Đề Xuất 5/2023 # Những Việc Cần Làm Để Nâng Cao Sức Khỏe Người Lao Động Việt Nam Trong Thời Kỳ Mới – Vihema # Top 5 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 5/2023 # Những Việc Cần Làm Để Nâng Cao Sức Khỏe Người Lao Động Việt Nam Trong Thời Kỳ Mới – Vihema # Top 5 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Những Việc Cần Làm Để Nâng Cao Sức Khỏe Người Lao Động Việt Nam Trong Thời Kỳ Mới – Vihema mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Những việc cần làm để nâng cao sức khỏe người lao động Việt Nam trong thời kỳ mới

Chỉ thị 29 của Ban Bí thư về “Đẩy mạnh công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” nêu rõ, cần  đổi mới cơ chế, chính sách trong công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động theo […]

Chỉ thị 29 của Ban Bí thư về “Đẩy mạnh công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” nêu rõ, cần  đổi mới cơ chế, chính sách trong công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động theo hướng ưu tiên cho các hoạt động phòng ngừa, quản lý rủi ro, làm rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc đầu tư cho công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động. Chú ý có chính sách bồi dưỡng tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; cơ chế đầu tư cho hoạt động phục hồi chức năng cho người bị tai nạn, bảo đảm công bằng và cuộc sống cho người bị nạn và thân nhân. Quan tâm chăm sóc sức khỏe người lao động, thường xuyên khám phát hiện bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Củng cố và hoàn thiện các cơ sở điều dưỡng, phục hồi chức năng cho người lao động.Để thực hiện được các yêu cầu trên, cần huy động nguồn lực xã hội tham gia vào việc bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động; mở rộng các hình thức bảo hiểm, bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp linh hoạt theo ngành, lĩnh vực. Có cơ chế đầu tư cho các hoạt động cảnh báo, phòng ngừa, quản lý rủi ro, phục hồi chức năng cho người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sử dụng lao động và người lao động thực hiện tốt các quy định pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Phát triển các dịch vụ huấn luyện, kiểm định, tư vấn kỹ thuật an toàn lao động, vệ sinh lao động nhằm nâng cao quyền và lợi ích của người lao động.

Đầu tháng 8/2017 Viện Sức khỏe nghề nghiệp và Môi trường đã tiến hành khảo sát điều kiện lao động tại một số vị trí sản xuất và tham gia biên soạn tài liệu và giảng dạy 12 lớp tập huấn “Chăm sóc mắt nghề nghiệp” cho các trưởng nhóm công nhân tại hai nhà máy sản xuất giày da và lắp ráp điện tử tại tỉnh Quảng Nam và TP. Đà Nẵng (Viện Sức khỏe và Nghề nghiệp và Môi trường)

Công nhân Công ty CP May Việt Thắng luôn an tâm với bữa ăn ngon, bảo đảm vệ sinh – an toàn Ảnh: Thu HuệDinh dưỡng bữa ăn giữa ca của công nhân ở mức báo động, nên Hội nghị Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam lần thứ 7 Khóa XI đã ban hành Nghị quyết 07 (25/2/2016) về chất lượng bữa ăn giữa ca cho người lao động. Theo đó, từ năm 2016, các công đoàn cơ sở trong khu vực doanh nghiệp và công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở (tại nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở) khi tiến hành đối thoại hoặc thương lượng tập thể cần đưa nội dung đảm bảo bữa ăn ca của người lao động với mức thấp nhất là 15.000 đồng (Mười lăm ngàn đồng), khuyến khích các doanh nghiệp nâng mức bữa ăn ca cao hơn. Công đoàn cơ sở hoặc công đoàn cấp trên thực hiện khởi kiện giám đốc doanh nghiệp đối với doanh nghiệp để xảy ra ngộ độc thực phẩm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng của người lao động.

Thành Phúc

Một Số Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Sức Khỏe Người Lao Động Trí Óc

Bài viết tập trung phân tích thực trạng một số vấn đề sức khỏe của người lao động trí óc

Tóm tắt: Bài viết tập trung phân tích thực trạng một số vấn đề sức khỏe của người lao động trí óc. Các phân tích cho thấy người lao động trí óc Việt nam đang gặp nhiều vấn để về sức khỏe, đặc biệt là các rối loạn bệnh lí của hệ thần kinh song hiện nay chưa có một hệ thống dữ liệu quốc gia về tình hình sức khỏe của đội ngũ lao động này cũng như chưa có một hệ thống chăm sóc sức khỏe riêng biệt. Trên cơ sở đó, đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao sức khỏe như: bảo vệ và nâng cao sức khỏe nơi làm việc; đẩy mạnh việc xã hội hóa công tác chăm sóc sức khỏe người lao động tăng cường các chương trình giám sát, tự giám sát, cung cấp các thông tin và các biện pháp hiệu quả; tăng cường chất lượng hệ thống chăm sóc sức khỏe, dịch vụ y tế lao động cơ bản, …

: sức khỏe tâm thần, hệ thống y tế, lao động chuyên môn kỹ thuật cao

Sức khỏe không chỉ được hiểu là tình trạng không có bệnh tật mà là sự hoàn thiện về mặt thể chất lẫn tinh thần. Đội ngũ lao động, dù là lao động cơ bắp hay lao động trí óc đều cần sức vóc, thể chất tinh thần tốt để duy trì và phát triển trí tuệ, để chuyển tải trí thức vào hoạt động thực tiển nhằm đạt hiệu quả năng suất cao và bền vững.

