, (2) Xếp hạng toàn cầu về giá trị, (3) Xếp hạng toàn cầu về giá bán (USD/tấn) của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực, ta thấy tăng trưởng nông sản xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dựa trên cạnh tranh về giá (giá rẻ), phân khúc chất lượng thấp, không nhãn mác, chưa dựa vào lợi thế cạnh tranh về chất lượng.

Nông sản

hàng hóa

Xếp hạng toàn cầu

về khối lượng

Xếp hạng toàn cầu

về giá trị

Xếp hạng toàn cầu

về giá bán ($/tấn)

1. Hạt điều

1

1

6

2. Sắn lát khô

2

2

6

3. Tiêu đen

1

1

8

4. Cà phê nhân

2

2

10

5. Gạo

3

4

10

6.Cao su

4

4

10

7. Chè

5

7

10

Nguồn: Khôi & Thắng, 2019 Quy mô manh mún và năng suất lao động thấp

Năng suất lao động của nông dân Việt Nam đang thuộc nhóm thấp nhất châu Á. Dù trong những năm qua, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của Việt Nam có tốc độ tăng năng suất lao động (NSLĐ) bình quân cao, với 5,2%/năm giai đoạn 2011-2018, cao hơn tốc độ tăng bình quân của khu vực công nghiệp và xây dựng (3%/năm) và khu vực dịch vụ (3,1%/năm), tuy nhiên khu vực này vẫn có mức NSLĐ thấp nhất trong các khu vực kinh tế, đến năm 2018 theo giá hiện hành đạt 39,8 triệu VND/lao động, chỉ bằng 38,9% NSLĐ của toàn nền kinh tế, bằng 30,4% NSLĐ của khu vực công nghiệp và xây dựng, bằng 33,7% khu vực dịch vụ. Trong các nước ASEAN, NSLĐ khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của Malaysia cao gấp 11,9 lần; Indonesia cao gấp 2,4 lần; Thái Lan cao gấp 2,1 lần và Philippine cao gấp 1,8 lần mức NSLĐ của Việt Nam (Tùng Đinh, 2020). Nguyên nhân chủ yếu khiến năng suất lao động của ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn còn thuộc nhóm thấp nhất châu Á là do quy mô sản xuất nhỏ, manh mún, trình độ chuyên môn và tính chuyên nghiệp của nông dân thấp, thể trạng người nông dân còn thấp và yếu, lao động trực tiếp trên đồng ruộng chủ yếu là người có tuổi và trẻ nhỏ.   Sản xuất qui mô nhỏ thể hiện qua diện tích canh tác bình quân dao động từ 0,2 đến 2 ha/hộ và chỉ đạt 0,34 ha/lao động. Kết quả khảo sát về qui mô sử dụng đất của nông hộ qua thời gian 10 năm, 2006-2016, cho thấy quy mô đất nhỏ, thay đổi ít, số hộ không trực tiếp sử dụng đất tăng từ 18,23% lên 21,38%, số hộ sử dụng từ 0,2 đến dưới 0,5 ha giảm từ 32,29% xuống còn 27,11%, số hộ có qui mô diện tích đất nông nghiệp dưới 0,2 ha chỉ tăng từ 21,17% lên  22,49%, số hộ có qui mô đất nông nghiệp từ 0,5 đến dưới 1 ha tăng chỉ từ 16,44% lên 16,75%; chỉ có khoảng 5% hộ nông dân có qui mô ruộng đất trên 3 ha, v.v… (Khôi & Thắng, 2019).  Diện tích bình quân đất nông nghiệp/người của Việt Nam tiếp tục giảm và ở mức thấp của thế giới, năm 2016 vẫn còn hơn 50% hộ có diện tích nhỏ hơn 0.5ha; điều đó đã và đang tác động trực tiếp đến những hạn chế trong việc ứng dụng KH&CN vào sản xuất, khai thác lợi thế theo quy mô, cũng như việc triển khai ứng dụng các mô hình nông nghiệp tiên tiến (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng việc diện tích canh tác nhỏ lẻ khiến cho tăng trưởng trong khu vực nông nghiệp bị hạn chế (Ayerst et al., 2020; Le, 2020).   Do sinh kế truyền thống của nông dân dựa vào sản xuất nông nghiệp, nghĩa là dựa vào đất, nên nhiều nông dân có tâm lý giữ đất phòng thân, khiến quá trình tích tụ và tập trung đất nông nghiệp khó khăn và chậm chạp. Giao dịch đất đai thấp (<5% số hộ), thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp chưa phát triển, thủ tục chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp còn nhiêu khê. Do đó, thu hồi đất vẫn là hình thức diễn ra khá phổ biến khi Nhà nước cần tích tụ hay tập trung đất đai. Trong khi đó, diện tích đất nông nghiệp thu hồi để phát triển các khu công nghiệp có tỷ lệ được lấp đầy không cao, như với Hà Nội con số này chỉ là 44,7%, Đà Nẵng 49,6%, TP. HCM 56,4%; trong khi con số này của các thanh phố khác trên thế giới như Manila, Thượng Hải, Bắc Kinh, Los Angeles lần lượt là 90,2, 89,8, 99,0 và 97,6%.

Biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng rất lớn tới ngành nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: Người dân cắt lúa non về cho bò ăn. Trong đợt hạn mặn khốc liệt năm 2020, 5 tỉnh ĐBSCL đã phải ban bố tình trạng khẩn cấp về hạn hán và xâm mặn. Nguồn ảnh: Vietnamnet.  Mô hình sản xuất nông hộ chậm đổi mới