Người lao động nước ta đang phải đối mặt với những yếu tố ảnh hưởng bất lợi đến sức khỏe: thứ nhất, điều kiện lao động đang tồn tại nhiều yếu tố nguy hiểm có hại làm cho tình hình tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ngày càng gia tăng. Mỗi năm ở Việt Nam để xảy ra 130.000 vụ tai nạn lao động trong đó 13000 tai nạn lao động chết người. Mặc dù công tác giám định chưa đầy đủ song tỷ lệ người lao động mắc bệnh nghề nghiệp và số phát hiện mới hàng năm đang ở mức báo động. Tính đến tháng 12/2012, cả nước có trên 28.000 người bị mắc bệnh nghề nghiệp; thứ hai, nhịp sống của xã hội hiện đại rất dồn dập và rất nhiều thách thức.Trong quá trình đối phó với nhịp điệu cuộc sống, stress trong môi trường làm việc có thể nảy sinh; thứ ba, còn nhiều rào cản khi tếp cận hệ thống chăm sóc sức khỏe chất lượng cao.

Vì thế đòi hỏi một giải pháp đồng bộ để nâng cao chất lượng hệ thống chăm sóc sức khỏe đảm bảo về mặt thể chất và tinh thần đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Một số vấn đề sức khỏe và hệ thống chăm sóc sức khỏe cho người lao động trí óc

1.1. Một số khái niệm

Sức khỏe tâm thần: là một trạng thái không có rối loạn hay dị tật tâm thần mà còn là một trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải mái.Một định nghĩa khác “sức khỏe tâm thần là khả năng của bộ máy tâm lý hoạt động một cách hoàn toàn hợp lý, có hiệu quả và đương đầu một cách mềm dẻo trước những tình huống khó khăn mà vẫn có thể tìm lại được sự cân bằng của mình”.

Stress l à những phản ứng có hại về mặt cảm xúc và cơ thể xuất hiện khi yêu cầu của công việc vượt quá khả năng đối phó hay kiếm soát của bản thân, hay có sự mất cân bằng giữa yêu cầu của công việc và cuộc sống cá nhân. Stress xảy ra thường xuyên có tác hại khá nghiêm trọng đến sức khỏe và làm giảm chất lượng cuộc sống.

1.2. Hệ thống chăm sóc sức khỏe cho người lao động

Ở Việt Nam, hệ thống chăm sóc sức khỏe là hệ thống quốc gia đảm nhận nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe lâu dài cho mọi người.Chăm sóc sức khỏe toàn diện gồm ba mặt thể chất, tâm thần và xã hội của một cá nhân. Hệ thống chăm sóc sức khỏe bao gồm 2 hệ thống chính: Hệ thống y tế ( mạng lưới cung cấp dịch vụ y tế dự phòng, y tế cơ sở, khám bệnh, chữa bệnh và phục hổi chức năng, mạng lưới sản xuất,lưu thông, phân phối và ung ứng thuốc…từ các trạm y tế xã, phường, thị trấn đến các cơ sở khám chữa bệnh tuyến huyện, tuyến tỉnh, tuyến trung ương bao gồm 2 cấu thành chính là dịch vụ y tế và bảo hiểm y tế) và Hệ thống phi y tế (Hệ thống nhằm tăng cường chăm sóc sức khỏe toàn dân như các chính sách xã hội, chính sách tiền lương, chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng…)

Mục tiêu của hệ thống chăm sóc sức khỏe là (1) Đảm bảo mọi đối tượng đều được chăm sóc sức khỏe; (2) tránh chi tiêu lãng phí; (3) cho phép sự chăm sóc phản ánh những sở thích khác nhau của bệnh nhân.

Vấn đề sức khỏe của người lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố: sức khỏe nền, hay chất lượng dân số như chiều cao, cân nặng, chế độ dinh dưỡng và đặc biệt là điều kiện lao động. Hệ thống chăm sóc sức khỏe của người lao động mang những yếu tố đặc trưng riêng, bên cạnh công tác điều trị chữa bệnh còn có nội dung cơ bản là phòng ngừa dựa trên cơ sở các ảnh hưởng xấu của điều kiện lao động đến sức khỏe người lao động

Dich vụ y tế lao động cơ bản (DVYTLĐ) là dịch vụ thiết yếu để bảo vệ sức khoẻ con người khi làm việc, nâng cao sức khoẻ, tinh thần và khả năng làm việc cũng như phòng tránh bệnh tật và tai nạn thương tích.

Hệ thống chăm sóc sức khỏe cho người lao động chủ yếu được chăm sóc sức khỏe bởi hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn dân và hệ thống CSSK người lao động mang tính đặc thù riêng như khám sức khoẻ; khám, điều trị BNN và chỉnh hình, phục hồi chức năng cho người bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.

Nếu hệ thống dịch vụ này hoạt động hiệu quả có nghĩa là người lao động được bảo vệ phòng tránh các nguy cơ rủi ro nghề nghiệp xảy ra có thể gây thương tích, bệnh tật thậm chí có thể tử vong trong quá trình lao động. Ngược lại nếu hệ thống hoạt động không hiệu quả sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của người lao động hay chất lượng lao động. Đặc biệt là vấn đề sức khỏe tâm thần, đây là gánh nặng bệnh tật của thế kỷ 21.

Như vậy hệ thống chăm sóc sức khỏe (Hệ thống dịch vụ y tế) gồm 2 cấu phần chính:

– Bảo hiểm y tế : là định chế hết sức cốt lõi của hệ thống chăm sóc sức khỏe, thực hiện chức năng cấp tài chính, người (đại diện cho bệnh nhân) mua dịch vụ từ những người cung cấp dịch vụ y tế (các bệnh viện, phòng khám bệnh).

– Dịch vụ y tế: là loại dịch vụ đặc biệt với những đặc tính riêng. Chất lượng dịch vụ y tế bao hàm hai cấu phần riêng biệt: chất lượng vận hành, tức là cách thức người bệnh được nhận dịch vụ KCB (chất lượng thức ăn, tiếp cận dịch vụ); chất lượng chuyên môn, tức là chất lượng của việc cung ứng dịch vụ KCB (năng lực và kết quả điều trị).

Mục tiêu của hệ thống chăm sóc sức khỏe phải là chính sức khỏe của cộng đồng, và có thể được đo bằng các con số về tuổi thọ trung bình, tỷ lệ tử vong trẻ em, tỷ lệ người mắc các chứng bệnh, tỷ lệ tử vong do các loại bệnh gây ra (các tỷ lệ này càng thấp càng tốt); còn số tiền chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe, số bác sỹ và số giường bệnh trên 100.000 dân, v.v. chỉ đo mức độ của những công cụ mà thôi

Để đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khoẻ người lao động, số lượng các cán bộ làm công tác y tế lao động được bổ sung tăng lên đặc biệt là tuyến địa phương.

Trên thực tế cũng không có hệ thống báo cáo thực trạng sức khỏe của lao động trí óc song một số nghiên cứu của Viện sức khỏe tâm thần, Viện Sức khỏe y tế công cộng đã đưa ra một số nghiên cứu mang tính cảnh báo đối với đội ngũ lao động này

– Vài năm trở lại đây, tỷ lệ mắc bệnh tâm thần do những yếu tố ngoại sinh (yếu tố bên ngoài) ngày càng gia tăng.Trong số đó, phần nhiều là giới trí thức và thanh niên. Chỉ tính riêng ở viện Sức khỏe Tâm thần Quốc Gia, bênh viện Bạch Mai có tới 47% là người trẻ (dưới 30 tuổi) trong tổng số người tâm thần điều trị ở đây. Đã đến lúc gióng lên hồi chuông cảnh báo về căn bệnh trầm kha của giới trí thức hiện đại.

– Trong nhóm những người dùng máy tính thường xuyên, thì nguy cơ gặp rắc rối về mắt và cơ xương là cao hơn cả (83% và 63,9%). Ngoài ra các phản ứng xấu khác còn có thể bao gồm rối loạn hệ thống thần kinh, chứng trầm cảm, xơ cứng động mạch, bệnh tâm thần… Điều tra xã hội học cho thấy 74% nhân viên văn phòng bị đau, khô họng, 73% nhức đầu, 80,9% đau lưng, 90,5% đau cổ, gáy, 46% đau mắt, 35% chảy nước mắt… Những triệu chứng này là do ô nhiễm từ trang thiết bị văn phòng lắp điều hòa nhiệt độ.

– Bệnh của doanh nhân: stress, lười vận động, thói quen xấu trong ăn uống, thói quen xấu trong sinh hoạt… Suy giảm sưc khỏe sinh lý, tâm lý thể lực nghiên cứu của một số bệnh viện cho thấy có mối liên hệ mật thiết giữa điều kiện lao động của lao động trí óc và tình hình sức khỏe của họ.

Theo nghiên cứu của GS-TS. Trần Quán Anh (Bệnh viện Việt Đức), trong số 100 bệnh nhân có biểu hiện rối loạn cương dương đến khám tại bệnh viện, có tới 78% là doanh nhân, lao động trí óc; 5% là công nhân; còn lại là các thành phần khác. Có vẻ giới kinh doanh là những người nhạy cảm nhất với các chứng bệnh khó nói của đàn ông?

Chính vì thế, suy nhược chức năng sinh dục là một thực tế khó tránh trong cuộc sống căng thẳng vì áp lực công việc của giới doanh nhân.

– Đối với các lao động mang tính kỹ thuật cũng có những ảnh hường nhất định, bên cạnh các yếu tố đặc trưng của lao động trí óc còn chịu tác động của các yếu tố môi trường lao động như tiếng ồn, hóa chất, điện từ trường, phóng xạ, vi khí hậu bất lợi, bụi… Những yếu tố đó đã dẫn đến tình trạng suy giảm sức khỏe, và bệnh nghề nghiệp của Việt Nam gia tăng.