Hình thức tổ chức sản xuất chính trong nông nghiệp ở Việt Nam là nông hộ, chiếm 90% tổng diện tích sản xuất nông nghiệp (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Trong những năm qua, kinh tế hộ gia đình đã phát huy hiệu quả, nhưng cũng đã tới ngưỡng kịch trần của xu hướng phát triển theo chiều rộng. Các nông hộ chưa chú trọng đầu tư nâng cao giá trị, tìm kiếm thị trường, chỉ sản xuất cái gì mình có mà không theo tín hiệu của thị trường. Rõ ràng là, kinh tế hộ vẫn và sẽ mãi là hạt nhân của kinh tế nông thôn, nhưng rất cần nâng lên một tầm cao mới, một vị thế mới. Tiếc là, kinh tế hộ gia đình hiện nay, về cơ bản, vẫn là những gì hộ nông dân đã có từ thời sau đổi mới, sau Khoán 10; chưa có một nghiên cứu nào định hình được chân dung kinh tế hộ gia đình trong thời đại công nghiệp 4.0. Liên kết ngang trong sản xuất kinh doanh giữa nông dân với nông dân (dưới dạng tổ nhóm sản xuất, hợp tác xã) để nâng cao lợi thế chưa được phát huy do chưa thể hiện được tính thiết thực với nông dân, đặc biệt là hợp tác xã, dù mô hình này đã rất thành công ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là ở các quốc gia được coi là ‘cường quốc’ về nông nghiệp. Các hợp tác xã, đa phần là hợp tác xã kiểu cũ, được khoác cái áo ‘kiểu mới’, được đánh giá là kém hiệu quả trong việc cung cấp đầu vào và lo đầu ra nên trên thực tế không mấy hấp dẫn các hộ nông dân và đóng góp vào phát triển kinh tế nông thôn còn rất hạn chế (Cox&Le, 2014). Các mô hình kinh tế hợp tác còn thiếu đồng bộ trong triển khai luật, chính sách, thiếu vốn và trang thiết bị. Các mô hình liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân gặp khó khăn trong đàm phán và ký kết hợp đồng với nhiều hộ, rủi ro đòi lại đất trước hạn, ‘bẻ kèo’ hợp đồng, chi phí đầu tư lớn (Thúy An, 2017). Vì vậy, một trong những vấn đề cấp bách là sửa chữa, bổ sung Luật Hợp tác xã 2012, sao cho nông dân thấy hợp tác xã thực sự là của họ, chứ không phải là một tổ chức của nhà nước, ‘của cán bộ’ nhằm quản lý họ, qua đó thổi một luồng sinh khí mới vào sản xuất nông nghiệp.

Một trong những vấn đề cấp bách là sửa chữa, bổ sung Luật Hợp tác xã 2012, sao cho nông dân thấy hợp tác xã thực sự là của họ, chứ không phải là một tổ chức của Nhà nước, ‘của cán bộ’ nhằm quản lý họ, qua đó thổi một luồng sinh khí mới vào sản xuất nông nghiệp.

Đầu tư vào nông nghiệp hạn chế

Mức đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế và dàn trải, chưa tương xứng với tiềm năng và đóng góp của ngành đối với nền kinh tế quốc dân, nên cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, nhất là cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Ví dụ như hệ thống thủy lợi của Việt Nam bị đánh giá là kém hiệu quả, không có hệ thống đo lường chất lượng nước, không có hệ thống điều khiển dòng chảy. Từ đó, năng suất nước thấp (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp cũng chưa phát triển, đặc biệt là khâu bảo quản sau thu hoạch và logistics. Các ngành công nghiệp chế biến và chế biến sâu nông sản chưa phát triển, đa phần là quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu (Quyền Đình Hà, 2017). Điều đó dẫn tới chất lượng nông sản khi xuất khẩu thấp, giá trị gia tăng nhỏ. Việc hỗ trợ kết nối hình thành chuỗi liên kết sản xuất – phân phối các sản phẩm nông nghiệp chủ lực vẫn còn gặp nhiều khó khăn (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Hệ thống kinh doanh nông sản chỉ tập trung vào một số ngành truyền thống hoặc có lợi nhuận cao như lúa gạo, cao su, cà phê, hồ tiêu, điều. Dù đã thành lập các “sàn giao dịch nông sản” nhưng hoạt động của các sàn này còn rất hạn chế, chưa thực chất (Nguyễn Thị Minh Hiền, 2016).  Có quá nhiều chính sách để thu hút nguồn lực vào nông nghiệp nhưng lại không phát huy được hiệu quả. Tác động tích cực của nhiều chính sách “cởi trói” trong nông nghiệp và nông thôn dường như đã tới hạn, thậm chí, một số chính sách lại cản trở sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Tín dụng cho phát triển nông nghiệp chưa thực sự đổi mới và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các hợp tác xã và hộ nông dân tiếp cận vốn; tình trạng tín dụng đen vẫn tồn tại, làm suy kiệt sức sản xuất và bần cùng hóa không ít hộ nông dân.  Do cơ chế chính sách thu hút đầu tư vào nông nghiệp chưa hiệu quả cùng với tình trạng đất đai manh mún nên vẫn chưa nhiều doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Số doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp hiện chỉ chiếm 8% tổng số doanh nghiệp trên cả nước, trong đó số doanh nghiệp đầu tư trực tiếp cho sản xuất nông lâm, thủy sản mới chiếm khoảng 1%. Trong đó, có không ít là các doanh nghiệp nhà nước do được ưu tiên tiếp cận vốn, số doanh nghiệp tư nhân chưa nhiều, chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực có tiềm năng lợi nhuận cao, dễ sinh lời từ đất đai, từ địa tô và các ‘lợi lộc’ khác. 