Theo nghiên cứu của nhóm bác sĩ Trần Viết Nghị, Nguyễn Viết Thiêm, Lã Thị Bưởi, Đinh Đăng Hòe và cộng sự ở Viện Sức khỏe tâm thần có những cảnh báo tác động của điều kiện lao động, tính “lặp đi lặp lại” – mức độ đơn điệu của công việc.

Bên cạnh đó các bệnh đặc trưng cho đội ngũ LĐCMKTTĐC do hoạt động mang tính chất tĩnh tại, ít vận động nên thường mắc các bệnh “Hội chứng văn phòng”, người lao động trí óc lâu năm cũng dẫn đến lao tâm, lao thần, hoặc suy nghĩ nhiều dễ sinh ra tâm thần bất túc.

Một nghiên cứu dành riêng cho ngành y tế Việt Nam cũng có những cảnh báo nhiều nguy cơ rủi ro nghề nghiệp đang đe dọa đến chính tính mạng và sức khỏe của đội ngũ lao động này.

Nhóm đã khảo sát người làm việc trong mười nhóm ngành nghề cơ khí luyện kim, cán bộ bệnh viện tâm thần, bệnh viện lao và bệnh phổi, công nhân may mặc, da giày, thủy sản, công trình ngầm, lái tàu hỏa, kiểm soát không lưu và lái xe buýt với các đặc điểm như công việc đơn điệu, cần lựa chọn chính xác, lo lắng bị tai nạn hoặc gây tai nạn,công việc nặng nhọc, lương không thỏa đáng, môi trường làm việc nóng bức, bẩn thỉu, nhiều hóa chất độc hại, hay phải làm việc quá giờ và căng thẳng tâm lý.Kết quả cho thấy: tỉ lệ rối loạn giấc ngủ, lo âu, suy nhược, trầm cảm lên tới 10%; ở một số ngành nghề như cơ khí luyện kim có tới 20,6% công nhân rối loạn giấc ngủ, lo âu, suy nhược cơ thể.

Thống kê của Bộ Y tế cho thấy, 80% CBYT các Khoa Truyền nhiễm và 20% CBYT nói chung bị nhiễm virus viêm gan B từ người bệnh. Nhiều CBYT mắc các bệnh nghề nghiệp như lao, phong, viêm gan B, nhiễm xạ, bụi phổi silic…Trong khi đó chế độ bảo hiểm rủi ro cho những CBYT này hiện chưa thỏa đáng, điều kiện làm việc không đảm bảo an toàn.Nhiều BV khi chiếu chụp X.quang, cửa không đóng được, chế độ bồi dưỡng độc hại đối với nhân viên làm việc trong khu vực x.quang, phóng xạ chưa được chi trả hoặc chi trả “tháng có, tháng không”. Các thiết bị có yêu cầu cao về nguy cơ mất an toàn như nồi hấp, lò hơi không được đăng kiểm… Nghiên cứu tại 3 BV ở Hà Nội do Viện Y học lao động và Vệ sinh Môi trường – Bộ Y tế thực hiện mới đây cũng khẳng định, hơn 70% CBYT cho biết họ từng bị tai nạn rủi ro do vật sắc nhọn trong khi làm việc. Vị trí bị tổn thương vật sắc nhọn chủ yếu ở bàn tay (96,3% và hầu hết tổn thương là xuyên thấu da.Những trường hợp rủi ro xảy ra khi tiêm là nhiều nhất, tiếp đến phẫu thuật, truyền dịch và làm các thủ thuật khác.

Các nghiên cứu của nước ngoài cũng có những cảnh báo về bệnh tật nguy hiểm với đội ngũ lao động này

Ung thư ruột: sử dụng máy tính thường xuyên trong vòng 10 năm sẽ có nguy cơ mắc bệnh ung thư đường ruột cao gấp đôi so với người không sử dụng. Kết quả nghiên cứu của Trường Đại học Western (Australia) cũng cho thấy một trong những nguyên nhân gây bệnh chủ yếu là do thiếu vận động trong thời gian quá lâu.Tiến sĩ Claire Knight thuộc Viện nghiên cứu Ung thư Anh quốc, cho biết: “Chúng ta vận động càng nhiều, nguy cơ mắc bệnh ung thư đường ruột càng giảm”.

Đau tim: Những người ngồi hàng giờ trước máy tính có nguy cơ bị ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của tim. Theo các bác sĩ chuyên khoa tim của Trường Đại học London, 67% người làm việc 11 giờ/ngày sẽ có nguy cơ mắc bệnh tim.

Tụ máu: Những người làm việc trước máy tính trong khoảng thời gian dài có nhiều khả năng xuất hiện những cục máu đông (huyết khối tĩnh mạch). Điều này làm tăng nguy cơ nghẽn mạch phổi lớn hơn gấp 2 lần.