Đời sống kinh tế người nông dân bấp bênh

Các số liệu điều tra gần đây cho thấy, dù bộ mặt nông thôn đã thay đổi nhiều, thu nhập và đời sống của phần lớn nông dân dù đã cải thiện nhưng vẫn còn thấp, tăng thu nhập giai đoạn 2002-2016 của hộ nông dân đạt 5.75%/năm, nghĩa là thu nhập của nông thôn tăng theo thời gian nhưng với tốc độ chậm, trong khi chi tiêu cũng tăng, nên khả năng tích lũy thực tế của hộ nông thôn rất thấp, năm cao nhất chỉ đạt trên 22 triệu đồng, chưa bằng 50% hộ thành thị. Tỷ lệ đói nghèo ở nông thôn cao gấp 3,7 lần thanh thị, 40% hộ nông thôn không có tích lũy, 84% lao động nông nghiệp không có tiền để dành (Khôi & Thắng, 2019); trong đó, hộ thuần nông cho thu nhập thấp nhất, những hộ thuần làm nông lâm thủy sản có thu nhập/tháng/người bằng 29% thu nhập/tháng/người nông thôn, chỉ nhỉnh hơn nhóm người không làm việc gì! Tỷ lệ hộ nghèo tuy giảm nhanh, nhưng thiếu bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao. Tiềm lực tài chính như vậy, nên người nông dân rất khó tự đầu tư mở rộng sản xuất, tự nâng cao trình độ, hay tự ứng phó với những cú sốc về giá hay tai biến về thời tiết, dịch bệnh.  Chuyển dịch cơ cấu lao động vẫn chậm, không hoàn thành mục tiêu của Đại hội Đảng XI là giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp xuống 40-41% vào năm 2015. Tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn thấp, chỉ ở mức 2-3% nhưng thời gian lao động thực tế không cao, tình trạng này gần giống như lãn công trong các ngành công nghiệp, dịch vụ, dù về bản chất thì hoàn toàn không phải như vậy. Việt Nam đang ở trong thời kỳ dân số vàng, nhưng thời kỳ này đang qua đi nhanh, chúng ta hầu như chưa chuẩn bị gì để sẵn sàng đón nhận thời kỳ ‘vàng’ quý giá này cho nông nghiệp, nên lao động nông nghiệp Việt Nam đa số vẫn còn ở trình độ thấp, thể hiện qua con số: có khoảng 70% số lao động chưa qua bất kỳ một khóa đào tạo chuyên môn nào; mới có 4% lao động qua đã qua đào tạo (Tổng cục thống kê, 2019), lao động có trình độ đại học chỉ chiếm khoảng 9%. Do ít được đào tạo, nên lao động nông nghiệp thiếu kiến thức khoa học, thiếu kiến thức quản trị đồng ruộng, quản trị trang trại; lại thêm hệ thống thông tin thị trường chưa phát triển nên chưa giúp doanh nghiệp và nông dân có quyết định đúng để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và nâng cao thu nhập cho người nông dân, nên phần lớn nông dân nước ta sản xuất ra sản phẩm hôm nay không biết ngày mai bán cho ai, ở đâu, giá cả thế nào, bao gói ra sao, thấy hàng xóm trồng thì trồng, thấy hàng xóm nuôi thì nuôi, ‘muôn sự tại trời’. Ngoài ra, lao động nông nghiệp vẫn còn dư thừa tương đối ở các vùng sâu vùng xa. Trong khi đó, ở các vùng ven đô, xu hướng đô thị hóa khiến một bộ phận nông dân mất cơ hội sản xuất nông nghiệp trong khi chưa chuẩn bị đầy đủ cho việc chuyển đổi ngành nghề, tạo sinh kế mới phi nông nghiệp.   Điều đáng lưu ý là, xu hướng di cư ra khỏi khu vực nông thôn đang diễn ra mạnh nhưng số lượng tuyệt đối các hộ sống ở nông thôn vẫn tiếp tục tăng. Nông dân chuyển đổi sinh kế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, nhưng tỷ lệ lao động làm việc phi chính thức rất cao, khoảng 55% vào năm 2016. Tỷ lệ người già phụ thuộc (từ 65 tuổi trở lên) chiếm hơn 10% tổng dân số nông thôn và sẽ tiếp tục tăng cùng với việc hàng triệu lao động từ các khu công nghiệp sẽ quay về nông thôn do tác động của cuộc cách mạnh công nghiệp lần thứ tư, nhiều khả năng cũng là một gánh nặng không nhỏ cho phát triển nông thôn. □

(Còn tiếp)

Nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn phục vụ nông nghiệp như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến và chế biến sâu, và các lĩnh vực khoa học của kỷ nguyên số như IoT, Bigdata, AI, Blockchain, Robotics và gần đây là Tính toán lượng tử… ứng dụng vào nông nghiệp còn thiếu nhân lực trình độ cao nên chậm được triển khai; điều kiện vật chất kỹ thuật của các cơ sở nghiên cứu, đào tạo còn bị tụt hậu, không đồng bộ so với nhu cầu, nhiệm vụ và so với mặt bằng chung của các cơ sở nghiên cứu và đào tạo về nông nghiệp của các nước có nền nông nghiệp tiên tiến trên thế giới mà chúng ta đang hướng tới, dẫn đến tình trạng đào tạo nhân lực cho khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn chưa gắn lý thuyết với thực hành, thiếu các nghiên cứu chuyên sâu nâng cao giá trị gia tăng trên một đơn vị sản phẩm. ———————– Dù phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp hữu cơ thì cũng phải tính đến hiệu quả, tính bền vững và sự phù hợp; tuyệt đối không nên phát triển các phương thức sản xuất nông nghiệp mới nào theo phong trào, ồ ạt, lấy thành tích và để khoe khoang là chính.

Tài liệu tham khảo  Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016). Kịch bản biến đổi khí hâu và nước biển dâng tại Việt Nam. Đặng Kim Khôi & Trần Công Thắng (2019). Bức tranh sinh kế người nông dân Việt Nam trong thời kỳ hội nhập (1990-2018). NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Nguyễn Thị Minh Hiền. (2016). Báo cáo tóm tắt đề tài cấp Bộ: Nghiên cứu giải pháp phát triển sở giao dịch hàng hóa nông sản ở Việt Nam. Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Giáo dục và Đào tạo.  Perkin, D. H., Radelet, S., Lindauer, D. L.,  Block, S. A. (2013). Economic of Development (7th edition). W. W. Norton &Company, New York. Quyền Đình Hà (2017). Báo cáo tóm tắt đề tài cấp Bộ: Nghiên cứu đề xuất chính sách và giải pháp khuyến khích chế biến sâu một số nông sản chủ lực của Việt Nam (lúa gạo, cao su, cá tra). Đề tài Nghiên cứu Khoa học công nghệ cấp Bộ, Bộ Nông nghiệp và PTNT. Tổng cục thống kê (2019). Niên giám thống kê 2019. Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. Tổng cục thống kê (2020). Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2020.  Tùng Đinh (2020). Ngành nông nghiệp chắc chắn xuất khẩu đạt trên 40 tỷ USD Báo Nông nghiệp Việt Nam (Báo Nông nghiệp Việt Nam, ngày 06/10/2020). World Bank (2010). Vietnam – Economics of adaptation to climate change. Washington, DC: World Bank. Retieved September 23, 2020 from http://documents.worldbank.org/curated/en/2010/01/16441103/vietnam-economics-adaptation-climatechange

Vấn Đề Phát Triển Công Nghiệp Văn Hóa Ở Việt Nam

Đổi mới thể chế văn hóa gắn liền với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã mở ra một thời kỳ mới đối với sự phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam. Hiện nay, phát triển công nghiệp văn hóa được xác định là một trong những nhiệm vụ cơ bản của xây dựng văn hóa để đạt mục tiêu văn hóa là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh bảo đảm cho sự phát triển bền vững đất nước.