Bệnh béo phì: Các chuyên gia về sức khỏe ở Australia đã phát hiện rằng, những người ngồi quá lâu, vòng eo sẽ lớn và có lượng cholesterol LDL (cholesterol xấu) cao hơn. Bác sĩ Genevieve Healy thuộc Trường Đại học Queensland, Australia cho rằng hành động đơn giản như đứng lên khoảng một phút trong thời gian làm việc cũng giúp giảm được nguy cơ béo phì.

Đau lưng: Số liệu từ Hiệp hội Chỉnh hình khớp xương của Anh cho thấy, nếu bạn ngồi hơn 10 giờ một ngày trước máy tính và không đứng lên đi lại sẽ có nguy cơ mắc bệnh đau lưng.

Chứng tâm thần phân liệt: làm việc từ sáng sớm cho tới đêm khuya, có thể dẫn đến chứng tâm thần phân liệt hoặc suy nhược thần kinh. người ở độ tuổi trung niên làm việc hơn 55 giờ/tuần có kỹ năng và thần kinh yếu hơn những người chỉ làm việc 41 giờ.Tiến sĩ John Challenor cho biết: “Sử dụng nhiều thời gian làm những việc giống nhau có thể làm cho não mệt mỏi”.

Như vậy lao động trí óc Việt Nam đang gặp nhiều vấn để về sức khỏe song hiện nay chưa có một hệ thống dữ liệu quốc gia về tình hình sức khỏe của đội ngũ lao động này cũng như chưa có một hệ thống chăm sóc sức khỏe riêng biệt.

Đề xuất một số giải pháp nâng cao sức khỏe cho lao động trí óc

Thứ nhất là bảo vệ và nâng cao sức khỏe nơi làm việc.

– Cần cải thiện việc đánh giá và quản lý các yếu tố nguy cơ sức khỏe tại nơi làm việc bằng cách: xác định các biện pháp can thiệp cần thiết cho công tác phòng chống và kiểm soát các nguy cơ cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và tâm lý xã hội trong môi trường làm việc.

– Cần ban hành những quy định về bảo vệ sức khỏe tại nơi làm việc và áp dụng một bộ tiêu chuẩn vệ sinh lao động cơ bản để đảm bảo tất cả nơi làm việc phù hợp với yêu cầu tối thiểu của sức khỏe và bảo vệ an toàn, đảm bảo mức độ phù hợp cho thực thi, tăng cường kiểm tra sức khỏe tại nơi làm việc và xây dựng sự hợp tác giữa các cơ quan quản lý có thẩm quyền theo hoàn cảnh cụ thể của quốc gia.

– Cần xây dựng năng lực cho phòng chống các nguy cơ nghề nghiệp, bệnh tật và thương tích, bao gồm tăng cường nguồn nhân lực, phương pháp và công nghệ, đào tạo huấn luyện cho người sử dụng lao động, người lao động những phương thức làm việc lành mạnh, xây dựng văn hóa an toàn tại nơi làm việc.

– Tiếp tục khuyến khích nâng cao sức khỏe và phòng chống các bệnh không lây nhiễm tại nơi làm việc, bằng cách khuyến khích chế độ ăn uống lành mạnh và hoạt động thể chất trong công nhân, nâng cao sức khỏe gia đình và tâm thần tại nơi làm việc. Mối đe dọa sức khỏe toàn cầu như bệnh lao, HIV/AIDS, sốt rét và cúm gia cầm, cũng có thể được ngăn chặn và kiểm soát tại nơi làm việc.

– Tư vấn xây dựng, phổ biến chuyển giao các biện pháp phòng bệnh tích cực tại nơi làm việc cho lao động trí óc cao với với những biện pháp cụ thể nhằm phục hồi sinh lực và bảo vệ trí não và đảm bảo nhịp sinh học

Thứ hai là đẩy mạnh việc xã hội hóa công tác chăm sóc sức khỏe người lao động nhất là vai trò của người sử dụng lao động và chính người lao động. Xây dựng và thực hiện các công cụ chính sách về sức khỏe người lao động.

– Xây dựng khung chính sách quốc gia về sức khỏe người lao động có xem xét tới các công ước lao động quốc tế và bao gồm: ban hành pháp luật; thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành trong các hoạt động; huy động nguồn lực để bảo vệ và nâng cao sức khỏe người lao động; tăng cường vai trò và năng lực của Bộ Y tế; Bộ Lao động, lồng ghép các mục tiêu và hành động đối với sức khỏe người lao động vào các chiến lược y tế quốc gia.

– Các tiếp cận quốc gia nhằm phòng chống thương tích và bệnh nghề nghiệp cần được phát triển theo các ưu tiên của các quốc gia và trong sự phối hợp với các chiến dịch toàn cầu của WHO.

– Các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, phối hợp với ngành y tế triển khai các chương trình sức khỏe tại địa phương, tuyên truyền vận động làm cho mỗi người dân/ người lao động hiểu và tự giác tham gia các hoạt động chăm sóc sức khỏe tại gia đình và cộng đồng.

Thứ ba là tăng cường các chương trình giám sát, tự giám sát, cung cấp các thông tin và các biện pháp hiệu quả.