Đặc điểm cơ bản của công nghiệp văn hóa ở nước ta: Nhìn từ thực tiễn

Công nghiệp văn hóa Việt Nam có đặc điểm cơ bản là tính chuyển loại hình, tính phức tạp và tính tăng trưởng. Tính chuyển đổi loại hình gắn liền với quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Tính phức tạp của nó gắn liền với sự xuất hiện của nhiều chủ thể sản xuất và tiêu dùng, cũ mới đan xen, hợp pháp và bất hợp pháp cùng tồn tại. Tính tăng trưởng tuy đã có nhưng còn nhiều hạn chế. Những biểu hiện ấy có thể nhìn thấy rõ trong thực tiễn công nghiệp văn hóa còn hết sức khiêm tốn ở nước ta. 

Chẳng hạn, trong lĩnh vực điện ảnh, công nghiệp văn hóa chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn, như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh trên cả hai lĩnh vực sản xuất và phát hành phim. Sự hình thành các cơ sở ngoài công lập trong lĩnh vực này ngày càng nhiều và hiệu quả về kinh tế, xã hội tương đối nổi bật. Năm 2007, Hãng phim Phước Sang tham gia sản xuất phim Áo lụa Hà Đông đạt giải thưởng “Cánh Diều Vàng” tại Liên hoan phim toàn quốc do Hội Điện ảnh tổ chức đã phản ánh dấu hiệu mới và bước tiến mới của điện ảnh tư nhân nước ta.

Hệ thống rạp chiếu phim chất lượng cao Magastar do hãng phim Thiên Ngân liên kết với nước ngoài triển khai tại một số thành phố lớn đã tạo ra cách nhìn mới trong thị trường phát hành phim. Ngoài các hãng phim nhà nước, các hãng phim tư nhân cũng bắt đầu tham gia sản xuất phim truyện nhựa. Điều đó đã tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh và góp phần nâng cao chất lượng phim, làm phong phú đề tài cũng như cách thể hiện đối với tác phẩm điện ảnh. Các bộ phim do các hãng phim tư nhân sản xuất đã thu hút khán giả như, Những cô gái chân dài, Áo lụa Hà Đông, Trai nhảy, Nụ hôn thần chết, Dòng máu anh hùng… Việc hợp tác liên doanh với nước ngoài cũng được mở rộng, tạo ra những phim có chất lượng cao, như các phim Thời xa vắng, Mùa len trâu, Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông, Hà Nội – Hà Nội,… Các nghệ sĩ là người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia làm phim ngày càng nhiều. Đây là những tín hiệu rất đáng mừng. Theo thống kê năm 2015, có 8 phim truyện nhựa chiếu rạp, 36 phim tài liệu, 10 phim hoạt hình do Nhà nước đặt hàng, còn số lượng phim do tư nhân sản xuất là 32 phim.

Năm 2015 doanh thu phim chiếu rạp đạt khoảng 102 triệu USD, trong đó doanh thu chiếu phim Việt Nam chiếm 30%. “Cơn sốt” phim Việt trong những tháng cuối năm 2015, đầu năm 2016 và thời gian gần đây với sự xuất hiện của các phim, như Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (2015), Em là bà nội của anh (2016), Tháng năm rực rỡ(2018)… đã cho thấy sự phát triển của thị trường điện ảnh Việt Nam trong những năm qua.

Về lĩnh vực phát hành phim, ngoài Công ty Xuất nhập khẩu và phát hành phim Trung ương (FAFILM Việt Nam) còn có các cơ sở tư nhân tham gia nhập khẩu phim và hệ thống phát hành phim ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước với những tên gọi rất khác nhau. Khu vực sản xuất phim cũng chính là khu vực sản xuất, kinh doanh. Các cụm rạp phim tư nhân ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và một số địa phương khác đã xuất hiện đáp ứng nhu cầu của người xem, thu hút khán giả đến rạp, cung cấp cho khán giả những tác phẩm điện ảnh mới nhất của thế giới. Một số kênh truyền hình lớn của nước ngoài cũng tham gia vào các rạp chiếu kỹ thuật cao ở các đô thị lớn như HBO, Star Movies, Star World, Cinemax, Hallmark. Đến cuối năm 2015, số lượng rạp chiếu phim ở nước ta là 156 rạp và 561 phòng chiếu (số liệu của Công ty Thiên Ngân Galaxy). Câu lạc bộ sân khấu thử nghiệm Võ Văn Tần 5B, Công ty Trách nhiệm hữu hạn sân khấu nghệ thuật Thái Dương, Công ty Cổ phần Phước Long cũng tham gia vào các loại nghệ thuật biểu diễn.

Nghệ thuật biểu diễn có vở xiếc Làng tôi, À Ố Show, chương trình múa rối Nhịp điệu quê hương, vở kịch múa đương đại Mùa hạn hán và cơn mưa, dàn dựng Ionah Show là một chương trình nghệ thuật giải trí gây ấn tượng và thu hút người xem. Theo thống kê của Cục Nghệ thuật biểu diễn, doanh thu trong năm 2015 của ngành đạt khoảng 5,2 triệu USD, tăng trưởng doanh thu ước đạt 5% mỗi năm(1). 

Việt Nam hiện nay có 149 bảo tàng, 300 cửa hàng mua bán tranh tượng, 63 nhà xuất bản thuộc sở hữu nhà nước hoạt động với nhiều loại hình khác nhau được xem là những cấu phần quan trọng của công nghiệp văn hóa.

Hằng năm, kinh phí của Việt Nam chi cho hoạt động văn hóa chiếm 1,8% tổng chi ngân sách nhà nước. Năm 2015, vốn đầu tư phát triển cho lĩnh vực văn hóa đạt 26,7 triệu USD và cho chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa đạt 12,7 triệu USD. Về cơ bản, ở Việt Nam đã bước đầu hình thành thị trường văn hóa và các kết cấu hạ tầng có khả năng thúc đẩy 12 ngành công nghiệp văn hóa phát triển, hình thành các ngành, nghề công nghiệp văn hóa mới, mở rộng thị trường và tăng cường khả năng hội nhập quốc tế của các ngành công nghiệp văn hóa. Nhưng nhìn chung công nghiệp văn hóa Việt Nam còn yếu, hiệu quả kinh tế của nó chiếm tỷ trọng thấp trong kinh tế quốc dân, vị trí trụ cột của nó chưa được xác lập, khu vực tư nhân chưa mạnh.

Những hạn chế chủ yếu của công nghiệp văn hóa ở Việt Nam 

Theo thống kê chưa đầy đủ, năm 2015 các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đã đóng góp khoảng 8,039 tỷ USD, chiếm gần 2,68% GDP cả nước.

Theo quan sát và phân tích của chúng tôi, hạn chế của công nghiệp văn hóa ở nước ta có thể quy về mấy phương diện như sau:

– Công nghiệp văn hóa chiếm tỷ trọng thấp, hiệu quả kinh tế không cao.

Cho đến nay, tỷ trọng công nghiệp văn hóa nước ta trong nền kinh tế quốc dân là hết sức nhỏ bé. Điều đó càng rõ nếu so sánh với các quốc gia phát triển trên thế giới. Mức xuất khẩu công nghiệp bản quyền của điện ảnh, máy tính, phương tiện truyền thông của Mỹ đứng đầu mọi ngành, nghề, giá trị sản xuất trong năm 1996 lên tới 425 tỷ USD, chiếm 6,7% GDP của Mỹ. Quy mô và doanh lợi của Disney đã lọt vào 10 doanh nghiệp hàng đầu. Chỉ riêng thu hồi bán vé bộ phim Titanic đã tới hơn trăm triệu USD. Từ vị trí thứ 11 trong nền kinh tế quốc dân năm 1985, công nghiệp văn hóa đã tiến lên vị trí thứ 6 năm 1994 và trở thành ngành xuất khẩu thứ 2, chỉ sau công nghiệp sản xuất máy bay (chiếm 40% thị trường quốc tế). Tờ Thời báo toàn cầu ngày 18-6-1999 cho biết, hiện nay số lượng báo chí trên thế giới do Mỹ và quốc gia phương Tây chiếm tới hơn 90%, trong đó Mỹ khống chế 75% sản xuất và chế tác các tiết mục toàn cầu. Sản lượng phim ảnh Mỹ chiếm 6% – 7% tổng sản lượng phim toàn cầu nhưng lại chiếm hơn 50% tổng số thời gian chiếu. Tập đoàn Metalman của Đức có mức doanh thu 1997 – 1998 là 25.700 triệu mác, trong đó ngành xuất bản sách đạt tới 7,3 tỷ mác. Ngành kinh doanh tác phẩm nghệ thuật ở Anh có quy mô công nghiệp 17 tỷ USD, sánh vai ngang bằng với công nghiệp ô-tô, 27% thu nhập của ngành du lịch đến từ tác phẩm nghệ thuật. Ở Nhật Bản, công nghiệp văn hóa cũng chỉ xếp sau công nghiệp chế tạo ô-tô. Đây là những con số buộc chúng ta phải suy tính khi tư duy về phát triển công nghiệp văn hóa.

– Phát triển manh mún, không cân bằng.

Tình trạng này thể hiện ở chỗ:

Một là, mất cân bằng về khu vực phát triển. Phần lớn năng lực sản xuất và tài nguyên công nghiệp văn hóa nước ta chủ yếu tập trung ở khu vực đô thị còn ở nông thôn, miền núi, hải đảo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa thì công nghiệp văn hóa dường như chưa có gì, thậm chí nhiều người chưa từng biết đến nó. Có những nơi một năm người dân chỉ được xem một bộ phim, có nơi chưa có cả đài phát thanh cho dân. Hệ thống văn hóa công cộng vô cùng yếu kém.

Hai là, mất cân bằng trong phát triển giữa các bộ phận. Đó là sự phát triển chênh lệch giữa các ngành văn hóa truyền thống và các ngành văn hóa hiện đại. Nhiều làng nghề bị quên lãng, nhiều khu di tích văn hóa thiếu sự đầu tư cần thiết, nếu đầu tư thì rất dễ làm biến dạng di sản. Các ngành văn hóa hiện đại nhìn bề ngoài được quan tâm hơn, nhưng thiếu chiều sâu, thiếu sự đồng bộ. 

– Cơ sở công nghiệp văn hóa yếu kém.

Công nghiệp văn hóa nước ta khởi đầu khá muộn và yếu kém, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu. Nền tảng yếu, quy mô nhỏ hẹp, manh mún. Trong khi đó, theo Báo cáo năm 1994 của Bộ Thương mại Mỹ, 420 công ty phát thanh có tài sản trên 10 triệu USD và tổng thu nhập của các công ty này là 152 tỷ 528 triệu USD, đó là chưa nói đến rất nhiều công ty quy mô vừa và nhỏ ở Mỹ. Ở nước ta hiện nay, đại đa số các tập đoàn doanh nghiệp nghệ thuật còn thuộc về đơn vị văn hóa loại hình sự nghiệp. Do thị trường trình diễn không đủ, cơ chế kinh doanh văn hóa không hoàn thiện, trong quá trình chuyển đổi quỹ đạo văn hóa ở nước ta gặp phải rất nhiều khó khăn, như sắp xếp tổ chức, phân công lao động, xây dựng đội ngũ…

– Kết cấu công nghiệp văn hóa không hợp lý, chất lượng vận hành thấp.

Kết cấu nội bộ công nghiệp văn hóa ở nước ta vẫn ở trạng thái phát triển mò mẫm, khiến cho chất lượng vận hành tổng thể của công nghiệp văn hóa không cao, không đủ sức phát triển lâu dài. Việc bố trí hết sức bất cập. Trong khi ở các đô thị lớn có nhiều trung tâm sang trọng để phục vụ các đối tượng có thu nhập cao thì lại thiếu hụt những điểm vui chơi đại chúng cho người có thu nhập thấp. Về phương thức sản xuất kinh doanh, các đơn vị theo mô hình công nghiệp văn hóa truyền thống chiếm đại đa số, trong khi số lượng doanh nghiệp văn hóa dựa vào phương thức sản xuất hiện đại, kỹ thuật cao còn rất ít. Về nội dung kinh doanh, các đơn vị kinh doanh văn hóa bán lẻ chiếm đại đa số, còn số lượng các đơn vị kinh doanh văn hóa tổng hợp và các siêu thị văn hóa thì hết sức khiêm tốn. 