– Hệ thống giám sát sức khỏe người lao động cần được thiết kế với mục đích xác định chính xác và kiểm soát nguy cơ nghề nghiệp bao gồm thiết lập hệ thống thông tin quốc gia, xây dựng năng lực để ước tính gánh nặng nghề nghiệp của bệnh tật và thương tích, ghi chép sự phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ, bệnh nghề nghiệp và tai nạn lao động, cải thiện báo cáo và phát hiện sớm các tai nạn và BNN nhất là đối với các đặc trưng của lao động trí óc

Thứ tư là tăng cường chất lượng hệ thống chăm sóc sức khỏe, dịch vụ y tế lao động cơ bản.

– Cải thiện độ bao phủ và chất lượng của các dịch vụ y tế lao động. Xây dựng năng lực thể chế nòng cốt ở cấp quốc gia và địa phương để cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các dịch vụ y tế lao động cơ bản về giám sát, lập kế hoạch và chất lượng dịch vụ, thiết kế các biện pháp can thiệp mới, phổ biến thông tin và cung cấp chuyên môn chuyên ngành

– Tăng cường chất lượng ban chăm sóc sức khỏe cán bộ trên phạm vi 63 tỉnh thành

– Tăng cường hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần nghề nghiệp

Thứ năm là kết hợp vấn đề sức khỏe của người lao động vào các chính sách khác.

– Năng lực của ngành y tế để thúc đẩy sự kết hợp của sức khỏe người lao động trong các chính sách khác cần được tăng cường. Các biện pháp bảo vệ sức khỏe của người lao động phải được kết hợp trong chính sách phát triển kinh tế và chiến lược xóa đói giảm nghèo.

– Sức khỏe của người lao động cần được xem xét hơn nữa trong nội dung của các chính sách thương mại. Chính sách việc làm cũng ảnh hưởng đến sức khỏe, do đó cần khuyến khích việc đánh giá tác động sức khỏe của các chiến lược việc làm.

– Sức khỏe người lao động cần được đề cập trong các chính sách của các ngành kinh tế khác nhau, đặc biệt là những người có nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe cao nhất. Các khía cạnh của sức khỏe của người lao động cần được đưa vào nội dung trong giáo dục cấp tiểu học, trung học, đại học và dạy nghề.

Thứ bảy là đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực lâu dài cần chuyển hướng nhận thức đầu tư hiệu quả vào cộng đồng để giải quyết cho 90% nhu cầu xã hội trong chăm sóc sức khỏe ban đầu. Đó là việc đầu tư vào các chương trình truyền thông, giáo dục sức khỏe, sức khỏe học đường, chăm sóc sức khỏe cộng đồng khi không có thầy thuốc… Đó là việc đào tạo rất ngắn hạn nhân viên chăm sóc sức khỏe ban đầu, bao gồm nhiều đối tượng, kể cả thầy tu, sư sãi, ni cô, các sơ… các tình nguyện viên chăm sóc theo nhu cầu, nhân viên công tác xã hội (không nhất thiết họ phải có nhiều kiến thức chuyên môn y tế). Tăng cường chăm sóc bệnh tại nhà hơn là xây thêm bệnh viện, tăng số giường… Đó là việc kêu gọi gia đình, nhà trường, ngành giáo dục, phối hợp y tế, xã hội tham gia dạy dỗ, hỗ trợ con cái, tăng cường đào tạo kỹ năng sống của học sinh, sinh viên để giảm bớt bạo lực học đường, biết nói không với rượu bia, thuốc lá, lái xe lạng lách…và có thể chính các em vận động gia đình mình tham gia giữ gìn sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật…

, xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam.Đẩy mạnh phát triển thể dục thể thao quần chúng và thể thao thành tích cao.

Ngô Vân Hoài – Viện Khoa học Lao động và Xã hội

Tài liệu tham khảo

Cải cách hệ thống CSSK- Nguyễn Quang A. Vietsciense

Báo cáo tổng quan ngành Y tế 2011- Bộ Y tế

Báo công tác y học lao động (2011, 6/ 2012) – Cục Quản lý môi trường- Bộ Y tế

Trang thông tin điện tử – Bộ Y tế.

Hồ sơ quốc gia về ATVSLĐ

Hệ thống văn bản pháp luật về chăm sóc sức khỏe nhân dân

Hệ thống văn bản pháp luật về an toàn sức khỏe nghề nghiệp

Các công ước quốc tế về an toàn sức khỏe nghề nghiệp

Sổ tay hướng dẫn công tác an toàn sức khỏe nghề nghiệp trong các doanh nghệp vừa và nhỏ. NXB LĐXH. 2010

Giải Pháp Nâng Cao Sức Khỏe Người Cao Tuổi.

Các giải pháp giúp cải thiện vấn đề sức khỏe hiện nay của người cao tuổi, bao gồm 08 nội dung sau:

Yếu tố thuận lợi gây ra b ệnh mạn tính: D o sự tác động lâu dài của các yếu tố (Các độc tố, quá tải chức năng, tuổi tác, thói quen sinh hoạt, tâm sinh lý…) đến cơ thể gây suy giảm, thoái hóa, rối loạn các chức năng sống của cơ thể.