Nguyên nhân yếu kém của phát triển văn hóa và công nghiệp văn hóa thì nhiều, nhưng có thể quy về 5 vấn đề chính: 

Một là, quan niệm, nhận thức về phát triển văn hóa chưa thích ứng với điều kiện mới. Nếu như quá trình chuyển đổi tư duy trong lĩnh vực kinh tế tuy gian nan nhưng tốc độ diễn ra khá nhanh thì chuyển biến trong quan niệm, nhận thức về lĩnh vực văn hóa rất chậm. Sự lạc hậu và chậm chạp của nó biểu hiện trước hết ở chỗ chúng ta không nhận thức được chính xác quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, giữa phát triển văn hóa với tư cách phúc lợi xã hội và với tư cách một nghành kinh tế dịch vụ. Trên thế giới xu hướng thị trường hóa các hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ văn hóa, nhất là dịch vụ văn hóa – giải trí được đặc biệt chú ý, bởi trong kinh tế có văn hóa, trong văn hóa có kinh tế, văn hóa cũng như khoa học kỹ thuật đều là sức sản xuất. Đây là điều mà phải mất thời gian khá lâu chúng ta mới nhận thức được. Mặt khác, quan niệm về công nghiệp văn hóa ở nước ta còn mờ nhạt. Lâu nay, nhiều người chỉ coi văn hóa là một hoạt động sự nghiệp mà không nhận thấy thuộc tính kinh tế của văn hóa, không coi tài nguyên văn hóa là một loại năng lượng tài nguyên tồn tại ở cả dạng vật chất và phi vật chất. Điều đó dẫn tới việc chưa có cái nhìn đúng đắn đối với công nghiệp văn hóa. Hơn nữa quan niệm về thị trường văn hóa không theo kịp thực tiễn. Trong khi nhiều ngành, nghề đều đi vào thị trường thì lĩnh vực văn hóa lại phản ứng rất chậm chạp. Quan niệm về thị trường công nghiệp văn hóa nước ta đã không kịp thời bám sát, không được điều chỉnh có hiệu quả trước yêu cầu của một nền kinh tế thị trường khiến cho sức sống nội tại và sức sáng tạo của công nghiệp văn hóa không được giải phóng và phát triển đầy đủ. Đến thời điểm hiện nay, quan niệm về thị trường dịch vụ sản phẩm văn hóa mới bắt đầu được Đảng và Nhà nước ta nhận thức và đi vào đời sống sản xuất, kinh doanh, phát triển văn hóa.

Hai là, cơ chế vận hành xơ cứng, thể chế quản lý thiếu sức sống. Đã tồn tại quá lâu cách quản lý theo mô hình các đơn vị sự nghiệp công lập mà ở đó Nhà nước đầu tư không hoàn lại, thống nhất bao tiêu sản phẩm, còn xã hội tiêu dùng không phải trả phí. Nhà nước chỉ tính đến đầu tư cho công nghiệp văn hóa mà không tính đến sản xuất và hiệu quả sản xuất, coi trọng hiệu quả xã hội mà xem nhẹ hiệu quả kinh tế, tuy làm nổi bật tính công ích và tính phúc lợi của văn hóa nhưng lại phủ nhận thuộc tính kinh tế của nó. Đây chính là nguyên nhân dẫn tới việc coi nhẹ tính chất công nghiệp của công nghiệp văn hóa, không đưa công nghiệp văn hóa vào trong vận hành chỉnh thể của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, thể chế quản lý chia cắt ngành, nghề theo kiểu bảo hộ địa phương đã làm cho cơ chế vận hành văn hóa trở nên xơ cứng. Ngay cả hiện nay, thể chế quản lý công nghiệp văn hóa ở nước ta về các mặt quản lý vĩ mô, bố trí công nghiệp, tài chính, nhân sự, cơ chế vận hành, đầu tư sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ, mở rộng tái sản xuất còn chênh lệch rất xa so với yêu cầu đẩy mạnh, phát triển công nghiệp văn hóa. 

Bốn là, thiếu nhân tài kinh doanh. Điều quan trọng để phát triển văn hóa là cần phải có những nhân tài tinh thông cả về kinh tế lẫn văn hóa. Rất nhiều đơn vị do thiếu nhân tài kinh doanh, tuy điều kiện kinh doanh tốt nhưng lại làm ăn kém hiệu quả, thậm chí thua lỗ. Do vậy, thiếu nhân tài kinh doanh văn hóa là yếu tố quan trọng hạn chế sự phát triển công nghiệp văn hóa nước ta.

Năm là, chính sách kinh tế văn hóa không đồng bộ, thực thi không đến nơi đến chốn. Chính phủ đã công bố khá nhiều chính sách kinh tế văn hóa nhưng lại thiếu tính đồng bộ, liên tục, có chính sách sai lầm lại không được chỉnh sửa kịp thời, có chính sách cần thiết nhưng lại không được thực thi nhanh chóng. Vì vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là thay đổi nhận thức và quan điểm phát triển công nghiệp văn hóa ở nước ta một cách triệt để. Song song với nó là phải xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa. Chỉ như thế, văn hóa mới thực sự là một động lực cho phát triển kinh tế – xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc cho xã hội.

Phương hướng và giải pháp phát triển 

Để đẩy mạnh sự phát triển công nghiệp văn hóa ở nước ta, cần chú trọng làm tốt những vấn đề sau:

Một là, hoàn chỉnh quy hoạch phát triển công nghiệp văn hóa. Trên cơ sở điều tra nghiên cứu rộng rãi và chính xác thực trạng xây dựng công nghiệp văn hóa hiện nay để xây dựng quy hoạch phát triển công nghiệp văn hóa hợp lý. Những cơ sở sản xuất công nghiệp văn hóa chưa phù hợp thì phải cân đối, điều chỉnh. Phải đặt công nghiệp văn hóa vào trong quy hoạch tổng thể phát triển xã hội và kinh tế quốc dân, định ra chính sách và biện pháp nâng đỡ tương ứng, điều chỉnh hài hòa các ngành chức năng hữu quan để hình thành hợp lực. Nhà nước phải nhanh chóng định hình quy hoạch phát triển công nghiệp văn hóa có ý nghĩa chỉ đạo vĩ mô. Đồng thời, phải chú trọng sự cân đối, xây dựng các trọng điểm, căn cứ vào thực tiễn và thế mạnh của từng địa phương, xác định rõ sự phù hợp giữa công nghiệp văn hóa của địa phương, vùng, miền với quy hoạch chung về phát triển kinh tế – xã hội ở từng địa phương, vùng, miền cụ thể. 

Tối ưu hóa hơn nữa môi trường chính sách bên ngoài của công nghiệp văn hóa, như chính sách về sở hữu, quyền sở hữu sử dụng tài nguyên văn hóa, chính sách tiền tệ, tài chính, thuế, chính sách phân phối bố trí nhân tài, chính sách khuyến khích đầu tư góp vốn, tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển công nghiệp văn hóa liên tục, ổn định.

Định hình và hoàn thiện hệ thống chính sách công nghiệp văn hóa, từng bước hình thành các chính sách chủ đạo bao gồm chính sách cơ cấu công nghiệp, chính sách kỹ thuật công nghiệp, chính sách tổ chức công nghiệp, chính sách thị trường công nghiệp, thông qua tối ưu hóa môi trường chính sách công nghiệp văn hóa để điều chỉnh và thúc đẩy công nghiệp văn hóa phát triển.

Ba là, xây dựng hệ thống thể chế quản lý phát triển công nghiệp văn hóa. Trước đây, quản lý văn hóa ở nước ta chủ yếu dựa vào biện pháp hành chính, coi nhẹ việc xây dựng thể chế pháp luật trong lĩnh vực văn hóa. Điều này càng rõ khi tìm hiểu hệ thống chính sách quản lý công nghiệp văn hóa. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, cách quản lý trước đây rõ ràng không còn phù hợp. Vì vậy, phải đẩy nhanh tiến trình lập pháp văn hóa là việc cấp bách hàng đầu. Một mặt, phải thông qua pháp luật để đặt khuôn khổ thể chế cho hình thành và phát triển thị trường công nghiệp văn hóa, đặc biệt là tạo lập vai trò các chủ thể trên thị trường công nghiệp văn hóa, các luật lệ bảo đảm quyền bình đẳng giữa các chủ thể trong điều kiện hội nhập quốc tế, nhất là tính phù hợp với các cam kết khi gia nhập WTO và các hiệp định tự do thế hệ mới. Mặt khác, thông qua thể chế pháp luật để tăng cường quản lý văn hóa, bảo đảm sự đúng đắn trong phương hướng xây dựng văn hóa, phát triển lành mạnh của công nghiệp văn hóa, giảm thiểu những hành vi đi ngược lại quy luật phát triển văn hóa và quy luật phát triển công nghiệp văn hóa trong điều kiện mới.

Hoàn thiện nhanh chóng thể chế hành chính, và khi đủ điều kiện chín muồi thì luật hóa để tạo hành lang pháp lý ổn định cho phát triển công nghiệp văn hóa. Vận dụng pháp luật để thực hiện có hiệu quả công năng kiểm tra, giám sát, làm cho việc quản lý công nghiệp văn hóa sớm đi vào quỹ đạo phát triển pháp chế hóa, quy phạm hóa.

Phải đẩy nhanh việc cải cách thể chế văn hóa, không ngừng hoàn thiện chức năng quản lý của Nhà nước đối với công nghiệp văn hóa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần hình thành nhiều cục diện, nhiều chủ thể, nhiều phương diện làm văn hóa, trao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập, và đẩy nhanh phát triển các doanh nghiệp văn hóa theo hướng thực sự là chủ thể trong nền kinh tế thị trường với tư cách vừa là người sản xuất, vừa là người quản lý, tự chủ hạch toán kinh doanh. Chú trọng cơ cấu lại các đơn vị sản xuất, cung ứng dịch vụ văn hóa. Phải căn cứ vào yêu cầu của thị trường để bố trí và tổ chức lại theo hướng tối ưu hóa tài nguyên và nhân lực sản xuất của công nghiệp văn hóa, định hình chính xác các khâu sản xuất, lưu thông, tiêu thụ, phân phối, tiêu dùng. Chỉ khi nào chúng ta xây dựng được thể chế và cơ chế văn hóa phù hợp thì lúc đó mới thúc đẩy tốt sự giải phóng sức sản xuất văn hóa.

Bốn là, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật của công nghiệp văn hóa. Trình độ khoa học kỹ thuật của Việt Nam so với các quốc gia phát triển còn có khoảng cách lớn. Điều đó tất sẽ cản trở sự phát triển công nghiệp văn hóa. Vì vậy, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật của công nghiệp văn hóa phải được coi là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Trước hết, việc chú trọng đổi mới khoa học kỹ thuật, tích cực thúc đẩy khoa học kỹ thuật tiến bộ của công nghiệp văn hóa sẽ làm cho trình độ khoa học kỹ thuật của tự thân văn hóa được nâng cao. Thứ hai, việc vận dụng thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại sẽ góp phần mở rộng và nâng cao hàm lượng và sự tinh xảo của các khâu chế tác, đóng gói, truyền bá các sản phẩm văn hóa,… làm cho việc phát triển công nghiệp văn hóa luôn luôn đồng bộ nhịp nhàng với tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải thiện hình ảnh văn hóa nhằm đáp ứng tốt yêu cầu về chất lượng, thẩm mỹ và tính đa dạng của người tiêu dùng văn hóa. Thứ ba, tạo ra sự hòa nhập, đối ứng giữa khoa học kỹ thuật và văn hóa. Ngành văn hóa và ngành khoa học kỹ thuật một khi hòa nhập tốt sẽ hình thành mạng lưới tin tức, quản lý khoa học kỹ thuật hiện đại, tạo ra sự hỗ trợ kỹ thuật kịp thời, hiệu quả đối với phát triển công nghiệp văn hóa.

Năm là, tăng cường xây dựng “phần cứng” của công nghiệp văn hóa.

Việc xây dựng “phần cứng” của công nghiệp văn hóa là cơ sở vật chất để công nghiệp văn hóa phát triển nhanh và bền vững. Muốn vậy, cần chú ý:

– Tối ưu hóa kết cấu hạ tầng văn hóa, đồng thời căn cứ vào nhu cầu phát triển công nghiệp văn hóa để xây dựng mới những kết cấu hạ tầng văn hóa do Nhà nước đầu tư ở cả ba cấp độ: toàn quốc, vùng, và địa phương. Các địa phương phải tiến hành xây dựng có trọng điểm kết cấu hạ tầng văn hóa bảo đảm tính đại chúng, khu vui chơi giải trí một cách hợp lý, khoa học.