Nguyên lý điều trị bệnh mạn tính: Tác động tích cực giúp cơ thể phục hồi các chức năng sống để trở về trạng thái hoạt động bình thường phù hợp với sinh lý, tuổi tác và môi trường sống.

Nguyên tắc chữa trị bệnh mạn tính: Đặc điểm nổi bật trong điều trị bệnh mạn tính là áp dụng những chế độ kiểm soát bệnh lâu dài nhằm phục hồi chức năng, cải thiện chất lượng sống và hạn chế tối đa biến chứng thực thể và chức năng.– Nên bắt đầu bằng tập luyện, phục hồi chức năng, thay đổi lối sống dùng thực phẩm chức năng hoặc thuốc có nguồn gốc tự nhiên. Đây là những biện pháp an toàn, không gây tác dụng phụ và phù hợp sinh lý.

– Chỉ dùng thuốc Tây khi thật cần thiết và phải có chỉ định của bác sỹ.– Nâng cao kiến thức cho người bệnh để tự theo dõi, chăm sóc và kiểm soát bệnh.

– Kết hợp chặt chẽ giữa thầy thuốc và người bệnh trong việc áp dụng các chế độ điều trị: theo dõi bệnh, chế độ sinh hoạt, tập luyện, điều chỉnh thuốc

Phòng bệnh mạn tính như thế nào: Theo ngạn ngữ cha ông, “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, đây là giải pháp thông minh và ít tốn kém nhất. Các biện pháp phòng bệnh mạn tính bao gồm:

– Ăn nhiều rau và trái cây cũng như đậu và ngũ cốc.

– Vận động thể lực mức độ trung bình mỗi ngày 30 phút, ít nhất 5 lần mỗi tuần.

– Chuyển từ ăn mỡ động vật bão hoà sang dầu thực vật chưa bão hoà.

– Duy trì cân nặng chuẩn (chỉ số khối cơ thể nằm trong khoảng 18,5 đến 24,9, tính bằng cách lấy cân nặng tính bằng kilogam chia cho bình phương chiều cao tính bằng mét).

– Không hút thuốc hoặc bỏ hút thuốc.

– Có đến 80% bệnh mạch vành, 90% đái tháo đường típ 2 và 1/3 ung thư có thể tránh được nhờ chế độ ăn lành mạnh, tăng vận động thể lực và bỏ hút thuốc.

– Sàng lọc một số ung thư như ung thư đại tràng, tiền liệt tuyến, ung thư vú theo độ tuổi tương ứng

Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt Động Tình Nguyện Của Thanh Niên Trong Thời Kỳ Mới

Học tập và phát huy lời dạy của Bác, trong suốt năm qua, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã không ngừng nỗ lực trong hoạt động công tác đoàn và phong trào thanh niên, trong đó, đã gặt hái được nhiều kết quả nổi bật từ các phong trào tình nguyện, góp phần quan trọng vào giải quyết các vấn đề xã hội nan giải, vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.

Nhìn lại chặng đường gần 20 năm (từ năm 2000), Trung ương Đoàn chính thức phát động phong trào “Thanh niên tình nguyện”; tới nay, Chiến dịch Thanh niên tình nguyện đã trở thành nội dung quan trọng trong công tác Đoàn và phong trào thanh, thiếu nhi. Quy mô chiến dịch ngày càng được mở rộng với nội dung, phương thức hoạt động đa dạng, phong phú, thiết thực, cụ thể. Những hiệu quả mang lại của chiến dịch đã góp phần khẳng định vị trí, vai trò của thanh niên trong sự nghiệp đổi mới, phát triển, hội nhập của đất nước; khẳng định sức sống của phong trào thanh niên tình nguyện, lan tỏa các giá trị tốt đẹp. Thông qua phong trào, nhiều đoàn viên, thanh niên đã trưởng thành, nêu cao tinh thần trách nhiệm với cộng đồng, xã hội. Đặc biệt, những kết quả đạt được từ các hoạt động tình nguyện, phong trào tình nguyện của Đoàn những năm qua là nguồn động lực to lớn để bản thân mỗi đoàn viên, thanh niên hiểu rõ hơn về giá trị lớn lao trong từng hoạt động, từng phong trào mà mình đã tham gia; qua đó, làm đẹp hơn hình ảnh thanh niên Việt Nam – tuổi trẻ thế hệ Hồ Chí Minh.

Trong tình hình hiện nay, công tác đoàn và phong trào thanh niên nói chung, hoạt động tình nguyện nói riêng ngày càng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức mới. Sự tiến bộ khoa học công nghệ, sự phát triển của mạng Internet, nhất là sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, cùng nhiều hình thức hoạt động xã hội khác tạo sức hút mạnh mẽ, tác động hàng ngày, hàng giờ đến tư tưởng, tình cảm, nhận thức, hành động của đoàn viên, thanh niên. Từ thực tiễn công tác vận động, tập hợp, đoàn kết, giáo dục thanh niên, Đảng ta đã tổng kết: “… Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội… ” (Nghị quyết số 25-NQ/TƯ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X).