– Khuyến khích xã hội hóa việc xây dựng kết cấu hạ tầng văn hóa, thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước, xây dựng cơ chế đầu tư nhiều kênh, đặc biệt là đối tác công – tư, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của công nghiệp văn hóa. Trong thu hút tư nhân tham gia, cần lựa chọn các đối tác không chỉ có tiềm lực tài chính mạnh mà cơ bản hơn là có hiểu biết sâu sắc các phân khúc thị trường công nghiệp văn hóa, đặc thù tổ chức sản xuất, lưu thông, quảng bá, tiêu dùng sản phẩm công nghiệp văn hóa. Cao hơn cả chính là văn hóa kinh doanh lĩnh vực công nghiệp văn hóa – một lĩnh vực tác động đến đời sống tinh thần của con người, bảo đảm cho xã hội phát triển cân bằng và hài hòa.

– Chú ý hiệu quả lâu dài và phát huy hiệu quả thường xuyên của kết cấu hạ tầng văn hóa. Kết cấu hạ tầng văn hóa phải phục vụ trực tiếp cho phát triển công nghiệp văn hóa. Tăng cường quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng văn hóa, phát huy đầy đủ công năng của nó để hình thành nền tảng vững chắc cho phát triển công nghiệp văn hóa một cách lâu dài, ổn định. /.

(1) Báo cáo tổng kết của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch năm 2015

PGS.TS. Mai Hải Oanh

Nguồn: Tạp chí Cộng sản

Thực Tế Ứng Dụng Iot Trong Nông Nghiệp Tại Việt Nam

Thực tế tại Việt Nam

Nước ta là nước có bề dày trong sản xuất nông nghiệp, vì vậy sẽ là mảnh đất đầy tiềm năng cho các doanh nghiệp công nghệ. Hiện có không ít các nhà đầu tư đã và đang nghiên cứu phát triển đưa IoT vào trong sản xuất nông nghiệp.

Một số ví dụ tiêu biểu có thể kể đến: Dự án Next Farm _ Giải pháp ứng dụng CNTT vào Nông nghiệp thuộc Công ty Cổ phần HOSCO, một trong số các công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ phần mềm đã có nhiều sản phẩm thương mại hóa thành công. Next Farm cho phép hệ thống tưới được vận hành từ xa dựa vào việc phân tích các dữ liệu về môi trường, loại cây và giai đoạn sinh trưởng của cây và người dùng có thể theo dõi các thông số này theo thời gian thực.

Tại Việt Nam các hoạt động hỗ trợ đào tạo cải tiến công nghệ trong nông nghiệp đang được nói nhiều hơn. Đầu tháng hai vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bày tỏ mong muốn có gói tín dụng 100.000 tỷ để hỗ trợ phát triển nôngnghiệp công nghệ cao.

Ngày 26-5, Google công bố hoạt động hỗ trợ Hội Nông dân Việt Nam nhằm tổ chức các khóa đào tạo kỹ năng kỹ thuật số thiết yếu cho hơn 30.000 nông dân ở 9 tỉnh của Việt Nam trong vòng 3 năm sắp tới.

Khó khăn của việc đưa IoT tại Việt Nam

Nhắc đến áp dụng công nghệ, khó khăn đầu tiên thường được nhắc đến là vấn đề về kinh phí. Thực tế nó không hề cao. Mà chi phí dồn vào chủ yếu là thuộc về khâu thiết kế ứng dụng. Nhờ đó, người nông dân có thể kết nối với Farm của mình thông qua smartphone. Và cũng từ đó mà người nông dân lại giao tiếp với Farm qua thiết bị thông minh, chưa quen với với việc thay đổi cách canh tác.

Tiếp theo là vấn đề về ý tưởng khi thực hiện IoT trong nông nghiệp tại Việt Nam là không nhiều, chủ yếu xoay quanh cảm biến, lập trình tưới, trồng thủy canh tự động trong nhà và chỉ áp dụng cho doanh nghiệp quy mô giá cao.

Nhân tố chính xác nhất trong nền nông nghiệp Việt Nam là các nông hộ, hợp tác xã nhưng kết quả cho thấy họ còn bỡ ngỡ với công nghệ trong ứng dụng vào nông nghiệp. Vì vậy cần có người đồng hành, cú tiến, đứng ra bao tiêu, áp dụng quy trình và áp dụng công nghệ linh hoạt để nông sản có hiệu quả và trở thành hàng hóa có giá trị và chất lượng.

Kết luận

Nông nghiệp Việt Nam có nhiều lợi thế, tuy nhiên chủ yếu nằm ở quy mô sản xuất nhỏ dựa vào kinh tế hộ gia đình, năng suất lao động còn thấp. Vì vậy, ứng dụng công nghệ thông tin trong nông nghiệp sẽ tạo cơ hội lớn cho các hộ nông dân trở thành một doanh nghiệp có năng suất và giá trị vượt trội cùng với chất lượng cuộc sống ngày càng tốt hơn.

Vấn Đề Độc Quyền Ở Việt Nam

Vấn đề độc quyền ở Việt Nam

THS. ĐÀO NGỌC BÁU

NCS Đại học Nhân dân Trung Quốc

Nền kinh tế thị trường nước ta mới phát triển, do đó, trong nhận thức cũng như thực tiễn, một số hiện tượng của nền kinh tế thị trường còn được hiểu khác nhau và thậm chí chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, trong đó có khái niệm độc quyền. Để góp phần nhận thức đúng vấn đề, bài viết nêu lên những nét cơ bản xung quanh khái niệm độc quyền, thực trạng độc quyền và nêu ra một số giải pháp xử lý vấn đề độc quyền trong tình hình hiện nay ở nước ta.

Khái niệm độc quyền

Độc quyền ở Việt Nam hiện nay

Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Một số yếu tố bất hợp lý của mô hình kinh tế trước đây vẫn còn tồn tại và đòi hỏi cần phải có những giải pháp cụ thể để giải quyết trong thời gian tới. Một trong những vấn đề cần giải quyết là tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước. Sự tồn tại quá nhiều doanh nghiệp nhà nước (rất nhiều trong số đó kinh doanh không hiệu quả) và việc độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong nhiều lĩnh vực là một trong những lý do được các luật sư Mỹ sử dụng để khẳng định Việt Nam không có nền kinh tế thị trường trong vụ kiện cá da trơn của Việt Nam . Để 4 hội nhập kinh tế thế giới cũng như đảm bảo các điều kiện gia nhập WTO trong thời gian tới và tránh thua thiệt trong thương mại quốc tế, vấn đề này cần phải được hoàn thiện để quy định một mức độ hợp lý cho sự độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.

Một số giải pháp

Bạn đang đọc nội dung bài viết Nông Nghiệp Việt Nam: Những Vấn Đề Tồn Tại trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!