Quán triệt sâu sắc tinh thần đó, thời gian qua, Trung ương Đoàn đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, tìm tòi nhiều giải pháp, sáng tạo ra các mô hình mới, cách làm hay để tự đổi mới, tự hoàn thiện, nâng cao sự hấp dẫn trong từng hoạt động, từng phong trào và xây dựng tổ chức đoàn không ngừng vững mạnh. Một số hoạt động đã thực sự tạo sức lan tỏa sâu rộng, thu hút đông đảo đoàn viên, thanh niên tham gia, trở thành phong trào sôi nổi trong tuổi trẻ cả nước. Thời gian tới, trước yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Trung ương Đoàn cần tiếp tục tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác đoàn và phong trào thanh niên, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đề ra trong tình hình mới, cụ thể:

Một là, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo trong tham mưu, tổ chức hoạt động Đoàn.

Hoạt động công tác đoàn và phong trào thanh niên phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của Đảng. Đồng thời, coi trọng việc phát huy tốt vai trò chủ động, sáng tạo trong tham mưu, đề xuất, trong thiết kế và tổ chức các hoạt động của Trung ương Đoàn. Mọi hoạt động của Đoàn và phong trào thanh niên tập trung hướng vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng xã hội văn minh, đất nước giàu đẹp. Do đó, các hoạt động của Đoàn, trong đó có hoạt động tình nguyện phải phù hợp với đặc điểm tâm lý, nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đoàn viên, thanh niên. Thường xuyên quan tâm tới các hoạt động bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện đoàn viên thanh niên cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật…, nhằm xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ “sức đề kháng” trước tác động và ảnh hưởng tiêu cực của các trang mạng xã hội. Chú trọng củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ Đoàn đủ về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng, quan tâm bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ, nhất là kỹ năng thiết kế và tổ chức các hoạt động tình nguyện cho đoàn viên, thanh niên, xây dựng tinh thần trách nhiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Phong trào thanh niên tình nguyện phải được duy trì thường xuyên nhưng không dàn trải, phải trên cơ sở bám sát yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, nhu cầu xã hội và nhiệm vụ của tổ chức Đoàn trong từng thời điểm để xác định trọng tâm, trọng điểm cần tập trung dứt điểm.

Hai là, xác định tổ chức Đoàn là lực lượng xung kích, chủ công trong thực hiện nhiệm vụ tình nguyện.

Đoàn Thanh niên cần đánh giá đúng vị trí, vai trò của công tác đoàn và phong trào thanh niên, của hoạt động tình nguyện, trên cơ sở đó, tập hợp, phát huy sức trẻ tập trung thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao. Đồng thời, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo mọi điều kiện cho đoàn viên, thanh niên tổ chức tốt hoạt động tình nguyện trên tinh thần dân chủ, sáng tạo, đoàn kết, đạt hiệu quả thiết thực. Đặc biệt, Trung ương Đoàn ra nghị quyết chuyên đề lãnh đạo công tác thanh niên, xây dựng và duy trì thực hiện nghiêm túc quy chế lãnh đạo công tác quần chúng, phong trào tình nguyện; định kỳ gặp gỡ, đối thoại với đoàn viên, thanh niên; quá trình triển khai các hoạt động kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo, tháo gỡ các vướng mắc nảy sinh. Chú trọng làm tốt công tác giáo dục, định hướng tư tưởng cho đoàn viên, thanh niên, đảm bảo cho đoàn viên, thanh niên luôn an tâm tư tưởng, chấp hành nghiêm pháp luật, kỷ luật trong quá trình tham gia các hoạt động tình nguyện tại cộng đồng, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Ba là, các hoạt động tình nguyện của thanh niên phải gắn liền với thực hiện nhiệm vụ chính trị của đất nước.

Bốn là, tổ chức các hoạt động tình nguyện cho đoàn viên, thanh niên với nhiều hình thức phong phú, đa dạng.

Trung ương Đoàn tập trung lãnh đạo thực hiện tốt phương châm: Các hoạt động Đoàn nói chung, hoạt động tình nguyện nói riêng phải gắn liền với thực hiện nhiệm vụ chính trị của đất nước, tập trung giải quyết những vấn đề nan giải của xã hội; đồng thời, chú trọng công tác giáo dục chính trị, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho đoàn viên, thanh niên; xây dựng cho đoàn viên, thanh niên niềm tự hào tiếp bước truyền thống vẻ vang của Đảng, truyền thống anh hùng của dân tộc, của Đoàn; xây dựng tinh thần yêu nước, quyết tâm phấn đấu vươn lên trong học tập, rèn luyện, trong lập thân, lập nghiệp, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Thông qua các hoạt động phong trào Đoàn, nhất là qua các phong trào tình nguyện, góp phần hình thành phẩm chất đạo đức, nhân cách tốt cho đoàn viên, thanh niên – chủ nhân tương lai của đất nước; giúp họ vừa có trí thức, sức khỏe, tư duy năng động và hành động sáng tạo, xung kích trong thực hiện mọi nhiệm vụ.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Những Việc Cần Làm Để Nâng Cao Sức Khỏe Người Lao Động Việt Nam Trong Thời Kỳ Mới – Vihema trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!